- Đất đỏ basalt có hàm lƣợng nổi trội của các
oxit: Al2O3 (17,50-31,16%), SiO2 (17,60- 47,84%)
và hàm lƣợng keo khá cao (35 đến 74%). Kết quả
phân tích này thể hiện một phần các ôxit nhôm và
silic tồn tại ở dạng keo tự do [18]. Theo Kiều Quý
Nam (2002, 2006) [15, 18], chính các keo tự do
này tạo nên độ hoạt tính cho đất đỏ basalt.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN: 3735-1982)
về phân loại puzơlan, đất đỏ basalt với độ hút vôi
đạt từ 95 đến 145mgCaO g.pg đƣợc xếp vào loại
nguyên liệu puzơlan có hoạt tính trung bình mạnh
đến mạnh. Nhƣng do đất đỏ basalt có thành phần
khoáng vật chủ yếu là các khoáng sét gipxit,
kaolinit, gơtit, nên mặc dù có độ hoạt tính cao,
nhƣng đất đỏ không đáp ứng đƣợc yêu cầu sử dụng
làm phụ gia cho xi măng. Mặt khác đất đỏ có thể
sử dụng sản xuất gạch xây dựng không nung thân
thiện với môi trƣờng.
Với hai phƣơng thức tạo kết dính gắn kết khác
nhau, những thử nghiệm sản xuất gạch không nung
từ đất đỏ basalt có đặc tính cơ lý đáp ứng đƣợc yêu
cầu kỹ thuật đối với gạch xây dựng không nung
theo tiêu chuẩn TCVN: 2118-1994.
- Với phƣơng thức sản xuất gạch không nung
theo kiểu đất đỏ + vôi, khi lƣợng phụ gia sử dụng
thấp (5% trọng lƣợng), sản phẩm thu đƣợc là gạch
không tan rữa trong nƣớc, nhƣng những đặc tính
cơ lý nhƣ cƣờng độ thấp (75kG cm2), độ hút nƣớc
tƣơng đối cao (15,3g/cm3). Khi tăng hàm lƣợng
chất kết dính bằng cách tăng lƣợng vôi lên 10%,
cƣờng độ kháng nén của sản phẩm tăng lên, độ hút
nƣớc giảm, nhƣng khối lƣợng thể tích tăng lên. Do
vậy, tỷ lệ phối trộn tối ƣu là: đất đỏ (93%) + vôi
(7%), cƣờng độ sản phẩm đạt (>100kG.cm2), độ
hút nƣớc và khối lƣợng thể tích đều đạt yêu cầu đối
với gạch xây dựng theo tiêu chuẩn TCVN: 2118-
1994.
- Khác với phƣơng thức tạo gắn kết kiểu đất đỏ
+ vôi, nơi vật liệu đất đƣợc cố kết bởi phản ứng
của các ôxít tự do với vôi tạo thành chất kết dính
dạng CSH, CAH hoặc CASH,. Với phƣơng pháp
polymer nhiệt độ thấp (LTGS) sự cố kết đối với vật
liệu đất dựa vào nguyên tắc khác hoàn toàn. Đó là
phối trộn vào đất đỏ chất kiềm (NaOH hoặc KOH)
và dung dịch silicat tiền geopolymer tạo cho các
ôxít nhôm, ôxit silic dạng keo và khoáng gipxit,
kaolinit trong đất có khả năng phản ứng giữa chúng
với nhau tạo thành chuỗi polysialat, poly (sialatsiloxo) ở nhiệt độ phòng thí nghiệm, có khả năng
đông cứng lại, ổn định, không tan rữa trong nƣớc
và có khả năng chống chịu cơ học khỏe.
So sánh với sản phẩm gạch không nung kiểu
đât đỏ + vôi có cƣờng độ tƣơng đƣơng (95kG/cm2)
thì gạch geopolymer có ƣu điểm khối lƣợng thể
tích thấp hơn (1,33g/cm3), so với gạch kiểu đất đỏ
+ vôi là 1,58g/cm3. Đặc tính này có đƣợc do vật
liệu gạch geopolymer tạo thành bởi các polysialat,
poly(sialat-siloxo) có cấu trúc khoáng vật tƣơng
đồng nhƣ zeolit [6, 8], cấu trúc ba chiều giống nhƣ
quả cầu mây gắn sít với nhau nên có độ xốp rỗng
nhất định (hình 8) và đặc trƣng này cũng tạo cho
gạch geopolymer có đặc tính khí hậu sinh học tuyệt
vời, đó là có khả năng hấp phụ hơi ẩm nhanh và
giải hấp phụ từ từ giúp điều hòa không khí rất tốt
cho những ngôi nhà sử dụng vật liệu này [7].
7 trang |
Chia sẻ: honghp95 | Lượt xem: 611 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đất đỏ basalt - Nguồn nguyên liệu cho sản xuất gạch không nung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
214
36(3), 214-220 Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT 9-2014
ĐẤT ĐỎ BASALT - NGUỒN NGUYÊN LIỆU
CHO SẢN XUẤT GẠCH KHÔNG NUNG
NGUYỄN ÁNH DƢƠNG, KIỀU QUÝ NAM, TRẦN TUẤN ANH
Email: anhduongvdc@yahoo.com
Viện Địa chất, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Ngày nhận bài: 5 - 4 - 2013
1. Mở đầu
Trên thế giới, nghiên cứu ứng dụng, sử dụng
các loại đất sét để sản xuất vật liệu xây dựng không
nung đã đƣợc chú ý đến từ lâu và đƣợc nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu [1, 2, 6, 8, 10].
Cũng nhƣ nhiều quốc gia khác trên thế giới, sản
xuất vật liệu xây dựng không nung từ nguyên liệu
địa phƣơng đã đƣợc nhân dân ta tiến hành từ lâu
đời dƣới các hình thức nhƣ trình tƣờng (Bắc Ninh,
Bắc Giang), hay xây nhà từ đá ong (Phúc Yên, Phú
Thọ), gạch cay của các lò vôi ( Hà Nam) hoặc xây
nhà từ đá silic (Thủy Nguyên - Hải Phòng ) và gần
đây tại Đông Triều, Uông Bí nhân dân đã tận dụng
tro bay của nhà máy nhiệt điện để làm đƣờng xá và
xây dựng nhà cửa; thời gian đã minh chứng cho
tính bền vững của các loại nguyên liệu này.
Từ những năm 1980, trƣờng Đại học Xây dựng
Hà Nội, trƣờng Đại học Bách khoa, Viện Khoa học
Kỹ thuật Xây dựng đã đi đầu trong việc tuyên
truyền phổ biến kỹ thuật sản xuất vật liệu xây dựng
không nung [3], đã sản xuất hoặc nhập khẩu nhiều
loại máy công nghệ chuyên dụng nhƣ Xinvaram,
Dynaterre, nhƣng do chƣa có những công trình
nghiên cứu đánh giá tiềm năng về các nguồn
nguyên liệu ở tại những khu vực đặc thù, nên việc
sản xuất vật liệu xây dựng không nung từ các
nguồn nguyên liệu địa phƣơng đã sớm bị gián đoạn
hoặc chỉ phát triển một cách tự phát xuất phát từ
kinh nghiệm và nhu cầu của ngƣời dân dựa vào
nguồn nguyên liệu đã biết nhƣng chƣa đầy đủ của
địa phƣơng.
Từ cuối những năm 1990 đến nay, lĩnh vực
nghiên cứu này đƣợc các nhà khoa học Viện Địa
chất đề cập một cách toàn diện hơn về nguồn
nguyên liệu puzơlan, cũng nhƣ đề xuất các quy
trình công nghệ sản xuất gạch không nung từ
nguồn nguyên liệu puzơlan đó [9, 13].
Tuy nhiên, việc nghiên cứu sử dụng đất đỏ
basalt (sản phẩm phong hóa triệt để của đá basalt
thuộc đới laterit) trong sản xuất vật liệu xây dựng ở
Việt Nam còn rất hạn chế, trong khi đó đất đỏ
basalt ở Việt Nam phân bố khá rộng rãi ở khu vực
miền Trung, Tây Nguyên và một số khu vực khác
nhƣ Lạng Sơn, Bình Phƣớc, phủ trên diện tích
vài chục nghìn km2 với bề dày dao động từ vài mét
đến 10-20m (hình 1, 2).
Hình 1. Khảo sát đất đỏ basalt khu vực Pleiku
215
Hình 2. Sơ đồ mặt cắt vỏ phong hóa trên đá basalt
Đất đỏ basalt là kết quả của sự phong hoá phá
vỡ khoáng vật silicat, alumosilicat của đá basalt tạo
thành đất bở mềm với thành phần chủ yếu là
khoáng vật sét nhƣ kaolinit, gipxit, gơtit.
Ngƣợc lại, có thể dựa vào động lực các phản
ứng hoá học để biến các thành tạo tự nhiên nhƣ đất
đỏ basalt thành “đá”, nói cách khác làm đảo ngƣợc
tiến trình đã tạo ra đá trong tự nhiên bằng cách tạo
nên môi trƣờng kiềm để thực hiện quá trình hydrat
hoá hoặc polymer hoá các nguyên liệu khoáng
dạng bở rời ở nhiệt độ, áp suất thấp tạo ra một
nhóm những sản phẩm có những đặc điểm cơ lý
của đá, tức là không nhạy cảm với nƣớc, chống
chịu nhiệt, cứng rắn,... Một trong những sản phẩm
đó là gạch không nung thân thiện môi trƣờng sản
xuất từ đất đỏ basalt gắn kết bằng vôi hoặc gạch
geopolymer nhiệt độ thấp.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu
Mẫu đất đỏ đƣợc thu thập là sản phẩm phong
hóa triệt để của các thành tạo basalt tại: xã Hoàng
Đồng - Lạng Sơn (LS), dốc Lụi - huyện Nghĩa Đàn
- tỉnh Nghệ An (NA), Pleiku - tỉnh Gia Lai (PK) và
Tân Rai - Bảo Lộc - tỉnh Lâm Đồng (TR).
2.2. Thành phần vật chất và đặc tính kỹ thuật của
đất đỏ basalt
Kết quả phân tích nhiễu xạ rơnghen (XRD) cho
thấy đất đỏ basalt có thành phần khoáng vật chủ
yếu là gipxit (45-50%), gơtit (13-20%), kaolinit
(15-17%), ít hydromica, hematit, (hình 3).
Hình 3. Giản đồ phân tích XRD mẫu đất đỏ basalt Tân Rai - Lâm Đồng
- Kết quả phân tích XRF của đất đỏ basalt có
các ôxit chiếm ƣu thế là ôxit nhôm, sắt và sillic
(bảng 1).
Bằng phƣơng pháp hóa phân tích xác
định đƣợc:
- Hàm lƣợng keo của đất đỏ basalt khá cao (35-
74%).
- Độ hút vôi của đất đỏ basalt dao động trong
khoảng 95-145mgCaO/g.pg, thuộc loại có hoạt tính
trung bình mạnh đến rất mạnh.
216
Bảng 1. Thành phần hóa học và đặc tính kỹ thuật của đất đỏ basalt
Ký hiệu mẫu
Thành phần hóa học (%) Hàm
lượng
keo (%)
Độ hút vôi trung
bình (mgCaO/g.pg) SiO2 Al2O3 Fe2O3 CaO Na2O K2O MKN
TR 17,60 31,16 28,28 0,89 0,14 0,02 18,6 42-72 115
NĐ 25,66 24,69 25,80 0,16 0,03 0,50 17,94 48-65 102
PK 27,60 17,50 20,40 3,50 0,40 0,06 18,5 35-47 95
LS 47,84 18,31 17,28 0,02 <0,01 0,02 15,56 49-74 154
Ghi chú: Vị trí lấy mẫu:TR- Tân Rai- Lâm Đồng; NĐ- Nghĩa Đàn- Nghệ An; PK- Pleiku- Gia Lai; LS- Lạng Sơn.
2.3. Gạch không nung kiểu: đất đỏ + vôi
Đất đỏ basalt thƣờng có hàm lƣợng ôxit nhôm
khá cao, nên nó khá khó để sản xuất gạch bằng quy
trình truyền thống nung ở nhiệt độ cao xung quanh
900-1100°C.
Mặt khác, đất đỏ basalt có độ hút vôi đạt từ 95
đến 145mgCaO g.pg do các thành tạo này có hàm
lƣợng khá cao các ôxít nhôm và sillic ở dạng vô
định hình, các keo tự do này kết hợp với vôi hydrat
hóa tạo phản ứng silicocalcareous ở nhiệt độ phòng
để tạo thành chất kết dính dạng hydro-sillicat canxi
(CSH), hydro-aluminat-canxi (CAH) hoặc hydro-
aluminat-silicat-canxi (CASH) theo phƣơng trình
(1)-(3) [3, 4, 13]:
nSiO2+ CaO + H2O nCaO.SiO2.xH2O (CSH) (1)
nAl2O3+CaO+H2OnCaO.Al2O3.xH2O (CAH) (2)
nCaO.Al2O3.xH2O+SiO2nCaO.Al2O3.SiO2.xH2O
(CASH) (3)
Xuất phát từ cơ sở trên, tỷ lệ phối trộn giữa đất
đỏ và vôi đƣợc lựa chọn: 95:5; 93:7; 90:10 theo
phần trăm trọng lƣợng.
- Lực nén tạo hình 50Kg cm2.
- Độ ẩm tạo hình 12%.
- Mẫu thử nghiệm đƣợc tạo hình theo kiểu hình
trụ tròn kích thƣớc (5 × 5cm) và hình chữ nhật (20
× 10 × 5cm) (hình 4).
Hình 4. Mẫu thử nghiệm gạch không nung từ đất đỏ basalt
Kết quả xác định các tính chất cơ lý của những
mẫu thử nghiệm đều đạt yêu kỹ thuật đối với gạch
xây dựng, cƣờng độ kháng nén đạt 75-292kG/cm2 .
Mặt khác kết quả ở bảng 2 cho thấy khi ta tăng
tỷ lệ vôi lên thì cƣờng độ của sản phẩm tăng lên,
đặc biệt là sản phẩm làm từ đất đỏ Hoàng Đồng với
độ hút vôi cao cƣờng độ thay đổi khá rõ rệt khi ta
tăng tỷ lệ vôi phối trộn.
Bảng 2. Cường độ kháng nén và các đặc trưng
kỹ thuật của gạch không nung với các tỷ lệ
phối trộn đất đỏ + vôi khác nhau
STT
Tỷ lệ
phối trộn %
Cường độ
kháng nén
(kG/cm
2
)
Độ hút
nước
(%)
Khối lượng
thể tích
(g/cm
3
) Đất đỏ Vôi
LS-1 95 5 75 15.3 1.60
LS-2 93 7 135 12.7 1.58
NĐ-1 93 7 111.32 15.8 1.63
PL 90 7 115 14.6 1.60
TR 90 7 125 15.4 1.62
LS-3 90 10 292 10.5 1.71
NĐ-2 90 10 143 9.5 2.10
TCVN 2118-1994
( gạch xây không nung)
75-200 6-18 <1.65
ND-2
217
2.4. Gạch geopolymer
Kết quả phân tích về đặc điểm thành phần vật
chất của đất đỏ ở mục 2.2 đã cho thấy rằng đất đỏ
có hàm lƣợng đáng kể khoáng vật sét kaolin và
hàm lƣợng khá cao các ô xit nhôm và silic. Do đó
khi phối trộn đất đỏ với chất xúc tác theo những
phản ứng ở hình 5, 6, khoáng sét kaolinit hoặc
gipxit và các ôxít tự do trong đất có khả năng phản
ứng giữa chúng, làm thành mắt lƣới, đông cứng lại.
Nó hoạt động giống nhƣ một quy trình có thể so
sánh với những gì xảy ra trong lúc ceramic nung ở
900-1100°C, nhƣng chỉ khác là cố kết kiểu
polymer hóa của đất đỏ với chất xúc tác là dung
dịch kiềm (NaOH hoặc KOH) cùng với sự giúp đỡ
của chất tiền geopolymer oligosialat có thể đóng
rắn đã bắt đầu ở nhiệt độ phòng với tạo thành
polysialat, poly (sialat-siloxo), hợp chất ổn định
trong nƣớc, chống chịu cơ học khỏe [1].
Hình 5. Phản ứng geopolymer hóa của kaolinit với sự trợ giúp của chất tiền geopolymer
(theo Claude Boutterin và Joseph Davidovits, 1988)
Hình 6. Phản ứng geopolymer hóa [11]
Xuất phát từ nguyên tắc trên và kế thừa những
nghiên cứu đã đƣợc công bố [1, 2, 6, 11] cũng nhƣ
kết quả đạt đƣợc của các tác giả năm 2010 [13],
phƣơng thức thử nghiệm đƣợc tiến hành nhƣ sau:
Tỷ lệ phối trộn theo trọng lượng:
- Đất đỏ basalt khu vực Pleiku đƣợc nghiền mịn
qua rây 0,1mm: 85%
- Dung dịch NaOH (10M): 3%
- Dung dịch natri silicat (chất tiền geopolymer):
2%
- Nƣớc: 10-12%
- Hỗn hợp đƣợc phối trộn khoảng 5 phút, sau
đó đƣợc đổ khuôn tạo hình.
- Kết quả sản phẩm thử nghiệm (hình 7) sau 28
ngày ở nhiệt độ phòng thí nghiệm (25°C) đạt các
đặc trƣng cơ lý nhƣ sau:
+ Cƣờng độ kháng nén: 95 kG cm3
+ Độ hút nƣớc: 14%
+ Khối lƣợng thể tích: 1,33g/cm3.
Hình 7. Gạch geopolymer từ đất đỏ basalt
218
3. Thảo luận
- Đất đỏ basalt có hàm lƣợng nổi trội của các
oxit: Al2O3 (17,50-31,16%), SiO2 (17,60- 47,84%)
và hàm lƣợng keo khá cao (35 đến 74%). Kết quả
phân tích này thể hiện một phần các ôxit nhôm và
silic tồn tại ở dạng keo tự do [18]. Theo Kiều Quý
Nam (2002, 2006) [15, 18], chính các keo tự do
này tạo nên độ hoạt tính cho đất đỏ basalt.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN: 3735-1982)
về phân loại puzơlan, đất đỏ basalt với độ hút vôi
đạt từ 95 đến 145mgCaO g.pg đƣợc xếp vào loại
nguyên liệu puzơlan có hoạt tính trung bình mạnh
đến mạnh. Nhƣng do đất đỏ basalt có thành phần
khoáng vật chủ yếu là các khoáng sét gipxit,
kaolinit, gơtit, nên mặc dù có độ hoạt tính cao,
nhƣng đất đỏ không đáp ứng đƣợc yêu cầu sử dụng
làm phụ gia cho xi măng. Mặt khác đất đỏ có thể
sử dụng sản xuất gạch xây dựng không nung thân
thiện với môi trƣờng.
Với hai phƣơng thức tạo kết dính gắn kết khác
nhau, những thử nghiệm sản xuất gạch không nung
từ đất đỏ basalt có đặc tính cơ lý đáp ứng đƣợc yêu
cầu kỹ thuật đối với gạch xây dựng không nung
theo tiêu chuẩn TCVN: 2118-1994.
- Với phƣơng thức sản xuất gạch không nung
theo kiểu đất đỏ + vôi, khi lƣợng phụ gia sử dụng
thấp (5% trọng lƣợng), sản phẩm thu đƣợc là gạch
không tan rữa trong nƣớc, nhƣng những đặc tính
cơ lý nhƣ cƣờng độ thấp (75kG cm2), độ hút nƣớc
tƣơng đối cao (15,3g/cm3). Khi tăng hàm lƣợng
chất kết dính bằng cách tăng lƣợng vôi lên 10%,
cƣờng độ kháng nén của sản phẩm tăng lên, độ hút
nƣớc giảm, nhƣng khối lƣợng thể tích tăng lên. Do
vậy, tỷ lệ phối trộn tối ƣu là: đất đỏ (93%) + vôi
(7%), cƣờng độ sản phẩm đạt (>100kG.cm2), độ
hút nƣớc và khối lƣợng thể tích đều đạt yêu cầu đối
với gạch xây dựng theo tiêu chuẩn TCVN: 2118-
1994.
- Khác với phƣơng thức tạo gắn kết kiểu đất đỏ
+ vôi, nơi vật liệu đất đƣợc cố kết bởi phản ứng
của các ôxít tự do với vôi tạo thành chất kết dính
dạng CSH, CAH hoặc CASH,... Với phƣơng pháp
polymer nhiệt độ thấp (LTGS) sự cố kết đối với vật
liệu đất dựa vào nguyên tắc khác hoàn toàn. Đó là
phối trộn vào đất đỏ chất kiềm (NaOH hoặc KOH)
và dung dịch silicat tiền geopolymer tạo cho các
ôxít nhôm, ôxit silic dạng keo và khoáng gipxit,
kaolinit trong đất có khả năng phản ứng giữa chúng
với nhau tạo thành chuỗi polysialat, poly (sialat-
siloxo) ở nhiệt độ phòng thí nghiệm, có khả năng
đông cứng lại, ổn định, không tan rữa trong nƣớc
và có khả năng chống chịu cơ học khỏe.
So sánh với sản phẩm gạch không nung kiểu
đât đỏ + vôi có cƣờng độ tƣơng đƣơng (95kG/cm2)
thì gạch geopolymer có ƣu điểm khối lƣợng thể
tích thấp hơn (1,33g/cm3), so với gạch kiểu đất đỏ
+ vôi là 1,58g/cm
3. Đặc tính này có đƣợc do vật
liệu gạch geopolymer tạo thành bởi các polysialat,
poly(sialat-siloxo) có cấu trúc khoáng vật tƣơng
đồng nhƣ zeolit [6, 8], cấu trúc ba chiều giống nhƣ
quả cầu mây gắn sít với nhau nên có độ xốp rỗng
nhất định (hình 8) và đặc trƣng này cũng tạo cho
gạch geopolymer có đặc tính khí hậu sinh học tuyệt
vời, đó là có khả năng hấp phụ hơi ẩm nhanh và
giải hấp phụ từ từ giúp điều hòa không khí rất tốt
cho những ngôi nhà sử dụng vật liệu này [7].
Hình 8. Ảnh hiển vi điện tử quét (SEM)
mẫu gạch geopolymer từ đất đỏ basalt
- Về giá thành của sản phẩm: trong các đề tài,
dự án sản xuất thử nghiệm gạch không nung từ
nguồn nguyên liệu là đá basalt bán phong hóa tại
khu vực Gia Lai, Lâm Đồng, Nghệ An, Quảng Trị
mà chúng tôi đã thực hiện [16, 17] cho thấy giá
thành của sản phẩm (500-600đ viên) chỉ bằng 50-
65% giá thành gạch xi măng + cát hoặc gạch tuy
nen (1000-1200đ viên). Ngoài ra, so với gạch tuy
nen thì gạch không nung từ đất đỏ basalt còn nâng
cao giá trị kinh tế hơn nữa nếu chúng ta tính đến
giá trị giảm thải việc phát sinh ô nhiêm môi trƣờng.
4. Kết luận
Từ kết quả nghiên cứu nêu trên có thể đi đến
các kết luận sau:
219
Đất đỏ basalt có thể sử dụng làm nguyên liệu
để sản xuất gạch xây dựng không nung và với diện
phân bố rộng rãi ở nƣớc ta đây là một nguồn
nguyên liệu có tiềm năng lớn đáp ứng cho nhu cầu
phát triển vật liệu xây dựng không nung thân thiện
với môi trƣờng.
Bằng hai phƣơng thức gắn kết theo kiều khác
nhau: (1) Đất đỏ + vôi và (2) Đất đỏ polymer hóa
bằng dung dịch kiềm ở nhiệt độ phòng thí nghiệm,
các sản phẩm gạch không nung làm từ đất đỏ basalt
đạt đƣợc những đặc tính cơ lý đảm bảo các yêu cầu
kỹ thuật đối với gạch xây dựng theo tiêu chuẩn
TCVN: 2118-1994.
TÀI LIỆU DẪN
[1] Claude Boutterin and Joseph Davidovits:
1988: Réticulation Géopolymèrique (LTGS) et
matériaux de construction, Geopolymer ' 88, Vol.1,
pp. 79-88. (Modified and adapted with
theautorisation of CORDI-Géopolymère S.A. in
July 2003).
[2] Gordon Browne, 2009: Stabilised
interlocking rammed earth blocks:alternatives to
cement stabilisation. Proceedings of the 11th
International Conference on Non-conventional
Materials and Technologies (NOCMAT 2009) 6-9
September 2009, Bath, UK.
[3] Bùi Văn Chén, Đào Tiến Đạt: 1985: Kỹ
thuật sản xuất gạch không nung, NXB Xây dựng,
Hà Nội.
[4] Ljubica Ćojbašić1, Gordana Stefanović1,
Živko Sekulić2, Snežana Heckmann, 2005:
Influence of the fly ash chemical composition on
the portland cement and fly ash mixturehydration
mechanism, Series: Mechanical Engineering Vol.
3, No 1, pp. 117 - 125
[5] J. Davisovit: 1991: Geopolymers: inorganic
polymeric new materials J. Thermal Analysis, Vol.
37, pp.1633-1656.
[6] D. Hardjito and B. V. Rangan, 2005:
Development and properties of low-calcium fly
ash-basedgeopolymer concrete. Curtin University
of TechnologyPerth, Australia
[7] Joseph Davidovits, 2002: 30 Years of
Successes and Failures in Geopolymer
Applications. Market Trends and Potential
Breakthroughs. Geopolymer 2002 Conference,
Melbourne, Australia.
[8] Pre De Silva1 And Kwesi Sagoe-Crenstil,
2009: The Role of Al2O3, SiO2 and Na2O on the
Amorphous → Crystalline Phase Transformation
in Geopolymer Systems. Journal of the Australian
Ceramic Society Volume 45, 1, pp 63-71.
[9] Nguyễn Ánh Dương, 2011: Nguyên liệu
khoáng hoạt tính từ một số thành tạo đá phun trào
axít và trung tính ở việt nam và ý nghĩa thực tiễn
của chúng. Tạp chí Các Khoa học về Trái Đất,
3ĐB, tr.559-605.
[10] Qhatani Mohsen, Nasser Yosef Mostafa,
2010: Investigating the possibility of utilizing low
kaolinitic clays in production of geopolymer
bricks. Ceramics - Silikáty 54 (2), pp 160-168.
[11] A.M. Mustafa Al Bakri, H. Kamarudin, M.
Bnhussain, I. Khairul Nizar, A.R. Rafiza & A.M.
Izzat., 2011: Chemical Reactions in the
Geopolymerisation Process Using Fly Ash–Based
Geopolymer: A Review, Australian Journal of
Basic and Applied Sciences, 5(7), pp.1199-1203.
[12] Patrick N. Lemougna, Uphie F. Chinje
Melo, Elie Kamseu and Arlin B. Tchamba, 2011:
Laterite Based Stabilized Products for Sustainable
Building Applications in Tropical Countries:
Review and Prospects for the Case of Cameroon.
Sustainability, Vol.3(1), pp. 293-305.
[13] Kiều Quý Nam, Nguyễn Ánh Dương, 2010:
Nguyên liệu và công nghệ sản xuất vật liệu xây
dựng không nung - một vài kết quả thử nghiệm.
Tạp chí Địa chất, loạt A số 322 12 2010, tr.54-65.
[14] Kiều Quý Nam, 2001: Puzơlan Việt Nam -
Tiềm năng và khả năng sử dụng. Tạp chí Địa chất,
Loạt A (267 11-12), tr.106-110.
[15] Kiều Quý Nam, 2002: Mối tƣơng quan giữa
thành phần hoá học, cấu trúc đá với hoạt tính
puzơlan trong basalt Kainozoi tại Lâm Đồng. Tạp
chí Các Khoa học về Trái Đất, T.24, 4, tr.341-347.
[16] Kiều Quý Nam (chủ biên), 2004: Báo cáo
tổng kết dự án: Ứng dụng công nghệ sản xuất vật
liệu không nung. Lƣu trữ tại Viện Địa chất.
220
[17] Kiều Quý Nam (chủ biên), 2005: Báo cáo tổng
kết đề tài: Nghiên cứu, đánh giá đặc điểm, tiềm năng
nguyên liệu và xây dựng quy trình công nghệ sản xuất
gạch lát tự chèn không nung từ puzơlan khu vực
Pleiku, Buôn Ma Thuột. Lƣu trữ tại Viện Địa chất.
[18] Kiều Quý Nam, 2006: Nghiên cứu sử dụng
puzơlan trong sản xuất vật liệu xây dựng không
nung. Tạp chí Địa chất, Loạt A (293/3-4), tr.16-24.
SUMMARY
Red basaltic soils-the raw material source for production of non-calcined brick
Red basaltic soils that widely distribute in Tay Nguyen, Central region and elsewhere in Vietnam consist mainly of
gibbsite (45-50%), goethite (12-20%), kaolinite (15-17%) minerals, In red soil, the total amount of (SiO2 + Al2O3 + Fe2O3)
and colloidal content varies from 65.50 to 83.43%, and from 35 to 74% respectively, leading to high reactivity index (95-
154mgCaO/g.pg).
By two different binding methods: 1/Red basaltic soils with hydrated lime; 2/ Red basaltic soils with alkali solution
(NaOH) and added sodium sillicate, non-calcined products made from basaltic soils have compressive strength in the
range of 75-292kG/cm
2
for first method
and 95kG/cm
2
for second one, with other physico-mechanic properties to meet
the technical requirements of construction brick according to Vietnamese standards TCVN 2118-1994. Expimental
results prove the feasibility of using the red basaltic soils as suitable raw materials for manufacturing non-calcined
building materials.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5904_21129_1_pb_4359_2100723.pdf