Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
cần thu hút có chọn lọc các dự án có chất
lượng, công nghệ cao, thân thiện môi trường,
sản phẩm có sức cạnh tranh và phù hợp với
định hướng cơ cấu lại nền kinh tế của từng
ngành, từng vùng. Đặc biệt thu hút các dự án
quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao tham
gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn
xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Đồng thời
chuyển dần thu hút vốn FDI với lợi thế nhân
công giá rẻ sang cạnh tranh bằng nguồn nhân
lực chất lượng cao.
Mở rộng các hình thức đầu tư, tiếp tục
rà soát để đơn giản hóa thủ tục hành chính,
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông
thoáng, thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu
tư nhằm tạo đột phá thu hút vốn đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP). Đồng thời
huy động nguồn lực đất đai, tài nguyên cho
đầu tư phát triển và đẩy mạnh thực hiện chủ
trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công
cộng, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, chăm
sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục đào tạo, văn
hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người
dân ở nông thôn.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 247 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư công: Những vấn đề đặt ra cho năm 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
33TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
I. NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ
YẾU NĂM 2020
Tiếp tục đà tăng trưởng kinh tế năm 2019,
năm 2020 sẽ được xem như là năm quan
trọng trong việc củng cố vững chắc nền tảng
kinh tế vĩ mô: kiểm soát lạm phát, nâng cao
năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh
tế; thực hiện hiệu quả, thực chất hơn các đột
phá chiến lược, tái cơ cấu nền kinh tế gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh
của nền kinh tế; phát huy vai trò của các vùng
kinh tế trọng điểm và các đô thị lớn; thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững; phấn
đấu năm 2020 đạt tốc độ tăng trưởng GDP
khoảng 6,8%
QUẢN LÝ - KINH TẾ
ĐẦU TƯ CÔNG: NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CHO NĂM 2020
Đỗ Tuấn Vũ
Đại học Công nghệ và quản lý Hữu Nghị Hà Nội
Email: Dotuanvu237@gmail.com
Tóm tắt: Đầu tư công từ trước đến nay vẫn luôn là một vấn đề nóng đối với nhiều quốc
gia mà Việt nam không phải là ngoại lệ. Có thể khẳng định rằng: đây là bài toán không hề
mới song chưa bao giờ khiến các chuyên gia kinh tế và những nhà chính sách ngừng đi
tìm kiếm lời giải. Đánh giá một cách khách quan: đầu tư công của Việt Nam mặc dù trong
vài năm trở lại đây đã có sự cải thiện nhất định song nhìn chung vẫn còn rất nhiều điều
bất cập. Bài viết này sẽ giới thiệu một số nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của năm 2020
và chỉ ra những vấn đề cần thay đổi trong lĩnh vực đầu tư công để góp phần thực hiện tốt
những nhiệm vụ mới năm 2020.
Từ khóa: Đầu tư công, Kinh tế đầu tư, Kinh tế Việt Nam.
Bên cạnh các chỉ tiêu kinh tế thường niên,
điểm nhấn đáng lưu ý năm 2020 là phải tạo
chuyển biến rõ nét trong thực hiện ba đột
phá chiến lược: đổi mới mô hình tăng trưởng
gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất
lượng tăng trưởng, năng suất lao động và sức
cạnh tranh của nền kinh tế. Vì vậy, tinh thần
chung của năm 2020 sẽ là: Đổi mới, sáng
tạo, tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, bền vững
hơn. Nhiệm vụ này gắn liền với những yêu
cầu tiếp tục đổi mới mạnh mẽ toàn bộ nền
kinh tế nói chung, đặc biệt là lĩnh vực đầu tư
công nói riêng.
34 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
ĐẦU TƯ CÔNG
2.1. Tổng quát tình hình đầu tư công thời
gian qua:
Luật Đầu tư công của Việt Nam năm 2014
(số 49/2014/QH13) quy định: “Đầu tư công
là hoạt động đầu tư của Nhà nước vào các
chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế – xã hội và đầu tư vào các chương
trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã
hội”. Đầu tư công là một bộ phận quan trọng
của tổng cầu. Kinh tế học chính thống cho
rằng, đầu tư công có tác dụng thúc đẩy tổng
cầu thông qua số nhân tài chính và do vậy,
đầu tư công có vai trò quan trọng thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh đó, đầu tư công
còn có tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và góp phần nâng cao trình độ khoa
học kĩ thuật.
Giá trị và cơ cấu đầu tư công theo khu
vực kinh tế của Việt Nam từ năm 2010 đến
2017
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Đầu tư công có ý nghĩa rất quan trọng đối
với nhiều nền kinh tế, nhất là những nước
đang phát triển, đặc biệt là nhìn từ góc độ
1
ĐẦU TƯ CÔNG: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO NĂM 2020
Đỗ Tuấn Vũ
Dotuanvu237@gmail.com
Đại học Công nghệ và quản lý Hữu Nghị Hà Nội
Tóm tắt: Đầu tư công từ trước đến nay vẫn luôn là một vấn đề nóng đối với nhiều quốc gia mà Việt nam không phải
là ngoại lệ. Có thể khẳng định rằng: đây là bài toán không hề mới song chưa bao giờ khiến các chuyên gia kinh tế và
những nhà chính sách ngừng đi tìm kiếm lời giải.
Đánh giá một cách khách quan: đầu tư công của Việt Nam mặc dù trong vài năm trở lại đây đã có sự cải thiện nhất
định song nhìn chung vẫn còn rất nhiều điều bất cập.
Bài viết này sẽ giới thiệu một số nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của năm 2020 và chỉ ra những vấn đề cần thay đổi
trong lĩnh vực đầu tư công để góp phần thực hiện tốt những nhiệm vụ mới năm 2020.
Từ khóa: Đầu tư công, Kinh tế đầu tư, Kinh tế Việt Nam.
I. NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI CHỦ YẾU NĂM
2020
Tiếp tục đà tăng trưởng kinh tế năm 2019, năm 2020
sẽ được xem như là năm quan trọng trong việc củng cố
vững chắc nền tảng kinh tế vĩ mô: kiểm soát lạm phát,
nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế;
thực hiện hiệu quả, thực chất hơn các đột phá chiến lược,
tái cơ cấu nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế; phát huy vai trò của các vùng
kinh tế trọng điểm và các đô thị lớn; thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhanh, bền vững; phấn đấu năm 2020 đạt tốc độ
tăng trưởng GDP khoảng 6,8%
Bên cạnh các chỉ tiêu kinh tế thường niên, điểm nhấn
đáng lưu ý năm 2020 là phải tạo chuyển biến rõ nét trong
thực hiện ba đột phá chiến lược: đổi mới mô hình tăng
trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng
tăng trưởng, năng suất lao động và sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Vì vậy, tinh thần chung của năm 2020 sẽ là: Đổi
mới, sáng tạo, tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, bền vững
hơn. Nhiệm vụ này gắn liền với những yêu cầu tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ toàn bộ nền kinh tế nói chung, đặc biệt
là lĩnh vực đầu tư công nói riêng.
II. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ
CÔNG
2.1. Tổng quát tình hình đầu tư công thời gian qua:
Luật Đầu tư công của Việt Nam năm 2014 (số
49/2014/QH13) quy định: “Đầu tư công là hoạt động đầu
tư của Nhà nước vào các chương trình, dự án xây dựng
kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội và đầu tư vào các chương
trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế – xã hội”. Đầu tư
công là một bộ phận quan trọng của tổng cầu. Kinh tế học
chính thống cho rằng, đầu tư công có tác dụng thúc đẩy
tổng cầu thông qua số nhân tài chính và do vậy, đầu tư
công có vai trò quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh đó, đầu tư công còn có tác động đến sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và góp phần nâng cao trình độ khoa
học kĩ thuật.
Đầu tư cô g có ý nghĩa rất quan trọng đối với nhiều
nền kinh tế, nhất là những nước đang phát triển, đặc biệt
là nhìn từ góc độ đảm bảo cơ sở cho phát triển bền vững.
Ở Việt Nam, số liệu Tổng cục Thống kê cho thấy, tổng
giá trị đầu tư công tăng đều qua các năm từ 830,3 nghìn tỷ
năm 2010 đến 1.668,6 ng ìn tỷ năm 2017. Tuy nhiên, cơ
cấu đầu tư có sự thay đổi rõ nét. Tỷ trọng đầu tư công cho
khu vực Kinh tế nhà nước & Khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài có xu hướng giảm dần, trong khi tỷ trọng đầu tư
công cho khu vực Kinh tế ngoài nước tăng rõ rệt. Cơ cấu
của 3 nguồn vốn này thay đổi lần lượt từ 38,1%; 25,6% và
36,1% (năm 2010) đến 35,7%; 23,7% và 40,6% (năm
2017).
Giá trị và cơ cấu đầu tư công theo khu vực kinh tế của
Việt Nam từ năm 2010 đến 2017
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
đảm bảo cơ sở cho phát triển bền vững. Ở
Việt Nam, số liệu Tổng cục Thống kê cho thấy,
tổng giá trị đầu tư công tăng đều qua các năm
từ 830,3 nghìn tỷ năm 2010 đến 1.668,6 nghìn
tỷ năm 2017. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư có sự
thay đổi rõ nét. Tỷ trọng đầu tư công cho khu
vực Kinh tế nhà nước & Khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài có xu hướng giảm dần, trong
khi tỷ trọng đầu tư công cho khu vực Kinh tế
ngoài nước tăng rõ rệt. Cơ cấu của 3 nguồn
vốn này thay đổi lần lượt từ 38,1%; 25,6%
và 36,1% (năm 2010) đến 35,7%; 23,7% và
40,6% (năm 2017).
Giá trị và cơ cấu đầu tư công theo nhóm
ngành của Việt Nam từ năm 2010 đến 2017
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Vốn đầu tư công phần lớn được dành cho
lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng, gồm cả hạ
tầng cứng (đường giao thông, sân bay, bến
cảng, cấp thoát nước, điện, viễn thông),
lẫn hạ tầng mềm (y tế, giáo dục). Trong đó
vốn đầu tư dành cho ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo và ngành vận tải, kho bãi chiếm
tỷ trọng lớn nhất. Nguồn vốn cho ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo không những tăng
mạnh về tổng giá trị (161,9 nghìn tỷ năm 2010
lên 465,5 nghìn tỷ năm 2017), mà tỷ trọng so
với các ngành khác cũng tăng đáng kể (19%
năm 2010 lên 28% năm 2017). Tổng nguồn
vốn dành cho ngành vận tải, kho bãi cũng
35TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
tăng gần gấp đôi từ 95,8 nghìn tỷ năm 2010
lên 171 nghìn tỷ năm 2017. Điều này nằm
trong lộ trình kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội 2016 - 2020 của chính phủ về việc tăng tỷ
trọng ngành công nghiệp và dịch vụ năm 2020
khoảng 85% tổng GDP.
Nguồn vốn cho xây dựng cũng được chú
trọng, đạt mức 103,5 nghìn tỷ trong năm 2017,
gấp 3 lần so với năm 2010. Một số công trình
giao thông quan trọng, quy mô lớn như các
tuyến đường cao tốc, cảng hàng không, cảng
biển được đầu tư, nâng cấp, nâng cao năng
lực kết nối giữa các vùng miền trong nước và
giao thương quốc tế. Đến nay, đã hoàn thành
nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 1 từ Thanh Hóa
đến Cần Thơ; Nối thông tuyến đường Hồ Chí
Minh đoạn qua Tây Nguyên; Hoàn thành và
đưa vào khai thác, sử dụng 746 km đường
cao tốc, đang tiếp tục đầu tư xây dựng 513
km; Hoàn thành các công trình cảng hàng
không quan trọng như Nội Bài (nhà ga T2,
nhà khách VIP), Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng,
Cần Thơ, Vinh, Phú Quốc (xây mới), Liên
Khương, Pleiku, Thọ Xuân; Hoàn thành đầu
tư cảng cửa ngõ quốc tế Cái Mép - Thị Vải
(Bà Rịa - Vũng Tàu) và nhiều cảng khác, đưa
tổng công suất các cảng lên khoảng 470 triệu
tấn năm 2015. Đồng thời, hàng loạt công trình
hạ tầng giao thông trọng điểm khác có quy
mô lớn đang được đẩy nhanh tiến độ thi công,
nhất là hạ tầng giao thông ở các vùng kinh tế
trọng điểm, các đô thị lớn.
Tại các thành phố lớn, nhà nước đầu tư
nhiều công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị như
các trục giao thông hướng tâm, các đường
vành đai, các nút giao lập thể tại các giao lộ
lớn, tuyến tránh đô thị, đặc biệt ưu tiên là các
vành đai, các tuyến đường sắt đô thị tại Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh các công trình cấp
nước, thoát nước, thu gom và xử lý chất thải
rắn cũng được cải tạo, nâng cấp và xây dựng
mới.
Hạ tầng giáo dục, đào tạo và khoa học
công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch...
được quan tâm đầu tư: Nhiều dự án đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất ngành Giáo dục được
thực hiện, kể cả tại các vùng dân tộc thiểu số
và vùng khó khăn, đến nay một số tỉnh, thành
phố đã quy hoạch các khu đô thị đại học và
triển khai thực hiện như Hà Nội, TP. Hồ Chí
Minh, Hà Nam, Hưng Yên; Các công trình
hạ tầng y tế đang thi công được đẩy nhanh
tiến độ và hoàn thành, sớm đưa vào hoạt
động. Đang triển khai đầu tư xây dựng 05
bệnh viện hiện đại, kỹ thuật cao, ngang tầm
các nước tiên tiến trong khu vực, góp phần
giảm quá tải các bệnh viện tuyến trung ương
và bệnh viện tuyến cuối; Các thiết chế văn
hóa, thể thao từ Trung ương đến địa phương
được quan tâm đầu tư và tăng cường, một số
công trình văn hóa, thể thao quy mô lớn kiến
trúc đẹp được đầu tư xây dựng (nhà văn hóa,
sân vận động...).
Nhìn chung, việc thực hiện kế hoạch đầu
tư công trung hạn giai đoạn 2016–2020 đã
mang lại nhiều tín hiệu tích cực. Cụ thể:
Một là, việc lập kế hoạch đầu tư công
trung hạn phần nào khắc phục các tồn tại của
việc lập ngân sách kép, tức là tình trạng tách
biệt giữa chức năng quản lý ngân sách chi
tiêu thường xuyên (thuộc Bộ Tài chính) và
chức năng quản lý chi tiêu đầu tư (thuộc Bộ
Kế hoạch và Đầu tư). Việc lập kế hoạch đầu
tư công đã khắc phục được một số những
tồn tại như: (1) Đầu tư công quá mức và dàn
trải; (2) Đầu tư công không gắn kết với khả
năng ngân sách (dẫn đến tình trạng nợ công
cao); (3) Đầu tư công không cân nhắc đầy đủ
các tác động dài hạn tới việc gia tăng chi tiêu
thường xuyên (không cân nhắc đầy đủ các
chi phí bảo trì, bảo dưỡng, vận hành sau khi
dự án hoàn thành); (4) Không có sự cân bằng
phù hợp giữa chi tiêu thường xuyên và chi
đầu tư, giữa đầu tư hạ tầng vật chất và đầu tư
hạ tầng xã hội.
Hai là, khắc phục tình trạng chuẩn bị đầu
36 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
tư kém chất lượng bằng quy định pháp lý như:
yêu cầu các dự án phải được thẩm định, phê
duyệt chủ trương và hiện đại hóa công tác
thẩm định, lựa chọn các dự án. Luật Đầu tư
công đã quy định toàn bộ các dự án đầu tư
công phải được sắp xếp theo thứ tự ưu tiên
(Điều 52) và được phê duyệt chủ trương (Điều
55). Điều này làm thay đổi đáng kể nhận thức
của các cấp, các ngành về tầm quan trọng
của khâu chuẩn bị đầu tư, nhất là đề cao vai
trò của khâu xác định chủ trương đầu tư. Đây
là điều kiện rất cần thiết đảm bảo các dự án
có chất lượng, hiệu quả, đúng định hướng
phát triển.
Ba là, công tác thẩm định kế hoạch đầu tư
công được quy định khá chặt chẽ tại Luật Đầu
tư công và Nghị định 77/2015/NĐ-CP. Theo
đó, kế hoạch đầu tư công được thẩm định nội
bộ tại cơ quan, đơn vị sử dụng vốn và được
thẩm định chính thức bởi cơ quan quản lý nhà
nước về đầu tư các cấp. Việc thẩm định kỹ
lưỡng đã giúp các dự án được đảm bảo về
nguồn vốn và bố trí theo đúng các nguyên tắc,
tiêu chí, định mức và thứ tự ưu tiên đã đề ra.
Bốn là, việc thực hiện kế hoạch đầu tư
công trung hạn bước đầu góp phần nâng cao
hiệu quả đầu tư, được thể hiện quả chỉ số Đầu
tư tăng trưởng ICOR.
Theo báo cáo Tổng quan kinh tế - xã hội
Việt Nam năm 2018 của Tổng cục thống kê,
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư thể hiện qua chỉ
số ICOR đang dần được cải thiện, từ mức
6,42 năm 2016 giảm xuống còn 6,11 năm
2017 và ước tính năm 2018 là 5,97, bình quân
giai đoạn 2016-2018 hệ số ICOR ở mức 6,17,
thấp hơn mức 6,25 của giai đoạn 2011-2015.
Việc thực hiện kế hoạch đầu tư công trung
hạn đã tăng cường sự công khai, minh bạch
trong phân bổ nguồn lực, thúc đẩy tái cơ cấu
đầu tư công. Nếu so sánh với khung phân tích
đánh giá PIMA về Quản lý đầu tư công của
Quỹ Tiền tệ Quốc tế, việc ban hành và thực
hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn có tiềm
năng góp phần cải thiện 6 trong số 15 chỉ tiêu
của PIMA, bao gồm: (1) Tăng cường kỷ luật
ngân sách; (2) Thiết lập kế hoạch đầu tư công
quốc gia và đầu tư công từng ngành; (3) Tăng
cường sự phối hợp giữa trung ương và địa
phương trong quản lý đầu tư công; (4) Góp
phần xây dựng khuôn khổ minh bạch để lựa
chọn, giám sát và quản lý Hợp tác công tư
(PPP); (5) Lập kế hoạch ngân sách trung hạn;
(6) Tăng cường sự toàn diện và thống nhất
của ngân sách, tránh tính trạng ngân sách
song trùng, phân tách giữa lập ngân sách chi
thường xuyên và chi đầu tư.
2.2. Một số tồn tại, hạn chế
Thứ nhất, tình trạng lãng phí, thất thoát
trong đầu tư công còn diễn biến phức tạp: Tình
trạng lãng phí, thất thoát, chi chưa đúng chế
độ, chính sách, không bố trí đủ nguồn vốn,
chất lượng công trình thấp trong đầu tư xây
dựng vẫn chưa được giải quyết triệt để. Trong
chỉ thị 16/CT-TTg về xây dựng Kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của Thủ tướng, Thủ tướng
vẫn nhấn mạnh thủ tục hành chính, quy định
pháp lý trong các lĩnh vực quy hoạch, đầu tư,
xây dựng, đất đai, các quy định pháp luật, các
trình tự, thủ tục còn chưa rõ ràng, chồng chéo
trong phân cấp trách nhiệm, quyền hạn và cơ
chế phối hợp dẫn đến việc chậm tiến độ rất
nhiều dự án.
Thứ hai, tình trạng giải ngân chậm, chưa
giao hết vốn vẫn tồn tại. Nguyên nhân chủ yếu
là do một số bộ, ngành, địa phương chưa chủ
động, tích cực trong chỉ đạo triển khai và một
phần do các dự án, gói thầu mới cần được
thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định của
pháp luật về đấu thầu, xây dựng, đất đai...
Thành phố Hồ Chí Minh mới giải ngân được
26% trong tổng số 33.170 tỷ đồng của năm
2019. Vốn ODA thì khá hơn khi giải ngân
được khoảng 50% trong tổng số 800 tỷ đồng.
Hà Nội mới giải ngân được 24,7% kế hoạch
vốn giao cũng vì nguyên nhân chậm chi trả
giải phóng mặt bằng và các thủ tục đầu tư
37TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
phải tuân thủ trình tự, quy định của pháp luật.
Hiện nay vẫn còn hơn 35.000 tỷ đồng chưa
được Bộ KH&ĐT tổng hợp nhu cầu của các
bộ, ngành, địa phương để trình Thủ tướng
Chính phủ giao vốn, mà lẽ ra việc này phải
hoàn thành trong tháng 5/2019 (vốn ngân
sách Trung ương là gần 16.500 tỷ đồng, vốn
trái phiếu Chính phủ là hơn 4.200 tỷ đồng và
vốn nước ngoài là hơn 14.300 tỷ đồng).
Thứ ba, hệ thống pháp luật về ĐTC còn
phức tạp và thiếu tính đồng bộ. Đơn cử, Luật
ĐTC có nhiều điểm không phù hợp với Luật
NSNN khi vẫn còn hai cơ quan tổng hợp về
ngân sách. Luật NSNN quy định chu kỳ ổn
định ngân sách là 3 năm, còn kế hoạch và đầu
tư trung hạn là 5 năm. “Trong quá trình nghiên
cứu xây dựng dự thảo Luật ĐTC sửa đổi,
Chính phủ đã từng trình Quốc hội dự thảo quy
định việc lập kế hoạch 3 năm theo phương
thức cuốn chiếu với quan điểm nhằm tạo sự
thống nhất với kế hoạch tài chính – ngân sách
3 năm. Tuy nhiên, rất tiếc đề xuất này chưa
được cơ quan chủ trì soạn thảo luật bảo vệ
thành công, nên đã không đưa vào nội dung
dự thảo Luật ĐTC.
III. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CÔNG TRONG
NĂM 2020 VÀ NHỮNG NĂM TIẾP THEO
Các dự án ĐTC từ nguồn NSNN chính là
sử dụng tiền đóng thuế của người dân, nên
tính minh bạch, công khai của các dự án ĐTC
là vấn đề cử tri, dư luận hết sức quan tâm. Do
đó, cần nâng cao, tăng cường tính minh bạch,
công khai và trách nhiệm giải trình đối với các
dự án ĐTC. Những nội dung công khai, minh
bạch cũng cần mở rộng hơn, đặc biệt là tình
hình triển khai thực hiện và hiệu quả kinh tế
- xã hội của đầu tư. Phương thức công khai
minh bạch cần được đổi mới để mọi người
dân đều có thể tham gia giám sát hoạt động
ĐTC.
Đặc biệt, cần xây dựng và chuẩn hóa các
chỉ tiêu, tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế - xã
hội của hoạt động ĐTC. Nếu có thể, cần luật
hóa một số tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế -
xã hội hoạt động ĐTC. Bởi trên 80% vốn đầu
tư từ NSNN là do địa phương quản lý, nên
trong Luật ĐTC cần tạo ra cơ chế tự chủ cho
địa phương. Có thể nghiên cứu cơ chế khoán
cho địa phương để họ chủ động thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giới
hạn ngân sách (địa phương chủ động hơn
nhưng họ cũng thận trọng hơn). Trung ương
chỉ quản lý hiệu quả đầu tư theo các mục tiêu
đã xác định.
Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả
các nguồn vốn đầu tư của nền kinh tế theo cơ
chế thị trường.
Trong đó, đối với vốn đầu tư công, cần tập
trung đầu tư cho các chương trình mục tiêu
quốc gia, các dự án quan trọng quốc gia, các
chương trình mục tiêu và dự án trọng điểm,
có ý nghĩa lớn, lan tỏa đến phát triển kinh tế
- xã hội của cả nước và liên vùng, liên địa
phương.
Đối với các nguồn vốn vay để đầu tư kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (ODA, vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước...), cần tập
trung ưu tiên đầu tư phát triển hệ thống kết
cấu hạ tầng đồng bộ, quy mô lớn và hiện đại;
phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn
nhân lực chất lượng cao, phát triển khoa học,
công nghệ và kinh tế tri thức.
Về đầu tư khu vực tư nhân và dân cư,
khuyến khích đầu tư tăng cường trang thiết bị
có công nghệ tiên tiến, ứng dụng công nghệ
cao, đầu tư phát triển những sản phẩm có giá
trị cao; đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm
công nghiệp, công nghiệp phụ trợ,... Khuyến
khích khu vực tư nhân đầu tư có chiều sâu
vào các cơ sở nghiên cứu khoa học trong
nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong
đó đặc biệt chú trọng đầu tư chuyển giao tiến
bộ khoa học công nghệ cho sản xuất nông
nghiệp.
38 TẠP CHÍ KHOA HỌC
QUẢN LÝ VÀ CÔNG NGHỆ
Đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI),
cần thu hút có chọn lọc các dự án có chất
lượng, công nghệ cao, thân thiện môi trường,
sản phẩm có sức cạnh tranh và phù hợp với
định hướng cơ cấu lại nền kinh tế của từng
ngành, từng vùng. Đặc biệt thu hút các dự án
quy mô lớn, sản phẩm cạnh tranh cao tham
gia chuỗi giá trị toàn cầu của các tập đoàn
xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Đồng thời
chuyển dần thu hút vốn FDI với lợi thế nhân
công giá rẻ sang cạnh tranh bằng nguồn nhân
lực chất lượng cao.
Mở rộng các hình thức đầu tư, tiếp tục
rà soát để đơn giản hóa thủ tục hành chính,
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, thông
thoáng, thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu
tư nhằm tạo đột phá thu hút vốn đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP). Đồng thời
huy động nguồn lực đất đai, tài nguyên cho
đầu tư phát triển và đẩy mạnh thực hiện chủ
trương xã hội hóa đối với các dịch vụ công
cộng, đặc biệt trong các lĩnh vực y tế, chăm
sóc sức khỏe nhân dân, giáo dục đào tạo, văn
hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ
tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người
dân ở nông thôn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thành Chung (2019). Phó Thủ tướng:
'Giải ngân đầu tư công là vấn đề cấp bách,
nóng bỏng'. [online]. Xem:
vn/Kinh-te/Pho-Thu-tuong-Giai-ngan-dau-tu-
cong-la-van-de-cap-bach-nong-bong/373232.
vgp
2. Mạnh Hùng (2019). Nâng cao hiệu
quả đầu tư công. [online]. Xem: http://
dangcongsan.vn/thoi-su/nang-cao-hieu-qua-
dau-tu-cong-510026.html
3. Ban Chấp hành Trung ương, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020
4. Luật Đầu tư công 49/2014/QH13
5. Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc
hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai
đoạn 2016-2020 (11/2016)
6. Nghị định số 77/2015/NĐ-CP của
Chính phủ về kế hoạch đầu tư công trung hạn
và hằng năm
7. Tổng cục thống kê (2018), Tổng quan
kinh tế - xã hội Việt Nam năm 2018. [online].
Xem https://www.gso.gov.vn/default.aspx?tab
id=382&idmid=2&ItemID=19041
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dau_tu_cong_nhung_van_de_dat_ra_cho_nam_2020.pdf