Cuối cùng, việc phát triển kết cấu hạ
tầng phục vụ E-Learning cũng là điều cần
lưu ý. Dĩ nhiên, việc thực hiện cải cách và
nâng cấp này không thể diễn ra trong ngắn
hạn, vì thế, HUBT cần có sự bố trí cụ thể về
tài chính cũng như sự sắp xếp về thời gian
để vẫn tiếp tục thực hiện đồng thời việc
giảng dạy và nâng cấp kết cấu hạ tầng.
Tiến tới, HUBT nên mở đào tạo trực
tuyến, cấp bằng cho các ngành Tài chính -
Ngân hàng, Kế toán - Kiểm toán, Quản trị
kinh doanh và một số ngành kinh tế, quản
lý có đủ điều kiện.
Tóm lại, học tập và đào tạo trực tuyến
là giải pháp mở giúp gia tăng hiệu quả
của đào tạo truyền thống. Rất nhiều các
học viên, sinh viên sau khi tham gia các
chương trình đào tạo trực tuyến tại Việt
Nam đều cảm thấy hài lòng. Điều này
chính là minh chứng cho việc phát triển
đào tạo trực tuyến tại Việt Nam, cũng như
đặt ra các thách thức cho những nhà phát
triển giáo dục nhằm xác định chiến lược
để quản trị và phát triển hình thức đào tạo
mới mẻ này, giúp người học có những trải
nghiệm thú vị và hữu ích./.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đào tạo trực tuyến - xu hướng, nhiệm vụ và thách thức đối với trường Đại học Kinh doanh và công nghệ Hà Nội, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
VẤN ĐỀ HÔM NAY
12Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
1. Tổng quan về đào tạo trực tuyến
E-Learning, còn được biết đến với
tên gọi như onlinE-Learning, hay đào tạo
trực tuyến, được hiểu là quá trình sử dụng
công nghệ thông tin (CNTT) và hệ thống
mạng để cung cấp dịch vụ giáo dục đào
tạo. Với sự phát triển của khoa học - công
nghệ, cùng việc gia tăng nhanh chóng tốc
độ kết nối cũng như cơ sở vật chất thiết
lập hệ thống Internet, học tập trong thời
đại hiện nay không chỉ theo phương thức
truyền đạt kiến thức truyền thống, mà còn
được phát triển dưới nhiều hình thức đào
tạo từ xa, thông qua ứng dụng CNTT. Việc
học tập trực tuyến cho phép và khuyến
khích người học tham gia các khóa học
tại bất cứ nơi nào, lúc nào, độ tuổi nào,
tạo môi trường để người học có thể mở
rộng kiến thức và hiểu biết của mình.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới nói
chung và Việt Nam nói riêng, trong thời
gian gần đây, các trang cá nhân thông qua
các mạng xã hội nổi tiếng, như Facebook,
Twitter, QQ, WhatApp, đã trở thành địa
chỉ quen thuộc của người dân, để tìm hiểu,
chia sẻ và ứng dụng công nghệ. Kết hợp
ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN - XU HƯỚNG,
NHIỆM VỤ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI
Tóm tắt: Với nhu cầu bắt kịp xu hướng phát triển giáo dục thế giới cũng như bối
cảnh toàn cầu hóa sâu rộng hiện nay, hình thức đào tạo trực tuyến được nhiều cơ sở
giáo dục tại Việt Nam hướng tới. Đào tạo trực tuyến giúp người học khắc phục rào
cản nhất định về không gian, thời gian, giảm thiểu phần nào những chi phí phát sinh.
Trong thời kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0, nhu cầu học và dạy trực tuyến ngày một
gia tăng, vì thế, sự phát triển hình thức đào tạo này là biện pháp bức thiết đặt ra cho
các cơ sở giáo dục Việt Nam, đặc biệt là những cơ sở đào tạo đại học.
Từ khóa: Trực tuyến, online, E-Learning, công nghệ thông tin, mạng, internet.
Abstract: With the need to catch up with the trend of developing world education
as well as the current context of extensive globalization, online training has been
applied by many educational institutions in Vietnam. Online training helps learners
overcome certain barriers in space and time, minimizing the costs incurred. During
the Industrial Revolution 4.0 period, the demand for online learning and education
increased, so the development of this form of training was an indispensable measure
for Vietnamese educational institutions, especially higher education institutions.
Keywords: Online, E-Learning, Information Technology, network, Internet.
Hà Thị Thu Phương *,
Thái Vân Hà **
*, ** Viện Đào tạo sau đại học,
Trường ĐH KD&CN Hà Nội.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
13Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
các yếu tố nói trên, E-Learning xuất hiện
như một nhu cầu tất yếu để xây dựng hệ
thống giáo dục hiệu quả, chất lượng hơn.
Mặc dù ở các quốc gia, hay ở các cơ
sở đào tạo riêng biệt có thể có phương
thức bố trí học tập khác nhau, nhưng thông
thường, một mô hình đào tạo trực tuyến cơ
bản chỉ bao gồm những yếu tố sau:
(1) Hệ thống cổng thông tin/trang
chủ: bao gồm các đường dẫn giúp người
học có thể tùy chọn các thông tin, thư
mục, cập nhật dữ liệu mới hay tra cứu
thông thường.
(2) Hệ thống lớp học ảo, bao gồm
các học liệu đã được xây dựng thông
qua những bài giảng, giảng viên với các
video; các tập tin dưới dạng văn bản (.doc;
.docx) hay các tập tin dạng slide thuyết
trình (.ppt; .pptx), các tập tin âm thanh
(.mp3) giúp người học luôn luôn có thể
chọn lựa một phương thức học tập phù
hợp, dù ở bất cứ đâu, với điều kiện được
kết nối qua mạng Internet.
(3) Hệ thống quản lý học tập và giảng
dạy: bao gồm việc quản lý chương trình
đào tạo, quản lý học viên, hỗ trợ và quản
lý công tác giảng dạy, hỗ trợ trả lời những
thắc mắc liên quan đến người học và
người hướng dẫn.
(4) Hệ thống quản lý “tài nguyên”,
bao gồm việc quản lý học liệu bằng cách
hỗ trợ và cho phép giảng viên thu thập tài
liệu, phát hành tài liệu giảng dạy. Tại một
số quốc gia trên thế giới, hệ thống cho
phép tích hợp với thư viện số bao gồm
kho tài nguyên học thuật số hóa rộng lớn,
các tạp chí chuyên ngành thuộc hệ thống
Scopus hay ISI,
Thực tế cho thấy, bên cạnh thuận lợi
mà E-Learning mang tới cho người tham
gia, việc học tập trực tuyến cũng tiềm
ẩn một số bất cập. Vì thế, những câu hỏi
luôn được đặt ra cho các cơ sở cung cấp
phương thức đào tạo này chính là chỉ tiêu
nào sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới việc
đánh giá đào tạo trực tuyến; biện pháp và
phương thức nào có thể được sử dụng để
thu hút được người học hoặc người học
có thể áp dụng phương thức nào để học
tập hiệu quả với E-Learning.
Liaw (2005) đã nhấn mạnh vai trò
của các mục tiêu giảng dạy trong đào tạo
trực tuyến, gợi ý một số ý tưởng, như đưa
ra phương thức học tập độc lập cho người
học, trong đó việc bám sát theo hướng dẫn
của chương trình học tập và luôn tạo ra
môi trường học tập đa phương tiện, chính
là những biện pháp giúp nâng cao chất
lượng của loại hình đào tạo này. Nghiên
cứu của một số học giả trên thế giới đã
chỉ ra rằng, sự lo lắng do thiếu hiểu biết
về máy tính của người học, thái độ của
người hướng dẫn trong suốt quá trình
học, sự linh hoạt của khóa học và những
phương pháp đánh giá đa dạng cũng được
coi là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng
đến sự hài lòng của người học (Sun et al.,
2006; Ding, 2011).
2. Thực trạng đào tạo trực tuyến
Theo một báo cáo tổng hợp bởi
Wearesocial.net, số lượng người sử dụng
Internet tại Việt Nam tháng 1/2019 là
54,05 triệu người, tương đương khoảng
53% dân số. Thống kê này tăng lên 28%
so với năm 2018. Trong số những người
sử dụng Internet, thời gian sử dụng máy
tính cá nhân hoặc máy tính để bàn lên
tới 6 giờ 53 phút trong một ngày. Đây là
những con số tính theo tháng, tức là, nếu
như người dùng đăng nhập một lần trong
tháng đủ để tính là đang hoạt động.
Thống kê này cho thấy, công nghệ
số đóng một vai trò vô cùng quan trọng
trong đời sống hiện đại. Với sự phát triển
vũ bão của kỷ nguyên số hóa, bên cạnh
những thuận lợi mà nó mang lại, những
VẤN ĐỀ HÔM NAY
14Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
thách thức đặt ra cho giáo dục trực tuyến
sẽ càng trở nên lớn hơn.
Vào ngày 10/9/2015, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 1559/QĐ-
TTg phê duyệt Đề án “Phát triển đào tạo từ
xa giai đoạn 2015-2020”. Có thể nói, đào
tạo từ xa ở Việt Nam đã trở thành một nhu
cầu tất yếu của thời đại mới. Hiện nay, rất
nhiều các trường đại học tại Việt Nam đã
mở rộng hình thức đào tạo trực tuyến bởi
tính ưu việt của hình thức này. Ngoài việc
giảm thiểu chi phí, xóa bỏ rào cản về địa
lý, thời gian cho người học, các chương
trình đào tạo trực tuyến bậc đại học ở Việt
Nam hiện nay được chú trọng phát triển
với nhiều chuyên ngành đa dạng. Có thể
nêu một số ví dụ như sau:
1) Trung tâm Đào tạo từ xa – Viện
Đại học mở TP. Hồ Chí Minh được thành
lập năm 1996 và đã có những bước đi
tiên phong trong lĩnh vực đào tạo từ xa.
Trung tâm hiện tại có 40 đơn vị liên kết
từ Bình Định tới Cà Mau, đồng thời là
thành viên của nhiều hiệp hội các trường
đào tạo từ xa trên thế giới, như AAOU;
ICDE; SEAMOLEC, Trung tâm đã
đào tạo được hơn 20.000 sinh viên dưới
hình thức đào tạo từ xa bao gồm 13 ngành
với 24 chuyên ngành thuộc khối quản lý
kinh tế; khối kỹ thuật - công nghệ; khối
ngành xã hội (tính tới năm 2014). Điểm
vượt trội của chương trình đào tạo từ xa
chính là mạng lưới liên kết đào tạo rộng
khắp trong và ngoài nước và đặc biệt là
Trung tâm không trao quyền cho đối tác
nào, trừ các tổ chức uy tín thế giới về
chương trình đào tạo. Vì thế, các chương
trình đào tạo không những được xây dựng
với mục đích kế thừa lý thuyết, mà còn
bám sát thực tiễn Việt Nam. Chính vì lý
do này, có thể nói, đào tạo trực tuyến tại
Viện Đại học mở TP. Hồ Chí Minh là nơi
tiên phong trong lĩnh vực đào tạo từ xa tại
khu vực miền Trung và miền Nam Việt
Nam.
(2) Trung tâm Đào tạo từ xa – Trường
Đại học Kinh tế quốc dân với mô hình đào
tạo trực tuyến mang tên NEU-EDUTOP,
là chương trình đào tạo cử nhân kết hợp
bởi Trường Đại học Kinh tế quốc dân và
EDUTOP 64. Chương trình cũng được
Microsoft, Qualcomm, Hewlett Packard,
USAID, World Bank Infodev và Vietnam
Foundation phát triển và tài trợ, với nội
dung học liệu đa dạng, nhằm đào tạo các
nhóm chuyên ngành lớn liên quan tới
lĩnh vực Luật kinh tế, Luật kinh doanh,
tiếng Anh thương mại, Ngân hàng, Quản
lý kinh tế, Quản trị du lịch, Quản trị kinh
doanh tổng hợp, Quản trị doanh nghiệp.
Chương trình đào tạo được thiết kế theo
mô hình 4H (Học viên – Hình ảnh – Hiệu
quả - Hoạt động), đồng thời ứng dụng
đào tạo kết hợp trực tuyến (online) và
ngoại tuyến (offline), phối hợp bởi các
giảng viên chuyên môn và giảng viên
doanh nghiệp uy tín. Việc hỗ trợ người
học 8-24h trong suốt 7 ngày của tuần học,
nhằm đảm bảo tính tương hỗ với sinh
viên tham gia khóa học. Thông thường,
thời gian học kéo dài 9 tuần thông qua
việc học lý thuyết trên các học liệu đa
phương tiện; hỏi đáp trực tuyến; bài tập
về nhà trực tuyến và kiểm tra tập trung
cuối chương trình, nhằm đảm bảo chất
lượng đầu ra và tính khách quan trong
việc đánh giá chất lượng học tập.
Sự phát triển của đào tạo trực tuyến
tại Việt Nam đã mang lại nhiều lợi ích cho
nền giáo dục nước nhà. Đạt được những
thành tựu này, phải kể đến không ít những
thuận lợi mà hệ thống này có được. Với
nguồn gốc ban đầu từ đào tạo từ xa truyền
thống, cùng với sự tích lũy và học hỏi
kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển,
bên cạnh sự hỗ trợ về công nghệ thông
VẤN ĐỀ HÔM NAY
15Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
tin và sự giúp đỡ từ các đối tác hợp tác
quốc tế, đào tạo trực tuyến tại Việt Nam
trong vòng 15 năm trở lại đây đã đạt được
nhiều kết quả đáng ghi nhận. Ngoài ra,
tinh thần ham học của người Việt Nam
cũng như các ưu điểm đáng kể của đào
tạo trực tuyến là bàn đạp thúc đẩy sự phát
triển của hình thức đào tạo này.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi,
Việt Nam cũng đối mặt với một số thách
thức khi phát triển E-Learning. Cụ thể
như sau:
Thách thức về mặt công nghệ của
E-Learning.
Cùng với sự phát triển nhanh chóng
các loại công nghệ như AI, IoT và
BigData, các hệ thống E-Learning có thể
bằng cách nào bắt kịp và tận dụng công
nghệ mới để giải quyết và cải thiện chất
lượng đào tạo? Một trong những vấn đề
của E-Learning là sự hạn chế về giao tiếp
giữa mọi người với nhau. Con người về
bản chất có những nhu cầu về mặt giao
tiếp xã hội, nếu không có sự tương tác
với những người khác thì có thể sẽ là yếu
tố triệt tiêu động lực đối với người dùng.
Mọi hoạt động đào tạo với E-Learning
đều được thực hiện thông qua các loại
máy tính, gần đây là các thiết bị di động
khác, đòi hỏi cần có các ứng dụng tăng
cường sự tương tác, ví dụ như ứng dụng
hội thảo video hay các ứng dụng giao
tiếp bằng hình ảnh trực quan. Điều này
cũng có thể góp phần giảm sự nhàm chán
mà các lớp học online thường mang lại,
tăng cường sự gắn kết của học viên với
lớp học.
Như đã có nhắc đến trước đó, ngày
nay các chương trình E-Learning có thể
được cung cấp qua các thiết bị di động
đang ngày càng phổ biến rộng rãi, như
điện thoại thông minh hay máy tính
bảng. Sẽ không chỉ sử dụng máy tính cho
công tác đào tạo trực tuyến, mà đã tiến
đến bước sử dụng MobilE-Learning, tức
là giúp người học tiếp cận dễ dàng hơn.
Thiết bị mobile sẽ làm giản tiện hơn nữa
việc học trực tuyến và làm tăng số lượng
người học lên nữa. Đối với người học,
MobilELearning nghĩa là sự kết nối và
linh hoạt được tăng cường tương tự như
sự kết hợp giữa công việc và học tập.
Điều này đồng nghĩa với tính linh động
của E-Learning càng phải được tăng lên,
người học có thể học mọi lúc, mọi nơi,
ngay cả trong thời gian di chuyển đến
nơi làm việc, đơn giản là chỉ cần có một
chiếc smartphone bên cạnh. Các hệ thống
E-Learning sẽ đáp ứng nhu cầu này như
thế nào? Phát triển các ứng dụng điện
thoại (apps) cho bài giảng hay ứng dụng
hệ thống trả lời tự động bằng AI cho một
số câu hỏi thiết kế sẵn nhằm giảm thời
gian chờ đợi các giảng viên phản hồi, tạo
sự tương tác liên tục với người học có
thể sẽ là một giải pháp.
Thách thức về mặt nội dung của
E-Learning.
Để nâng cao chất lượng đào tạo, nội
dung giảng dạy, E-Learning cũng cần
phải được đầu tư và phát triển với chất
lượng cao hơn, thực sự trở thành nội dung
trực tuyến e-content. Có thể nhận thấy
rằng không phải tất cả các nội dung đào
tạo đều sử dụng phù hợp trong nền tảng
E-Learning. Các nội dung trong đào tạo
E-Learning cần được cập nhật một cách
nhanh chóng và hiệu quả hơn thông qua
các hoạt động tương tác như cho phép
học viên tranh luận chủ động với các
nội dung bài giảng qua các bài tập thay
vì chỉ đưa ra thông tin. Theo xu hướng
phát triển giáo dục, người học sẽ đăng ký
các khóa học, vì họ thật sự muốn học hỏi
các kiến thức mới, từ đó nhu cầu gắn việc
“học” với “hành”, tức lý thuyết với thực
VẤN ĐỀ HÔM NAY
16Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
tiễn, càng cao hơn. Các bài tập tương tác
khác nhau sẽ mang lại giá trị cao hơn cho
người học và có vai trò quan trọng trong
quá trình đào tạo E-Learning.
Thách thức từ phía người học
E-Learning.
Cũng như mọi ứng dụng công nghệ
khác, sẽ luôn có hai mặt của vấn đề đòi
hòi người dùng phải biết cách kiểm soát
nó. Đó không chỉ là việc sử dụng thành
thạo các loại công nghệ mới, mà còn là
thay đổi phương thức học tập. E-Learning,
vốn không phải là phù hợp với tất cả mọi
người. Nó nhấn mạnh vào việc học tập
độc lập, chủ động và đòi hỏi phải hoàn
thành rất nhiều các bài tập, nhiệm vụ và
hoạt động tương tác khác. Người học với
một động lực thấp sẽ phải đối mặt với cảm
giác áp lực và khó có thể hoàn thành khóa
học một cách hiệu quả. Thêm vào đó,
nhiều người chưa có nhận thức phù hợp
về tính hiệu quả của E-Learning, vẫn học
tập chủ yếu theo các phương pháp truyền
thống, do đó thiếu hứng thú và tăng nhàm
chán với các nội dung khóa học. Người
học chủ động tham gia tích cực vào các
hoạt động của khóa học là yếu tố quan
trọng, quyết định sự thành công của đào
tạo E-Learning. Nó đòi hỏi một mức độ
rất cao của việc tự tạo động lực học tập,
nên nhiều người học sẽ cảm thấy khó
chuyển từ phương pháp học tập truyền
thống sang mô hình học tập E-Learning.
3. Đề xuất một số giải pháp
Cách mạng công nghiệp 4.0 trong
thời gian tới có thể thay đổi cục diện kinh
tế - xã hội của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Việt Nam, đương nhiên, không
là ngoại lệ. Sự thay thế về nhân lực bằng
robot có thể phá vỡ những quy luật vốn
có trên thị trường. Chính vì thế, mặc
dù cuộc cách mạng này có thể mang lại
nhiều thuận lợi, nhưng thách thức mà các
quốc gia phải đối mặt cũng không hề nhỏ.
Trong bối cảnh đó, vai trò của giáo dục
càng được đề cao hơn bao giờ hết, bởi
việc đào tạo ra những cán bộ, nhân công
lành nghề, có kỹ năng và tay nghề cao
chính là điểm mấu chốt, sống còn trong
kỷ nguyên số hóa.
Mô hình đào tạo trực tuyến, vì vậy,
cần có sự chuyển biến tích cực để tránh
được những cú sốc do không kịp thích
ứng với sự thay đổi quốc tế, đồng thời
cung cấp cho xã hội đội ngũ nhân công
trình độ cao. Một chương trình giáo dục
lấy đào tạo nhân lực nhằm phát triển kinh
tế - xã hội làm cốt lõi là điều cần được
lưu ý.
Trước tiên, việc tăng cường hợp tác
quốc tế và tiếp thu kinh nghiệm của các
cơ sở giáo dục trên thế giới là việc cần
phải làm. Mô hình đào tạo kép của Thụy
Sỹ, Mỹ, Nhật và các quốc gia phát triển
khác với tiêu chí “Học đi đôi với hành” là
mô hình có thể học hỏi và áp dụng (Phạm
Kim Nam, 2017).
Bên cạnh việc thay đổi học liệu, học
phần, chất lượng học viên cũng như đội
ngũ giảng viên, giáo viên cũng là một
vấn đề quan ngại. Trường Đại học Kinh
doanh và Công nghệ Hà Nội (HUBT) đào
tạo trực tuyến có thể mở các lớp học định
kỳ với chi phí rẻ về phương pháp học tập
cho sinh viên, học viên; hay các lớp nâng
cao kỹ năng giảng dạy cho đội ngũ người
hướng dẫn, nhằm hướng tới sự toàn diện
cả về chất và lượng.
Thực hiện các chiến dịch marketing
cho các chương trình E-Learning cũng là
biện pháp ngắn hạn mà HUBT có thể lưu
ý. Việc làm này góp phần đưa E-Learning
đến với tất cả các tầng lớp dân cư tại Việt
Nam, từ đó khuyến khích tinh thần học
tập cũng như rút ngắn những rào cản mà
đào tạo truyền thống mang lại.
VẤN ĐỀ HÔM NAY
17Tạp chí
Kinh doanh và Công nghệ
Số 08/2020
Cuối cùng, việc phát triển kết cấu hạ
tầng phục vụ E-Learning cũng là điều cần
lưu ý. Dĩ nhiên, việc thực hiện cải cách và
nâng cấp này không thể diễn ra trong ngắn
hạn, vì thế, HUBT cần có sự bố trí cụ thể về
tài chính cũng như sự sắp xếp về thời gian
để vẫn tiếp tục thực hiện đồng thời việc
giảng dạy và nâng cấp kết cấu hạ tầng.
Tiến tới, HUBT nên mở đào tạo trực
tuyến, cấp bằng cho các ngành Tài chính -
Ngân hàng, Kế toán - Kiểm toán, Quản trị
kinh doanh và một số ngành kinh tế, quản
lý có đủ điều kiện.
Tóm lại, học tập và đào tạo trực tuyến
là giải pháp mở giúp gia tăng hiệu quả
của đào tạo truyền thống. Rất nhiều các
học viên, sinh viên sau khi tham gia các
chương trình đào tạo trực tuyến tại Việt
Nam đều cảm thấy hài lòng. Điều này
chính là minh chứng cho việc phát triển
đào tạo trực tuyến tại Việt Nam, cũng như
đặt ra các thách thức cho những nhà phát
triển giáo dục nhằm xác định chiến lược
để quản trị và phát triển hình thức đào tạo
mới mẻ này, giúp người học có những trải
nghiệm thú vị và hữu ích./.
Tài liệu tham khảo
1. Ding, A. & Wang, D. (2011). Factors Influencing Learner Attitudes Toward
E-Learning and Development of E-Learning Environment Based on the Integrated
E-Learning Platform. International Journal of e-Education, e-Business, e-Management,
and e-Learning, Vol 1, No. 3, trang 264-268.
2. Phạm Kim Nam (2017). Cách mạng Công nghệ 4.0 và cơ hội của Việt Nam.
720170205001902011.htm.
3. Liaw S.S, Huang H.M., and Chen, G.D. (2005). Surveying Instructor and
Learner Attitudes Toward E-Learning. Computers&Education, Vol. 49, tr.1066-1080.
4. Thủy Nguyên (2009). Đại học Thái Nguyên triển khai E-Learning: Đích còn
xa, https://www.baomoi.com/dai-hoc-thai-nguyentrien-khai-E-Learning-dich-con-xa/c/
161272.epi.
5. Wearesocial & Hootsuite (2017). Digital in Vietnam. Tr. 165-187, https:// drive.
google.com/file/d/0ByhiT775qScPd1hMYklpNTVJQjA/view.
Ngày nhận bài: 29/03/2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dao_tao_truc_tuyen_xu_huong_nhiem_vu_va_thach_thuc_doi_voi_t.pdf