Cuối cùng, việc phát triển kết cấu hạ
tầng phục vụ E-Learning cũng là điều cần
lưu ý. Dĩ nhiên, việc thực hiện cải cách và
nâng cấp này không thể diễn ra trong ngắn
hạn, vì thế, HUBT cần có sự bố trí cụ thể về
tài chính cũng như sự sắp xếp về thời gian
để vẫn tiếp tục thực hiện đồng thời việc
giảng dạy và nâng cấp kết cấu hạ tầng.
Tiến tới, HUBT nên mở đào tạo trực
tuyến, cấp bằng cho các ngành Tài chính -
Ngân hàng, Kế toán - Kiểm toán, Quản trị
kinh doanh và một số ngành kinh tế, quản
lý có đủ điều kiện.
Tóm lại, học tập và đào tạo trực tuyến
là giải pháp mở giúp gia tăng hiệu quả
của đào tạo truyền thống. Rất nhiều các
học viên, sinh viên sau khi tham gia các
chương trình đào tạo trực tuyến tại Việt
Nam đều cảm thấy hài lòng. Điều này
chính là minh chứng cho việc phát triển
đào tạo trực tuyến tại Việt Nam, cũng như
đặt ra các thách thức cho những nhà phát
triển giáo dục nhằm xác định chiến lược
để quản trị và phát triển hình thức đào tạo
mới mẻ này, giúp người học có những trải
nghiệm thú vị và hữu ích./.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
6 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 811 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo trực tuyến - xu hướng, nhiệm vụ và thách thức đối với trường Đại học Kinh doanh và công nghệ Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẤN ĐỀ HÔM NAY
12Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
1. Tổng quan về đào tạo trực tuyến
E-Learning, còn được biết đến với 
tên gọi như onlinE-Learning, hay đào tạo 
trực tuyến, được hiểu là quá trình sử dụng 
công nghệ thông tin (CNTT) và hệ thống 
mạng để cung cấp dịch vụ giáo dục đào 
tạo. Với sự phát triển của khoa học - công 
nghệ, cùng việc gia tăng nhanh chóng tốc 
độ kết nối cũng như cơ sở vật chất thiết 
lập hệ thống Internet, học tập trong thời 
đại hiện nay không chỉ theo phương thức 
truyền đạt kiến thức truyền thống, mà còn 
được phát triển dưới nhiều hình thức đào 
tạo từ xa, thông qua ứng dụng CNTT. Việc 
học tập trực tuyến cho phép và khuyến 
khích người học tham gia các khóa học 
tại bất cứ nơi nào, lúc nào, độ tuổi nào, 
tạo môi trường để người học có thể mở 
rộng kiến thức và hiểu biết của mình.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới nói 
chung và Việt Nam nói riêng, trong thời 
gian gần đây, các trang cá nhân thông qua 
các mạng xã hội nổi tiếng, như Facebook, 
Twitter, QQ, WhatApp, đã trở thành địa 
chỉ quen thuộc của người dân, để tìm hiểu, 
chia sẻ và ứng dụng công nghệ. Kết hợp 
ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN - XU HƯỚNG, 
NHIỆM VỤ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
Tóm tắt: Với nhu cầu bắt kịp xu hướng phát triển giáo dục thế giới cũng như bối 
cảnh toàn cầu hóa sâu rộng hiện nay, hình thức đào tạo trực tuyến được nhiều cơ sở 
giáo dục tại Việt Nam hướng tới. Đào tạo trực tuyến giúp người học khắc phục rào 
cản nhất định về không gian, thời gian, giảm thiểu phần nào những chi phí phát sinh. 
Trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu học và dạy trực tuyến ngày một 
gia tăng, vì thế, sự phát triển hình thức đào tạo này là biện pháp bức thiết đặt ra cho 
các cơ sở giáo dục Việt Nam, đặc biệt là những cơ sở đào tạo đại học.
Từ khóa: Trực tuyến, online, E-Learning, công nghệ thông tin, mạng, internet.
Abstract: With the need to catch up with the trend of developing world education 
as well as the current context of extensive globalization, online training has been 
applied by many educational institutions in Vietnam. Online training helps learners 
overcome certain barriers in space and time, minimizing the costs incurred. During 
the Industrial Revolution 4.0 period, the demand for online learning and education 
increased, so the development of this form of training was an indispensable measure 
for Vietnamese educational institutions, especially higher education institutions.
Keywords: Online, E-Learning, Information Technology, network, Internet.
Hà Thị Thu Phương *, 
Thái Vân Hà **
*, ** Viện Đào tạo sau đại học, 
 Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
13Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
các yếu tố nói trên, E-Learning xuất hiện 
như một nhu cầu tất yếu để xây dựng hệ 
thống giáo dục hiệu quả, chất lượng hơn. 
Mặc dù ở các quốc gia, hay ở các cơ 
sở đào tạo riêng biệt có thể có phương 
thức bố trí học tập khác nhau, nhưng thông 
thường, một mô hình đào tạo trực tuyến cơ 
bản chỉ bao gồm những yếu tố sau:
(1) Hệ thống cổng thông tin/trang 
chủ: bao gồm các đường dẫn giúp người 
học có thể tùy chọn các thông tin, thư 
mục, cập nhật dữ liệu mới hay tra cứu 
thông thường.
(2) Hệ thống lớp học ảo, bao gồm 
các học liệu đã được xây dựng thông 
qua những bài giảng, giảng viên với các 
video; các tập tin dưới dạng văn bản (.doc; 
.docx) hay các tập tin dạng slide thuyết 
trình (.ppt; .pptx), các tập tin âm thanh 
(.mp3) giúp người học luôn luôn có thể 
chọn lựa một phương thức học tập phù 
hợp, dù ở bất cứ đâu, với điều kiện được 
kết nối qua mạng Internet.
(3) Hệ thống quản lý học tập và giảng 
dạy: bao gồm việc quản lý chương trình 
đào tạo, quản lý học viên, hỗ trợ và quản 
lý công tác giảng dạy, hỗ trợ trả lời những 
thắc mắc liên quan đến người học và 
người hướng dẫn.
(4) Hệ thống quản lý “tài nguyên”, 
bao gồm việc quản lý học liệu bằng cách 
hỗ trợ và cho phép giảng viên thu thập tài 
liệu, phát hành tài liệu giảng dạy. Tại một 
số quốc gia trên thế giới, hệ thống cho 
phép tích hợp với thư viện số bao gồm 
kho tài nguyên học thuật số hóa rộng lớn, 
các tạp chí chuyên ngành thuộc hệ thống 
Scopus hay ISI,
Thực tế cho thấy, bên cạnh thuận lợi 
mà E-Learning mang tới cho người tham 
gia, việc học tập trực tuyến cũng tiềm 
ẩn một số bất cập. Vì thế, những câu hỏi 
luôn được đặt ra cho các cơ sở cung cấp 
phương thức đào tạo này chính là chỉ tiêu 
nào sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới việc 
đánh giá đào tạo trực tuyến; biện pháp và 
phương thức nào có thể được sử dụng để 
thu hút được người học hoặc người học 
có thể áp dụng phương thức nào để học 
tập hiệu quả với E-Learning. 
Liaw (2005) đã nhấn mạnh vai trò 
của các mục tiêu giảng dạy trong đào tạo 
trực tuyến, gợi ý một số ý tưởng, như đưa 
ra phương thức học tập độc lập cho người 
học, trong đó việc bám sát theo hướng dẫn 
của chương trình học tập và luôn tạo ra 
môi trường học tập đa phương tiện, chính 
là những biện pháp giúp nâng cao chất 
lượng của loại hình đào tạo này. Nghiên 
cứu của một số học giả trên thế giới đã 
chỉ ra rằng, sự lo lắng do thiếu hiểu biết 
về máy tính của người học, thái độ của 
người hướng dẫn trong suốt quá trình 
học, sự linh hoạt của khóa học và những 
phương pháp đánh giá đa dạng cũng được 
coi là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng 
đến sự hài lòng của người học (Sun et al., 
2006; Ding, 2011).
2. Thực trạng đào tạo trực tuyến
Theo một báo cáo tổng hợp bởi 
Wearesocial.net, số lượng người sử dụng 
Internet tại Việt Nam tháng 1/2019 là 
54,05 triệu người, tương đương khoảng 
53% dân số. Thống kê này tăng lên 28% 
so với năm 2018. Trong số những người 
sử dụng Internet, thời gian sử dụng máy 
tính cá nhân hoặc máy tính để bàn lên 
tới 6 giờ 53 phút trong một ngày. Đây là 
những con số tính theo tháng, tức là, nếu 
như người dùng đăng nhập một lần trong 
tháng đủ để tính là đang hoạt động.
Thống kê này cho thấy, công nghệ 
số đóng một vai trò vô cùng quan trọng 
trong đời sống hiện đại. Với sự phát triển 
vũ bão của kỷ nguyên số hóa, bên cạnh 
những thuận lợi mà nó mang lại, những 
VẤN ĐỀ HÔM NAY
14Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
thách thức đặt ra cho giáo dục trực tuyến 
sẽ càng trở nên lớn hơn.
Vào ngày 10/9/2015, Thủ tướng 
Chính phủ đã ký Quyết định số 1559/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đào tạo từ 
xa giai đoạn 2015-2020”. Có thể nói, đào 
tạo từ xa ở Việt Nam đã trở thành một nhu 
cầu tất yếu của thời đại mới. Hiện nay, rất 
nhiều các trường đại học tại Việt Nam đã 
mở rộng hình thức đào tạo trực tuyến bởi 
tính ưu việt của hình thức này. Ngoài việc 
giảm thiểu chi phí, xóa bỏ rào cản về địa 
lý, thời gian cho người học, các chương 
trình đào tạo trực tuyến bậc đại học ở Việt 
Nam hiện nay được chú trọng phát triển 
với nhiều chuyên ngành đa dạng. Có thể 
nêu một số ví dụ như sau:
1) Trung tâm Đào tạo từ xa – Viện 
Đại học mở TP. Hồ Chí Minh được thành 
lập năm 1996 và đã có những bước đi 
tiên phong trong lĩnh vực đào tạo từ xa. 
Trung tâm hiện tại có 40 đơn vị liên kết 
từ Bình Định tới Cà Mau, đồng thời là 
thành viên của nhiều hiệp hội các trường 
đào tạo từ xa trên thế giới, như AAOU; 
ICDE; SEAMOLEC, Trung tâm đã 
đào tạo được hơn 20.000 sinh viên dưới 
hình thức đào tạo từ xa bao gồm 13 ngành 
với 24 chuyên ngành thuộc khối quản lý 
kinh tế; khối kỹ thuật - công nghệ; khối 
ngành xã hội (tính tới năm 2014). Điểm 
vượt trội của chương trình đào tạo từ xa 
chính là mạng lưới liên kết đào tạo rộng 
khắp trong và ngoài nước và đặc biệt là 
Trung tâm không trao quyền cho đối tác 
nào, trừ các tổ chức uy tín thế giới về 
chương trình đào tạo. Vì thế, các chương 
trình đào tạo không những được xây dựng 
với mục đích kế thừa lý thuyết, mà còn 
bám sát thực tiễn Việt Nam. Chính vì lý 
do này, có thể nói, đào tạo trực tuyến tại 
Viện Đại học mở TP. Hồ Chí Minh là nơi 
tiên phong trong lĩnh vực đào tạo từ xa tại 
khu vực miền Trung và miền Nam Việt 
Nam.
(2) Trung tâm Đào tạo từ xa – Trường 
Đại học Kinh tế quốc dân với mô hình đào 
tạo trực tuyến mang tên NEU-EDUTOP, 
là chương trình đào tạo cử nhân kết hợp 
bởi Trường Đại học Kinh tế quốc dân và 
EDUTOP 64. Chương trình cũng được 
Microsoft, Qualcomm, Hewlett Packard, 
USAID, World Bank Infodev và Vietnam 
Foundation phát triển và tài trợ, với nội 
dung học liệu đa dạng, nhằm đào tạo các 
nhóm chuyên ngành lớn liên quan tới 
lĩnh vực Luật kinh tế, Luật kinh doanh, 
tiếng Anh thương mại, Ngân hàng, Quản 
lý kinh tế, Quản trị du lịch, Quản trị kinh 
doanh tổng hợp, Quản trị doanh nghiệp. 
Chương trình đào tạo được thiết kế theo 
mô hình 4H (Học viên – Hình ảnh – Hiệu 
quả - Hoạt động), đồng thời ứng dụng 
đào tạo kết hợp trực tuyến (online) và 
ngoại tuyến (offline), phối hợp bởi các 
giảng viên chuyên môn và giảng viên 
doanh nghiệp uy tín. Việc hỗ trợ người 
học 8-24h trong suốt 7 ngày của tuần học, 
nhằm đảm bảo tính tương hỗ với sinh 
viên tham gia khóa học. Thông thường, 
thời gian học kéo dài 9 tuần thông qua 
việc học lý thuyết trên các học liệu đa 
phương tiện; hỏi đáp trực tuyến; bài tập 
về nhà trực tuyến và kiểm tra tập trung 
cuối chương trình, nhằm đảm bảo chất 
lượng đầu ra và tính khách quan trong 
việc đánh giá chất lượng học tập.
Sự phát triển của đào tạo trực tuyến 
tại Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích cho 
nền giáo dục nước nhà. Đạt được những 
thành tựu này, phải kể đến không ít những 
thuận lợi mà hệ thống này có được. Với 
nguồn gốc ban đầu từ đào tạo từ xa truyền 
thống, cùng với sự tích lũy và học hỏi 
kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển, 
bên cạnh sự hỗ trợ về công nghệ thông 
VẤN ĐỀ HÔM NAY
15Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
tin và sự giúp đỡ từ các đối tác hợp tác 
quốc tế, đào tạo trực tuyến tại Việt Nam 
trong vòng 15 năm trở lại đây đã đạt được 
nhiều kết quả đáng ghi nhận. Ngoài ra, 
tinh thần ham học của người Việt Nam 
cũng như các ưu điểm đáng kể của đào 
tạo trực tuyến là bàn đạp thúc đẩy sự phát 
triển của hình thức đào tạo này. 
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, 
Việt Nam cũng đối mặt với một số thách 
thức khi phát triển E-Learning. Cụ thể 
như sau:
Thách thức về mặt công nghệ của 
E-Learning. 
Cùng với sự phát triển nhanh chóng 
các loại công nghệ như AI, IoT và 
BigData, các hệ thống E-Learning có thể 
bằng cách nào bắt kịp và tận dụng công 
nghệ mới để giải quyết và cải thiện chất 
lượng đào tạo? Một trong những vấn đề 
của E-Learning là sự hạn chế về giao tiếp 
giữa mọi người với nhau. Con người về 
bản chất có những nhu cầu về mặt giao 
tiếp xã hội, nếu không có sự tương tác 
với những người khác thì có thể sẽ là yếu 
tố triệt tiêu động lực đối với người dùng. 
Mọi hoạt động đào tạo với E-Learning 
đều được thực hiện thông qua các loại 
máy tính, gần đây là các thiết bị di động 
khác, đòi hỏi cần có các ứng dụng tăng 
cường sự tương tác, ví dụ như ứng dụng 
hội thảo video hay các ứng dụng giao 
tiếp bằng hình ảnh trực quan. Điều này 
cũng có thể góp phần giảm sự nhàm chán 
mà các lớp học online thường mang lại, 
tăng cường sự gắn kết của học viên với 
lớp học.
Như đã có nhắc đến trước đó, ngày 
nay các chương trình E-Learning có thể 
được cung cấp qua các thiết bị di động 
đang ngày càng phổ biến rộng rãi, như 
điện thoại thông minh hay máy tính 
bảng. Sẽ không chỉ sử dụng máy tính cho 
công tác đào tạo trực tuyến, mà đã tiến 
đến bước sử dụng MobilE-Learning, tức 
là giúp người học tiếp cận dễ dàng hơn. 
Thiết bị mobile sẽ làm giản tiện hơn nữa 
việc học trực tuyến và làm tăng số lượng 
người học lên nữa. Đối với người học, 
MobilELearning nghĩa là sự kết nối và 
linh hoạt được tăng cường tương tự như 
sự kết hợp giữa công việc và học tập. 
Điều này đồng nghĩa với tính linh động 
của E-Learning càng phải được tăng lên, 
người học có thể học mọi lúc, mọi nơi, 
ngay cả trong thời gian di chuyển đến 
nơi làm việc, đơn giản là chỉ cần có một 
chiếc smartphone bên cạnh. Các hệ thống 
E-Learning sẽ đáp ứng nhu cầu này như 
thế nào? Phát triển các ứng dụng điện 
thoại (apps) cho bài giảng hay ứng dụng 
hệ thống trả lời tự động bằng AI cho một 
số câu hỏi thiết kế sẵn nhằm giảm thời 
gian chờ đợi các giảng viên phản hồi, tạo 
sự tương tác liên tục với người học có 
thể sẽ là một giải pháp.
Thách thức về mặt nội dung của 
E-Learning. 
Để nâng cao chất lượng đào tạo, nội 
dung giảng dạy, E-Learning cũng cần 
phải được đầu tư và phát triển với chất 
lượng cao hơn, thực sự trở thành nội dung 
trực tuyến e-content. Có thể nhận thấy 
rằng không phải tất cả các nội dung đào 
tạo đều sử dụng phù hợp trong nền tảng 
E-Learning. Các nội dung trong đào tạo 
E-Learning cần được cập nhật một cách 
nhanh chóng và hiệu quả hơn thông qua 
các hoạt động tương tác như cho phép 
học viên tranh luận chủ động với các 
nội dung bài giảng qua các bài tập thay 
vì chỉ đưa ra thông tin. Theo xu hướng 
phát triển giáo dục, người học sẽ đăng ký 
các khóa học, vì họ thật sự muốn học hỏi 
các kiến thức mới, từ đó nhu cầu gắn việc 
“học” với “hành”, tức lý thuyết với thực 
VẤN ĐỀ HÔM NAY
16Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
tiễn, càng cao hơn. Các bài tập tương tác 
khác nhau sẽ mang lại giá trị cao hơn cho 
người học và có vai trò quan trọng trong 
quá trình đào tạo E-Learning.
Thách thức từ phía người học 
E-Learning. 
Cũng như mọi ứng dụng công nghệ 
khác, sẽ luôn có hai mặt của vấn đề đòi 
hòi người dùng phải biết cách kiểm soát 
nó. Đó không chỉ là việc sử dụng thành 
thạo các loại công nghệ mới, mà còn là 
thay đổi phương thức học tập. E-Learning, 
vốn không phải là phù hợp với tất cả mọi 
người. Nó nhấn mạnh vào việc học tập 
độc lập, chủ động và đòi hỏi phải hoàn 
thành rất nhiều các bài tập, nhiệm vụ và 
hoạt động tương tác khác. Người học với 
một động lực thấp sẽ phải đối mặt với cảm 
giác áp lực và khó có thể hoàn thành khóa 
học một cách hiệu quả. Thêm vào đó, 
nhiều người chưa có nhận thức phù hợp 
về tính hiệu quả của E-Learning, vẫn học 
tập chủ yếu theo các phương pháp truyền 
thống, do đó thiếu hứng thú và tăng nhàm 
chán với các nội dung khóa học. Người 
học chủ động tham gia tích cực vào các 
hoạt động của khóa học là yếu tố quan 
trọng, quyết định sự thành công của đào 
tạo E-Learning. Nó đòi hỏi một mức độ 
rất cao của việc tự tạo động lực học tập, 
nên nhiều người học sẽ cảm thấy khó 
chuyển từ phương pháp học tập truyền 
thống sang mô hình học tập E-Learning.
3. Đề xuất một số giải pháp 
Cách mạng công nghiệp 4.0 trong 
thời gian tới có thể thay đổi cục diện kinh 
tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên 
thế giới. Việt Nam, đương nhiên, không 
là ngoại lệ. Sự thay thế về nhân lực bằng 
robot có thể phá vỡ những quy luật vốn 
có trên thị trường. Chính vì thế, mặc 
dù cuộc cách mạng này có thể mang lại 
nhiều thuận lợi, nhưng thách thức mà các 
quốc gia phải đối mặt cũng không hề nhỏ. 
Trong bối cảnh đó, vai trò của giáo dục 
càng được đề cao hơn bao giờ hết, bởi 
việc đào tạo ra những cán bộ, nhân công 
lành nghề, có kỹ năng và tay nghề cao 
chính là điểm mấu chốt, sống còn trong 
kỷ nguyên số hóa.
Mô hình đào tạo trực tuyến, vì vậy, 
cần có sự chuyển biến tích cực để tránh 
được những cú sốc do không kịp thích 
ứng với sự thay đổi quốc tế, đồng thời 
cung cấp cho xã hội đội ngũ nhân công 
trình độ cao. Một chương trình giáo dục 
lấy đào tạo nhân lực nhằm phát triển kinh 
tế - xã hội làm cốt lõi là điều cần được 
lưu ý.
Trước tiên, việc tăng cường hợp tác 
quốc tế và tiếp thu kinh nghiệm của các 
cơ sở giáo dục trên thế giới là việc cần 
phải làm. Mô hình đào tạo kép của Thụy 
Sỹ, Mỹ, Nhật và các quốc gia phát triển 
khác với tiêu chí “Học đi đôi với hành” là 
mô hình có thể học hỏi và áp dụng (Phạm 
Kim Nam, 2017).
Bên cạnh việc thay đổi học liệu, học 
phần, chất lượng học viên cũng như đội 
ngũ giảng viên, giáo viên cũng là một 
vấn đề quan ngại. Trường Đại học Kinh 
doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT) đào 
tạo trực tuyến có thể mở các lớp học định 
kỳ với chi phí rẻ về phương pháp học tập 
cho sinh viên, học viên; hay các lớp nâng 
cao kỹ năng giảng dạy cho đội ngũ người 
hướng dẫn, nhằm hướng tới sự toàn diện 
cả về chất và lượng.
Thực hiện các chiến dịch marketing 
cho các chương trình E-Learning cũng là 
biện pháp ngắn hạn mà HUBT có thể lưu 
ý. Việc làm này góp phần đưa E-Learning 
đến với tất cả các tầng lớp dân cư tại Việt 
Nam, từ đó khuyến khích tinh thần học 
tập cũng như rút ngắn những rào cản mà 
đào tạo truyền thống mang lại.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
17Tạp chí 
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
Cuối cùng, việc phát triển kết cấu hạ 
tầng phục vụ E-Learning cũng là điều cần 
lưu ý. Dĩ nhiên, việc thực hiện cải cách và 
nâng cấp này không thể diễn ra trong ngắn 
hạn, vì thế, HUBT cần có sự bố trí cụ thể về 
tài chính cũng như sự sắp xếp về thời gian 
để vẫn tiếp tục thực hiện đồng thời việc 
giảng dạy và nâng cấp kết cấu hạ tầng.
Tiến tới, HUBT nên mở đào tạo trực 
tuyến, cấp bằng cho các ngành Tài chính - 
Ngân hàng, Kế toán - Kiểm toán, Quản trị 
kinh doanh và một số ngành kinh tế, quản 
lý có đủ điều kiện.
Tóm lại, học tập và đào tạo trực tuyến 
là giải pháp mở giúp gia tăng hiệu quả 
của đào tạo truyền thống. Rất nhiều các 
học viên, sinh viên sau khi tham gia các 
chương trình đào tạo trực tuyến tại Việt 
Nam đều cảm thấy hài lòng. Điều này 
chính là minh chứng cho việc phát triển 
đào tạo trực tuyến tại Việt Nam, cũng như 
đặt ra các thách thức cho những nhà phát 
triển giáo dục nhằm xác định chiến lược 
để quản trị và phát triển hình thức đào tạo 
mới mẻ này, giúp người học có những trải 
nghiệm thú vị và hữu ích./.
Tài liệu tham khảo
1. Ding, A. & Wang, D. (2011). Factors Influencing Learner Attitudes Toward 
E-Learning and Development of E-Learning Environment Based on the Integrated 
E-Learning Platform. International Journal of e-Education, e-Business, e-Management, 
and e-Learning, Vol 1, No. 3, trang 264-268.
2. Phạm Kim Nam (2017). Cách mạng Công nghệ 4.0 và cơ hội của Việt Nam. 
720170205001902011.htm.
 3. Liaw S.S, Huang H.M., and Chen, G.D. (2005). Surveying Instructor and 
Learner Attitudes Toward E-Learning. Computers&Education, Vol. 49, tr.1066-1080.
4. Thủy Nguyên (2009). Đại học Thái Nguyên triển khai E-Learning: Đích còn 
xa, https://www.baomoi.com/dai-hoc-thai-nguyentrien-khai-E-Learning-dich-con-xa/c/ 
161272.epi. 
5. Wearesocial & Hootsuite (2017). Digital in Vietnam. Tr. 165-187, https:// drive.
google.com/file/d/0ByhiT775qScPd1hMYklpNTVJQjA/view.
Ngày nhận bài: 29/03/2020
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
dao_tao_truc_tuyen_xu_huong_nhiem_vu_va_thach_thuc_doi_voi_t.pdf