- Giám sát thực hiện dự án: Thực hiện công khai,
minh bạch thông tin đối với đầu tư công; Tăng
cường công tác giám sát thực hiện kế hoạch đầu tư
công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư cụ
thể; Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ hoặc đột xuất
theo chế độ báo cáo quy định; Việc giám sát được
thực hiện cả từ cơ quan quản lý, các nhà chuyên
môn và công chúng.
- Đánh giá dự án: Việc đánh giá kết quả thực
hiện dự án cũng cần được thực hiện bởi một tổ chức
đánh giá độc lập và chuyên nghiệp, dựa trên những
tiêu chí rõ ràng, khách quan, bao gồm các khía cạnh
công nghệ, hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế và
hiệu quả kinh tế - xã hội đạt được. Kết quả đánh giá
dự án cũng được công bố công khai với các cơ quan
quản lý, các nhà thầu và cộng đồng dân cư.
Với các giải pháp trên, hy vọng năm 2018 sẽ thực
sự là năm bản lề, đánh dấu bước chuyển biến rõ nét
trong đổi mới đầu tư công, qua đó góp phần tạo
chuyển biến rõ nét trong thực hiện 3 đột phá chiến
lược, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại
nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 253 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư công: những vấn đề đặt ra cho năm 2018, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Xuân Mậu Tuất
33TÀI CHÍNH - Tháng 01/2018
lao động và sức cạnh tranh” của nền kinh tế. Vì vậy,
tinh thần chung của năm 2018 sẽ là: Đổi mới, sáng
tạo, tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, bền vững hơn.
Nhiệm vụ này gắn liền với những yêu cầu tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ toàn bộ nền kinh tế nói chung,
đặc biệt là lĩnh vực đầu tư công nói riêng.
Những vấn đề đặt ra đối với đầu tư công
Tổng quát tình hình đầu tư công thời gian qua
Luật Đầu tư công của Việt Nam năm 2014 (số
49/2014/QH13) quy định: “Đầu tư công là hoạt động
đầu tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và đầu tư
vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh
tế – xã hội”. Đầu tư công là một bộ phận quan trọng
của tổng cầu. Kinh tế học chính thống cho rằng, đầu
tư công có tác dụng thúc đẩy tổng cầu thông qua
số nhân tài chính và do vậy, đầu tư công có vai trò
quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đầu tư công có ý nghĩa rất quan trọng đối với
nhiều nền kinh tế, nhất là những nước đang phát
triển, đặc biệt là nhìn từ góc độ đảm bảo cơ sở cho
phát triển bền vững. Ở Việt Nam, số liệu Tổng
cục Thống kê cho thấy, tỷ trọng vốn đầu tư công
đang có xu hướng giảm, nhất là giai đoạn 2005-
2010, từ mức 47,1% năm 2005 xuống còn 38,1%
năm 2010; sau đó nhích lên chút ít trong các năm
2012 đến 2014, giảm còn 38% năm 2015 và dừng ở
mức 37,6% năm 2016. Đáng chú ý, mức tăng đầu
tư công hàng năm khá cao, giai đoạn 2005-2016
chỉ có 3 năm giảm nhẹ, còn lại đều tăng, có năm
tăng tới 22,6% (2009); Giá trị tuyệt đối cũng tăng
đều qua các năm, từ mức 161,6 nghìn tỷ đồng năm
2005 lên 316,3 nghìn tỷ đồng năm 2010 và 557,5
nghìn tỷ đồng năm 2016.
Nhiệm vụ kinh tế - xã hội chủ yếu năm 2018
Tiếp tục đà phục hồi tăng trưởng từ giữa năm
2017 và sự ổn định kinh tế vĩ mô, năm 2018 được
xem là bản lề, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
thực hiện thành công các chỉ tiêu của kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020. Tại kỳ họp
thứ 4 Quốc hội khóa XIV (10-11/2017), Quốc hội đã
ra Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
và nêu rõ các chỉ tiêu chủ yếu cho năm 2018.
Bên cạnh các chỉ tiêu kinh tế thường niên, điểm
nhấn đáng lưu ý là năm 2018 phải “tạo chuyển biến
rõ nét trong thực hiện ba đột phá chiến lược, đổi
mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền
kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất
Đầu Tư cÔNg: NhữNg vấN Đề ĐẶT ra cho Năm 2018
Pgs., Ts. Bùi TấT ThắNg - Viện Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) *
Đầu tư công luôn là vấn đề nóng trong thời gian qua và được dự báo tiếp tục thu hút sự quan tâm của dư
luận trong năm 2018. Bài viết giới thiệu một số nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2018 và tập
trung làm rõ những vấn đề liên quan đến việc đổi mới trong lĩnh vực đầu tư công để nhằm góp phần thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ với tinh thần: đổi mới, sáng tạo, tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, bền vững hơn.
Từ khóa: Phát triển kinh tế, phát triển kinh tế bền vững, tăng trưởng kinh tế, đầu tư phát triển, đầu tư công
Public investment has constantly been a
key issue for the past years, the issue is also
forecast to be in focus of public interest in
2018. The paper introduces socio-economic
tasks of the year 2018 and attempts to define
the issues in relation to the renovation of
public investment to obtain new achievements
with slogan: renovation, creativity, more
quicky and sustainable economic growth.
Keywords: Economic development, sustainable economic
development, economic growth, development investment,
public investment
Ngày nhận bài: 22/12/2017
Ngày hoàn thiện biên tập: 3/1/2018
Ngày duyệt đăng: 5/1/2018
*Email: thangbt_dsi@mpi.gov.vn
34
- Hạ tầng giao thông: Một số công trình giao thông
quan trọng, quy mô lớn như các tuyến đường cao
tốc, cảng hàng không, cảng biển được đầu tư,
nâng cấp, nâng cao năng lực kết nối giữa các vùng
miền trong nước và giao thương quốc tế. Đến nay,
đã hoàn thành nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 từ
Thanh Hóa đến Cần Thơ; Nối thông tuyến đường
Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên; Hoàn thành và
đưa vào khai thác, sử dụng 746 km đường cao tốc,
đang tiếp tục đầu tư xây dựng 513 km; Hoàn thành
các công trình cảng hàng không quan trọng như
Nội Bài (nhà ga T2, nhà khách VIP), Tân Sơn Nhất,
Đà Nẵng, Cần Thơ, Vinh, Phú Quốc (xây mới), Liên
Khương, Pleiku, Thọ Xuân; Hoàn thành đầu tư cảng
cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng
Tàu) và nhiều cảng khác, đưa tổng công suất các
cảng lên khoảng 470 triệu tấn năm 2015. Đồng thời,
hàng loạt công trình hạ tầng giao thông trọng điểm
khác có quy mô lớn đang được đẩy nhanh tiến độ
thi công, nhất là hạ tầng giao thông ở các vùng kinh
tế trọng điểm, các đô thị lớn.
- Hạ tầng năng lượng: Được đầu tư tăng thêm
năng lực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và
bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Nhiều công
trình lớn đã hoàn thành và đang được xây dựng
như: Thủy điện Sơn La, Lai Châu; Nhiệt điện Duyên
Hải, Vũng Áng I, Vĩnh Tân II; Đưa điện lưới ra các
đảo Phú Quốc, Lý Sơn, Cô Tô, Vân Đồn... đã tăng
thêm 18,5 nghìn MW công suất nguồn; Khoảng 7,6
nghìn km truyền tải các loại 500 kV, 220 kV và 37,4
nghìn MVA công suất các trạm biến áp.
- Hạ tầng thủy lợi: Được tập trung đầu tư xây
dựng và nâng cấp theo hướng đa mục tiêu. Nhiều
dự án trọng điểm, quy mô lớn ở miền Trung, Tây
Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư công, khoảng 50%
là trực tiếp từ ngân sách nhà nước, trên 30% là vốn
vay, còn lại 20% là vốn của các doanh nghiệp nhà
nước và nguồn vốn khác. Vốn đầu tư từ Trung
ương có xu hướng giảm dần, trong khi từ ngân
sách địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc Trung
ương) có xu hướng tăng lên và bình quân thời kỳ
2005-2016, vốn đầu của Trung ương là 51,4%, địa
phương là 48,6%, chênh lệch không đáng kể, phản
ánh sự phân cấp mạnh mẽ của cơ chế đầu tư công
thời gian qua.
Vốn đầu tư công phần lớn được dành cho lĩnh
vực phát triển kết cấu hạ tầng, gồm cả hạ tầng cứng
(đường giao thông, sân bay, bến cảng, cấp thoát
nước, điện, viễn thông), lẫn hạ tầng mềm (y tế,
giáo dục). Tổng cộng các lĩnh vực này năm 2016
chiếm khoảng 53,6% tổng đầu tư công; trong đó,
lĩnh vực vận tải, kho bãi lớn nhất (21,3%) và lĩnh
vực điện, nước xếp thứ hai (14,4%). Kết quả, nhiều
công trình, dự án đầu tư kết cấu hạ tầng (nhất là
trong giao thông, cấp điện) được triển khai, năng
lực hệ thống kết cấu hạ tầng nâng lên đáng kể.
bảNG 1: vốN Đầu Tư PHáT TrIểN ToÀN xã HộI THựC HIệN PHâN THeo THÀNH PHầN KINH Tế (nghìn tỷ đồng)
Tổng số Kinh tế nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
2007 532,0 197,9 204,7 129,3
2008 616,7 209,0 217,0 190,6
2009 708,8 287,5 240,1 181,1
2010 830,2 316,2 299,4 214,5
2011 924,4 341,5 356,0 226,8
2012 1.010,1 406,5 385,0 218,5
2013 1.094,5 441,9 412,5 240,1
2014 1.220,7 486,8 468,5 265,4
2015 1.366,4 519,8 528,5 318,1
2016 1.485,0 557,4 579,7 347,9
2017 1.667,4 594,9 676,3 396,2
Nguồn: Tổng cục Thống kê
HìNH 1: TốC Độ TăNG TổNG SảN PHẩm TroNG NướC (GDP) (%)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Xuân Mậu Tuất
35TÀI CHÍNH - Tháng 01/2018
tư: (i) Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất ngành Giáo dục được thực hiện, kể cả tại các
vùng dân tộc thiểu số và vùng khó khăn, đến nay
một số tỉnh, thành phố đã quy hoạch các khu đô
thị đại học và triển khai thực hiện như Hà Nội,
TP. Hồ Chí Minh, Hà Nam, Hưng Yên... (ii) Các
công trình hạ tầng y tế đang thi công được đẩy
nhanh tiến độ và hoàn thành, sớm đưa vào hoạt
động. Đang triển khai đầu tư xây dựng 05 bệnh
viện hiện đại, kỹ thuật cao, ngang tầm các nước
tiên tiến trong khu vực, góp phần giảm quá tải các
bệnh viện tuyến trung ương và bệnh viện tuyến
cuối; (iii) Các thiết chế văn hóa, thể thao từ Trung
ương đến địa phương được quan tâm đầu tư và
tăng cường, một số công trình văn hóa, thể thao
quy mô lớn kiến trúc đẹp được đầu tư xây dựng
(nhà văn hóa, sân vận động...).
- Các công trình kết cấu hạ tầng để xây dựng nông
thôn mới được đẩy mạnh, đã thực sự phát huy tác
dụng, bộ mặt nông thôn được đổi mới, đời sống
nhân dân được nâng lên.
một số tồn tại, hạn chế
Thực tế cho thấy, lĩnh vực đầu tư công của nước
ta hiện nay vẫn tồn tại một số hạn chế, yếu kém cần
được khắc phục, đặc biệt là nhìn từ góc độ yêu cầu
của phát triển bền vững.
Thứ nhất, cơ cấu đầu tư công chưa hợp lý: Trong
cơ cấu đầu tư chung toàn xã hội, vốn đầu tư khu
vực nhà nước còn chiếm tỷ lệ cao (trung bình giai
đoạn 2011-2015 khoảng 39%) và chưa có xu hướng
giảm. Trong một số ngành, vốn đầu tư nhà nước
vẫn chiếm tỷ lệ quá lớn trong tổng vốn đầu tư toàn
xã hội, như ngành Giáo dục Đào tạo, ngành Y tế.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 2015, tỷ
trọng vốn đầu tư công trên tổng đầu tư cho lĩnh
vực giáo dục đào tạo là 78,7%; y tế: 67,2%; sản
xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước, điều hòa không khí: 74%; thông tin và truyền
thông: 63,5%; hoạt động chuyên môn và khoa học
công nghệ: 61,2%; nghệ thuật vui chơi và giải trí:
71,7%. Cơ cấu đầu tư nội bộ ngành, lĩnh vực còn
chưa hợp lý (chi nông nghiệp chủ yếu vào hệ thống
thủy lợi, chi giao thông vận tải chủ yếu vào đường
bộ...) và chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu
tư và chi thường xuyên (đảm bảo trang thiết bị, vận
hành, duy tu, bảo dưỡng...).
Đầu tư vốn ngân sách nhà nước vẫn dựa chủ yếu
vào nguồn bội chi ngân sách (vay nợ trong nước và
nước ngoài) do cân đối ngân sách gặp khó khăn. Tỷ
trọng chi đầu tư phát triển trên tổng chi ngân sách
Nguyên, Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng
sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, các công
trình được hoàn thành góp phần quan trọng thúc
đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Hạ tầng đô thị: Hạ tầng đô thị, nhất là ở các thành
phố lớn được đầu tư nhiều công trình hạ tầng kỹ
thuật đô thị như các trục giao thông hướng tâm, các
đường vành đai, các nút giao lập thể tại các giao lộ
lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên là các vành
đai, các tuyến đường sắt đô thị tại Hà Nội và TP. Hồ
Chí Minh các công trình cấp nước, thoát nước, thu
gom và xử lý chất thải rắn cũng được cải tạo, nâng
cấp và xây dựng mới.
- Hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế được các
địa phương tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống
hạ tầng kỹ thuật, giải quyết tình trạng thiếu nhà ở
và các hạ tầng xã hội thiết yếu (nhà trẻ, mẫu giáo,
trường học, dịch vụ khám chữa bệnh...) cho lao
động trong các khu công nghiệp; Hệ thống hạ tầng
thương mại phát triển nhanh; Hạ tầng thông tin và
truyền thông phát triển mạnh, đảm bảo hiện đại,
rộng khắp, kết nối với quốc tế và từng bước hình
thành siêu xa lộ thông tin.
- Hạ tầng giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ,
y tế, văn hóa, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu
6,5% - 6,7% Tổng sản phẩm trong nước (GDP)
7% - 8%
58% - 60% Tỷ lệ lao động qua đào tạo
Tổng kim ngạch xuất khẩu
< 3% Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu
~ 4% Tốc độ tăng giá tiêu dùng bình quân
~ 33%-34%
GDP
Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội
26 giường
(không tính giường
trạm y tế xã)
Số giường bệnh trên một vạn dân
85,2% Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế
88%
Khu công nghiệp, khu chế xuất
có hệ thống xử lý nước thải tập trung
đạt tiêu chuẩn môi trường
41,6% Tỷ lệ che phủ rừng
<4% Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị
HìNH 2: Kế HoạCH PHáT TrIểN KINH Tế - xã HộI Năm 2018
Nguồn: Nghị quyết 48/2017/QH14 ngày 10/11/2017 của Quốc hội
về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2018.
36
nhà nước giảm dần theo mức giảm bội chi ngân
sách nhà nước, năm 2015 khoảng 17,4% (so với năm
2011 là 26,4%).
Thứ hai, tình trạng lãng phí, thất thoát trong
đầu tư công còn diễn biến phức tạp: Tình trạng
lãng phí, thất thoát, chi chưa đúng chế độ, chính
sách, không bố trí đủ nguồn vốn, chất lượng công
trình thấp trong đầu tư xây dựng vẫn chưa được
giải quyết triệt để. Một số bộ, ngành trung ương
và địa phương vẫn đề xuất khởi công mới các dự
án, trong khi chưa cân đối đủ nguồn vốn để thanh
toán nợ đọng xây dựng cơ bản hoặc mức vốn bố
trí quá thấp, không bảo đảm hoàn thành dự án
theo đúng thời gian và tiến độ đã phê duyệt. Nợ
đọng xây dựng cơ bản chưa được xử lý triệt để và
chủ yếu tập trung ở khối địa phương. Tình trạng
nợ xây dựng cơ bản và ứng trước đầu tư lớn, thể
hiện kỷ luật đầu tư công còn chưa chặt chẽ, dẫn
đến áp lực đối với điều hành và cân đối ngân sách
nhà nước. Tình trạng đầu tư phân tán, dàn trải,
hiệu quả thấp vẫn chưa được khắc phục. Dự án
dở dang nhiều, thời gian thi công kéo dài, chậm
tiến độ, tăng tổng mức đầu tư, gây lãng phí thất
thoát nguồn lực tài chính nhà nước chưa được xử
lý triệt để.
Thứ ba, chất lượng thể chế quản lý đầu tư công
còn hạn chế, hiệu quả đầu tư công chậm cải thiện.
Nhiều vấn đề của thể chế quản lý đầu tư công (gồm
việc quy hoạch, lựa chọn dự án, thực hiện dự án,
quản lý xây dựng, đánh giá, giám sát dự án) còn yếu
kém, chưa được thực hiện theo thông lệ quốc tế. Thể
chế pháp luật về đầu tư công hiện nay chưa thực
sự hoàn thiện; Chưa khắc phục triệt để tình trạng
chồng chéo giữa các văn bản pháp luật có liên quan
đến đầu tư công. Một số quy định về đầu tư công
còn chưa thống nhất, mâu thuẫn với các quy định
tại các luật khác, các quy định của Quốc hội, Chính
phủ hoặc quy định chưa phù hợp gây khó khăn
trong việc thực hiện, làm ảnh hưởng tới tiến độ giải
ngân của dự án.
Các dự án đầu theo hình thức công tư (PPP) gần
bảNG 2: TốC Độ PHáT TrIểN vốN Đầu Tư PHáT TrIểN ToÀN xã HộI
CáC Năm 2015-2017 So vớI Năm TrướC (THeo GIá HIệN HÀNH) (%)
Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017
Tổng số 111,9 108,9 112,1
Khu vực nhà nước 106,8 107,3 106,7
Khu vực ngoài nhà nước 112,8 109,5 116,8
Khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 119,9 110,4 112,8
Nguồn: Tổng cục Thống kê
đây được chú ý nhiều để huy động đầu tư của tư
nhân vào phát triển kết cấu hạ tầng nhưng mới chỉ
tập trung vào lĩnh vực giao thông, năng lượng và
chất lượng dự án còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu
đề ra. Tỷ lệ thu hút vốn nước ngoài trong các dự án
PPP còn hạn chế, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực
điện. Việc quản lý các dự án BOT, BT... còn nhiều
hạn chế, yếu kém, gây ra nhiều hệ lụy cả về kinh tế
lẫn xã hội.
Tình hình nêu trên có nhiều nguyên nhân, cả
khách quan lẫn chủ quan. Nguyên nhân khách quan
chủ yếu vẫn là nền kinh tế còn kém phát triển, quy
mô nguồn vốn để thực hiện đầu tư công nhỏ, trong
khi nhu cầu vốn rất lớn. Nguyên nhân chủ quan về
quản lý đầu tư công vẫn là lớn nhất, trong đó có vấn
đề về chất lượng các văn bản pháp luật; Phân cấp,
phân quyền giữa Trung ương và địa phương; Công
tác quản lý và cách thức triển khai các dự án; giải
quyết vấn đề nợ đọng xây dựng cơ bản tồn đọng từ
nhiều năm; năng lực quản lý của chủ đầu tư và ban
quản lý dự án còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu;
các chính sách và quy định về quản lý đầu tư theo
hình thức PPP còn nhiều bất cập...
Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công
trong năm 2018 và những năm tiếp theo
Bên cạnh việc thực hiện tốt các nhiệm vụ giải
pháp mà Nghị quyết của Quốc hội đề ra như:
“Tăng cường kỷ luật tài chính - ngân sách; Cơ cấu
lại ngân sách nhà nước theo hướng tăng dần tỷ
trọng thu nội địa, tỷ trọng chi đầu tư phát triển,
giảm tỷ trọng chi thường xuyên, bảo đảm chi an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội và quốc phòng, an
ninh; Kiểm soát chặt chẽ bội chi, nợ của Trung
ương và địa phương; Nghiên cứu hoàn thiện
khung pháp lý về đầu tư theo hình thức đối tác
công tư”, một số vấn đề cần được quan tâm đối
với lĩnh vực đầu tư công năm 2018 và một số năm
tiếp theo như sau:
Một là, đổi mới mạnh mẽ tư duy về đầu tư công
dựa trên việc đáp ứng các nhu cầu của phát triển bền
vững. Ngay từ năm 2018, các dự
án đầu tư công phải được thuyết
minh với tầm nhìn đủ dài, hợp lý.
Đầu tư công với chức năng là một
trong những công cụ của Nhà
nước trong quản lý và phát triển
xã hội, do đó, cần được nhìn nhận
dưới nhãn quan chung về phát
triển bền vững của quốc gia. Theo
đó, hướng đầu tư công phải đảm
Xuân Mậu Tuất
37TÀI CHÍNH - Tháng 01/2018
lập mới quy hoạch cho giai đoạn 2021-2030 ngay từ
đầu năm 2018 theo hướng đổi mới cách thức lập và
quản lý, khắc phục những bất cập hiện nay.
- Lựa chọn dự án: Việc lựa chọn các dự án đầu tư
công nhất thiết phải được tiến hành bằng hình thức
đấu thầu công khai. Việc xét thầu cần thông qua
cách tổ chức hội đồng xét thầu độc lập và chuyên
nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng khía cạnh công
nghệ kỹ thuật, thời gian và tài chính. Các cơ quan
quản lý nhà nước trên cơ sở kết quả thẩm định của
Hội đồng này để quyết định lựa chọn người thắng
thầu.
- Giám sát thực hiện dự án: Thực hiện công khai,
minh bạch thông tin đối với đầu tư công; Tăng
cường công tác giám sát thực hiện kế hoạch đầu tư
công và thực hiện các chương trình, dự án đầu tư cụ
thể; Thực hiện nghiêm chế độ báo cáo tình hình thực
hiện kế hoạch đầu tư công định kỳ hoặc đột xuất
theo chế độ báo cáo quy định; Việc giám sát được
thực hiện cả từ cơ quan quản lý, các nhà chuyên
môn và công chúng.
- Đánh giá dự án: Việc đánh giá kết quả thực
hiện dự án cũng cần được thực hiện bởi một tổ chức
đánh giá độc lập và chuyên nghiệp, dựa trên những
tiêu chí rõ ràng, khách quan, bao gồm các khía cạnh
công nghệ, hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế và
hiệu quả kinh tế - xã hội đạt được. Kết quả đánh giá
dự án cũng được công bố công khai với các cơ quan
quản lý, các nhà thầu và cộng đồng dân cư.
Với các giải pháp trên, hy vọng năm 2018 sẽ thực
sự là năm bản lề, đánh dấu bước chuyển biến rõ nét
trong đổi mới đầu tư công, qua đó góp phần tạo
chuyển biến rõ nét trong thực hiện 3 đột phá chiến
lược, đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại
nền kinh tế, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng
suất lao động và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
2011-2020;
2. Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương: Bẫy thu nhập trung
bình – Bài học cho Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội 2014;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2016;
4. Dani Rodrik, Tư duy mới về phát triển cho thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội 2000;
5. Luật Đầu tư công 49/2014/QH13;
6. Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung
hạn giai đoạn 2016-2020 (11/2016);
7. Nghị quyết số 48/2017/QH14 ngày 10/11/2017 của Quốc hội về Kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội năm 2018.
bảo những yếu tố cơ bản, nền tảng cho sự phát triển
kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường, ứng phó hiệu
quả với những tác động xấu của biến đổi khí hậu.
- Về phương hướng đầu tư phát triển hạ tầng
kỹ thuật: Trước mắt cần ưu tiên đầu tư hỗ trợ thực
hiện các dự án đầu tư xây dựng các công trình hạ
tầng kinh tế - xã hội lớn, quan trọng, thiết yếu,
có tính lan tỏa trong các vùng, miền: giao thông,
điện, nước, thủy lợi, thủy sản phục vụ đánh bắt xa
bờ, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, y
tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và các nguồn tài
nguyên thiên nhiên, ứng phó với biến đổi khí hậu,
hạn hán, xâm nhập mặn, thực hiện Chiến lược tăng
trưởng xanh; Tập trung nguồn lực để tập trung
cho những dự án, những vùng kinh tế động lực để
nhanh chóng phát huy năng lực, tạo sức bật cho nền
kinh tế. Mặt khác, ngân sách nhà nước cần ưu tiên
hơn cho các vùng miền núi, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số, các vùng thường xuyên bị thiên tai, bão lũ
và các vùng còn nhiều khó khăn.
- Về cơ chế đầu tư: Trong điều kiện kinh tế thị
trường và nguồn vốn từ ngân sách hạn hẹp, việc bố
trí vốn phải quán triệt nguyên tắc ưu tiên sử dụng
vốn ngân sách nhà nước như là vốn “mồi” để khai
thác tối đa các nguồn vốn của các thành phần kinh
tế khác. Đồng thời, mở rộng các phương thức đầu
tư, đặc biệt là hình thức PPP; Thực hiện chủ trương
xã hội hóa một cách rộng rãi đối với các dịch vụ
công; Tổ chức thực hiện hiệu quả kế hoạch đầu tư
công trung hạn gắn với kế hoạch tài chính trung hạn
và kế hoạch vay, trả nợ công.
Hai là, cải cách mạnh mẽ công tác quản lý đầu tư công
ở tất cả các khâu của chu kỳ dự án.
- Quy hoạch: Nâng cao chất lượng công tác lập và
quản lý quy hoạch phát triển làm căn cứ xây dựng
các chương trình và kế hoạch đầu tư công trung
hạn. Sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Quy hoạch để có thể triển khai ngay công tác
1667
(nghìn tỷ đồng)
594
676
396
Khu vực nhà nước
Khu vực ngoài nhà nước
Khu vực FDI
TổNG vốN Đầu Tư ToÀN xã HộI Năm 2017
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dau_tu_cong_nhung_van_de_dat_ra_cho_nam_2018.pdf