Đầu tư, tăng trưởng và những hạn chế trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế dưới góc độ các lý thuyết về đầu tưMỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN I: CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Khái niệm
2. Một số chỉ tiêu đánh giá
2.1 Một số thước đo của sự tăng trưởng
2.1.1 Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc nội – GDP)
2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP)
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người
2.2. Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế
2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội
2.2.2. Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M)
2.2.3. Chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I)
3. Các quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế
3.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng
3.2. Quan điểm nhấn mạnh vào công bằng và bình đẳng trong xã hội
3.3 Quan điểm phát triển toàn diện
II. XEM XÉT MÔ HÌNH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ THEO QUAN ĐIỂM LỊCH SỬ.
1. Các mô hình dựa vào sự phân tích quá trình đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế.
1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển
1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883)
1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái tân cổ điển
1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes
1.5. Căn cứ vào các lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại
2. Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu nền kinh tế
2.1. Vai trò của kích cầu trong tăng trưởng kinh tế
2.2. Quan điểm của Keynes về vai trò của đầu tư với tổng cầu
3. Mô hình đầu tư tạo điều kiện cho việc phát triển ngành kinh tế mũi nhọn, từ đó tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow
3.2. Mô hình nhị nguyên của Lewis và Oshima
4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát khoủi vòng luẩn quẩn của đói nghèo
4.1. Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson
4.2. Lý thuyết đầu tư nước ngoài của Vernon về chu kỳ sống sản phẩm và mô hình của Akamateu
PHẦN II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA
1. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
2. Đầu tư trong nước
II. TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI TRONG ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1. Hạn chế của đầu tư
2. Hạn chế trong tăng trưởng phát triển kinh tế
IV. ĐÁNH GIÁ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM DƯỚI GÓC NHÌN TỪ CÁC MÔ HÌNH KINH TẾ
1. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow
2. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển
3. Hiệu quả vốn đầu tư được biểu hiện tổng hợp ở hệ số ICOR
4. Dựa vào vai trò của đầu tư với tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ các lý thuyết tăng trưởng => đầu tư với tổng cung và tổng cầu ở Việt Nam
PHẦN III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG SỬ DỤNG HIỆU QUẢ VỐN ĐẦU TƯ THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẦU TƯ CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ
KẾT LUẬN
48 trang |
Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1911 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư, tăng trưởng và những hạn chế trong quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế dưới góc độ các lý thuyết về đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rả lãi, nhưng lại phải đứng trước áp lực lớn của cạnh tranh nên phải giảm khấu hao để khỏi đội giá thành, giá bán... Nguồn trái phiếu chính phủ cũng phải trả lãi tính từ ngày vay nhưng giải ngân chậm....
2. Hạn chế trong tăng trưởng phát triển kinh tế
Bên cạnh những thành tựu to lớn và cơ bản đã đạt được, tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nước ta năm 2004 vẫn còn tồn tại nhiều bất cập đòi hỏi phải có những giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, tích cực hơn.
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung còn ở mức thấp so với kế hoạch. Chất lượng tăng trưởng, tính bền vững và độ đồng đều chưa cao. Điều này được thể hiện trong các ngành sản xuất và dịch vụ. Trong công nghiệp, giá trị sản xuất tăng 16% nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 0,7%. Tốc độ tăng trưởng của một số sản phẩm công nghiệp khai thác còn phụ thuộc vào thị trường thế giới. Giá hàng hoá, dịch vụ trong nước tăng cao. Mục tiêu giảm tỷ lệ sinh 0,04% không đạt kế hoạch đề ra. Tỷ lệ sinh con thứ ba tăng so với các năm trước đang tiềm ẩn khả năng bùng nổ dân số.
- Tăng trưởng kinh tế hiện nay do yếu tố vốn đầu tư đóng góp chiếm 57,5%; do yếu tố lao động đóng góp chiếm 20%; do yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp chiếm 22,5%. Điều đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế vẫn chủ yếu về số lượng, phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển biến về chất lượng và phát triển theo chiều sâu. Nếu những năm trước 1993, để GDP tăng 1 đồng chỉ cần đầu tư dưới 3,3 đồng, thì đến nay đã phải đầu tư trên dưới 5 đồng- có nghĩa là hiệu quả đầu tư giảm tới 34%. Ngay cả việc phát triển theo chiều rộng thì cũng nghiêng về yếu tố vốn đầu tư, là yếu tố mà nước ta còn thiếu, phải đi vay, vừa phải hoàn vốn, vừa phải trả lãi. Trong khi đó yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, hiện đang có nhiều lợi thế so sánh, như giá rẻ,dồi dào thì lại chỉ đóng vai trò rất nhỏ. Đây là một vấn đề rất đáng quan tâm để tận dụng lợi thế so sánh động trong phát triển kinh tế và chủ động hội nhập.
- Cơ cấu kinh tế hiện nay chẵng những dẫn đến nhập siêu gia tăng và kinh tế tăng trưởng chậm như đã nói trên, mà còn là một nguyên nhân hết sức quan trọng dẫn đến tình trạng "giậm chân tại chỗ" của thị trường trong nước.
- Mặt khác, với xu thế phát triển công nghiệp, cũng như dịch vụ ngày càng tập trung nhanh hơn vào một số trung tâm như hiện nay, dân cư khu vực nông thôn hầu như vẫn phải "đứng ngoài rìa làn sóng công nghiệp hoá". Có nghĩa là, sự phát triển của hai khu vực xương sống của nền kinh tế là công nghiệp và dịch vụ đang ngày cang mang lại lợi ích cho dân cư khu vực đô thị, còn thu nhập chủ yếu của dân cư khu vực nông thôn chiếm xấp xỉ 3/4 dân số của cả nước vẫn là từ khu vực nông nghiệp. Thực tế này chẳng những dẫn đến khoảng cách giàu nghèo giữa hai khu vực đô thị và nông thôn ngày càng tăng nhang, mà hệ quả tất yếu trước mắt là sức mua của thị trường trong nước không thể tăng nhanh như mong muốn.
- Tốc độ tăng trưởng khá của nhiều loại sản phẩm, nhiều ngành kinh tế trong cả nước thời gian qua có một phần quan trọng là do đang được bảo hộ. Từ nay, hàng sản xuất trong nước đang đứng trước sự cạnh tranh ngày một gay gắt hơn với hàng ngoại nhập.
- Chất lượng tăng trưởng còn thấp thể hiện cả trong bản thân quá trình tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng của giá trị tăng thêm thấp hơn tốc độ tăng trưởng của giá trị sản xuất do tốc độ tăng chi phí trung gian cao, làm tỷ lệ của chi phí trung gian tăng lên. Điều này diễn ra trong một thời gian khá dài ở cả ba khu vực.
- Cơ cấu lao động chậm chuyển dịch theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng lao động trong khu vực nông- lâm- ngư nghiệp vẫn là lớn nhất trên 64%, trong đó khu vực công nghiệp- xây dựng mới chiếm 12,9%. Tuy nhiên, năng suất lao động (tính bằng giá trị tăng thêm chia cho số lao động đang làm việc) ở khu vực nông- lâm- ngư nghiệp chưa được 4,5 triệu đồng/năm, trong khi đó của hai khu vực công nghiệp- xây dựng và dịch vụ đã đạt được 28,7 triệu đồng/năm, gấp 6,5 lần khu vực nông- lâm- ngư nghiệp. Chất lượng lao động cũng chậm được cải tiến, tình trạng "thừa thầy, thiếu thợ" trong cơ cấu đào tạo hiện nay đang là gánh nặng của nền kinh tế. Chính trình độ thiết bị, kỹ thuật- công nghệ, trình độ tay nghề còn thấp, nên năng suất các nhân tố tổng hợp còn đóng góp quá thấp cho tăng trưởng kinh tế.
- Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng hàng nguyên liệu, hàng thô, hàng sơ chế hoặc hàng gia công còn chiếm tỷ trọng khá cao, do đó khả năng thu hút ngoại tệ chưa được khai thác hết. Trong tổng số 19,1 tỷ USD hàng xuất khẩu trong chín tháng đầu năm 2004, kim ngạch của những mặt hàng này chiếm 3/4 tổng kim ngạch xuất khẩu...
IV. Đánh giá Đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dưới góc nhìn từ các mô hình kinh tế
1. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow:
Đặc trưng của giai đoạn này là: đây được coi là thời kỳ quá độ giữa xã hội truyền thống và sự cất cánh. Trong giai đoạn này nhiều điều kiện cần thiết để cất cánh đã bắt đầu xuất hiện, đó là những hiểu biết về khoa học – kĩ thuật đã bắt đầu được áp dụng vào sản xuất cả nông nghiệp và công nghiệp. Giáo dục được mở rộng và có những cải tiến để phù hợp với yêu cầu của sự phát triển. Nhu cầu đầu tư tăng lên đã thúc đẩy sự hoạt động của ngân hàng và sự ra đời của các tổ chức huy động vỗn. Tiếp đó giao lưu hàng hoá trong và ngoài nước tăng đã thúc đẩy sự hoạt động của ngành giao thông vận tải, thông tin liên lạc.
Ngành khoa học trong nước đã làm chủ được công nghệ sản xuất giống nhân tạo và công nghệ sản xuất một số loại thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Một số địa phương đã triển khai trên diện rộng những kết quả khoa học này mới này. Ngoài ra, ngành sản xuất lương thực cũng có những thay đổi rất đáng quan tâm: Tính đến tháng 9 năm 2004 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đã đạt trên 33,3 triệu tấn, trị giá 779 triệu USD giảm trên 5% về lượng nhưng tăng 28,3% về kim ngạch so với cùng kì năm trước; cho đến thời điểm này, các doanh nghiệp trong nước đã kí được hợp đỗng xuất khẩu 3,7 triệu tấn gạo và nhu cầu nhập khẩu gạo Việt Nam của các nước đang có xu hướng tăng, đặc biệt là các nước Châu Phi.
Để phát triển được một mức độ khoa học áp dụng vào thực tế thì nước ta đã có sự đầu tư rất thoả đáng vào giáo dục đặc biệt là từ 1985 đến nay. Số lượng trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, đại học, viện, trung tâm nghiên cứu khoa học... tiếp tục tăng lên. Hầu hết đều do nhu cầu khách quan đòi hỏi của thực tế Đất nước, nguyện vọng nhân dân và sự khuyến khích của Nhà nước.
Năm 1985 cả nước đã có 95 trường ĐH và CĐ, với 18000 cán bộ giảng dạy, trong đó có 1600 tiến sĩ, chiếm 8,6% với 200 khoa và 1700 bộ môn. Có tới 175 cơ quan chuyên tiến hành công tác nghiên cứu và triển khai trong đó có tới 120 viện nghiên cứu, 30 viện quy hoạch, trên 20 liên hiệp khoa học sản xuất, công ty phát triển công nghệ.
Hiện nay nước ta có trên 700000 cán bộ có trình độ từ ĐH trở nên trong đó có 421 tiến sĩ khoa học và 7500 tiến sĩ chuyên ngành.
Sự đầu tư của Nhà nước cho KHCN, GD-ĐT đã chứng tỏ sự quan tâm chú trọng của Nhà nước trong bước đầu phát triển kinh tế. Mục tiêu đến 2005 tỉ lệ học sinh THCS trong độ tuổi đạt 80%, tỉ lệ học sinh PTTH đạt 45% trong độ tuổi. Trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã nhấn mạnh vai trò của GD-ĐT và tích cực đầu tư vào đó. Tiếp tục năng cao chất lượng giáo dục toàn dân toàn diên, đổi mới nội dung phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý GD: “Chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hóa„ phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên đề cao năng lực tự học tự hoàn thiện học vấn và tay nghề... Chăm lo phát triển giáo dục mầm non, củng cố thành tựu xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, đẩy nhanh tiến độ phổ cập THCS, tăng ngân sách Nhà nước cho giáo dục, đào tạo theo độ tăng trưởng kinh tế. Hiện đại hóa một số trường dạy nghề, tăng nhanh tỉ lệ lao động được đào tạo trong toàn bộ lao động xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đào tạo, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập. Tăng ngân sách Nhà nước trong việc cử người đi học ở các nước có nền khoa học tiên tiến, khuyến khích du học tự túc.
Về KHCN: khoa hoc xã hội và nhân văn hướng vào việc giải quyết những vấn đề lí luận và thực tiễn và dự báo những xu thế phát triển, cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế xã hội, xây dựng con người. Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây dựng cơ sở khoa học của sự phát triển các lĩnh vực công nghệ và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, dự báo, phòng chống thiên tai. KHCN hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia... Tăng đầu tư ngân sách, huy động các nguồn lực khác cho KHCN. Sắp xếp lại và đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ việc nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học kĩ thuật với khoa học xã hội và nhân văn. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học công nghệ. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ với các nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc.
Để tiến lên giai đoạn cất cánh, Việt Nam đã đầu tư vào một số ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển các ngành có lợi thế so sánh, đầu tư cho ngành nghề đó để xuất khẩu ra nước ngoài. Năm 2001, xuất khẩu sản phẩm công nghiệp khoảng 10,8 tỷ USD, tăng 12,5% và chiếm 66,5% kim ngạch cả nước bao gồm 2,5 tỷ USD dầu thô; 2,3 triệu USD hàng thủ công mĩ nghệ... Bên cạnh các mặt hàng chủ yếu sẽ đẩy mạnh xuất khẩu thêm nhiều mặt hàng như sữa, dầu thực vật, khoáng sản, sản phẩm hoá chất thép cơ khí, thiết bị điện... nhờ đó đã góp phần đáng kể vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng sản phẩm quốc dân là 28,8% tăng lên 34,5% trong năm 2000. Một số ngành công nghiệp phát triển với quy mô lớn như khai thác dầu khí (16 triệu tấn dầu thô và 1,3 tỷ m3 khí một năm, thép xây dựng 2,5 triệu tấn/ năm xi măng 18 triệu tấn/năm... Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả năm tăng dần từ 53,73% năm 1995 lên 67,3% năm 1999 và 68,57% năm 2000 với tốc độ tăng bình quân 26,8%/năm.
Mặc dù tổng nguồn đầu tư cho công nghiệp tuy có tăng nhưng chưa nhiều, chiếm khoảng 44% tổng đầu tư toàn bộ xã hội nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp. Một số nghành sản xuất kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do năng lực công nghệ hạn chế, sản phẩm chưa đủ sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ chưa lớn, đã dẫn đến tình trạng huy động công suất thấp như sản xuất thép xây dựng 65%, lắp ráp tivi 40%, quần áo may sẵn 59,7%, bia63,5%...
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kinh tế kĩ thuật còn yếu kém. Những chi phí xây dựng cải tạo hạ tầng đều tập trung chủ yếu vào các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng... Trong khi đó ở các tỉnh thành khác thì hạn chế lớn hơn. Trong văn kiện đại hội IX: phát triển năng lượng đi trước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an toàn năng lượng quốc gia. Sử dụng tốt các nguồn thuỷ năng, khí than để cân đối nguồn điện. Xúc tiến nghiên cứu và hoàn thành thuỷ điện Sơn La. Nghiên cứu phương án sử dụng năng lượng nguyên tử. Đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới phân phối nguồn điện quốc gia. Đa dạng hoá phương thức đầu tư và kinh doanh điện, có chính sách thích hợp để thực hiện sử dụng điện ở nông thôn, miền núi. Tăng sức cạnh tranh về giá điện so với khu vực.
Phát triển mạng lưới thông tin hiện đại và đẩy nhanh việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, đặc biệt là trong hệ thống lãnh đạo, quản lý, các dịch vụ, tài chính, thương mại, giáo dục, y tế, tư vấn...
Về đường bộ: hoàn thành nâng cấp quốc lộ 1 và xây dựng đường HCM. Nâng cấp xây dựng các tuyến quốc lộ khác, chú trọng các tuyến đường biên giới, các tuyến đường vành đai và tuyến đường nối các vùng tới trung tâm phát triển lớn, các cầu vực sông lớn... phát triển nâng cấp hệ thống giao thông trên từng vùng kể cả giao thông nông thôn, bảo đảm thông suốt quanh năm.
2. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển
Trong 5 năm 1996 – 2000 tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đưa vào thực hiện (không kể phần góp vốn trong nước ) đạt khoảng 10 tỷ USD, tăng so với thời kì trước là 34%.
Cơ cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta, tỷ lệ vốn FDI thu hút vào lĩnh vực sản xuất vật chất, kết cấu hạ tầng kinh tế tăng từ 62% năm 1995 lên 85% năm 2000.
Đầu tư trực tiếp từ các nước thuộc liên minh Châu Âu, ASEAN có triều hướng tăng hơn 5 năm trước (tỷ lệ vốn đăng kí các dự án từ EU bình quân chiếm 23,2% thời kì 1991 – 1995 tăng lên 25,8% thời kì 1996 – 2000, tỷ lệ đăng kí các dự án từ ASEAN tương ứng là 17,3% lên 29,8%. Riêng các nước EU, Mĩ, Nhật Bản chiếm 44% tổng vốn đăng kí tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu chưa kể dầu khí và đóng góp 12% GDP của cả nước. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp làm việc trong các ngành xây dựng thương mại dịch vụ liên quan, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lí và mở rộng thị trường.
Môi trường chưa đủ hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Với vai trò của đầu tư nói chung và vai trò của đầu tư nước ngoài nói riêng đã thúc đẩy mạnh mẽ kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. Trong chiến lược phát triển kinh tế đều tìm các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng cách tạo môi trường, hệ thống pháp luật phù hợp. Hiện nay các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn chưa thật yên tâm khi đầu tư, theo cách đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài: Việt Nam thay đổi nhanh so với bản thân mình nhưng chưa đủ nhanh để bắt kịp các nước xung quanh. Vì thế trong cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài Việt Nam vẫn yếu thế, đặc biệt là so với Trung Quốc. Những điểm yếu được xác định là:
- Giá cước vận chuyển, cước viễn thông còn quá cao
- Tổng giám đốc công ty Metro Cash và Carry cho rằng đồng nội tệ chưa mạnh và sức tiêu thụ trong nước chưa cao. Một điểm yếu khác theo ông là cán bộ quản lí Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm. Ông nói, nguồn nhân lực Việt Nam rất dồi dào, có học nhưng vẫn phải tiếp tục đào tạo.
- Môi trường đầu tư nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt, đã làm hạn chế thu hút đầu tư mới.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, hay thay đổi, khó tiên đoán trước. Một số bộ, ngành còn chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ (như Nghị định số 06 về lĩnh vực giáo dục và đào tạo) đã gây khó khăn đối với việc thẩm định cấp phép đầu tư và thu hút các dự án mới vào lĩnh vực này. Một số ưu đãi của chính phủ đã được quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng. Nghị định 164 về thuế TNDN là bước tiến mới trong lộ trình xây dựng một mặt bằng pháp lí chung cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, nhưng quy định mới về thuế TNDN cũng đã làm giảm ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài nhất là vào các khu công nghiệp, khu chế xuất.
- Công tác quy hoạch còn bất hợp lí, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sản xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. Theo quy định của pháp luật, ngoài các dự án không cấp giấy phép đầu tư, nhà đầu tư có quyền lập các dự ãnin cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong quá trình chỉ đạo, điều hành, ta đã ban hành thêm một số quy định tạm dừng hoặc không cấp giấy phép đầu tư đối với các dự án thuộc các lĩnh vực như: sản xuất thép, xi măng, cấp nước theo hình thức BOT, xây dựng nhà máy đường, lắp ráp xe gắn máy hai bánh, nước giải khát có gas... Ngoài ra, các văn bản về một số ngành ban hành gần đây cũng đã hạn chế đầu tư nước ngoài như điều kiện về kinh doanh dịch vụ hàng hải, về đại lí vận tải hàng không, về quản lí hoạt động kinh doanh dịch vụ bảo vệ. Thực tế trên đã bó hẹp lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, làm cho các nhà đầu tư nước ngoài cho rằng chính sách của Việt Nam không nhất quán, minh bạch, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư.
- Thủ tục thẩm định, cấp giấy phép đầu tư tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án còn dài do phải thống nhất ý kiến giữa các bộ, ngành.
- Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài ban hành năm 2002 còcủa thiếu những thông tin cần thiết khi chủ đầu tư quan tâm. Mặt khác, danh mục này chưa bao quát hết nhu cầu kêu gọi đầu tư nước ngoài đáp ưng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.
- Công tác xúc tiến đầu tư đã cá nhiều cố gắng nhưng gặp khó khăn lớn do thiếu nguồn kinh phí để tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài cũng nhe để hoàn chỉnh các tài liệu xúc tiến đầu tư.
- Việc đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới cũng như việc thành lập và triển khai một số mô hình khu kinh tế mở con chậm.
3. Hiệu quả vốn đầu tư được biểu hiện tổng hợp ở hệ số ICOR
Hiệu quả đầu tư vốn năm 1998-1999 rất thấp thể hiện hệ số ICOR đã kên tíư 4,7 lần và 5,4 lầm thì năm 2000 hiệu quả đầu tư đã cao lên thể hiện hệ số ICOR giảm xuống 4,2. Đạt được kết quả trên là do 2 nguyên nhân:
- Thứ nhất, nguồn vốn huy độngđã được tập trung đầu tư cho các công trình trọng điểm sớm đi vào sử dụng và phát huy hiệu quả. Số dự án hoàn thành nhiều hơn năm trước chỉ riêng nhóm A, B đã hoàn thành 180 dự án, trong đó có những dự án quan trọng như những công trình về điện.
- Thứ hai là công trình đầu tư đã góp phần tiêu thụ sản phẩm nhờ đó kích cầu tiêu dùng, góp phần giảm bớt sự ứ đọng vốn, ứ đọng sản phẩm hàng hoá từ năm trước chuyển sang hoặc do sản phẩm năm nay tạo thành.
•Mục tiêu tổng quát và nhiệm vụ chủ yếu của năm 2002-2005:
Theo tính toán và dự báo ban đầu, khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển cho 5 năm tới vào khoảng 830 đến 850 nghìn tỷ đồng (theo đánh giá năm 2000) tương đương 59 đến 61 tỷ USD tăng khoảng 11 đến 12% một năm, trong đó nguồn vốn trong nước chiếm 2/3. Tỉ lệ đầu tư so với GDP chiếm khoảng 31 đến 32%, bảo đảm tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5% một năm và có công trình gối đầu cho khoảng 5 năm tiếp theo.
Trong tổng vốn đầu tư xã hội, đầu tư phát triển từ ngân sách Nhà nước chiếm từ 20 đến 21%; đầu tư bằng tín dụng Nhà nước chiếm từ 17 đến 18%; khu vực doanh nghiệp Nhà nước đầu tư chiếm 19 đến 20%; khu vực dân cư, doanh nghiệp tư nhân đầu tư trực tiếp 24 đến 25%; đầu tư trực tiếp nước ngoài theo dự báo và tính toán ban đầu dự kiến đưa vào thực hiện chiếm 16 đến 17%.
Tổng nguồn vốn toàn xã hội nêu trên sẽ được định hướng đầu tư vào một số ngành lĩnh vực chủ yếu như sau:
+ Tiếp tục tập trung đầu tư cho Nông nghiệp nâng tỉ lệ đầu tư lên 13% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
+ Đầu tư vào công nghiệp nhất là những ngành mũi nhọn để tăng năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh một số sản phẩm hàng hoá, dự kiến tỉ trọng chiếm khoảng 44% đầu tư toàn xã hội.
+ Đầu tư cho lĩnh vực giao thông vận tải, bưu điện chiếm 15% đầu tư toàn xã hội.
+ Đầu tư cho các ngành khác 20%.
Vốn đầu tư từ ngân sách và tín dụng Nhà nước mà Nhà nước có thể trực tiếp và chủ động bố trí theo cơ cấu chiếm bình quân hàng năm vào khoảng 35 đến 39% tổng vốn (khoảng 10% GDP)
Vốn ngân sách sẽ dành khoảng 65 đến 70% tổn nguồn vốn để tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế, 30-35% kết cấu hạ tầng xã hội.
4. Dựa vào vai trò của đầu tư với tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ các lý thuyết tăng trưởng => đầu tư với tổng cung và tổng cầu ở Việt Nam.
Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 đến 25% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế. Ngược lại giá cả của hàng hoá liên quan tăng dến một mức nào đó sẽ làm cho lạm phát tăng, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương thực tế ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế chậm tăng trưởng. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tình trạng như vậy. ở Việt Nam thời kì 1982 – 1989 do giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt trên. Vì vậy phải có chính sách nhằm hạn chế tác động xấu, phát huy tác động tích cực để duy trì ổn định và tăng trưởng kinh tế.
Về mặt cung: Khi những kết quả của đầu tư phát huy tác dụng thì tổng cung trong dài hạn tăng lên. Sản lượng tăng làm giá giảm dẫn đến tiêu dùng tăng. Từ đó kích thích sản xuất, tăng tích luỹ, phát triển kinh tế. ở Việt Nam đầu tư vào cơ sở hạ tầng, vật chất máy móc, trang thiết bị ngày càng được nâng cao làm cho sản xuất không ngừng được mở rộng, tạo thu nhập cho người tiêu dùng.
• Dưới góc độ mô hình của Ricardo: Ông cho rằng nông nghiệp là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế, yếu tố cơ bản để tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Đất đai là yếu tố quan trọng nhất và là giới hạn tăng trưởng. Khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ làm cho giá lương thực, thực phẩm tăng lên làm cho tiền lương danh nghĩa cũng tăng lên tương ứng, lợi nhuận của các nhà tư bản do đó mà giảm. Từ đó ông đề ra phương pháp giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng công nghiệp để mua lương thực rẻ từ nước ngoài hoặc phát triển công nghiệp để tác động vào nông nghiệp.
Việt Nam là nước có dân số đông, đất nông nghiệp ngày càng giảm cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ thực tế đó, Việt Nam đã đầu tư sang công nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH. Trong những năm qua và cả giai đoạn trước mắt Đảng ta đã xác định cơ cấu và phương hướng phát triển công nghiệp tập trung vào những nội dung sau:
- Công nghiệp có khả năng phát huy lợi thế cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Đó là những ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp may mặc, da giầy, điện tử, tin học, một số sản phẩm cơ khí và hàng tiêu dùng. Hiện nay tỷ trọng của ngành này chiếm khoảng 80% trong giá trị gia tăng công nghiệp và 76% trong giá trị xuất khẩu hàng công nghiệp, 53% trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước.
- Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng: dầu khí, luyện kim, cơ khí chế tạo, hoá chất cơ bản, phân bón, vật liệu xây dựng... Hiện nay tuy đã đạt được một số kết quả trong phát triển ngành dầu khí, xi măng, thép xây dựng... song nhìn chung còn yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết.
- Phát triển mạnh các ngành công nghiệp công nghệ cao nhất là công nghệ thông tin, viễn thông điện tử, tự động hoá. Công nghiệp điện tử tin học trở thành ngành mũi nhọn, công nghiệp sản xuất phần mềm tin học thành ngành kinh tế có tốc độ phát triển vượt trội. Phát triển những ngành này vừa để đáp ứng nhu cầu hiệ đại của nền kinh tế, vừa để tăng nhanh giá trị xuất khẩu mà nguồn nhân lực nước ta có khả năng vươn lên.
- Phát triển các cơ sở quốc phòng cần thiết. Kết hợp công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng. Trong những năm qua, chúng ta đã chú ý nhưng chưa được quy hoạch phát triển đúng mức.
Quy hoạch phân bổ có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng các khu công nghệ cao thành cụm khu công nghệ lớn, khu kinh tế mở đồng thời phát triển rộng các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ, nhất là công nghiệp ở nông thôn.
Lĩnh vực nông nghiệp được hỗ trợ đầu tư để thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Nền nông nghiệp nước ta hiện nay chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, kém phát triển, tỷ suất hàng hoá thấp (30%), kĩ thuật sản xuất ở trình độ thấp... Vì thế để CNH – HĐH nông nghiệp, Nhà nước đã điều chỉnh quy hoạch và nâng cấp hệ thống thuỷ lợi, chú trọng điện khí hoá, cơ giới hoá nông thôn, áp dụng các tiến bộ khoa hoc – kĩ thuật vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp. Bảo vệ và phát triển tự nhiên rừng, nâng độ che phủ lên 38 – 39% so với hiện nay.
Tóm lại, ở Việt Nam, đầu tư cho nông nghiệp còn chưa thoả đáng làm cho sức cạnh tranh của hàng hoá nông sản kém, mới chỉ xuất khẩu nguyên liệu thô, trình độ chế biến thấp. Bên cạnh đó, công nghiệp còn non yếu, chưa đủ sức kéo nông nghiệp phát triển.
• Dưới góc độ của Keynes.
Nhà nước có chính sách hợp lí thúc đẩy kinh tế chung:
Trong những năm qua, Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ đầu tư với các ngành nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, các ngành giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá và các ngành khác (công cộng cấp thoát nước, quản lí Nhà nước về thương mại, du lịch... ), đồng thời đã có những chú trọng đầu tư trong những vùng khó khăn như vùng miền núi phía Bắc, vùng duyên hải miền Trung... Ước tính nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước trong 5 năm gần đây khoảng 1000 tỷ đồng. Đã tập trung hơn cho lĩnh vực nông nghiệp 22,5%, công nghiệp 9,5%. Bên cạnh đó Nhà nước không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để thu hút đầu tư nước ngoài. Nhờ đó nền kinh tế không ngừng tăng trưởng.
Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư vào các ngành, vùng chưa cao biểu hiện trong nông nghiệp, nhiều vùng vẫn chưa hình thành thị trường lưu thông tiêu dùng, chậm mở rộng các ngành nghề.... Một số ngành công nghiệp sản xuất còn khó khăn, các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn kém hiệu quả, thiếu năng động, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Đầu tư công cộng còn thất thoát, lãng phí.
• Dưới góc độ mô hình tân cổ điển:
Trường phái tân cổ điển cho rằng khoa học – kĩ thuật đóng vai trò quyết định trong phát triển kinh tế. Dưới góc độ này Việt Nam đã bắt đầu chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 9 khẳng định „Phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước“. „ Hằng năm nguồn vốn của Nhà nước cho khoa học công nghệ khoảng 2% ngân sách Nhà nước và tiếp tục tăng đầu tư và huy động các nguồn lực khác cho khoa học công nghệ. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong nghiên cứu khoa học công nghệ, thực hiện các chính sách bảo hộ trí tuệ. Có chính sách đãi ngộ đặc biệt đối với các nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc. Chính vì thế đã thu được một số thành tựu đáng kể. trong công nghiệp và xây dựng đã cải tiến một số dây truyền sản xuất, xây dựng... Trong nông nghiệp ứng dụng một số thành tựu của công nghệ sinh học, đưa một số giống mới vào sản xuất đại trà cho năng suất cao, phẩm chất tốt. Tuy nhiên hoạt động của khoa học công nghệ nước ta còn nhiều bất cập, trình độ khoa học công nghệ còn thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu của CNH – HĐH. Các cơ quan nghiên cứu khoa học chưa được sắp xếp đồng bộ, còn phân tán, thiếu phối hợp do đó đạt hiệu quả thấp. Cán bộ khoa học công nghệ có trình độ cao còn ít và chưa được coi trọng, sử dụng một cách hợp lí.
Phần III
Một số kiến nghị nhằm nâng cao
khả năng sử dụng hiệu quả vốn đầu tư thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
I. Nhận xét, đánh giá về định hướng đầu tư của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây:
Thực tế đổi mới ghi nhận:
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu “ngoạn mục” của nền kinh tế trong nhiều năm qua chủ yếu dựa vào những sản phẩm mà việc khai thác các nguồn lực để sản xuất chúng là tương đối đễ dàng và cần ít vốn đầu tư (hàng nông sản, sản phẩm may, giày gia công) hoặc cần nhiều vốn nhưng có tài trợ bên ngoài (như dầu khí). Thành tích này gắn chủ yếu với khu vực nông thôn- nông nghiêp (tư nhân trong nước) và khu vực đầu tư nước ngoài nhưng ít có liên hệ trực tiếp với nỗ lực ưu tiên đầu tư của nhà nước.
- Xu hướng phát triển nghiêng về thay thế nhập khẩu của nền kinh tế giai đoạn vừa qua là hệ quả trực tiếp và tất yếu của định hướng tập trung các nguồn đầu tư (chủ yếu là vốn nhà nước, vốn FDI và vốn ODA) vào các sản phẩm tiêu thụ nội địa được triển khai thực hiện kéo dài trong nhiều năm.
Có nghĩa là:
+ Vốn dành cho đầu tư phát triển của nhà nước tập trung chủ yếu cho các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu.
+ Đa số các doanh nghiệp FDI sản xuất các sản phẩm chủ yếu phục vụ tiêu thụ nội địa.
+ Vốn ODA được dành để đầu tư xây dựng một số công trình cơ sở hạ tầng như cầu đường và thực hiện một vài chương trình mục tiêu quốc gia.
Trong nhiều năm, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã che mờ các nguy cơ dài hạn tiềm ẩn trong xu hướng cơ cấu này. Thậm chí, việc đạt được thành tích đó một cách ít khó khăn còn củng cố quan niệm cho rằng xu hướng chuyển dịch cơ cấu nghiêng về thay thế nhập khẩu kéo dài hàng chục năm như vừa qua là đúng đắn. Trong các chương trình và kế hoạch đầu tư nhà nước dài hạn và hàng năm, hầu như không thấy thái độ của cơ cấu đầu tư nhằm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng tăng tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến xuất khẩu. Nhưng xu hướng diễn ra trong đời sống thực tế lại ngược hẳn lại: tỷ trọng vố đầu tư nhà nước dành cho các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu luôn luôn là phần vốn ưu tiên. Tỷ trọng của nhóm sản phẩm tương ứng, nhờ đó có xu hướng tăng nhanh hơn.
- Việc thẩm định, phê duyệt và giám sát thực hiện dự án đầu tư, giống như cho khu vực kinh tế nhà nước, đều không tuân thủ các đòi hỏi và tiêu chuẩn của mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu đã chọn.
- Khi hoạch định các chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế thời gian qua, năng lực thực sự của thị trường nội địa (dung lượng và sức tăng trưởng) cũng như các yếu tố chia sẻ thị phần cụ thể trong bối cảnh mở cửa kinh tế ngày càng được đẩy mạnh (tự do hóa thương mại và gia tăng nhập khẩu) dường như chưa được tính đến đầy đủ như là trong những yếu tố quyết định việc phân bổ các nguồn đầu tư nhà nước nhằm mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành. Tuy nước ta có số dân khá đông và tốc độ tăng dân số trong thập niên 90 nói chung là cao, song cho đến đầu thế kỷ XXI, quy mô thị trường nước ta vẫn còn rất bé, với GDP vào khoảng 40 tỷ USD. Do mức xuất phát thấp như vậy nên mặc dù tốc độ tăng trưởng GDP và tăng trưởng của thị trường khá cao, sức hấp dẫn của thị trường dung tích lớn (đo theo khối lượng tuyệt đối sức mua) vẫn là mục tiêu còn lâu mới đạt được. Với một thị trường như vậy, việc lựa chọn hướng ưu tiên phát triển nhóm ngành thay thế nhập khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và không dựa trên lời thế cạnh tranh rõ ràng là một chiến lược mang tính rủi ro cao.
- Mặc dù nhận biết được khả năng bị tổn thất do giá cả quốc tế sụt giảm, trên thực tế, việc sản xuất và tăng sản lượng xuất khẩu những sản phẩm có giá trị sụt giảm vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Dường như sản phẩm nào bị thiệt hại càng nặng (cà phê, lúa gạo, hạt tiêu, hạt điều, lạc), thì sản xuất và xuất khẩu càng được đẩy mạnh.Tại sao lại có sự lựa chọn như vậy? ngoài những lí do khách quan bất khả kháng, còn có những tác động chủ quan . Đó là:
+ Thứ nhất, định hướng phát triển cơ cấu xuất khẩu của ta thiếu những cơ sở dự báo thị trường đầy đủ, chính xác và dài hạn. Thêm vào đó cơ cấu sản phẩm, sau khi được hình thành, lại thiếu năng lực chuyển dịch để ứng phó kịp thời và có hiệu quả trước sự thay đổi của tình hình.
+ Thứ hai, khi xuất khẩu gặp khó khăn do giá cả thị trường thế giới giảm, cách phản ứng thường là tăng khối lượng xuất khẩu để bù lại thiệt hại về giá và nhằm đạt được mục tiêu kế hoạch và kim ngạch. Tuy có không ít ý kiến đánh giá cao mặt tích cực của cách phản ứng này, vẫn không thể phủ nhận đây là một cách tiêu cực, thậm chí nguy hại về mặt kinh tế. Với cách phản ứng này, kết cục tất yếu sẽ là càng sản xuất càng xuất khẩu nhiều, thua lỗ sẽ càng nặng, xu hướng”giảm phát” và “thiểu phát” càng trở nên khó tránh khỏi; nền kinh tế tiếp tục tích lũy nguy cơ bất ổn định và suy thoái.
Cho đến nay, có đủ căn cứ lý luận và thực tiễn để kết luận rằng việc duy trì quá lâu phương hướng tập trung đầu tư các sản phẩm tiêu thụ nội địa, đến mức định hình nó thành mô hình tăng trưởng, là căn gốc của quá trình phá vỡ các cân đối vĩ mô lớn nhất của nền kinh tế nước ta trong thời gian qua. Cơ sở nền tầng của xu hướng thực tế này chính là mối liên hệ nhân quả của quá trình hoạch định chiến lươc, chính sách và kế hoạch đầu tư nhà nước (với cơ chế đầu tư mang nặng tính kế hoạch - tập trung) và chế độ bảo hộ.
Sự cố kết này giải thích tại sao hiệu quả đầu tư ở nước ta thấp và chậm cải thiện; còn việc nâng cao năng lực cạnh tranh thì hầu như chưa bao giờ đặt ra là nhiệm vụ sống còn của nền công nghiệp, đặc biệt là của doanh nghiệp nhà nước.
Nó cũng giải thích nguy cơ sự tồn tại kéo dài của một cơ cấu công nghiệp kém hiệu quả, một di sản công nghiệp ít triển vọng cạnh tranh trong môi trường hội nhập quốc tế cho cả một giai đoạn dài tới đây mà phương hướng đầu tư này tạo ra. Cái giá phải trả để nuôi dưỡng, duy trì cơ cấu này, để cải tạo nó và để hình thành một cơ cấu ngành mới có sức cạnh tranhvà có hiệu quả sẽ là rất cao.Nhưng gánh nặng hầu như chỉ đặt lên vai nhà nước. Đây là một điều cảnh báo dài hạn nhưng rất khẩn cấp. Nó cần được tính đến ngay từ bây giờ để có phương hướng giải quyêt, kịp chạy đua với thời hạn thực hiện đầy đủ các cam kết hội nhập đang ngày cạng rút ngắn.
II. một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Thứ nhất, điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhà nước :
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy hiệu quả đầu tư của nhà nước phụ thuộc vào mức độ hợp lý của việc điều chỉnh cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành kinh tế và việc ưu tiên vốn nhà nước cho các mục tiêu nhất định.
* Đối với vốn đầu tư của ngân sách : trong thời gian tới cần tăng đầu tư cho khu vực nông nghiệp và hạ tầng cơ sở xã hội đặc biệt là cơ sở hạ tầng giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ. Việc điều chỉnh này là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu phát triển trong giai đoạn tới nhằm phát huy nội lực tiềm năng sẵn có trong nước về phát triển nông nghiệp và nguồn nhân lực cũng như để chuẩn bị cho việc hội nhập kinh tế khu vực cũng như kinh tế thế giới trong bối cảnh thế giới hiện nay.
- Đối với khu công nghiệp xây dựng dịch vụ vốn ngân sách đầu tư cho các dự án xây dựng có tác động tầm quốc gia như: cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn: công trình truyền tải điện về nông thôn, hệ thống giao thông quốc gia và liên tỉnh, liên huyện, công trình thông tin liên lạc phục vụ các vùng nông thôn, hệ thống cầu cống quan trọng phục vụ phát triển nông nghiệp.Thời hạn ưu tiên vốn ngân sách cho hạng mục này là 5 năm tới và sau đó sẽ chuyển dần sang hình thức hỗ trợ qua ưu đãi tín dụng hoặc thu hút vốn đầu tư của tư nhân.
- Nhà nước tập trung ngân sách nhà nước đầu tư nông lâm ngư nghiệp :
+ Hệ thống đê điều quan trọng hệ thống thủy lợi phục vụ sản suất nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi thủy sản như hồ chứa nước, kênh dẫn thoát nước hệ trạm bơm, tưới tiêu.
+ Thời hạn ưu tiên vốn ngân sách cho hạng mục này là 10 năm, sau đó nhà nước sẽ đảm nhận một số công trình quan trọng như đê điều quan trọng và hệ thống thủy lợi tại một số vùng khó khăn, đồng thời huy động các hình thức đầu tư tư nhân theo hình thức thu phí dịch vụ.
- Tập trung ngân sách đầu tư phát triển theo hướng sau:
+ Trong thời gian năm tới: Đồng thời ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế. Do ngân sách nhà nước có hạn nên chỉ tăng dần chi ngân sách cho lĩnh vực này, trong đó tập trung vào phát triển các dịch vụ xã hội cơ bản của hai ngành này.Đối với dịch vụ xã hội phi cơ bản cần huy động các loại vốn khác ngoài ngân sách.
+ Về dài hạn nhà nước nên tăng ngân sách đầu tư hai lĩnh vực này một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng nền kinh tế bền vững.
+ Đầu tư phát triển công nghệ giống phân bón, công nghệ sinh học... phục vụ sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản có giá trị trong nước và xuất khẩu. Nghiên cứu này mang tính ứng dụng cho điều kiện khí hậu, sản xuất nông nghiệp của Việt nam và sau đó chuyển giao cho nông dân.
+ Công nghệ bảo quản, chế biến một số nông sản nông nghiệp, cây công nghiệp, sản phẩm thủy sản có giá trị trong nước và xuất khẩu.
+ Công nghệ thông tin, tập trung chủ yếu vào nghiên cứu phần mềm.
+ Hỗ trợ chuyển giao công nghệ.
+ Điều chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc, đồng thời giảm đầu tư xây lắp. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện hiện đại hóa, công nghiệp hóa và theo xu hướng chung của các nước. Đầu tư vào thiết bị máy móc cần thỏa mãn các tiêu chuẩn về tính đồng bộ, chất lượng, hiện đại, bảo vệ môi trường và các điều kiện về tiêu chuẩn chất lượng hiện hành.
Bên cạnh đó nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai. Nhà nước hỗ trợ cung cấp thông tin và chi phí này được hạch toán vào giá thành sản phẩm. Đồng thời gắn đầu tư với việc chuyển giao công nghệ thông qua thu hút vốn ODA, vốn FDI với các nguồn vốn đầu tư gián tiếp khác của nước ngoài.
* Đối với vốn tín dụng ưu đãi: Nên tập trung cho các dự án kinh tế thuộclĩnh vực công nghiệp - xây dựng, dịch vụ tạo việc làm, có khả năng thu hồi vốn, có tác động tới phát triển kinh tế - xã hội của địa phương/ ngành/ lãnh thổ. Kiên quyết không áp dụng hình thức cho vay này với dự án không thỏa mãn với điều kiện trên. Điều này nhằm tránh khả năng các doanh nghiệp không trả được nợ hoặc đầu tư không có mục đích rõ ràng, dự án không phát huy hiệu quả mà vẫn được vay vốn dẫn đến tình trạng nhà nước phải xóa nợ- tương đương với hình thức bao cấp vốn.
* Đối với vốn tự đầu tư của DNNN, doanh nghiệp được toàn quyền sử dụng.Do nguồn vốn này không lớn nên nhà nước không nhất thiết phải quy định cứng nhắc mục đích sử dụng mà có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng vốn này để mở rộng quy mô, đổi mới trang thiết bị.
Thứ hai, thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư.
Để ngăn chặn hiện tượng phân bổ vốn đầu tư XDCB dàn trải, tình trạng đầu tư chắp vá, manh mún cần thực hiện đồng thời phân cấp thẩm quyền ra quyết định đầu tư và hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư theo các hướng sau:
* Đẩy mạnh phân cấp cần đi đôi với trách nhiệm:
- Nâng cao trách nhiệm thẩm định dự án đầu tư. Cần quy định cụ thể trách nhiệm vật chất và trách nhiệm trước pháp luật đối với người tham gia xây dựng dự án, thẩm định, ra quyết định đầu tư cuối cùng đối với dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước mà sau khi hoàn thành các công trình này không phát huy tác dụng cho phát triển nền kinh tế địa phương, ngành, lãnh thổ không gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Mục đích của quy định này là buộc các ngành, các cấp, các cơ quan và người có thẩm quyền đầu tư có trách nhiệm phải xem xét kỹ tính khả thi, hiệu quả của dự án trước khi ra quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó. Qua đó hạn chế chi phí không đáng có như đập đi làm lại, sửa chữa... Gây thất thoát vốn và nhằm tăng cường trách nhiệm của chủ đầu tư đối với hiệu quả sử dụng vốn, hiệu quả kinh tế - xã hội của công trình đầu tư bằng vốn nhà nước
- Hàng năm chỉ bố trí kế hoạch đầu tư khi đã xác định chắc chắn khả năng nguồn vốn.
- Chỉ đưa vào kế hoạch các dự án đã chuẩn bị đầy đủ thủ tục đầu tư theo quy định. Kế hoạch vốn phải bố trí theo dự án được duyệt và đảm bảo đủ vốn để thực hiện theo tiến độ đã được phê duyệt. Nếu không thực hiện đúng tiến độ, cần quy định rõ chủ đầu tư phải chịu trách nhiệm về vật chất và trách nhiệm trước pháp luật nếu như không có các lý do chính đáng do thiên tai hoặc lý do bất khả kháng khác.
Thứ ba, hoàn thiện cơ chế đấu thầu.
Thực hiện đấu thầu đúng quy định, đặc biệt cần đơn giản hóa các thủ tục để rút ngắn thời gian, chọn nhà thầu nhanh gọn nhưng đáp ứng mục tiêu đấu thầu, đảm bảo chất lượng xây lắp và giá cả hợp lý. Cần quy định xử phạt các trường hợp vi phạm quy chế đấu thầu. Cần nâng cao trình độ cho cán bộ địa phương, bộ, ngành trong công tác tổ chức đấu thầu bằng cách mở các khóa đào tạo, hướng dẫn qua các phương tiện thông tin đại chúng, sách, báo.
Thứ tư, nâng cao chất lượng của công tác quy hoạch phát triển kinh tế xã hội.
Xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói chụng, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và 5 năm.
Để các dự án đầu tư có hiệu quả, công tác quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội nói chung và quy hoạch xây dựng hạ tầng nói riêng là khâu trọng yếu nhất. Thực tế chứng minh rằng, việc quy hoạch tổng thể của quốc gia, của ngành, của địa phương thiếu chính xác, thiếu thống nhất, không khớp nhau sẽ dẫn đến sai lệch trong xây dựng các dự án.
Do tầm quan trọng của các công trình sở hạ tầng đối với triển kinh tế- xã hội, quy hoạch tổng thể cần được xây dựng dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn, gắn với chiến lược kinh tế đã đề ra trong thời kỳ trung và dài hạn, nhưng cần có điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện phát triển trong mỗi thời kỳ. Vì vậy trong thời gian tới, nhà nước cần đầu tư hơn nữa cho công tác khảo sát, xây dựng quy hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch đô thị...), nâng cao chất lượng của công tác này. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương sẽ xây dựng kế hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng cho phù hợp với địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Đây là một vấn đề hết sức quan trọng, bởi thực tế cho thấy đã có sự chạy đua trong xây dựng một số công trình đẫn đến thừa năng lực ( ví dụ: cảng biển..), không khai thác hết công suất, lãng phí vốn ngân sách Nhà nước trong khi nhều công trình cần thiết khác lại thiếu vốn đầu tư.
Kế hoạch xây dựng cơ bản phải được đưa vào chương trình đầu tư công cộng hàng năm và 5 năm để thực hiện thống nhất.
Thứ năm, phải tính toán thống nhất trong xây dựng dự án và kế hoạch cân đối các nguồn vốn đảm bảo cho các dự án được hoàn thành theo mục tiêu chất lượng và thời hạn đã định.
- Phải xây dựng kế hoạch đầu tư trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội theo ngành, vùng lãnh thổ được duyệt cho kế hoạch 5 năm và hàng năm. Trên cơ sở đó bố trí vốn theo kế hoạch đã được duyệt.
- Nâng cao dự báo kinh tế vĩ mô, đặc biệt về đánh giá triển vọng phát triển kinh tế, dự báo tốc độ tăng GDP, dự báo về tổng vốn đầu tư
- Công tác chuẩn bị đầu tư phải được thực hiện trước một bước để làm cơ sở cho đầu tư hàng năm. Kinh nghiệm từ những năm trước cho thấy nhiều dự án không triển khai theo đúng tiến độ không phải vì muốn mà do ách tắc trong giải phóng mặt bằng. Do đó cần đưa công tác giải phóng mặt bằng là một điểm tháo nút của bước chuẩn bị thực hiện dự án xây dựng. Cần nghiên cứu trước và đưa ra phương án khả thi nhất về giải phóng mặt bằng với sự phối hợp chặt chẽ giữa chủ đầu tư, chủ xây lắp và các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương nơi thực hiện dự án.
- Để nâng cao tính khả thi của dự án sử dụng vốn đầu tư nhà nước cần tính toán khả năng về nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước để đảm bảo nguồn vốn này được cấp phát đúng kế hoạch. Đối với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách là rất quan trọng bởi nếu chi quá mức ngân sách sẽ tạo áp lực giảm chi các khu vực khác và có thể kéo theo hậu quả xấu khác.
- Giới hạn số dự án, số vốn trong khả năng có thể huy động nhằm đảm bảo các cân đối vĩ mô, đảm bảo cân đối ngành và vùng, tập trung vốn cho một số dự án mang tính “tháo nút” có tác động lan tỏa.
Thứ sáu, đơn giản hóa các thủ tục giải ngân vốn ngân sách, vốn tín dụng, tăng cường giám sát và quyết toán dự án sử dụng hai loại vốn này. Tăng cường vai trò của cơ quan kiểm toán nhà nước trong thẩm định quyết toán dự án hoàn thành.
- Việc giải ngân vốn ngân sách, vốn tín dụng cho các công trình vẫn còn bất hợp lí. Vì vậy, cần đơn giản hóa các thủ tục giải ngân vốn ngân sách, vốn tín dụng, tăng cường giám sát và quyết toán dự án sử dụng hai loại vốn này.
- Đối với các dự án không tuân theo trình tự của cơ chế quản lí đầu tư sẽ không được cấp vốn mặc dù được đưa vào kế hoạch đầu tư. Qua đó hạn chế tiêu cực trong tranh giành dự án đầu tư bằng vốn ngân sách và tránh lãng phí vốn ngân sách nhà nước.
- Đối với dự án nhóm A, cần thành lập một hội đồng quốc gia có chức năng thẩm tra quyết toán, hội đồng này sẽ phải có đại diện của bộ tài chính, bộ chuyên ngành... Trước khi hội đồng thẩm tra quyết toán và phê duyệt cần phải được thông qua kiểm toán nhà nước.
Thứ bẩy, xây dựng và phát triển môi trường đầu tư nói chung, môi trường đầu tư nhà nước nói riêng công khai, minh bạch và có thể kiểm soát được.
- Sớm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và để chủ động hội nhập thành công vào các nền kinh tế khu vực và thế giới.
- Kiên quyết hơn nữa trong việc cải cách hành chính để khắc phục một bước căn bản tình trạng quan liêu, tham nhũng và lãng phí.
Kết luận
Đầu tư của Nhà nước trong những năm quađã góp phần đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và có vai trò quan trọng trong việc định hướng phát triển nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, đầu tư của nhà nước vừa tạo ra môi trường khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, vừa có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng nâng cao hiệu quả vố đầu tư, Bên cạnh tạo dựng cơ sở vật chất, đầu tư nhà nước đã góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm đói nghèo và xóa bỏ dần dần chênh lệch về phát triển giữa các vùng lãnh thổ của đất nước.
Việc đổi mới cơ cấu đầu tư của nhà nước trong thời gian qua, đặc biệt là từ đầu những năm 1990 đến nay đã thu được những thành tựu quan trọng, thể hiện rõ nhất trong cơ cấu đầu tư của ngân sách nhà nướcđã tập trung vào cơ sở hạ tậng kinh tế, xã hội, ưu tiên cho phát triển nông nghiệp nông thôn, góp phần thực hiện các mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Cơ chế quản lý đầu tư cũng có những đổi mới và đã đem lại những hiệu quả nhất định, thể hiện rõ nhất tại các quy chế về thẩm định, xét duyệt, đấu thầu dự án đầu tư.
Tuy nhiên, cơ chế quản lý vốn đầu tư của nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại chưa khắc phục được làm cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn trải, thất thoát, hiệu quả đầu tư chưa cao.
Trong thời gian tới, cùng với việc tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, cần thiết phải nghiên cứu để hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý vốn đầu tư nói chung và của Nhà nước nói riêng. Các kiến nghị của đề tài ở chương III mang tính tổng quát, mới chỉ gợi mở ra những vấn đề cần thiết được nghiên cứu và phân tích sâu sắc hơn nữa ở nhiều khía cạnh khác nhau để có những lời giải cụ thể, các giải pháp toàn diện phù hợp với đòi hỏi của công cuộc đổi mới kinh tế.
Mục lục
Lời mở đầu 1
phần i: Các lý thuyết kinh tế về vai trò của Đầu tư đối với tăng trưởng phát triển kinh tế 2
I. Một số lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế 2
1. Khái niệm 2
2. Một số chỉ tiêu đánh giá 3
2.1 Một số thước đo của sự tăng trưởng 3
2.1.1 Tổng sản phẩm trong nước (hay tổng sản phẩm quốc nội – GDP) 3
2.1.2. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) 5
2.1.3. Thu nhập bình quân đầu người 5
2.2. Một số chỉ số về cơ cấu kinh tế 6
2.2.1. Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội 6
2.2.2. Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X-M) 6
2.2.3. Chỉ số về mức tiết kiệm – đầu tư (I) 6
3. Các quan điểm về tăng trưởng và phát triển kinh tế 6
3.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng 6
3.2. Quan điểm nhấn mạnh vào công bằng và bình đẳng trong xã hội 7
3.3 Quan điểm phát triển toàn diện 7
II. Xem xét mô hình về mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế theo quan điểm lịch sử. 8
1. Các mô hình dựa vào sự phân tích quá trình đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế. 8
1.1. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển 8
1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của Marx (1818-1883) 9
1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái tân cổ điển 9
1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes 10
1.5. Căn cứ vào các lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại 10
2. Đầu tư là nhân tố kích thích tổng cầu nền kinh tế 11
2.1. Vai trò của kích cầu trong tăng trưởng kinh tế 11
2.2. Quan điểm của Keynes về vai trò của đầu tư với tổng cầu 12
3. Mô hình đầu tư tạo điều kiện cho việc phát triển ngành kinh tế mũi nhọn, từ đó tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế 13
3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow 13
3.2. Mô hình nhị nguyên của Lewis và Oshima 13
4. Đầu tư được coi là cú huých từ bên ngoài giúp các nước đang phát triển thoát khoủi vòng luẩn quẩn của đói nghèo 14
4.1. Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson 14
4.2. Lý thuyết đầu tư nước ngoài của Vernon về chu kỳ sống sản phẩm và mô hình của Akamateu 15
PHần II: Thực trạng Đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua 16
I. Tình hình đầu tư của việt nam thời gian qua 16
1. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 16
2. Đầu tư trong nước 17
II. Tình hình tăng trưởng phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua 19
III. Những vấn đề còn tồn tại trong đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế ở Việt Nam 21
1. Hạn chế của đầu tư 21
2. Hạn chế trong tăng trưởng phát triển kinh tế 23
IV. Đánh giá Đầu tư và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam dưới góc nhìn từ các mô hình kinh tế 25
1. Đứng dưới mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của W. Rostow 25
2. Vai trò của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển 29
3. Hiệu quả vốn đầu tư được biểu hiện tổng hợp ở hệ số ICOR 31
4. Dựa vào vai trò của đầu tư với tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, từ các lý thuyết tăng trưởng => đầu tư với tổng cung và tổng cầu ở Việt Nam 33
Phần III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng sử dụng hiệu quả vốn đầu tư thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế 37
I. Nhận xét, đánh giá về định hướng đầu tư của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây 37
II. một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư 40
Kết luận 46
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50403.DOC