Thứ ba là, loại hình lao động của người dạy và người học ở lĩnh vực đặc thù có
nhiều điểm không tương đồng với loại hình lao động của giảng viên thông thường. Mặc
dù Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT quy định khá rõ về chế độ làm việc của giảng
viên trong các cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học về giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu
khoa học. Tuy nhiên, quy định chưa thỏa mãn các yếu tố đặc thù nghề nghiệp, dẫn đến
biên độ ứng xử khác biệt giữa các trường. Chỉ tính riêng về nghĩa vụ nghiên cứu khoa
học (mức chung 600 giờ chưa quy đổi) bằng các sản phẩm nghiên cứu khoa học cơ bản
thì đội ngũ giảng viên lĩnh vực này khó có thể thực hiện được. Lý do bởi vì, loại hình
lao động đặc thù dẫn đến sản phẩm lao động khác biệt. Tại các trường đặc thù văn hóa -
nghệ thuật, thể thao và du lịch đều linh hoạt áp dụng quy đổi theo công trình sáng tạo,
tác phẩm nghệ thuật, giải thưởng, thành tích chuyên ngành. Tuy nhiên, chỉ đảm bảo ở
mức tương đối, đặc biệt đối với các trường đào tạo đa ngành, hỗn hợp thì khó có thể đạt
được mức cân bằng chung.
Đối với một trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật nói chung thì đội ngũ nghệ
nhân, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú được xem là tài sản vô giá, Các trường đều
muốn bồi dưỡng và phát triển đội ngũ này. Tuy nhiên, trong thực tế không phải toàn bộ
đội ngũ giảng viên lĩnh vực này đều dành hết tâm lực để đạt được thành tựu trên. Bởi vì,
NSND, NSƯT, nghệ nhân là danh hiệu nghề nghiệp, không phải là chức danh để hưởng
lương, xếp ngạch bậc. Đối với một giảng viên lâu năm trong nghề, việc lựa chọn, theo
đuổi để được công nhận NSND, NSƯT, nghệ nhân (tích lũy đủ số công trình, giải
thưởng, uy tín) so với các chức danh giảng viên chính, chuyên viên chính (qua thi cử,
sát hạch), lại được củng cố bằng quyền lợi vật chất, cũng đủ làm cho họ phải cân nhắc.
Những đòi hỏi chính đáng này cần phải được nghiên cứu kỹ, đã đến lúc cần phải tách
biệt giữa cống hiến, ghi nhận với đãi ngộ để lực lượng giảng viên lĩnh vực đặc thù an
tâm lao động thì chất lượng đào tạo mới được đẩy lên cao.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 10/01/2022 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo lĩnh vực đặc thù - Những vấn đề cần đổi mới để hội nhập và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
13
ĐÀO TẠO LĨNH VỰC ĐẶC THÙ - NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐỔI MỚI
ĐỂ HỘI NHẬP VÀ PHÁT TRIỂN
TS. Lê Thanh Hà
1
Tóm tắt: Đào tạo văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch là loại hình đào tạo
hết sức đặc biệt. Đây là loại hình đào tạo có vai trò xã hội về phương diện nghề nghiệp
rất cao, mức độ hưởng thụ các giá trị văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch của mỗi
quốc gia có thể được xem là tiêu chí quan trọng trong phát triển. Trong khi những tiến
bộ về chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch
thời gian qua là rất đáng kể, thì việc đào tạo đối với lĩnh vực này lại còn nhiều vấn đề
bất cập cả trong công tác quản lý và dạy học. Đã đến lúc cần phải đổi mới đến công tác
đào tạo lĩnh vực này thỏa đáng hơn nữa trong tầm nhìn hội nhập và phát triển.
Từ khóa: đào tạo, đặc thù, đổi mới, phát triển
1. Đặt vấn đề
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, mặt trái của tiến trình toàn cầu hóa sẽ làm bản sắc
văn hóa dân tộc bị bào mòn, đúng hơn là sự tổn thương không tránh khỏi của văn hóa
địa phương trong dòng chảy chung của những giá trị có khuynh hướng tiến dần đến tính
phổ quát. Đến nay, thế giới vẫn còn bị phân cực bởi toàn cầu hóa, với một bên là xu
hướng khuyến khích, rơi vào các nước công nghiệp phát triển với bên kia là xu hướng
cự tuyệt, rơi vào những nước chậm phát triển. Câu chuyện toàn cầu hóa vẫn còn tiếp tục
tranh cãi nhưng nó đã, đang và sẽ tiếp tục trở thành xu thế chủ yếu của nhân loại trong
thế kỷ XXI này. Vấn đề cần luận bàn là, liệu giáo dục đại học, thậm chí hẹp hơn là đào
tạo các lĩnh vực đặc thù có bị tác động trong xu thế này hay không? Đây là điều cần
phải được nghiên cứu kỹ. Với bất kỳ quốc gia hay thời đại nào thì chất lượng thụ hưởng
các giá trị về văn hóa, nghệ thuật, thể thao, du lịch là thước đo về sự tiến bộ trong kinh
tế, chính trị và xã hội. Hay nói khác đi, mức độ phát triển văn hóa, nghệ thuật, thể thao
và du lịch của mỗi quốc gia là kết quả đa chiều, phản chiếu sự hiệu quả trong chính
sách, chiến lược phát triển, chất lượng giáo dục - đào tạo, Nhiều quốc gia phát triển
trên thế giới thậm chí còn biết tận dụng văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch như là
“sức mạnh mềm” để xác lập vị thế trên trường thế giới. Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Hàn Quốc và những quốc gia phương Tây là những ví dụ tiêu biểu nhất. Tạm không bàn
1
Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
14
đến các chính sách phát triển quốc gia ở tầm vĩ mô, chúng ta hãy nhìn nhận một cách
tích cực khi cho rằng, việc đổi mới công tác đào tạo lĩnh vực đặc thù hiện nay là thực sự
cần thiết, để thiết thực nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nói chung cũng như góp
phần gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc.
Trong khi những tiến bộ về chính sách của nhà nước đối với lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật, thể thao và du lịch thời gian qua là rất đáng kể, thì đào tạo đối với lĩnh vực
này lại còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập cả trong công tác quản lý và dạy học. Thực tiễn
nguy cơ suy thoái, đe dọa sự tồn tại các loại hình trường văn hóa - nghệ thuật trong
nước, đặc biệt là các trường trung cấp, cao đẳng văn hóa - nghệ thuật địa phương đang
trở nên hiện hữu cũng như sự loay hoay của các trường đào tạo thể thao, du lịch trước
thách thức về cạnh tranh, thu hút người học vẫn là bài toán đau đầu cho các nhà quản lý
giáo dục. Đây là một thực tế đáng lo ngại, giải quyết bài toán phát triển đối với các cơ
sở giáo dục lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch hiện nay là không hề dễ
dàng, đã đến lúc cần có những giải pháp thiết thực và đồng bộ.
2. Đào tạo đặc thù - từ nhận thức đến thực tiễn
Đào tạo lĩnh vực đặc thù là khái niệm dùng để chỉ những đối tượng đào tạo
không thông thường, có tính chất chuyên biệt cao về cả kiến thức, kỹ thuật và kỹ năng
so với các loại hình đào tạo khác. Công tác đào tạo thiên về quá trình thực hành cả trong
việc giảng dạy và học tập. Có nhiều lĩnh vực đào tạo đặc thù trong thực tế như: công tác
đối với các nhóm yếu thế trong xã hội, giáo dục đặc biệt, y học, kỹ thuật, quốc phòng,
an ninh, Tuy nhiên, khái niệm đào tạo đặc thù đặt trong bài viết này là các lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch, thuộc khía cạnh khoa học xã hội nhân văn, vừa
có chức năng xã hội về phương diện nghề nghiệp lại vừa có chức năng tâm sinh lý đặc
thù, trong một số trường hợp như các ngành nghệ thuật và thể thao cần đến năng khiếu,
hay thường gọi là tố chất và tài năng.
Hiện nay, trên cả nước có khoảng 53 cơ sở đào tạo văn hóa nghệ thuật, ngoài ra
còn rất nhiều cơ sở đào tạo chủ yếu là các trường đại học và cao đẳng sư phạm, đồng
thời một số trường đại học, cao đẳng tổng hợp khác cũng đang triển khai đào tạo các
chuyên ngành như Sư phạm mỹ thuật và Sư phạm âm nhạc. Đối với lĩnh vực thể dục thể
thao, các cơ sở đào tạo chủ yếu mang tính chuyên môn hóa cao, bao gồm 03 cơ sở đào
tạo lĩnh vực thể dục thể thao và 01 Viện Khoa học Thể dục Thể thao trực thuộc Tổng
cục Thể dục Thể thao, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, triển khai thực hiện đào tạo 04
ngành ở trình độ đại học và cao đẳng, gồm: Giáo dục thể chất, Quản lý thể dục thể thao,
Huấn luyện thể thao và Y sinh học thể dục thể thao. Ngoài ra, có 02 trường đại học sư
phạm thể dục thể thao ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời hiện nay còn có
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
15
các cơ sở đào tạo khác có đào tạo các chuyên ngành thể dục thể thao như Giáo dục thể
chất, Quản lý thể dục thể thao và Sư phạm thể dục thể thao.
Đối với lĩnh vực du lịch, cả nước hiện có khoảng 156 cơ sở tham gia đào tạo
chuyên ngành du lịch ở trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp và đào tạo ngắn hạn, gồm:
48 trường đại học; 43 trường cao đẳng (trong đó có 10 trường cao đẳng nghề); 40
trường trung cấp (trong đó có 04 trường trung cấp nghề); 02 công ty đào tạo và 23 trung
tâm, lớp đào tạo nghề. Trường duy nhất trực thuộc doanh nghiệp là Trường Trung cấp
Du lịch - Khách sạn Saigontourist của Tổng Công ty Du lịch Saigontourist. Đào tạo
chuyên ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng đã được triển khai từ những năm 1960 của
thế kỷ trước, sau đó số lượng các cơ sở đào tạo du lịch đã tăng nhanh từ trung tâm dạy
nghề đến các cơ sở đào tạo (trung cấp đến đại học) vào những năm sau thập niên 90 của
thế kỷ XX, bậc sau đại học được triển khai từ sau năm 2000. Các quy định về mã
ngành/nghề đào tạo đã được ban hành với 04 chương trình ở bậc đại học, cao đẳng
chuyên nghiệp, 06 nghề bậc cao đẳng và trung cấp nghề và 02 ngành chủ yếu cho hệ sau
đại học gồm Du lịch, Quản lý kinh tế (Kinh tế du lịch)2.
Nhìn chung, trong những năm vừa qua, sức hút đối với các ngành lĩnh vực khoa
học xã hội và nhân văn nói chung, các lĩnh vực đặc thù của lĩnh vực này như văn hóa,
nghệ thuật, thể thao và du lịch bị suy giảm nghiêm trọng. Việc thu hút người học, đảm
bảo quy mô tuyển sinh đối với các trường vô cùng khó khăn. Nhiều trường đào tạo lĩnh
vực này đứng trước nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn tại. Mâu thuẫn phổ biến đang xảy ra
là vừa giải quyết bài toán chất lượng vừa phải lo bảo vệ ngành (theo các quy định của
Bộ Giáo dục và Đào tạo) và đảm bảo số lượng người học. Thị trường đã tác động không
nhỏ đến xu hướng lựa chọn ngành nghề hiện nay của phụ huynh và người học, nhiều
người cho rằng các ngành đặc thù như văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch sở dĩ ít
được lựa chọn là bởi do thị trường làm việc hẹp, tuổi đời của nghề không cao, đòi hỏi
cần phải có tố chất (như nghệ thuật và thể thao).
Công tác tuyển sinh vốn dĩ đã khó khăn do điều kiện khách quan, trong khi quy
mô lớp của các ngành này thường rất nhỏ, theo đặc thù, chẳng hạn, ngoài các ngành văn
hóa, du lịch (như Quản lý văn hóa, Văn hóa học, Việt Nam học, Quản trị du lịch,)
quy mô lớp thông thường theo đào tạo tín chỉ có thể đến 60 sinh viên/lớp nhưng đối với
các ngành nghệ thuật và thể thao thì không thể vượt quá 08 sinh viên, thậm chí 01 sinh
viên/lớp, trong khi quy định của Nhà nước là cấp kinh phí trên số lượng người học, thì
rõ ràng để các trường chi trả chế độ lương, phụ cấp cho giảng viên theo quy định của
2
Nguồn: Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch năm 2017
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
16
Nhà nước mà nguồn học phí và kinh phí cấp cho người học không thể tăng lên (do quy
mô lớp nhỏ, tuyển sinh được ít) cũng như giải quyết được bài toán cạnh tranh là cả một
vấn đề.
Chương trình đào tạo đối với lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch
mặc dù có thể thống nhất khung về số lượng tín chỉ trong khóa học. Thông thường theo
quy định thì khối văn hóa, du lịch giao động từ 120 - 125 tín chỉ; khối nghệ thuật và thể
thao có thể đến 130 tín chỉ/khóa học. Tuy nhiên, với loại hình đào tạo thuần túy năng
khiếu như nghệ thuật và thể thao thì buộc cấu trúc học phần, môn học phải hướng trọng
tâm vào kỹ thuật, kỹ năng là chính. Đó là lý do giải thích tại sao một học phần có cùng
tên gọi lại được đào tạo nhắc lại đến 02 - 03 lần trong khóa học bởi vì yêu cầu thực hành
nghề mang tính thường xuyên, liên tục, nâng cao dần (như các môn Hình họa, Thanh
nhạc, Nhạc cụ, Biểu diễn,). Được biết, hiện nay, khung trình độ quốc gia đã được ban
hành, việc thống nhất về chuẩn đầu ra của các cấp độ đào tạo, tính thống nhất trong
chuẩn trình độ đối với các lĩnh vực đào tạo trên toàn quốc, định hướng liên thông liên
kết, hội nhập quốc tế về giáo dục và đào tạo, trong đó có đào tạo văn hóa, nghệ thuật,
thể thao và du lịch đang được triển khai. Mặc dù vậy, không chắc rằng các trường có thể
triển khai thực hiện đúng cam kết trong khi nguồn lực cơ sở vật chất, đội ngũ và kinh
nghiệm đào tạo của mỗi trường là hoàn toàn khác nhau.
Một vấn đề đặt ra nữa là, hiện nay chương trình đào tạo nói chung và các khối
ngành văn hóa - nghệ thuật, khối ngành thể dục thể thao và khối ngành du lịch được quy
định cụ thể bởi hai bộ quản lý chuyên môn là Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội. Các quy định chỉ rõ các khối kiến thức trong chương trình đào
tạo gồm: khối kiến thức đại cương, khối kiến thức tin học ngoại ngữ, khối kiến thức cơ
sở ngành, khối kiến thức chuyên ngành và khối kiến thức bổ trợ. Căn cứ vào yêu cầu,
tính đặc thù của các ngành/chuyên ngành/nghề đào tạo, các cơ sở đào tạo đã căn cứ vào
các quy định như trên để xây dựng các bộ chương trình đào tạo phù hợp với các điều
kiện và đặc thù của mình và triển khai giảng dạy. Tuy nhiên, như đã có nhiều đánh giá,
các chương trình đào tạo hiện nay, còn nặng về lý thuyết, thiếu gắn kết với thực tiễn xã
hội nghề nghiệp, thiếu nội dung thực hành rèn luyện kỹ năng, thiếu gắn kết với các
doanh nghiệp để đảm bảo hình thành kỹ năng cho người học (rơi vào các ngành khối
văn hóa, du lịch là chủ yếu). Hệ thống giáo trình và học liệu tuy đã có nhiều cố gắng
biên soạn đưa vào giảng dạy tuy nhiên chất lượng biên soạn, hàm lượng kiến thức chưa
đáp ứng được với chuẩn chung, những thay đổi của trình độ khu vực và thế giới, hệ
thống học liệu còn thiếu, dẫn đến chất lượng đào tạo chưa cao.
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
17
Bên cạnh đó, phương pháp giảng dạy, cách thức kiểm tra đánh giá còn chậm đổi
mới, chưa thích ứng được với cách thức, phương pháp giảng dạy tiên tiến, chưa khuyến
khích thầy và trò có những tương tác mang tính gợi mở, chưa thực sự lấy người học làm
trung tâm, vẫn còn nặng phương pháp truyền thụ kiến thức truyền thống, một chiều.
Như đã biết, việc dạy học ở lĩnh vực đặc thù khá phức tạp, hỗn hợp giữa kiến
thức, kỹ thuật và kỹ năng trong đó kỹ thuật có tính chất ưu tiên. Do yêu cầu đặc thù
nghề nghiệp mà những lĩnh vực này đòi hỏi vừa có tính chất kỹ thuật, chính xác (như
các ngành thể thao), thao tác tay nghề thành thạo (như các ngành du lịch) vừa phải có
năng lực sáng tạo thực tiễn (như các ngành nghệ thuật). Điều đó dẫn đến tính chất
“truyền nghề” gần như là hình thức phổ biến trong nghiệp vụ dạy học. Có những bất cập
hiện nay là, có thể trường duy trì tốt hệ thống giảng viên đứng ngành, cơ hữu nhưng
“tinh hoa” cho đào tạo phải dựa vào đội ngũ “thỉnh giảng”. Đây là một nghịch lý hết sức
đáng bàn.
Cũng từ loại hình lao động khác biệt là giảng dạy lĩnh vực đặc thù đã tác động
không nhỏ đến thiên hướng hoạt động của người giảng viên. Trong khi quy định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo khá rõ ràng, giảng viên đại học bị quy chiếu bởi giờ nghĩa vụ giảng
dạy, nghiên cứu khoa học và hoạt động chuyên môn khác là 1.760 giờ3. Trong đó, giảng
dạy và nghiên cứu khoa học chiếm đến 90%, tuy nhiên qua thực tế cho thấy, thành tựu
nghề nghiệp của đội ngũ này thường không đến từ giảng dạy và nghiên cứu khoa học thuần
túy mà là các công trình sáng tạo, sáng tác tác phẩm, giải thưởng đã được công nhận.
Cơ sở vật chất kỹ thuật dành cho đào tạo lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, thể thao
và du lịch thường rất tốn kém, trong khi việc trang bị là bắt buộc. Chẳng hạn, không có
nhạc cụ; bảng mầu, giá vẽ, tượng; dụng cụ thi đấu thể thao; hệ thống, trang thiết bị thực
hành du lịch như buồng, bàn, bar, khách sạn thực hành, quầy lễ tân, thì các ngành này
không thể đào tạo được. Nếu chỉ đào tạo lý thuyết thì sinh viên ra trường không có
nghề. Còn đầu tư cơ sở vật chất thì không phải cơ sở đào tạo nào cũng có khả năng đảm
bảo được nếu không có sự đầu tư lớn của cấp quản lý. Đây là lý do giải thích tại sao rất
nhiều cơ sở đào tạo văn hóa, nghệ thuật, thể thao và du lịch ở nước ta còn bị phê bình là
đào tạo thiếu tay nghề, thiếu trình độ so với nước ngoài.
3. Một số vấn đề cần đổi mới trong quản lý đào tạo đặc thù
Xuất phát từ các vấn đề thực tiễn như đã nêu, cũng như kinh nghiệm trong công
tác quản lý, điều hành một cơ sở đào tạo lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật, thể thao và du
3
Quyết định số 64/TT-BGD ĐT ngày 28/11/2008 quy định chế độ làm việc đối với giảng viên
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
18
lịch. Chúng tôi cho rằng, đã đến lúc cần có một cơ chế và biện pháp đồng bộ mang tính
tổng thể để giải quyết bài toán phát triển đào tạo thuộc các lĩnh vực này.
Trước tiên là giải quyết vấn đề quy định mở ngành, đình chỉ ngành có liên quan
đến tiêu chuẩn về đội ngũ giảng viên (còn gọi là quy định về tiến sĩ đứng ngành). Hiện
nay, trong quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, mặc dù đã có chuyển biến cơ bản về
mặt nhận thức từ Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT đến Thông tư số 22/2017/TT-
BGDĐT trong quy định điều kiện, thủ tục mở ngành đào tạo như phải có đủ đội ngũ
giảng viên cơ hữu đảm nhận giảng dạy thấp nhất 70% khối lượng của chương trình đào
tạo, trong đó có ít nhất 01 giảng viên trình độ tiến sĩ và 03 giảng viên trình độ thạc sĩ
đúng ngành đăng ký. Trường hợp nếu không có tiến sĩ đúng ngành thì có thể dùng tiến
sĩ ngành gần, có công trình nghiên cứu liên quan; còn nếu không có tiến sĩ thì mỗi
ngành phải bảo đảm có năm thạc sĩ4. Quy định về bằng cấp được linh động hóa trong
Thông tư số 22/2017/TT-BGDĐT như có thể thay thế tiến sĩ đứng ngành bằng nghệ sĩ
nhân dân có bằng đại học cùng ngành đăng ký đào tạo và thay thế giảng viên cơ hữu
có trình độ thạc sĩ bằng nghệ sĩ ưu tú có bằng đại học cùng ngành đăng ký đào tạo trong
trường hợp ngành đăng ký mở mới mà trong nước chưa có cơ sở đào tạo trình độ thạc
sĩ, tiến sĩ đối với các nhóm ngành nghệ thuật. Mặc dù vậy, không phải trong trường hợp
nào các trường đại học đào tạo đặc thù có thể đảm bảo được quy định này, kể cả trong
trường hợp cho phép linh hoạt áp dụng việc thay thế. Ví như, một số ngành không thể
áp dụng nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú như Đồ họa, Hội họa, Thiết kế thời trang, Điêu
khắc, Nhiếp ảnh, Truyền hình, Điện ảnh, Múa, thì những trường đào tạo các ngành
học này nếu không có tiến sĩ đứng ngành và thạc sĩ chuyên ngành thì chắc chắn sẽ vi
phạm quy định. Thông tư số 22/2017/TT-BGDĐT thực tế không quy định cho tất cả các
ngành đặc thù mà chỉ mới cho một số đối tượng đặc thù và nếu trong các ngành thuộc
nhóm nghệ thuật thì mới giải quyết được một phần thuộc lĩnh vực âm nhạc, sân khấu
truyền thống. Cũng không thấy quy định ưu tiên cho lĩnh vực thể thao, trong khi chưa
hẳn ngành nhiều có tiến sĩ, thạc sĩ thì đào tạo thể thao, nhất là thể thao tài năng, thể thao
thành tích cao có kết quả tốt. Rõ ràng, việc phải chuẩn hóa đội ngũ giảng viên trong các
cơ sở giáo dục đại học để nâng cao chất lượng đào tạo là điều hết sức cần thiết, song áp
dụng với các lĩnh vực đặc thù như nghệ thuật và thể thao thì lại trở thành máy móc và
không sát thực tế.
4
Trích khoản 1, điều 2, Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT ngày 17/02/2011 quy định điều kiện, hồ sơ,
quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học,
trình độ cao đẳng.
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
19
Tiếp đến là, quy định về việc cấp kinh phí đào tạo trên số lượng học sinh sinh
viên. Trên thực tế, quy định này là tối ưu đối với các ngành đào tạo thông thường, còn
nếu áp dụng cho các ngành đặc thù văn hóa - nghệ thuật, thể thao và du lịch thì chưa
phù hợp. Lý do là, bản chất và đặc trưng trong đào tạo các loại hình này thường đi kèm
với tố chất, năng khiếu và khó có thể đạt quy mô lớp học thông thường như các ngành
khối khoa học xã hội và nhân văn nói chung. Có những lớp chỉ có thể duy trì từ 03 - 05
sinh viên nhằm đảm bảo chất lượng (như các ngành nghệ thuật truyền thống, thanh
nhạc, sân khấu, điện ảnh, múa,), trong khi Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn giữ nguyên
quy định mỗi trường phải đảm bảo ít nhất 70% khối lượng giảng dạy chính, số còn lại
mới được mời thỉnh giảng. Cho nên để duy trì các ngành này, cơ sở đào tạo buộc phải
có đội ngũ cơ hữu đủ 70% và vẫn phải đảm bảo chế độ lương, thưởng, chính sách thông
thường cũng như mua sắm, bổ sung trang thiết bị phục vụ dạy học thường xuyên
(thường dụng cụ dạy học lĩnh vực này rất đắt như đàn phím, đàn violon, piano, mẫu
phẩm, thiết bị thực hành du lịch, thể thao,). Nếu chỉ dựa vào nguồn thu ít ỏi từ ngân
sách cấp cho người học và thu học phí thì khó có cơ sở đào tạo nào có thể duy trì được.
Thứ ba là, loại hình lao động của người dạy và người học ở lĩnh vực đặc thù có
nhiều điểm không tương đồng với loại hình lao động của giảng viên thông thường. Mặc
dù Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT quy định khá rõ về chế độ làm việc của giảng
viên trong các cơ sở giáo dục cao đẳng, đại học về giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu
khoa học. Tuy nhiên, quy định chưa thỏa mãn các yếu tố đặc thù nghề nghiệp, dẫn đến
biên độ ứng xử khác biệt giữa các trường. Chỉ tính riêng về nghĩa vụ nghiên cứu khoa
học (mức chung 600 giờ chưa quy đổi) bằng các sản phẩm nghiên cứu khoa học cơ bản
thì đội ngũ giảng viên lĩnh vực này khó có thể thực hiện được. Lý do bởi vì, loại hình
lao động đặc thù dẫn đến sản phẩm lao động khác biệt. Tại các trường đặc thù văn hóa -
nghệ thuật, thể thao và du lịch đều linh hoạt áp dụng quy đổi theo công trình sáng tạo,
tác phẩm nghệ thuật, giải thưởng, thành tích chuyên ngành. Tuy nhiên, chỉ đảm bảo ở
mức tương đối, đặc biệt đối với các trường đào tạo đa ngành, hỗn hợp thì khó có thể đạt
được mức cân bằng chung.
Đối với một trường đào tạo văn hóa - nghệ thuật nói chung thì đội ngũ nghệ
nhân, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú được xem là tài sản vô giá, Các trường đều
muốn bồi dưỡng và phát triển đội ngũ này. Tuy nhiên, trong thực tế không phải toàn bộ
đội ngũ giảng viên lĩnh vực này đều dành hết tâm lực để đạt được thành tựu trên. Bởi vì,
NSND, NSƯT, nghệ nhân là danh hiệu nghề nghiệp, không phải là chức danh để hưởng
lương, xếp ngạch bậc. Đối với một giảng viên lâu năm trong nghề, việc lựa chọn, theo
đuổi để được công nhận NSND, NSƯT, nghệ nhân (tích lũy đủ số công trình, giải
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
20
thưởng, uy tín) so với các chức danh giảng viên chính, chuyên viên chính (qua thi cử,
sát hạch), lại được củng cố bằng quyền lợi vật chất, cũng đủ làm cho họ phải cân nhắc.
Những đòi hỏi chính đáng này cần phải được nghiên cứu kỹ, đã đến lúc cần phải tách
biệt giữa cống hiến, ghi nhận với đãi ngộ để lực lượng giảng viên lĩnh vực đặc thù an
tâm lao động thì chất lượng đào tạo mới được đẩy lên cao.
Nhà quản lý giáo dục tại các cơ sở đào tạo lĩnh vực đặc thù luôn phải đứng trên
thế ứng xử lưỡng phân, vừa phải đảm bảo chế độ chính sách cho người lao động theo
luật, trong khi vẫn phải đảm bảo chất lượng đào tạo, quy mô tuyển sinh, cạnh tranh giáo
dục và nguồn tài chính nuôi sống bộ máy, đảm bảo toàn diện cho mọi hoạt động của cơ
sở đào tạo. Thiết nghĩ, đã đến lúc cần phải đổi mới những quy định liên quan đến công
tác đào tạo lĩnh vực đặc thù cho thỏa đáng hơn, phù hợp với tình hình hiện nay để nâng
cao hơn nữa chất lượng đào tạo, phát huy năng lực sáng tạo, cống hiến của đội ngũ nhà
giáo trong một lĩnh vực có vai trò xã hội về nghề nghiệp rất cao như lĩnh vực văn hóa -
nghệ thuật, thể thao và du lịch.
Tài liệu tham khảo
[1]. Thủ tướng Chính phủ (2012), hiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 -
2020, ban hành kèm theo Quyết định số 711/2012/QĐ-TTg ký ngày 13 tháng 6 năm 2012.
[2]. Quyết định số 64/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28 tháng 11 năm 2008 của Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy định chế độ làm việc đối với giảng viên.
[3]. Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT ngày 17 tháng 02 năm 2011 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định điều kiện, hồ sơ, quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ tuyển
sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học, trình độ cao đẳng.
[4]. Thông tư số 22/2017/TT-BGDĐT ngày 6 tháng 9 năm 2017 của Bộ Giáo
dục và Đào tạo quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển
sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học.
RENEWING THE SPECIFIC TRAINING FIELDS TO MEET
THE INTEGRATION AND DEVELOPMENT REQUIREMENTS
Le Thanh Ha, Ph.D
Abstract: Culture, Arts, Sports and Tourism are specific training fields that play
a very high social role in the employment. Thus, the enjoyment level of cultural, artistic,
sports and tourism values can be considered as an important criterion in the
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO
21
development process. The State policies on culture, arts, sports and tourism has brought
many significant results but there exists many limitations to both the management and
the teaching of these fields. We have to overcome the inadequacies to meet the
integration and development requirements.
Key words: training, specific, renew, development.
(Người phản biện: TS. Nguyễn Văn Dũng; ngày nhận bài: 12/9/2017; ngày gửi phản biện
25/10/2017; ngày duyệt đăng 30/12/2017)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_tao_linh_vuc_dac_thu_nhung_van_de_can_doi_moi_de_hoi_nha.pdf