Phương pháp phẫu thuật
Tỷ lệ mổ mở và mổ nội soi gần tương nhau,
phẫu thuật nội soi trong nghiên cứu này có 74
bệnh nhân (46,3%) (bảng 6) bao gồm: cắt ruột
thừa, thủng dạ dày, tắc ruột do dính, thai ngoài
tử cung, cắt túi mật với phương pháp phẫu
thuật nội soi có bơm thán khí vào ổ bụng; thời
gian gần đây, phẫu thuật nội soi là một xu
hướng tiến bộ của ngoại khoa, đang được ưa
như tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi cũng được
áp dụng rộng rãi trong các bệnh viện tại thành
phố Hồ Chí Minh.
Phẫu thuật nội soi có nhiều ưu điểm như có
diễn tiến hậu phẫu khá nhẹ nhàng, ít gây đau
đớn cho người bệnh, giúp rút ngắn thời gian
nằm viện, giảm đáng kể chi phí điều trị cho bệnh
nhân , nên đang được ưa chuộng, nhưng phẫu
thuật nội soi có bơm hơi vào ổ bụng gây ra nhiều
xáo trộn, biến đổi các chức năng sinh học và
cũng như gây ra nhiều tai biến, biến chứng so
với phẫu thuật mở để điều trị bệnh cấp cứu như
từ trước đến nay nên cần nắm vững những
nguyên tắc căn bản, những thay đổi về sinh lý,
thực hiện phương pháp vô cảm, sử dụng thuốc
mê thích hợp để hạn chế những nguy cơ, tai biến
cho bệnh nhân(10).
Thời gian phẫu thuật (phút)
Thời gian phẫu thuật đa số là < 90 phút,
chiếm khoảng 90% (bảng 7). Điều này cũng phù
hợp cho các loại phẫu thuật cấp cứu. Những
trường hợp như mổ nội soi như viêm ruột thừa,
cắt túi mật, thai ngoài tử cung, thủng dạ dày
hay mổ mở như mở thận ra da, dẩn lưu thận,
viêm phúc mạc khu trú thì thời gian phẫu
thuật đều < 90 phút mà lại là những bệnh cấp
cứu thường gặp. Hơn nữa, các loại phẫu thuật
nội soi hiện nay do đa phần các phẫu thuật viên
đã quen với thao tác, thuần thục hơn nên cũng
rút ngắn rất nhiều thời gian phẫu thuật.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 303 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đặt nội khí quản nhanh trong phẫu thuật cấp cứu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 94
ĐẶT NỘI KHÍ QUẢN NHANH TRONG PHẪU THUẬT CẤP CỨU
Nguyễn Văn Chinh*, Nguyễn Văn Chừng*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề Một loại thuốc dãn cơ thuộc nhóm không khử cực đầu tiên có thời gian khởi phát ngắn, tạo điều
kiện thuận lợi cho đặt nội khí quản nhanh nhưng ít có tác dụng phụ bất lợi đó là Rocuronium. Mặc dù đã có
nhiều nghiên cứu về Rocuronium nhưng chưa có báo cáo về việc sử dụng thuốc này trong bối cảnh gây mê phẫu
thuật cấp cứu.
Mục đích nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu quả của Rocuronium dùng trong đặt nội khí quản nhanh trong
phẫu thuật cấp cứu.
Phương pháp Nghiên cứu tiền cứu, thử nghiệm lâm sàng. Nghiên cứu ghi nhận các thông số về thời gian
đặt nội khí quản, lý do chọn lựa thuốc dãn cơ, thời gian khởi phát liệt, các tai biến biến chứng. Sử dụng thang
điểm 9 để đánh giá độ giãn cơ hàm, dây thanh âm và các đáp ứng đặt nội khí quản.
Kết quả: - Tỷ lệ phân loại theo ASA I & II: 80%. Rocuronium được sử dụng trên 132 trường hợp (82,5%),
Vecuronium sử dụng trên 19 trường hợp (11,9%) và Atracurium được sử dụng trên 9 trường hợp (5,6%). Tình
trạng đặt nội khí quản tốt: 95% theo lâm sàng và 90% theo máy TOF – Watch. - Rocuronium khởi phát tác động
nhanh và đáng tin cậy, thích hợp cho đặt nội khí quản nhanh trong phẫu thuật cấp cứu. Không ghi nhận các tai
biến, biến chứng liên quan đến nhóm sử dụng Rocuronium.
Kết luận Sử dụng Rocuronium trong gây mê cho các phẫu thuật cấp cứu an toàn và hiệu quả. Đây là thuốc
dãn cơ rất dễ mua và đang sử dụng rộng rãi trong nước. Việc chuẩn bị tốt trước phẫu thuật và theo dõi chặt chẽ
trong và sau phẫu thuật sẽ làm giảm các tai biến, biến chứng, đồng thời làm tăng tỷ lệ thành công của phẫu thuật.
Từ khóa Đặt nội khí quản nhanh, phẫu thuật cấp cứu, dây thanh âm.
ABSTRACT
RAPID TRACHEAL INTUBATION IN ANESTHESIA FOR EMERGENCY SURGERY
Nguyen Van Chinh, Nguyen Van Chung
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 94 - 100
Introduction Rocuronium is a recently synthesized non – depolarizing neuromuscular blocking agent
(NMBA) that has been demonstrated to have a faster onset of action than any other non – depolarizing NMBA.
Although widely studied in the operating room, there are no reports regarding its use for rapid tracheal intubation
in anesthesia for emergency surgery.
Purpose This study is performed to look for the effects of Rocuronium for rapid tracheal intubation in
anesthesia for emergency surgery.
Methods Prospective study was performed using a data collection form completed at the time of intubation.
Data collected included the reason for the neuromuscular – blocking agent chosen, the time to onset of paralysis
and any complications encoutered. The nine – point numerical descriptor scales recorded the degree of body
movement, vocal cord movement and the physician’s overall satisfaction with the extent of paralysis. Tỷ lệ phân
loại theo ASA I & II: 80%. Rocuronium được sử dụng trên 132 trường hợp (82,5%), Vecuronium sử dụng trên
* Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Văn Chinh ĐT: 0903885497 Email: chinhnghiem2006@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 95
19 trường hợp (11,9%), và Atracurium được sử dụng trên 9 trường hợp (5,6%)
Results: - Classify of ASA I & II: 80%. Rocuronium was used in 132 patients (82.5%), Vecuronium was
used in 19 patients (11.9%) and Atracurium was used in 9 patients (5.6%). Good condition for rapid tracheal
intubation: 95% in clinical appreciate and 90% in TOF – Watch. - Rocuronium produced fast and reliable
paralysis for rapid tracheal intubation in anesthesia for emergency surgery. Of the complications reported, none
appeared to be related to Rocuronium.
Conclusions Use of Rocuronium in anesthesia for emergency surgery is safe and effective. This is the drug to
be buying easily and widely in condition of our country. A well – prepared surgery and a close careful monitoring
during and after the surgery must be applied in order to detect and manage in time complications. It will
contribute to succesful method.
Key word: Rapid Tracheal Intubation, Emergency Surgery, Vocal Cord.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chuyên ngành gây mê hồi sức, giai
đoạn khởi mê được xem là thời điểm nguy
hiểm vì những phản xạ tự bảo vệ cơ thể của
người bệnh bị ức chế nên khả năng trào ngược
dịch dạ dày và hít phải chất nôn ói vào khí
phế quản thường xảy ra, nhất là trong những
trường hợp gây mê để mổ những trường hợp
(TH) cấp cứu. Do đó, khoảng thời gian này
được mong muốn càng ngắn càng tốt mà
Succinylcholine đã được xem là thuốc dãn cơ
duy nhất đáp ứng yêu cầu này(8).
Tuy nhiên, Succinylcholine lại có những tác
dụng phụ bất lợi với nguy cơ phát triển thành
những biến chứng nghiêm trọng, đe dọa tính
mạng người bệnh. Chính điều này đã làm hạn
chế tính thông dụng của nó trên thực hành lâm
sàng và là động lực thúc đẩy sự ra đời của
những thuốc dãn cơ mới khác. Đó là
Rocuronium, một loại thuốc dãn cơ thuộc nhóm
không khử cực có thời gian khởi phát ngắn, tạo
điều kiện thuận lợi cho đặt nội khí quản (NKQ)
nhanh tương tự như Succinylcholine nhưng ít có
tác dụng phụ bất lợi như Succinylcholine(5). Mặc
dù đã có nhiều nghiên cứu về Rocuronium
nhưng chưa có báo cáo nào về việc sử dụng
thuốc này trong bối cảnh gây mê phẫu thuật cấp
cứu và đó cũng chính là lý do chúng tôi chọn
nghiên cứu đề tài này.
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá hiệu quả đặt NKQ nhanh và
những tác dụng phụ của Rocuronium trong gây
mê để phẫu thuật cấp cứu.
Đề xuất sử dụng thuốc dãn cơ thích hợp cho
người bệnh trong gây mê phẫu thuật cấp cứu.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp nghiên cứu
Tiền cứu, mô tả cắt ngang.
Đối tượng nghiên cứu
Những bệnh nhân được gây mê để phẫu
thuật cấp cứu tại Bệnh viện Bình Dân và Bệnh
viện Nguyễn Tri Phương TP. Hồ Chí Minh từ
tháng 12/2008 đến tháng 02/2010.
Tiêu chuẩn chọn
- Chỉ định gây mê toàn diện qua NKQ.
- Bệnh nhân thuộc nhóm ASA I, II, III.
- Tuổi từ 15 tuổi trở lên.
Tiêu chuẩn loại
- Có tiên lượng đặt NKQ khó.
- Có bệnh lý thần kinh – cơ.
- Đang dùng thuốc có tác dụng tương tác với
thuốc dãn cơ.
- Đang có thai.
Phương pháp tiến hành
- Thăm khám và chuẩn bị bệnh nhân như khi
gây mê - phẫu thuật cấp cứu thông thường.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 96
- Chuẩn bị trang thiết bị, dụng cụ và thuốc
men đầy đủ.
- Chuẩn bị người bệnh thuận lợi cho máy
kích thích thần kinh cơ hoạt động, kích thích tại
thần kinh trụ và theo dõi những đáp ứng của cơ
khép ngón cái.
- Thực hiện phương pháp gây mê toàn diện
qua NKQ với.
Tiền mê: Midazolam 0,04 – 0,05 mg/kg và
Fentanyl 1 – 2 mcg/kg.
Dẫn đầu mê: Propofol hoặc Etomidate.
Khi người bệnh bắt đầu mất ý thức, chích
dãn cơ Rocuronium với liều 1 mg/kg.
Sau 60 giây, tiến hành đặt NKQ và đánh giá
tình trạng đặt NKQ trên lâm sàng và trên máy
kích thích thần kinh cơ (TOF – Watch).
Duy trì mê bằng thuốc mê hô hấp Isoflurane,
Sevoflurane.
Đánh giá tình trạng đặt NKQ trên lâm sàng.
Độ dãn cơ hàm Dây thanh
âm
Đáp ứng đặt NKQ
0 điểm Không thể mở
hàm
Đóng kín Ho, gồng dữ dội
1 điểm Khó mở hàm Khép Ho nhẹ
2 điểm Mở được Cử động Cử động cơ hoành
nhẹ
3 điểm Mở dễ Mở Nằm im
Rất tốt: đạt 9 điểm
Tốt: từ 6 đến 8 điểm
Đạt: từ 3 đến 5 điểm
Không đạt: từ < 3 điểm
- Duy trì huyết động học ổn định trong phẫu
thuật.
- Theo dõi bệnh nhân trong, sau gây mê -
phẫu thuật tới cho tới khi người bệnh xuất viện;
xử lý tình huống bất thường xảy ra.
- Thu thập và xử lý số liệu theo phương pháp
thống kê.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 12/2008 đến tháng 02/2010, chúng
tôi đã khảo sát, thực hiện, theo dõi gây mê toàn
diện cho 160 trường hợp phẫu thuật cấp cứu tại
Bệnh viện Bình Dân và bệnh viện Nguyễn Tri
Phương, kết quả nghiên cứu như sau.
Bảng 1: Đặc điểm chung
Đặc điểm chung Số TH Tỷ lệ%
Giới tính
Nam 49 30,6
Nữ 111 69,4
Tuổi
16-30 38 23,8
31-45 65 40,6
46-60 35 21,9
>60 22 13,7
Phân loại
ASA
Độ I 27 16,9
Độ II 99 61,9
Độ III 34 21,2
N 160 100
Bảng 2: Các bệnh kèm theo
Bệnh kèm theo Số TH Tỷ lệ%
Tuần hoàn 28 17,5
Hô hấp 7 4,4
Tuần hoàn & Hô hấp 4 2.5
Tiểu đường 18 11,2
Bệnh khác 15 9,4
Bảng 3: Các thuốc gây mê đã dùng
Số TH Tỷ lệ%
Thuốc gây mê
Propofol +Sevoflurane 142 88,7
Propofol+ Isoflurane 18 11,3
Thuốc dãn cơ
Vecuronium 19 11,9
Atracurium 9 5,6
Rocuronium 132 82,5
Bảng 4: Thay đổi huyết động học trong lúc phẫu
thuật
Thay đổi huyết
động
Mạch
HA trung
bình
SpO2
Trước khi tiền mê 76,6 ± 3,7 11,6 ± 1,6 98,1 ± 3,2
Trước khi khởi mê 74,2 ± 3,4 10,2 ± 1,8 99,1 ± 3,1
Sau khi đặt NKQ 86,4 ± 4,9 12,4 ± 2,8 99,2 ± 4,1
Khi BN thở lại 77,5 ± 5,8 10,7 ± 1,5 97,2 ± 3,8
Bảng 5: Tình trạng đặt NKQ
Tình trạng đặt
NKQ
Lâm sàng TOF - Watch
Số TH Tỷ lệ% Số TH Tỷ lệ%
Rất tốt 133 83,1 99 61,9
Tốt 20 12,5 43 26,8
Đạt 7 4,4 18 11,3
Bảng 6: Phương pháp phẫu thuật
Phương pháp phẫu
thuật
Nội soi Mổ mở Tổng
Số TH 74 86 160
Tỷ lệ% 46,3 53.7 100
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 97
Bảng 7: Thời gian phẫu thuật (phút)
Thời gian
phẫu thuật
90 Tổng
Số TH 14 95 34 17 160
Tỷ lệ% 8,8 59,3 21,3 10,6 100
NHẬN XÉT VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm chung
Giới tính
Bệnh nhân giới nữ chiếm đa số (69,4%), tỷ lệ
nữ/nam: 2.27. (bảng 1). Mẫu nghiên cứu của
chúng tôi gồm các bệnh nhân cấp cứu nhưng tỷ
lệ nữ/nam vẫn không khác biệt so với các nghiên
cứu khác vì giới nữ thường bị các bệnh cấp cứu
về ruột thừa và bệnh đường mật nhiều hơn nam
giới. Một số tác giả cho rằng, có sự khác biệt
trong đáp ứng giữa nam và nữ đối với
Rocuronium (nữ > nam) nhưng trong nghiên
cứu của chúng tôi thì không có sự khác biệt nào
trong đáp ứng của Rocuronium liên quan đến
giới tính(11).
Tuổi bệnh nhân
Đa số tập trung 85%) (bảng 1).
Đáp ứng của Rocuronium với nhóm cao tuổi
(>60 tuổi) và nhóm trẻ tuổi cũng rất khó đánh
giá do số bệnh nhân > 60 tuổi chiếm thấp
(13,7%). Hơn nữa, quá trình tích tuổi cũng sẽ
thay đổi sinh lý và giải phẫu cùng với những
bệnh lý đi kèm cũng nhiều hơn mà trong
nhóm nghiên cứu chúng tôi chọn những bệnh
nhân xếp loại ASA ≤ III nên phần nào cũng
hạn chế bệnh nhân cao tuổi.
Phân loại bệnh theo ASA
Đa số thuộc nhóm ASA I và II: có 126 bệnh
nhân (gần 80%) được đánh gía tình trạng chung
tốt, trong đó số bệnh nhân được phân loại ASA
II; có 99 bệnh nhân (61,9%) và số bệnh nhân
được phân loại ASA III (bảng 1): 34 (21,2%), tức
là thuộc loại bệnh nhân có nguy cơ khi phải chịu
cuộc gây mê phẫu thuật. Điều này càng nói lên
tính phức tạp của công tác gây mê cho những
phẫu thuật cấp cứu: bệnh nhân chưa được chuẩn
bị trước mổ, bệnh đi kèm chưa được kiểm soát,
dạ dày đầy
Bệnh kèm theo
Kết quả thăm khám trước mổ cho thấy tỷ
lệ bệnh nhân mang những bệnh kèm theo khá
cao (45%), thường gặp là những bệnh thuộc về
các cơ quan tuần hoàn chiếm đa số như tim
mạch có 28 TH (17,5%) như: cao huyết áp,
thiếu máu cơ tim, rối loạn nhịp tim, bệnh hô
hấp như viêm phổi, hen suyển: có 7 bệnh nhân
(4,4%), bệnh tiểu đường: 18 TH (11,2%) và
bệnh khác: 15 TH (9,4%) (bảng 2). Theo y văn,
ở bệnh nhân cấp cứu thì các rối loạn về hệ
thống tim mạch, hô hấp chiếm tỷ lệ hàng đầu
trong các bệnh lý đi kèm với quá trình tích
tuổi. Chỉ riêng những vấn đề bệnh lý kèm
theo này đã gây nhiều khó khăn trong công
tác gây mê hồi sức nhằm giữ vững độ an toàn
cho bệnh nhân, chưa kể đến tình trạng bệnh lý
mà bệnh nhân đang có cần phải phẫu thuật(6).
Các thuốc gây mê đã dùng
Trong nghiên cứu, phần lớn các trường hợp
(gần 90%) (bảng 3), chúng tôi duy trì mê bằng
thuốc mê bay hơi Sevoflurane. Đây là loại thuốc
mê giúp ổn định huyết động học, tác dụng ức
chế tim mạch ít nhất trong các thuốc mê hô hấp
họ Halogen, rất ít tính chất làm thiếu máu cơ tim
do hiện tượng “ăn cắp“ lượng máu nuôi cơ tim,
có lẽ đây là thuốc thích hợp để gây mê cho bệnh
nhân cấp cứu, bệnh nhân phải phẫu thuật bệnh
nặng, một đặc điểm thuận lợi của thuốc
Sevoflurane là nó ít gây rối loạn nhịp tim khi
dùng chung với Epinephrine.
Thuốc mê tĩnh mạch Propofol, chúng tôi sử
dụng trong 100% các TH (bảng 3), là thuốc gây
giảm huyết áp động mạch đáng kể nên khi
dùng cần chú trọng về đặc điểm này và nên bắt
đầu với liều lượng thấp và tăng lên từ từ để đạt
được kết quả mong muốn, tuy nhiên với kích
thích khi đặt nội khí quản hoặc phẫu thuật có
thể làm đảo ngược tác dụng dãn mạch của
Propofol, thêm vào đó Propofol được biến
dưỡng nhanh, ít gây tích lũy thuốc và khi
ngưng cung cấp thuốc thì bệnh nhân sẽ tỉnh
dậy trong thời gian ngắn cũng như sự phục hồi
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 98
tri giác hoàn toàn so với những thuốc khác.
Hơn nữa, hiện nay có phương pháp gây mê
tĩnh mạch kiểm soát nồng độ đích (TCI), vừa
phát huy tác dụng tối ưu của Propofol, vừa hạn
chế tối đa tác dụng phụ của thuốc này nên
nhiều tác giả khuyến cáo sử dụng(3).
Đa số các trường hợp dùng phối hợp
Propofol + Rocuronium và duy trì Sevoflurane +
Fentanyl (gần 90%) (bảng 3). Với hai tính chất
giảm đau và dãn cơ thì hầu hết thuốc gây mê
đều có, nhưng muốn đạt yêu cầu phải dùng một
lượng thuốc mê rất cao, nên cách thuận lợi hơn
hết là dùng kết hợp vừa thuốc giảm đau trung
ương và thuốc dãn cơ sẽ tăng mục đích yêu cầu
và hạn chế những tác dụng không thuận lợi do
thuốc mê gây ra. Với những chất thuốc mê, nhất
là thuốc an thần Midazolam giúp cho người
bệnh đi vào một giấc mê êm diệu, ít xáo trộn
huyết động, lại có tính làm quên thuận chiều rất
cao sẽ giúp ổn định được hệ thần kinh cao cấp,
hệ thần kinh tự trị. Vì vậy, một cuộc gây mê
muốn đạt được cùng lúc nhiều mục đích: giảm
đau, dãn cơ, an định thần kinh trong hoàn
cảnh hiện tại chỉ có phương pháp gây mê phối
hợp nhiều loại thuốc để sử dụng được tính chất
chính, tính ưu việt của mỗi loại thuốc với liều
lượng thích hợp của từng loại thuốc để hạn chế
những tác dụng không mong muốn của những
thuốc này.
Thuốc dãn cơ Vecuronium được xem là ít
phóng thích histamin và ảnh hưởng lên tim
mạch ít nhất trong các thuốc dãn cơ không khử
cực mà chúng tôi đã sử dụng trong 19 TH
(11,9%) (bảng 3) cho những bệnh nhân có bệnh
lý về tim mạch. Ngoài ra, thuốc dãn cơ
Atracurium chuyển hoá hầu như không phụ
thuộc chức năng gan và chức năng thận, hệ số
đào thải không giảm theo tuổi như hầu hết các
thuốc dãn cơ khử cực khác, là thuốc dãn cơ thích
hợp nhất để gây mê cho các bệnh nhân lớn tuổi
kèm bệnh lý gan mật. Có 9 TH (5,6%) (bảng 3)
dùng Atracurium trong nghiên cứu là cũng vì
mục đích đó(1, 7).
Thay đổi huyết động học trong thời gian
phẫu thuật
Trong nghiên cứu, thay đổi về SpO2 không
đáng kể. Thay đổi về mạch và huyết áp tập trung
vào thời điểm trước khi khởi mê và sau khi đặt
NKQ (bảng 4), tuy nhiên sự thay đổi này không
có ý nghĩa về mặt thống kê. Giải thích điều này
có lẽ do còn phụ thuộc nhiều yếu tố như: kích
thích lúc đặt NKQ, độ giảm đau, các thuốc gây
mê, bệnh lý đi kèmTheo đa số các tác giả thì
Rocuronium không có hoặc rất ít tác dụng lên hệ
tim mạch ngay cả với liều cao 0.9 hoặc 1.2mg/kg,
thậm chí trong trường hợp bệnh nhân đã có tăng
kali/máu(3). Điều này cũng phù hợp với nghiên
cứu của chúng tôi. Ngoài ra, trong nghiên cứu
chúng tôi cũng ghi nhận có 6 trường hợp phải
dùng Atropine sau khởi mê do nhịp tim chậm
<50 lần / phút và có 3 trường hợp phải dùng
Avlocardyl sau khởi mê do nhịp tim nhanh >140
lần / phút.
Tình trạng đặt NKQ
Hiệu quả đặt NKQ nhanh trên lâm sàng
đạt mức rất tốt và tốt là 95,6% (Bảng 5), có 7
trường hợp đặt NKQ sau 90 giây. Kết quả này
cao hơn các tác giả khác, như theo Hoàng Thị
Xuân là 93,2%, nhưng khác biệt không có ý
nghĩa thống kê. Hiệu quả đặt NKQ nhanh
đánh giá theo máy TOF - Watch đạt mức rất
tốt và tốt là 88,7% (Bảng 5) thấp hơn so với kết
quả đánh giá trên lâm sàng và tỉ lệ đạt là 18
trường hợp (11,3%) cao hơn so với kết quả
đánh giá trên lâm sàng (4,4%)(9).
Trong nghiên cứu này, đa số các trường hợp
chúng tôi đặt nội khí quản dễ dàng ở thời điểm
60 giây sau chích dãn cơ với liều 1 mg/kg. So với
các tác giả khác thì đây là liều trung bình để đặt
nội khí quản nhanh, một số các tác giả(4), khi
dùng so sánh hiệu quả đặt nội khí quản nhanh
của Rocuronium và Suxamethonium thì dùng
liều Rocuronium lớn hơn (1 – 1,2 mg/kg) và cho
thấy Rocuronium có thể dùng thay thế
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 99
Suxamethonium trong các trường hợp cần đặt
nhanh nội khí quản trong gây mê để phẫu thuật
cấp cứu(3). Như vậy, so sánh hiệu quả đặt nội khí
quản trên lâm sàng và trên máy TOF – Watch thì
chúng tôi nhận thấy: thực tế lâm sàng có thể đặt
nội khí quản tốt và dễ dàng khi giá trị trên máy
chưa cho phép, nghĩa là khoảng giá trị dao động
trên máy tương đối rộng để ta chọn lựa thời
điểm thích hợp để đặt nội khí quản.
Phương pháp phẫu thuật
Tỷ lệ mổ mở và mổ nội soi gần tương nhau,
phẫu thuật nội soi trong nghiên cứu này có 74
bệnh nhân (46,3%) (bảng 6) bao gồm: cắt ruột
thừa, thủng dạ dày, tắc ruột do dính, thai ngoài
tử cung, cắt túi mật với phương pháp phẫu
thuật nội soi có bơm thán khí vào ổ bụng; thời
gian gần đây, phẫu thuật nội soi là một xu
hướng tiến bộ của ngoại khoa, đang được ưa
chuộng và áp dụng rộng rãi. Ở các nước cũng
như tại Việt Nam, phẫu thuật nội soi cũng được
áp dụng rộng rãi trong các bệnh viện tại thành
phố Hồ Chí Minh.
Phẫu thuật nội soi có nhiều ưu điểm như có
diễn tiến hậu phẫu khá nhẹ nhàng, ít gây đau
đớn cho người bệnh, giúp rút ngắn thời gian
nằm viện, giảm đáng kể chi phí điều trị cho bệnh
nhân, nên đang được ưa chuộng, nhưng phẫu
thuật nội soi có bơm hơi vào ổ bụng gây ra nhiều
xáo trộn, biến đổi các chức năng sinh học và
cũng như gây ra nhiều tai biến, biến chứng so
với phẫu thuật mở để điều trị bệnh cấp cứu như
từ trước đến nay nên cần nắm vững những
nguyên tắc căn bản, những thay đổi về sinh lý,
thực hiện phương pháp vô cảm, sử dụng thuốc
mê thích hợp để hạn chế những nguy cơ, tai biến
cho bệnh nhân(10).
Thời gian phẫu thuật (phút)
Thời gian phẫu thuật đa số là < 90 phút,
chiếm khoảng 90% (bảng 7). Điều này cũng phù
hợp cho các loại phẫu thuật cấp cứu. Những
trường hợp như mổ nội soi như viêm ruột thừa,
cắt túi mật, thai ngoài tử cung, thủng dạ dày
hay mổ mở như mở thận ra da, dẩn lưu thận,
viêm phúc mạc khu trú thì thời gian phẫu
thuật đều < 90 phút mà lại là những bệnh cấp
cứu thường gặp. Hơn nữa, các loại phẫu thuật
nội soi hiện nay do đa phần các phẫu thuật viên
đã quen với thao tác, thuần thục hơn nên cũng
rút ngắn rất nhiều thời gian phẫu thuật.
KẾT LUẬN
Rocuronium có khởi phát tác động nhanh
hơn các thuốc dãn cơ không khử cực khác mà
chúng ta đang có và ít bệnh nhân cần đến thông
khí trợ giúp trước khi đặt nội khí quản. Hơn
nữa, dùng Rocuronium ít tác dụng phụ và
không có biến chứng nào được ghi nhận trong
nghiên cứu. Do đó, chúng tôi nhận thấy sử dụng
Rocuronium đem lại sự an toàn, hiệu quả và
thích hợp cho các phẫu thuật cấp cứu.
Trong phẫu thuật cấp cứu, thường bệnh
nhân nằm trong bệnh cảnh nhiễm trùng, sốc
nhiễm trùng hay thiếu khối lượng tuần hoàn,
rất dễ đưa đến các biến chứng về tim mạch, hô
hấp, rối loạn đông máu, suy chức năng gan,
thận Điều này cũng chính là thách thức cho
những người làm công tác gây mê hồi sức
phải nắm vững, tuân thủ những nguyên tắc
căn bản, dùng những dược chất thích hợp cho
từng loại bệnh lý, ít làm xáo trộn chức năng
sinh lý của các cơ quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Mạnh Khoa, Nguyễn Quang Bình (1997). Use of Esmeron
(Rocuronium) for intubation and it cardiovascular effect. The
10th Asean Congress of Anesthesiologist. Chiang Mai,
Thailand, 3 – 7
2. Dufour DG, Larose DL, Clement SC (2005). Rapid sequence
intubation in the emergency department. J Emerg Med, 13:
705 – 710.
3. Erik GL, John CS, Edward AP, Aaron AR, Jason R (2000).
Conparison of Succinylcholine and Rocuronium for Intubation
of Emergency Deparment Patients. Acad Emerg Med, 7: 1362
– 1369.
4. Huizinga ACT, Vandenborm RHG, Wierda JMKH (1992).
Intubating conditions and onset of neuromuscular block of
Rocuronium (Org 9426), a comparison with suxamethonium.
Acta Aneasth Scand, 36: 463 – 468.
5. Hunter J (1996). Neuromuscular Blockade. Textbook of
Anesthesia, third edition, A.R Aitkenhead. G. Smith, pp. 20 –
44.
6. Ma OJ, Bently BII, Debehnke DJ (1995). Airway management
practises in emergency medicine residencies. J Emerg Med, 13:
501 – 504.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Chuyên Đề Điều Dưỡng Kỹ Thuật Y Học 100
7. Martyn JAJ, Standaert FG, Miller RD (2000). Neuromascular
physiology and pharmacology. Anesthesia. Fifth Edition, pp.
735 – 751. Churchill Livingstone.
8. Morgan GE, Mikhail MS (1996). Muscle Relaxants. Clinical
Aneasthesiology, second edition, pp.149 – 164.
9. Nguyễn Quang Bình (1998). Đánh giá tác dụng phong bế thần
kinh cơ của Esmeron bằng máy Monitoring dãn cơ TOF –
Guard. Hội nghị gây mê hồi sức toàn quốc lần thứ III ở Huế,
49 – 54.
10. Nguyễn Thụ, Đào Văn Phan, Công Quyết Thắng (2000). Dược
lý lâm sàng của các thuốc ức chế dẫn truyền thần kinh cơ (dãn
cơ) và các thuốc kháng Cholinesterase. Thuốc sử dụng trong
gây mê. Nhà xuất bản y học, 236 – 268.
11. Sakles JC, Laurin EG, Rantapaa AA, Panacek EA (1998).
Airway management in the emergency department: a one –
year study of 610 tracheal intubations. J Emerg Med, 31: 325 –
332.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dat_noi_khi_quan_nhanh_trong_phau_thuat_cap_cuu.pdf