Chúng ta có thể thấy được một số vấn
đề nổi bật trong đào tạo TMĐT thời gian qua
như sau: Vấn đề nổi bật đầu tiên là vấn đề giảng
viên đội ngũ giảng viên vừa thiếu về số lượng,
vừa chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên
môn. Tình hình này còn có thể kéo dài nhiều
năm nửa nếu các cơ quan quản lý nhà nước
không có giải pháp tích cực tháo gỡ. Hai vấn
đề tiếp theo là chương trình khung và giáo
trình. Hai vấn đề này liên hệ chặt chẽ với nhau.
Bộ cần xây dựng gấp chương trình khung, phải
nắm vai trò tiên phong trong việc phân khúc
giữa các cấp độ để bảo đảm tính thống nhất và
không chồng chéo trong đào tạo. Vấn đề thứ tư
là nhận thức về tỉ lệ kiến thức CNTT và kiến
thức kinh tế, thương mại giữa hai trường phái
là lấy CNTT làm nền và lấy quản trị, thương
mại làm nền. Vấn đề thứ năm là phải có sự liên
kết chặt chẽ giữa việc học lý thuyết tại trường
với các doanh nghiệp cung cấp công nghệ, giải
pháp cho TMĐT, để tránh tình trạng học một
đàng, ra làm việc một nẻo.
9 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 430 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo thương mại điện tử trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
76 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 53 (03/2019) 76-84
ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG BỐI CẢNH CÁCH
MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
E-COMMERCIAL TRAINING IN 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION
Đặng Thị Thu Giang*†††††††††
Nguyên Thị Kim Dung**‡‡‡‡‡‡‡‡‡
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 7/9/2018
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 6/3/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/3/2019
Tóm tắt: Giáo dục nói chung và giáo dục đại học về thương mại điện tử (TMĐT) nói riêng là một
trong những lĩnh vực chịu sự tác động của CMCN 4.0 nhanh hơn cả bởi chính giáo dục cũng sẽ tạo ra những
phiên bản mới của các cuộc CMCN tiếp theo. Công nghiệp 4.0 hứa hẹn những bước đột phá mới trong hoạt
động đào tạo, thay đổi mục tiêu cũng như mô hình đào tạo truyền thống nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn toàn mới.
Sự phát triển công nghệ thông tin, công cụ kỹ thuật số, hệ thống mạng kết nối và siêu dữ liệu sẽ là những công
cụ và phương tiện tốt để thay đổi cách thức tổ chức, quản lý của hoạt động kinh doanh thông qua TMĐT. Vì
vậy vai trò của các trường đại học cao đẳng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT trở nên càng bức
thiết.
Từ khóa: nguồn nhân lực, thương mại điện tử, cách mạng 4.0
Abstract: Education in general and higher education in e-commerce in particular is one of the areas
affected by 4.0 industrial revolution even faster than education itself which may create new versions of the
incoming revolution. Industry 4.0 propose to make new breakthroughs in training activities, changing goals as
well as traditional training models to response new requirements. The development of information technology,
digital tools, connection networks and metadata will be good tools and means to change the administration of
business activities through e-commerce. Therefore, the role of educational institutions in human resources
training for e-commerce becomes increasingly nessesary.
Keywords: human resources, e-commerce, 4.0 revolution
1. Mở đầu
Cho tới đầu thế kỷ 20, để liên lạc với
nhau người ta sử dụng hệ thống các ký hiệu như
âm thanh, hình ảnh và chữ viết. Trong nửa đầu
thế kỷ đó, kỹ thuật số trên cơ sở hệ nhị phân bắt
*†††††††††Học viện tài chính
**‡‡‡‡‡‡‡‡‡Khoa Kinh tế - Đại học Mở Hà Nội
đầu phát triển và hoàn thiện dần, hình ảnh (kể
cả chữ viết con số, các ký hiệu khác và cả âm
thanh đều được số hóa thành các nhóm bít điện
tử, để ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ,
truyền đi và đọc bằng điện tử, tất cả đều có tốc
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 77
độ ánh sáng (300.000km/s). Kỹ thuật số trước
hết được áp dụng vào máy tính điện tử, tiếp đó
sang các lĩnh vực khác (cho tới điện thoại di
động, thẻ tín dụng). Việc áp dụng kỹ thuật số
có thể coi là một cuộc cách mạng vĩ đại trong
lịch sử nhân loại, gọi là cuộc cách mạng số hóa,
mở ra kỷ nguyên số hóa.
Cuộc cách mạng này diễn ra với tốc độ
nhanh. Chiếc máy tính điện tử đầu tiên có thể
chương trình hóa ra đời năm 1946, có kích
thước bằng bốn đến năm gian phòng, trị giá
nhiều triệu USD và chỉ thực hiện được 5 nghìn
lệnh trong một giây. Năm mươi năm sau, máy
tính điện tử cá nhân thông dụng, chỉ có kích
thước để bàn, giá trị chỉ khoảng một nghìn
USD và thực hiện được trên 400 triệu lệnh
trong một giây nhờ sử dụng chip vi mạch cho
phép đóng- mở nhiều triệu lần một giây. Các
phương tiện truyền thông hiện đại cũng song
song cùng phát triển, ngày nay một sợi cáp
quang mảnh bằng sợi tóc có thể truyền một
lượng thông tin chứa đựng trong 90 nghìn cuốn
từ điển bách khoa trong một giây, hệ thống liên
lạc viễn thông và định vị toàn cầu thông qua
các vệ tinh đã bao phủ toàn thế giới, ngành
công nghệ thông tin và truyền thông ngày càng
chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế. Nhân loại
đang sống trong thời kỳ máy tính hóa xã hội,
khác biệt hoàn toàn về chất so với thời kỳ
trước. Quá trình máy tính hóa xã hội bắt đầu
bùng nổ, rồi nhanh chóng chuyển sang mang
tính chất toàn cầu sau khi Internet ra đời, trong
bối cảnh ấy hoạt động kinh tế nói chung và
thương mại nói riêng, kể cả khâu quản lý cũng
chuyển sang dạng số hóa, điện tử hóa, khái
niệm TMĐT, dần dần hình thành và ứng dụng
TMĐT ngày càng mở rộng.
Ngày nay, cách mạng công nghiệp lần
thứ 4 (CMCN 4.0) được xây dựng dựa trên
cuộc cách mạng số, đặc trưng bởi Internet ngày
càng phổ biến và di động, bởi các cảm biến nhỏ
và mạnh mẽ hơn với giá thành rẻ hơn, bởi trí
tuệ nhân tạo và học máy (machine learning).
Các công nghệ số với phần cứng máy tính,
phần mềm và hệ thống mạng đang trở nên ngày
càng phức tạp hơn, được tích hợp nhiều hơn và
vì vậy đang làm biến đổi xã hội và nền kinh tế
toàn cầu. Cùng với xu hướng CMCN 4.0, kinh
tế số là yếu tố quan trọng tác động ảnh hưởng
lớn đến đời sống, xã hội và cơ cấu của nền kinh
tế. Thương mại dần được toàn cầu hóa; công
nghệ cao và các mô hình kinh doanh mới ngày
càng phát triển. Thị trường TMĐT vì thế cũng
được mở rộng, mô hình TMĐT ngày càng đổi
mới, các chuỗi cung ứng truyền thống với sự
hỗ trợ của sức mạnh lan tỏa của số hóa và công
nghệ thông tin trở thành chuỗi cung ứng thông
minh, đem lại hiệu quả cho nền kinh tế số nói
chung cũng như TMĐT nói riêng.
TMĐT Việt Nam mặc dù đã bắt nhịp
xu hướng TMĐT mới của thế giới, phục vụ
hiệu quả cho hoạt động sản xuất, kinh doanh,
tạo thói quen mua sắm hiện đại của người tiêu
dùng trên môi trường mạng. Tuy nhiên, các hạ
tầng cho kinh tế số, như hạ tầng thanh toán điện
tử, hạ tầng phân phối điện tử, hạ tầng nhân lực
TMĐT và CNTT, hạ tầng an toàn an ninh thông
tin còn bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt nguồn
nhân lực phục vụ cho phát triển TMĐT ở Việt
Nam còn rất mỏng và yếu. Điều này đòi hỏi vai
trò của các trường đại học, cao đẳng trong việc
quan tâm, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn
nhân lực phục vụ cho TMĐT ngày càng trở nên
bức thiết. Bài viết góp phần đưa ra cái nhìn
tổng quan về thực trạng đào tạo TMĐT ở Việt
Nam và qua đó gợi ý một số hướng phát triển
TMĐT trong tương lai với vai trò của các
trường đại học cao đẳng.
78 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
2. Nội dung
2.1 Bối cảnh ra đời và phát triển
ngành học Thương mại Điện tử tại Việt Nam
và chính sách phát triển của Nhà nước
TMĐT là hình thức mua bán hàng hóa
và dịch vụ thông qua mạng máy tính tòan cầu.
TMĐT chỉ gồm các hoạt động thương mại
được tiến hành trên mạng máy tính mở như
Internet. Trên thực tế, chính các hoạt động
thương mại thông qua mạng Internet đã làm
phát sinh thuật ngữ TMĐT.
TMĐT gồm các hoạt động mua bán
hàng hóa và dịch vụ qua phương tiện điện tử,
giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng,
chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử,
vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác
thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng,
tiếp thị trực tuyến tới người tiêu dùng và các
dịch vụ sau bán hàng.
TMĐT được thực hiện đối với cả
thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu
dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và thương
mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông
tin, dịch vụ pháp lý, tài chính); các hoạt động
truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo
dục) và các hoạt động mới (ví dụ như siêu thị
ảo). Sự xuất hiện của TMĐT đã tạo ra một cuộc
cách mạng làm thay đổi cách thức kinh doanh
của doanh nghiệp.
TMĐT được hình thành từ năm 2003
đến nay khi Internet bắt đầu bùng nổ, nhưng đã
phát triển khá nhanh. Tới năm 2009 nhiều
trường đã chủ động triển khai hoạt động đào
tạo chính quy TMĐT, nhưng sự phát triển của
lĩnh vực này bị ảnh hưởng đáng kể do có sự
chênh lệch lớn giữa khả năng đào tạo về TMĐT
của các cơ sở đào tạo với nhu cầu về nguồn
nhân lực TMĐT của tổ chức, doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Thủ tướng chính phủ phê
duyệt kế hoạch tổng thể phát triển thương mại
điện tử giai đoạn 2006-2010 tại quyết định số
222/2005/QĐ-TTg năm 2005 đã nhấn mạnh tới
phát triển nguồn nhân lực là chính sách đầu tiên
trong số sáu chính sách và giải pháp chủ yếu
được đề ra trong kế hoạch tổng thể phát triển
TMĐT giai đoạn 2006-2010. Trước hết tập
trung đào tạo nguồn nhân lực chính qui tại các
trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp thuộc khối ngành kinh tế và luật, đồng
thời đào tạo theo chương trình đại cương tại các
trường dạy nghề thuộc các chuyên ngành
thương mại, quản trị kinh doanh, đào tạo cho
cán bộ quản lý nhà nước làm công tác hoạch
định chính sách và thực thi pháp luật về TMĐT
ở trung ương, địa phương và các tỉnh, thành
phố, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia
cung cấp dịch vụ đào tạo về TMĐT.
Ngày 16/5/2013, chính phủ ra nghị định
số 25/2013/NĐ-CP về TMĐT trong đó quy
định về việc phát triển, ứng dụng và quản lý
hoạt động thương mại điện tử. qua đó tạo đà
cho sự phát triển mạnh mẽ hơn của ngành này.
Ngày 08/08/2016, Chính phủ tiếp tục
ban hành quyết định phê duyệt kế hoạch tổng
thể phát triển TMĐT giai đoạn 2016-2020.
Trong đó một lần nữa nhấn mạnh TMĐT là một
trong những kết cấu hạ tầng quan trọng của lĩnh
vực thương mại và của xã hội thông tin; là
phương thức giúp doanh nghiệp Việt Nam đẩy
mạnh phát triển thị trường trong nước và xuất
nhập khẩu, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn
cầu, giúp nâng cao năng lực cạnh tranh quốc
gia trong hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. TMĐT
là lĩnh vực có hàm lượng ứng dụng công nghệ
cao, tốc độ phát triển nhanh. Doanh nghiệp là
lực lượng nòng cốt triển khai, nhà nước đóng
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 79
vai trò quản lý, thiết lập hạ tầng và tạo môi
trường cho thương mại điện tử phát triển.
Chính sách quản lý được xây dựng trên cơ sở
thực tiễn, nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp,
đồng thời bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng
khi ứng dụng thương mại điện tử. Đặc biệt
quan tâm chính sách phổ biến, tuyên truyền về
TMĐT cũng như đào tạo chính qui tại các
trường đại học, cao đẳng. Bộ Giáo dục và đào
tạo và Bộ Thương mại (nay là Bộ Công
thương) là hai cơ quan quản lý nhà nước chịu
trách nhiệm tổ chức triển khai hoạt động đào
tạo ở tầm vĩ mô.
TMĐT Việt Nam hiện được xem đang
bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ, đặc biệt
trong 3 năm trở lại đây. Theo thông tin từ Cục
Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin,
ngành này đang có tốc độ tăng trưởng
25%/năm, thuộc top tăng trưởng lớn nhất trên
thế giới. Tốc độ này được dự báo sẽ tiếp tục giữ
vững trong vài năm tới và đến năm 2020,
TMĐT Việt Nam sẽ có thể đạt 10 tỷ USD.
Ngoài ra tiềm năng của TMĐT tại Việt
Nam cũng đang còn rất lớn nếu so sánh với các
nước khác trong khu vực. Nếu xét trên tỷ lệ
giữa doanh thu TMĐT so với tổng doanh thu
bán lẻ trong năm 2017, Trung Quốc đang là số
1 trên thế giới, chiếm khoảng hơn 20%, ở Nhật
Bản là 10%, Hàn Quốc là 12% nhưng tại Việt
Nam con số này chỉ mới dừng lại ở con số
1,4%.
Thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh
giá về mức độ hấp dẫn đứng thứ 6 trên thế giới,
trong khu vực chỉ sau Trung Quốc và Malaysia.
Các chuyên gia dự đoán rằng trong vòng 5-7
năm tới, TMĐT tăng trưởng ít nhất 10 lần, lạc
quan sẽ là 20 lần.
Tiềm năng lớn, hứa hẹn nhiều cơ hội
cũng như nguồn nhân lực khan hiếm là những
nguyên nhân khiến nhiều trường đại học cao
đẳng mở thêm ngành liên quan để đáp ứng nhu
cầu thị trường. Lĩnh vực này cũng hứa hẹn sẽ
tạo ra rất nhiều cơ hội việc làm thông qua nhu
cầu tuyển dụng ngày càng lớn của các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay tuy lực
lượng sinh viên ngành TMĐT khá đông đảo
nhưng các doanh nghiệp hiện nay vẫn đang
thiếu trầm trọng nhân lực có trình độ chuyên
môn tốt. Theo báo cáo của Hiệp hội Thương
mại điện tử Việt Nam - VECOM, trong năm
2017 có đến 31% doanh nghiệp gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng lao động liên quan đến
công nghệ thông tin và TMĐT.
2.2 Kinh nghiệm đào tạo thương mại
điện tử của một số nước trên thế giới
Đa số các quốc gia đều đào tạo TMĐT
ở cả trình độ đại học và sau đại học, tuy nhiên
mỗi quốc gia lại đào tạo ngành TMĐT tập trung
vào một trình độ nhất định như: Canada tập
trung đào tạo trình độ cao đẳng TMĐT.
Australia tập trung đào tạo thạc sĩ quản trị kinh
doanh chuyên ngành TMĐT Ngoài ra hình
thức đào tạo thạc sĩ quản trị kinh doanh chuyên
ngành TMĐT phổ biến ở hầu hết các quốc gia.
Chương trình giảng dạy và nội dung
giảng dạy có sự khác biệt khá rõ rệt tuỳ theo
cách tiếp cận. Có ba khuynh hướng tiếp cận
trong chương trình giảng dạy.
- Cách tiếp cận theo khuynh hướng
Công nghệ thông tin.
- Cách tiếp cận theo khuynh hướng
Quản trị kinh doanh.
- Cách tiếp cận theo khuynh hướng
Liên ngành.
Cách tiếp cận theo khuynh hướng Công
nghệ thông tin: Khác với thương mại truyền
80 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thống, TMĐT là phương thức thương mại “dựa
trên công nghệ” (Technology- based
Commerce), ở đây là dựa trên công nghệ thông
tin-truyền thông (CNTT-TT). Chính sự phát
triển ứng dụng của CNTT trong các ngành kinh
tế dẫn tới sự ra đời của TMĐT TMĐT được
tiến hành trong môi trường điện tử và dựa trên
những nguyên tắc, yêu cầu riêng (về giao dịch
thanh toán, về an toàn bảo mật, về hành lang
pháp lý, về khiếu nại, tranh chấp) Vì vậy
những người làm TMĐT cần phải nắm vững
những vấn đề liên quan đến thương mại và cả
công nghệ thông tin.
Cách tiếp cận theo khuynh hướng Quản
trị kinh doanh: Tiếp cận theo khuynh hướng
quản trị kinh doanh nhấn mạnh trọng tâm trang
bị các kỹ năng và kiến thức thuộc lĩnh vực kinh
tế-kinh doanh, khoa học xã hội- hành vi cho
người học, và hình thành trên nền chương trình
đào tạo quản trị kinh doanh, điều chỉnh, sửa đổi
cho thích hợp với TMĐT, Ngoài ra người học
còn được trang bị các kỹ năng, kiến thức cần
thiết về CNTT-TT, trong đó chú trọng trang bị
các kỹ năng, kiến thức về khai thác, sử dụng
các thiết bị phần cứng, phần mềm trong CNTT
để phục vụ cho TMĐT chứ không trang bị các
kiến thức nền tảng sâu về CNTT-TT
Cách tiếp cận theo khuynh hướng Liên
ngành: Theo khuynh hướng này các chương
trình đào tạo chủ trương đảm bảo sự hài hoà
kiến thức và kỹ năng thuộc cả ba lĩnh vực kinh
tế -kinh doanh, khoa học xã hội-hành vi, và
CNTT-TT. Để xây dựng đội ngũ đào tạo
TMĐT theo cách tiếp cận liên ngành, các cơ sở
đào tạo thành lập đội ngũ giảng dạy liên bộ
môn, liên khoa gồm các giảng viên thuộc các
lĩnh vực quản trị kinh doanh, marketing và
CNTT.
+Tình hình đào tạo TMĐT tại Hoa kỳ:
Chương trình cử nhân Hệ thống thông tin,
chuyên ngành TMĐT của trường Đại học
Fullerton thuộc California State University.
Nội dung chương trình phần bắt buộc gồm 10
môn học mỗi môn gồm 3 tín chỉ. Số môn học
về thương mại, quản trị kinh doanh chiếm 50%
thời lượng, số môn học về kỹ thuật, công nghệ
thông tin chiếm khoảng 50% thời lượng. Tại
Hoa Kỳ, các trường kinh tế và quản trị kinh
doanh đang giảng dạy hai ngành có liên quan
đến TMĐT là Hệ thống Thông tin Quản lý
(HTTTQL, MIS) và TMĐT.
+Tình hình đào tạo TMĐT tại Canada:
Về tiêu dùng trực tuyến, Canada đã vượt Hoa
Kỳ và là quốc gia có lượng mua sắm trực tuyến
cao nhất thế giới. Theo thống kê, trong hệ
thống các trường đại học và cao đẳng Canada,
khoảng 50 trường cao đẳng và học viện kỹ
thuật của Canada cung cấp các khoá học đào
tạo TMĐT. Có khoảng 20% trường cao đẳng
đào tạo cử nhân chuyên ngành TMĐT. Các
trường đại học đào tạo thạc sĩ quản trị kinh
doanh chuyên ngành TMĐT như: Athbasca,
Ottawa, McMaster, Concordia, McGill
+ Tình hình đào tạo TMĐT tại Hàn
quốc: Doanh số TMĐT của Hàn Quốc năm
2004 đạt 314 tỷ USD chiếm 20% tổng giao
dịch thương mại. TMĐT phát triển khá đồng
đều trên các loại hình B2B, B2C, B2G. Khảo
sát 50 trường đại học lớn của Hàn Quốc cho
thấy 100% trường kinh tế và quản trị kinh
doanh thành lập khoa MIS đào tạo trình độ đại
học và sau đại học. Khoa MIS chịu trách nhiệm
giảng dạy một số môn học chuyên ngành
TMĐT Ngoài khoa MIS, một số trường còn
thành lập khoa Kinh doanh trên Internet hoặc
đào tạo riêng ngành TMĐT.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 81
2.3 Tình hình đào tạo Thương mại
điện tử tại Việt Nam cũng như khả năng đáp
ứng đối với thị trường
Theo số liệu của Cục Thương mại điện
tử và Công nghệ thông tin, Bộ Công thương,
điều tra tình hình đào tạo TMĐT tại 250 trường
đại học và cao đẳng trên phạm vi toàn quốc vào
tháng 7 năm 2010 và nhận được trả lời của 125
trường, chủ yếu tập trung vào các trường đào
tạo các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế và CNTT,
có 77 trường đã triển khai hoạt động đào tạo
thương mại điện tử, trong đó có 49 trường đại
học và 28 trường cao đẳng. Về tổ chức giảng
dạy Trong số 49 trường đại học đã giảng dạy
TMĐT, có 01 trường thành lập khoa TMĐT,
10 trường thành lập bộ môn TMĐT Trình độ
đào tạo Trong số các trường đã đào tạo TMĐT
có 03 trường ( chiếm 4%) đào tạo TMĐT cho
bậc cao đẳng nghề, 52 trường đào tạo TMĐT
cho bậc cao đẳng (chiếm 68%), 47 trường đào
tạo TMĐT cho bậc đại học (chiếm 61%) và 08
trường đào tạo TMĐT cho bậc sau đại học
(chiếm 10%).
+ Phương thức đào tạo: Phương thức
đào tạo TMĐT chủ yếu hiện nay vẫn là phương
thức giảng dạy và học tập tập trung trên lớp.
Tuy nhiên, có một số trường bắt đầu áp dụng
phương thức đào tạo trực tuyến vào công tác
giảng dạy và học tập TMĐT. So với năm 2008,
số lượng giảng viên tăng từ 368 lên 553 người.
Phần lớn giảng viên giảng dạy các môn liên
quan đến TMĐT đều là các giảng viên chuyên
ngành khác như Công nghệ thông tin hay Quản
trị kinh doanh được bồi dưỡng thêm về TMĐT
hoặc tự nghiên cứu để giảng dạy TMĐT.
Chương trình đào tạo chhủ yếu theo hai cách
tiếp cận cơ bản trong đào tạo TMĐT của các
nước là nhóm kinh tế và nhóm công nghệ.
+ Giáo trình: Hiện nay giáo trình
TMĐT do các cơ sở đào tạo tự quyết định, các
giảng viên dạy môn học TMĐT tự biên soạn,
thường sử dụng giáo trình có sẵn của nước
ngoài hoặc sử dụng lại giáo trình của các đại
học khác biên soạn. Trong đó sách, tài liệu
TMĐT của nước ngoài về Việt Nam từ nhiều
nguồn khác nhau như: Giảng viên học nước
ngoài cầm tay về, mua qua mạng, các đại học
nước ngoài tặng.
Khả năng đáp ứng của nguồn nhân lực
TMĐT so với nhu cầu của thị trường theo báo
cáo chỉ số TMĐT Việt Nam 2018 của Hiệp hội
thương mại điện tử Việt Nam cho thấy:
Lĩnh vực công nghệ thông tin truyền
thông, tài chính và bất động sản có tỷ lệ lao
động chuyên trách về TMĐT cao nhất (đều
chiếm 49% trong tổng số doanh nghiệp tham
gia khảo sát), tiếp theo là lĩnh vực giải trí
(47%). Lĩnh vực xây dựng chỉ có 23% doanh
nghiệp có lao động chuyên trách TMĐT. Khảo
sát qua các năm cũng cho thấy tỷ lệ doanh
nghiệp gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao
động có kỹ năng về công nghệ thông tin và
TMĐT có xu hướng tăng lên, điển hình năm
2015 có 24% doanh nghiệp gặp khó khăn, năm
2016 có 29% và năm 2017 có tới 31% doanh
nghiệp gặp khó khăn trong vấn đề tuyển dụng.
Kỹ năng về quản trị website và sàn giao dịch
TMĐT đang là nhu cầu lớn nhất đối với các
doanh nghiệp, 46% doanh nghiệp gặp khó khăn
khi tuyển dụng lao động có kỹ năng này. Với
các kỹ năng khác tình hình như sau:
Kỹ năng khai thác, sử dụng các ứng
dụng TMĐT: 45%
Kỹ năng cài đặt chế độ, ứng dụng, khắc
phục sự cố thông thường của máy vi tính: 42%
Kỹ năng xây dựng kế hoạch, triển khai
dự án TMĐT: 42%
82 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Kỹ năng quản trị cơ sở dữ liệu: 42%
Kỹ năng tiếp thị trực tuyến: 35%
Kỹ năng triển khai thanh toán trực
tuyến: 30%
3. Các đề xuất
Nền tảng của CMCN 4.0 là sự kết nối
giữa thật và ảo thông qua phần mềm công nghệ
thông tin, kỹ thuật số và kết nối mạng, do vậy
kiến thức và kỹ năng về TMĐT và kỹ thuật số
có vai trò rất quan trọng đối phương thức kinh
doanh hiện đại trên thế giới. Nhiệm vụ của các
trường đại học trong giai đoạn tới phải đào tạo
đủ chuyên gia công nghệ thông tin; chuyên gia
về kinh doanh tích cực trang bị cho các em sinh
viên các kiến thức và kỹ năng có liên quan về
TMĐT để đáp ứng nhu cầu xã hội trong nền
công nghiệp 4.0. Trang bị trình độ ngoại ngữ
đủ để có thể làm việc ở mọi nơi trong tư cách
của công dân toàn cầu. Với việc tổ chức hội thảo
này đã thực sự cho thấy sự nhận thức rất rõ ràng
vai trò, tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới việc
đào tạo TMĐT ở các trường đại học cao đẳng.
Thứ nhất, Về chương trình đào tạo:
Trường thành lập Hội đồng khoa học tại các
Khoa, Viện, trong đó mời một số chuyên gia, nhà
khoa học và đại diện doanh nghiệp lớn tham gia
hội đồng để tư vấn, góp ý xây dựng chương trình
đào tạo tiên tiến, phù hợp với nhu cầu thực tiễn,
nhu cầu của doanh nghiệp; Nhà trường cũng tăng
cường đổi mới chương trình đào tạo theo hướng
tích hợp, giảm tải kiến thức hàn lâm, tăng cường
học ngoại khóa, thực hành, thực tập tạo sự hứng
thú và rèn luyện các kỹ năng đối với người học.
Chương trình đào tạo hiện nay vẫn chưa được
linh hoạt, nội dung chưa phù hợp với nhu cầu
và xu thế thị trường lao động CMCN 4.0. Giáo
dục và huấn luyện là một trong các lĩnh vực có
nhiều thay đổi, hệ thống giáo dục nghề nghiệp
sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục
nghề đào tạo và chương trình đào tạo sẽ phải
điều chỉnh, cập nhật liên tục vì ranh giới giữa
các lĩnh vực rất mỏng manh. Các trường đại
học thực hiện hoạt động đào tạo theo hai
hướng: một mặt phải đáp ứng tính định hướng
xã hội, mặt khác đào tạo cung cấp nguồn nhân
lực đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Tuy nhiên, áp lực đối với các trường đại học
càng lớn khi chương trình đào tạo vừa đáp ứng
tính chuyên môn cao trong lĩnh vực nhất định,
vừa đáp ứng tính liên ngành (công nghệ thông
tin, kỹ thuật số, mạng, kiến thức chuyên ngành)
và các kỹ năng khác không thể thiếu, như: khả
năng suy nghĩ có hệ thống, khả năng tổng hợp,
khả năng liên kết giữa thế giới thực và ảo, khả
năng sáng tạo, kỹ năng làm việc nhóm, khả
năng hợp tác liên ngành Trong bối cảnh kiến
thức về công nghệ thay đổi rất nhanh, việc
trang bị cách thức tự học và ý thức học tập suốt
đời càng quan trọng hơn kiến thức của chương
trình đào tạo. Như vậy, CMCN 4.0 đã tạo áp
lực lớn trong hoạt động đào tạo đối với các
trường đại học, từ xây dựng chương trình đào
tạo, cập nhật nội dung chương trình cho đến
đào tạo kỹ năng cho người học để đáp ứng yêu
cầu công nghiệp. Cụ thể:
+ Trong chiến lược đào tạo, nhà trường
cần chú ý việc nâng cao năng lực tiếng Anh cho
sinh viên bằng cách đưa học phần Tiếng Anh
chuyên ngành là học phần bắt buộc. Khuyến
khích giảng viên đăng ký giảng dạy một số học
phần bằng Tiếng Anh.
+ Nhà trường cần xây dựng kế hoạch E-
learning, mời các chuyên gia nước ngoài phổ
biến kiến thức, cũng như tổ chức nhiều đợt tập
huấn cho cán bộ giảng dạy trong toàn trường.
+ Nhà trường cần có cơ chế thu hút nhân
tài về công tác tại trường, cũng như tạo điều kiện
học tập nâng cao trình độ cho giảng viên trẻ.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 83
Thứ hai, một vấn đề khác đặt ra cho
các cơ sở đào tạo là cách thức tổ chức để
chuyển tải nội dung chương trình đào tạo đến
người học. Cách mạng 4.0 đòi hỏi phương thức
và phương pháp đào tạo thay đổi với sự ứng
dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin, công
nghệ kỹ thuật số và hệ thống mạng. Các hình
thức đào tạo online, đào tạo ảo, mô phỏng, số
hóa bài giảng sẽ là xu hướng đào tạo nghề
nghiệp trong tương lai. Điều này đòi hỏi các cơ
sở đào tạo phải có sự chuẩn bị tốt nguồn lực tổ
chức giảng dạy, đặc biệt là đội ngũ giảng viên,
xây dựng không gian học tập, trang thiết bị
phục vụ cho việc dạy và học.
Thứ ba, Về tổ chức giảng dạy: việc
thành lập bộ môn chuyên về TMĐT ở các
trường đại học cao đẳng thay vì chỉ coi đó là
một học phần cũng là một hướng đi mới cần
được nghiên cứu, xem xét. Bởi vì việc thành
lập riêng bộ môn TMĐT trước hết sẽ giúp hình
thành đội ngũ giảng viên chuyên trách giảng
dạy. Bên cạnh đó cũng tạo thuận tiện cho việc
xây dựng nội dung chương trình đào tạo. Trình
độ đào tạo và vai trò của các trường Đại học
đào tạo ngành TMĐT cần có kiến thức rất rộng
trong nhiều lĩnh vực như Kinh tế, CNTT, Quản
trị và ngoại ngữ, nên đòi hỏi thời gian đào tạo
dài, các lớp ngắn hạn và dạy nghề chỉ giải quyết
tạm thời trong thời gian còn thiếu nhân lực,
không thể đem lại cho người học những kiến
thức và kỹ năng đầy đủ để tổ chức hoạt động
TMĐT hiệu quả tại doanh nghiệp, vì vậy đào
tạo chính quy dài hạn tại các trường đại học
mới là cứu cánh cho nhân lực của TMĐT
Thứ tư, về thực hành trong giảng dạy
TMĐT: cơ sở vật chất cho đào tạo TMĐT và
cho nghiên cứu về TMĐT của giảng viên còn
rất thiếu, chủ yếu cần xây dựng thêm các phòng
thực hành chuyên cho thương mại điện tử, và
phát triển các phần mềm sàn giao dịch ảo để
tránh dạy chay. Giảng viên Đội ngũ giảng viên
TMĐT còn đang rất thiếu ngay cả ở các trường
lớn như Đại học Quốc gia.
Thứ năm, để việc đào tạo ngành
TMĐT tại các trường đại học đáp ứng được xu
hướng kinh doanh hiện đại cũng như gia tăng
tính thực tiễn. Việc liên kết giữa nhà trường và
các doanh nghiệp TMĐT là rất cần thiết. Từ đó
phát huy năng lực và thế mạnh của mỗi bên.
Khai thác và tận dụng hiệu quả các tiềm năng
về cơ sở vật chất, con người, chuyên môn trong
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao về
thương mại điện tử.
4. Kết luận
Chúng ta có thể thấy được một số vấn
đề nổi bật trong đào tạo TMĐT thời gian qua
như sau: Vấn đề nổi bật đầu tiên là vấn đề giảng
viên đội ngũ giảng viên vừa thiếu về số lượng,
vừa chưa đáp ứng được yêu cầu về chuyên
môn. Tình hình này còn có thể kéo dài nhiều
năm nửa nếu các cơ quan quản lý nhà nước
không có giải pháp tích cực tháo gỡ. Hai vấn
đề tiếp theo là chương trình khung và giáo
trình. Hai vấn đề này liên hệ chặt chẽ với nhau.
Bộ cần xây dựng gấp chương trình khung, phải
nắm vai trò tiên phong trong việc phân khúc
giữa các cấp độ để bảo đảm tính thống nhất và
không chồng chéo trong đào tạo. Vấn đề thứ tư
là nhận thức về tỉ lệ kiến thức CNTT và kiến
thức kinh tế, thương mại giữa hai trường phái
là lấy CNTT làm nền và lấy quản trị, thương
mại làm nền. Vấn đề thứ năm là phải có sự liên
kết chặt chẽ giữa việc học lý thuyết tại trường
với các doanh nghiệp cung cấp công nghệ, giải
pháp cho TMĐT, để tránh tình trạng học một
đàng, ra làm việc một nẻo.
84 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Tài liệu tham khảo:
1. Zorayda Ruth Andam (2003), Kinh doanh điện
tử và thương mại điện tử, www.eprimer-ecom-
vietnamese-version.pdf
2. Tạ Minh Châu (2013), “Đào tạo nguồn nhân lực
thương mại điện tử Việt Nam”, Phát triển và hội
nhập số 9(19) Tháng 3-4 (2013).
3. Ao Thu Hoài, Nguyền Viết Khôi (2017), Thương
mại điện tử, NXB Thông tin truyền thông, Hà
Nội 2017.
4. Hiệp hội thương mại điện tử Việt Nam, Báo cáo
chỉ số thương mại điện tử Việt Nam 2018.
Địa chỉ tác giả: Học viện tài chính
Email: Thugiang.hvtc@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_tao_thuong_mai_dien_tu_trong_boi_canh_cach_mang_cong_ngh.pdf