Để thu hút FDI bền vững và hiệu quả,
vùng Đông Nam Bộ cần chuyển từ
việc tìm kiếm nhà đầu tư phù hợp với
những gì mình đang có (tổng hợp các
yếu tố của môi trường đầu tư có lợi
cho nhà đầu tư) sang xây dựng môi
trường đầu tư và phát triển các yếu tố
phù hợp cho loại hình đầu tư. Các tỉnh
cần đặt ra chiến lược thu hút đầu tư
có chọn lọc, tập trung vào chất lượng
dự án, nên thay đổi phương thức thu
hút đầu tư theo hướng ưu tiên cho
công nghiệp hỗ trợ và các ngành công
nghiệp công nghệ cao với các tiêu chí
đặt ra là bảo đảm môi trường, sử
dụng ít năng lượng, khai thác gắn với
chế biến. Bên cạnh nhóm ngành công
nghiệp - xây dựng đã được các đối
tác chú trọng đầu tư, các tỉnh vùng
Đông Nam Bộ chú trọng và có chính
sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư
vào nhóm ngành dịch vụ và nông -
lâm nghiệp, bởi các nhóm ngành này
ở các tỉnh hiện nay chưa thu hút được
nhiều dự án đầu tư trong khi đó tiềm
năng khai thác lợi thế lớn. Bên cạnh
đó, Bình Phước và Tây Ninh là hai
tỉnh đi sau trong quá trình thu hút đầu
tư, từ những kinh nghiệm thu hút FDI
của các tỉnh đi trước, Bình Phước và
Tây Ninh hoàn toàn có thể tránh được
những hệ quả đáng tiếc để thu hút
FDI bền vững trong tỉnh.
13 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Đông Nam Bộ: Những vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền vững vùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
27
CHUYÊN MỤC
KINH TẾ HỌC - XÃ HỘI HỌC
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Ở ĐÔNG NAM BỘ: NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
CHO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG
NGUYỄN THỊ VÂN*
Trong 30 năm (1988 - 2018) kể từ khi đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) có mặt
tại Việt Nam, vùng Đông Nam Bộ luôn dẫn đầu cả nước về số dự án và tổng vốn
đầu tư. Tuy FDI có sự chênh lệch cao giữa các tỉnh, thành trong vùng nhưng
FDI đã phát triển được nhiều ngành nghề ở mọi lĩnh vực, trong đó công nghiệp -
xây dựng có ưu thế vượt trội về số lượng dự án cũng như nguồn vốn FDI. Bên
cạnh đó, FDI tạo nhiều việc làm góp phần hạn chế tình trạng thất nghiệp của
người lao động, từng bước hình thành một đội ngũ quản lý và công nhân có tay
nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và chuyển giao công nghệ khoa học
kỹ thuật Tuy nhiên vùng cần có giải pháp phù hợp để đảm bảo thu hút FDI và
phát triển bền vững vùng Đông Nam Bộ.
Từ khóa: đầu tư trực tiếp nước ngoài, phát triển bền vững, Đông Nam Bộ
Nhận bài ngày: 10/7/2019; đưa vào biên tập: 15/7/2019; phản biện: 21/7/2019;
duyệt đăng: 4/9/2019
1. GIỚI THIỆU
Sau hơn 30 năm kể từ khi Quốc hội
ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1987, dù trải qua
những bước thăng trầm, nhưng khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
(FDI) đã không ngừng được mở rộng
và phát triển, trở thành bộ phận ngày
càng quan trọng của nền kinh tế, đóng
góp tích cực vào công cuộc đổi mới
đất nước. Việt Nam từ một quốc gia
nghèo với GDP bình quân đầu người
năm 1989 là 100U SD đã trở thành
một quốc gia có thu nhập trung bình
đạt mức GDP bình quân đầu người
năm 2018 là 2.587 USD (Thụy Miên,
2018), là quốc gia có tốc độ hội nhập
ấn tượng, là đối tác chiến lược của
các quốc gia lớn, có vị thế trong khu
vực và thế giới.
*
Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ.
NGUYỄN THỊ VÂN – ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
28
Hiện nay, FDI đã có mặt ở 63 tỉnh,
thành của Việt Nam nhưng có sự
chênh lệch lớn về số dự án và lượng
vốn đầu tư giữa các vùng. Với những
điều kiện về vị trí địa lý thuận lợi,
nhiều tài nguyên quý giá, hệ thống kết
cấu hạ tầng phát triển, là trung tâm
kinh tế lớn nhất cả nước Đông Nam
Bộ là lựa chọn hàng đầu của các nhà
đầu tư nước ngoài. Vì vậy FDI tại
Đông Nam Bộ luôn dẫn đầu cả nước
về tổng số vốn đăng ký và số dự án
đầu tư. Lũy kế đến 20/12/2018, tổng
số dự án FDI tại Đông Nam Bộ là
14.089 dự án chiếm 51,5% tổng số dự
án FDI trong cả nước với tổng số vốn
đăng ký đạt 143.288 triệu USD chiếm
42,1% (Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ
Kế hoạch và Đầu tư, 2018). Bằng
phương pháp phân tích số liệu thứ
cấp, bài viết trình bày bức tranh chung
về thực trạng FDI tại vùng Đông Nam
Bộ, hiệu quả mà FDI đã đạt được
trong thời gian qua và gợi mở những
vấn đề đặt ra cho sự phát triển bền
vững vùng.
2. TỔNG QUAN ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
Cho đến nay, FDI là
bộ phận quan trọng
không thể thiếu đối với
sự phát triển kinh tế,
xã hội của Việt Nam.
Dòng vốn FDI vào Việt
Nam ngày càng gia
tăng, góp phần bổ
sung nguồn vốn đầu
tư phát triển kinh tế -
xã hội. Bên cạnh đó, FDI đã góp phần
tích cực thúc đẩy sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài đã góp phần tạo ra nhiều ngành
công nghiệp mới và tăng cường năng
lực của nhiều ngành công nghiệp
quan trọng khác. Trong hơn 30 năm
qua, các dự án đầu tư tại Việt Nam
liên tục tăng, cùng với đó là sự gia
tăng về tổng lượng vốn đầu tư. Biểu
đồ 1 cho thấy, những năm đầu tiên kể
từ khi có Luật đầu tư (1988 - 1990),
tổng số dự án đầu tư tại Việt Nam là
211 dự án với tổng vốn đăng ký đạt
1.603,5 triệu USD, đến năm 2018 số
dự án đầu tư trong năm đạt 3.046 dự
án, với tổng vốn đăng ký đạt 35.465,6
triệu USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư (2018), tính đến hết
năm 2018, FDI đã có mặt ở tất cả 63
tỉnh, thành trong cả nước. Phần lớn
các dự án tập trung đầu tư tại các
Biểu đồ 1. Tình hình thu hút FDI tại Việt Nam qua 30 năm
(1988 - 2018)
Nguồn: Tổng cục Thống kê Việt Nam, 2017; Cục Đầu tư
nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019
29
vùng kinh tế trọng điểm của đất nước
là Đồng bằng sông Hồng và Đông
Nam Bộ, trong đó Đông Nam Bộ luôn
là vùng có số dự án và tổng vốn đầu
tư đăng ký cao nhất so với các vùng
khác trong cả nước. Giai đoạn từ năm
1988 - 2018 số dự án FDI trong cả
nước đạt 27.353 dự án còn hiệu lực
với tổng vốn đăng ký đạt 340.159,5
triệu USD. Trung du và miền núi phía
Bắc và Tây Nguyên là hai vùng có số
dự án cũng như vốn đăng ký đầu tư
thấp nhất cả nước qua các năm. Lũy
kế các dự án còn hiệu lực đến
20/12/2018 Trung du và miền núi phía
Bắc có 915 dự án, chiếm 3,3% tổng
số dự án đầu tư trong cả nước với số
vốn đăng ký 16.177 triệu USD, chiếm
4,8% tổng số vốn đăng ký của cả
nước; vùng Tây Nguyên có 144 dự
án, chỉ chiếm 0,5% tổng số dự án của
cả nước, số vốn đăng ký 909,1 triệu
USD chiếm 0,3% vốn đăng ký của cả
nước. Lý do các nhà đầu tư chưa chú
trọng đến hai vùng này là hệ thống
giao thông còn nhiều khó khăn, cơ sở
hạ tầng chưa phát triển, đặc biệt là
chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp
ứng được cho quá trình phát triển
công nghiệp vì vậy chi phí đầu tư
vào hai vùng này tăng cao hơn rất
nhiều so với các địa phương khác.
Tính đến nay đã có 130 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới đầu tư FDI
vào Việt Nam. Trong đó, quốc gia có
vốn FDI lớn nhất là Hàn Quốc với
7.459 dự án và tổng số vốn đăng ký là
62.567 triệu USD; thứ hai là Nhật Bản
với 3.996 dự án và tổng số vốn đăng
ký là 57.018,4 triệu USD; tiếp theo là
Singapore, Đài Loan, Trung Quốc,
Anh và nhiều quốc gia vùng lãnh thổ
khác đã, đang chú trọng đầu tư tại
Việt Nam (Cục Đầu tư nước ngoài -
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018).
Hiện nay, ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo thu hút nhiều dự án và có tổng
vốn đầu tư là 195.388,8 triệu USD
(chiếm 57,4% tổng lượng vốn đầu tư).
Tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất
động sản, xây dựng, dịch vụ lưu trú,
thông tin truyền thông Nông, lâm
nghiệp và thủy sản là ngành có số dự
án và vốn đầu tư rất thấp, năm 2018
cả nước chỉ thu hút được 491 dự án
với tổng lượng vốn là 3.455,7 triệu
USD (chiếm 1,01% tổng vốn FDI đăng
ký) (Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, 2018). So với các
ngành kinh tế khác, số dự án đầu tư
vào ngành nông, lâm nghiệp và thủy
sản còn rất khiếm tốn, chưa thu hút
được nhiều dự án và nguồn vốn đầu
tư phát triển. Đây là một khó khăn lớn
trong việc khai thác lợi thế tiềm năng
để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam.
Có thể nhận thấy, giai đoạn đầu của
quá trình mở cửa thu hút FDI trong bối
cảnh kinh tế Việt Nam còn nhiều khó
khăn, FDI đã tạo bước đột phá, là đòn
bẩy trong việc khai thác các tiềm năng
và cơ hội đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam. Những năm tiếp
theo, thu hút FDI hướng vào xuất
khẩu hàng hóa, tăng thu ngoại tệ, tạo
việc làm, nâng cao năng lực quản lý,
đóng góp ngân sách và nâng cao đời
sống của người dân. Tỷ trọng vốn FDI
NGUYỄN THỊ VÂN – ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
30
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng
dần qua các năm, từ 15% năm 2005
lên 23,7% năm 2017 (Nguyễn Trí
Dũng, 2018). Đóng góp của FDI trong
GDP của Việt Nam tăng cao trong
những năm gần đây. Giai đoạn năm
1995 - 1996, đóng góp của FDI trong
GDP của Việt Nam chỉ đạt 5,6% đến
thời kỳ 2017 - 2018 đã tăng lên 16,4%
khẳng định vai trò quan trọng của FDI
trong nền kinh tế Việt Nam (Biểu đồ 2).
3. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG ĐÔNG
NAM BỘ
Vùng Đông Nam Bộ có vị trí, vai trò
đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước,
là vùng hội tụ đủ các điều kiện và lợi
thế để phát triển công nghiệp, dịch vụ,
đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Năm 2017, vùng
Đông Nam Bộ đóng góp 40% GDP,
gần 60% thu ngân sách quốc gia.
Cùng với đó, mức GDP tính theo đầu
người cao gấp gần 2,5 lần mức bình
quân cả nước. Tốc độ tăng trưởng
luôn cao hơn 1,6 lần tốc độ tăng
trưởng bình quân chung cả nước
(Mạnh Tiến, 2017). Đạt được những
kết quả ấn tượng đó có sự đóng góp
không nhỏ của các dự án FDI đối với
sự phát triển chung của vùng.
3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
vùng Đông Nam Bộ theo vốn đăng
ký và số dự án đầu tư
Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài
được thực hiện, Đông Nam Bộ luôn là
vùng dẫn đầu cả nước về thu hút các
dự án và nguồn vốn FDI. Số liệu Bảng
1 cho thấy, FDI có sự chênh lệch cao
giữa các tỉnh trong vùng. TPHCM dẫn
đầu về FDI trong vùng với 8.092 dự
án (chiếm 57,4%), tổng số vốn đăng
ký 45.069,5 triệu USD chiếm 31,5%
vốn đầu tư, tiếp theo là Bình Dương,
Bà Rịa - Vũng Tàu, Đồng Nai. Hai tỉnh
Tây Ninh và Bình Phước lần lượt
chiếm 4% và 1,7% tổng vốn đầu tư
của cả vùng giai đoạn lũy kế các dự
án còn hiệu lực từ năm 1988 đến hết
năm 2018. Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh
có vốn đăng ký trung bình/dự án cao
nhất với 72,2 triệu USD/dự án, tiếp
theo là Tây Ninh với 19,7 triệu
USD/dự án, Đồng Nai với 18,4 triệu
USD/dự án. TPHCM tuy có tổng số dự
án và số vốn FDI lớn nhất vùng nhưng
đa phần là các dự án nhỏ vì vậy, vốn
đăng ký trung bình/dự án đạt thấp
nhất vùng với 5,6 triệu USD/dự án,
thấp hơn rất nhiều so với mức trung
bình chung của cả vùng là 10,2 triệu
USD/dự án.
Năm 2018, các dự án FDI vẫn tiếp tục
đầu tư vào vùng Đông Nam Bộ với
1.437 dự án đăng ký chiếm 48,4%
tổng số dự án và 31,1% tổng số vốn
Biểu đồ 2. Đóng góp của các doanh
nghiệp FDI vào GDP của Việt Nam
Nguồn: Minh Sơn - Anh Minh, 2018.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019
31
FDI của cả nước. Tuy nhiên, vốn đăng
ký trung bình/dự án ở mức rất thấp,
chỉ 3,8 triệu USD/dự án, trong đó
TPHCM số lượng dự án đầu tư cao
nhất chiếm 69,9% số dự án của cả
vùng nhưng vốn đăng ký đầu tư thấp,
vốn đăng ký trung bình/dự án thấp
nhất vùng với 0,8 triệu USD/dự án,
trong khi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đạt
40,1 triệu USD/dự án - giữ vị trí đứng
đầu về vốn đăng ký đầu tư (Bảng 1).
Do khó khăn về cơ sở hạ tầng cũng
như vị trí địa lý không thuận lợi và các
điều kiện thu hút đầu tư khác, tỉnh
Bình Phước và Tây Ninh vẫn chưa thu
hút được nhiều dự án và nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, tổng nguồn vốn
của các dự án được cấp phép năm
2018 của hai tỉnh này là 348,6 triệu
USD và 453,3 triệu USD, chiếm 6,2%
và 8,1% tổng vốn đầu tư được cấp
phép của toàn vùng. Đây là một trong
những khó khăn lớn nhất để phát triển
bền vững vùng Đông Nam Bộ.
Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới vốn
đăng ký trung bình tại TPHCM thấp
bởi các dự án FDI đầu tư vào TPHCM
chủ yếu tập trung ở lĩnh vực dịch vụ
nên vốn đầu tư không nhiều, bên cạnh
đó nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa
đầu tư tại TPHCM. Với vị trí địa kinh
tế thuận lợi thu hút đầu tư, Bà Rịa -
Vũng Tàu tập trung đầu tư vào các
lĩnh vực công nghiệp - xây dựng như
các dịch vụ nhà hàng, khách sạn, khu
nghỉ dưỡng vì vậy đã thu hút được
nguồn vốn đầu tư cao hơn rất nhiều
so với các tỉnh khác.
3.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
vùng Đông Nam Bộ phân theo
nhóm ngành kinh tế
Bảng 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại vùng Đông Nam Bộ
Các tỉnh
Đầu tư trực tiếp nước ngoài lũy kế
các dự án còn hiệu lực đến 20/12/2018
Đầu tư trực tiếp nước ngoài được
cấp phép năm 2018
Số dự án Vốn đăng ký Số dự án Tổng vốn đăng ký
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(triệu
USD)
Tỷ lệ
(%)
(*)
Triệu
USD
Số
lượng
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(triệu
USD)
Tỷ lệ
(%)
(*)
Triệu
USD
Vùng Đông
Nam Bộ
14.089 100 143.288 100 10,2 1.473 100 5.595,8 100 3,8
Bình Phước 229 1,6 2.382,4 1,7 10,4 29 2,0 348,6 6,2 12,0
Tây Ninh 294 2,1 5.799,6 4,0 19,7 30 2,0 453,3 8,1 15,1
Bình Dương 3.508 24,9 31.721,0 22,1 9,0 215 14,6 1.216,6 21,7 5,7
Đồng Nai 1.555 11,0 28.638,2 20,0 18,4 125 8,5 989,0 17,7 7,9
Bà Rịa -
Vũng Tàu
411 2,9 29.677,5 20,7 72,2 45 3,1 1.803,5 32,2 40,1
TPHCM 8.092 57,4 45.069,5 31,5 5,6 1.029 69,9 784,8 14,0 0,8
(*)
Vốn đăng ký trung bình/dự án.
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2018.
NGUYỄN THỊ VÂN – ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
32
Vùng Đông Nam Bộ đã thu hút và
phát triển được nhiều ngành nghề ở
mọi lĩnh vực, trong đó công nghiệp -
xây dựng có ưu thế vượt trội về số
lượng dự án cũng như nguồn vốn FDI.
Số liệu Niên giám thống kê các tỉnh,
thành vùng Đông Nam Bộ năm 2017
(Bảng 2) cho thấy các dự án đầu tư
tập trung nhiều nhất vào ngành công
nghiệp - xây dựng, trong đó chiếm ưu
thế là công nghiệp chế biến - chế tạo,
một số tỉnh cũng có nhiều dự án đầu
tư một số ngành nghề mũi nhọn khác,
như: khai thác và chế biến dầu khí,
luyện cán thép, năng lượng điện, công
nghệ tin học, hóa chất cơ bản, phân
bón và vật liệu điều đó đã tạo động
lực cho sự phát triển công nghiệp hóa
của toàn vùng và góp phần thúc đẩy
sự phát triển công nghiệp chung của
cả nước. Qua số liệu (Bảng 2): Tây
Ninh là tỉnh dẫn đầu với 94,5% dự án
đầu tư trong tỉnh tập trung vào công
nghiệp - xây dựng, đứng thứ hai là
Bình Dương với 92,4%, thứ ba là
Đồng Nai với 91,6%, tiếp theo là Bình
Phước với 85,5%, Bà Rịa - Vũng Tàu
với 72,1%, riêng TPHCM chỉ chiếm
28,9%.
Tuy nhiên, đối với nhóm ngành dịch
vụ, TPHCM là nơi tập trung các dự án
đầu tư nhiều nhất với 5.281 dự án
được cấp phép đầu tư (lũy kế các dự
án còn hiệu lực đến 31/12/2017),
chiếm 71% tổng dự án đầu tư toàn
thành phố. Đứng thứ hai là tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu với 27,3% dự án đầu
tư, các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai,
Tây Ninh, Bình Phước số dự án đầu
tư ở lĩnh vực dịch vụ chỉ chiếm lần
lượt là 7,1%, 7,2%, 2,2% và 2,2%
tổng số dự án đầu tư trong tỉnh.
Nông - lâm nghiệp - thủy sản là nhóm
ngành có ít dự án đầu tư nhất. Tính
đến hết năm 2017, toàn vùng chỉ có
71 dự án chiếm tỷ lệ rất nhỏ chỉ 0,6%
Bảng 2. Các dự án đầu tư vào vùng Đông Nam Bộ phân theo ngành kinh tế (Lũy kế các
dự án còn hiệu lực đến hết ngày 31/12/2017)
Các tỉnh
Nông - lâm
nghiệp - thủy sản
Công nghiệp -
xây dựng
Dịch vụ Tổng
Số
lượng
dự án
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
dự án
Tỷ lệ
(%)
Số
lượng
dự án
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
dự án
Tỷ lệ
(%)
Vùng Đông Nam Bộ 71 0,6 6.951 54,6 5.704 44,8 12.726 100
Bình Phước 16 11,9 115 85,8 3 2,2 134 100
Tây Ninh 9 3,3 257 94,5 6 2,2 272 100
Bình Dương 14 0,5 2.608 92,4 200 7,1 2.822 100
Đồng Nai 21 1,2 1.583 91,6 124 7,2 1.728 100
Bà Rịa - Vũng Tàu 2 0,6 238 72,1 90 27,3 330 100
TPHCM 9 0,1 2.150 28,9 5.281 71,0 7.440 100
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ Tổng hợp từ niên giám thống kê của các tỉnh, thành
phố vùng Đông Nam Bộ năm 2017.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019
33
trong cơ cấu ngành.
Đồng Nai có số lượng
dự án đầu tư vào lĩnh
vực này cao nhất
vùng với 21 dự án
nhưng chỉ chiếm 1,2%
tỷ lệ dự án phân theo
cơ cấu ngành trong
tỉnh. Bình Phước là
tỉnh có tỷ lệ dự án đầu
tư vào lĩnh vực nông -
lâm nghiệp - thủy sản
đứng thứ hai của vùng
nhưng cũng chỉ đạt
11,9% với 16 dự án
đầu tư. Các tỉnh,
thành khác, số dự án đầu tư vào lĩnh
vực nông - lâm nghiệp - thủy sản
chiếm tỷ lệ không đáng kể (Bảng 2).
3.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại
vùng Đông Nam Bộ phân theo đối
tác đầu tư
Theo số liệu thống kê của các tỉnh,
thành phố vùng Đông Nam Bộ năm
2017, lũy kế đến hết năm 2017 có
khoảng hơn 80 quốc gia và vùng lãnh
thổ đã và đang đầu tư tại vùng Đông
Nam Bộ. Trong đó các nước Châu Á
đầu tư tại vùng Đông Nam Bộ nhiều
nhất, đứng đầu là Hàn Quốc với 2.627
dự án chiếm 20,6%, tiếp theo là Đài
Loan với 1.719 dự án chiếm 13,5%,
Nhật Bản đứng vị trí thứ ba với 1.642
dự án chiếm 12,9%. Riêng khu vực
Đông Nam Á đã và đang có nhiều dự
án đầu tư tại Đông Nam Bộ như
Singapore, Malaysia, Philippin, trong
đó Singapore đứng đầu Đông Nam Á
và đứng thứ tư thế giới về số lượng
dự án đầu tư tại Đông Nam Bộ với
1.279 dự án chiếm 10,1% tổng số dự
án đầu tư của các nước (Biểu đồ 3).
Bên cạnh các nước Châu Á và các
nước trong khu vực, nhiều nước Châu
Âu và Châu Mỹ cũng đã có nhiều dự
án đầu tư vào Đông Nam Bộ, Hoa Kỳ
có tổng số 526 dự án đầu tư chiếm
4,1%, vương quốc Anh có 222 dự án
đầu tư chiếm 1,7% (Biểu đồ 3). Ngoài
ra còn có rất nhiều dự án từ các quốc
gia và vùng lãnh thổ khác như Đức,
Hà Lan, Nga, Tiểu vương quốc Ả Rập,
Quần đảo Vigin thuộc Anh, Pháp, Đan
Mạch (Tổng hợp từ niên giám thống
kê của các tỉnh, thành phố vùng Đông
Nam Bộ năm 2017).
4. HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI TẠI VÙNG ĐÔNG
NAM BỘ
Qua 30 năm thu hút FDI, vùng Đông
Nam Bộ đã nắm bắt thời cơ, phát huy
tiềm năng, lợi thế nên đã đạt được
Biểu đồ 3. Các đối tác đầu tư chủ yếu tại vùng Đông Nam
Bộ năm 2017
Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ niên giám thống kê của
các tỉnh, thành phố vùng Đông Nam Bộ năm 2017.
NGUYỄN THỊ VÂN – ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
34
một số hiệu quả tích cực, đóng góp
cho sự phát triển chung của toàn vùng:
Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI tại
Việt Nam đã tạo nhiều việc làm cho
người lao động, góp phần giải quyết
và hạn chế tình trạng thất nghiệp,
đồng thời từng bước hình thành đội
ngũ quản lý và công nhân có tay nghề.
Biểu đồ 4 cho thấy lao động làm việc
trong khu vực FDI vùng Đông Nam Bộ
chiếm tỷ lệ từ 7,8% đến 38,06%, đặc
biệt ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai
và Tây Ninh lần lượt là 38,06%,
29,75% và 14,61%. Tuy không cao
bằng khu vực ngoài nhà nước nhưng
lao động làm việc trong khu vực FDI
tại các tỉnh này cũng chiếm tỷ lệ khá
cao và cao hơn tỷ lệ lao động làm việc
trong khu vực nhà nước.
Thứ hai, các doanh nghiệp FDI góp
phần chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật, công nghệ. Tuy chưa đạt được
nhiều kết quả như kỳ vọng nhưng các
doanh nghiệp FDI đã có đóng góp
quan trọng trong việc chuyển giao
những công nghệ sản xuất tiên tiến,
góp phần nâng cao chất lượng hàng
hóa, dịch vụ. Một số ngành đã đạt
hiệu quả cao trong việc tiếp thu công
nghệ tiên tiến của thế giới như: bưu
chính viễn thông, ngân hàng, dầu khí,
xây dựng, giao thông, cầu đường
Sự xuất hiện của các công ty kinh
doanh sản xuất quy mô đa quốc gia,
các tập đoàn công nghệ lớn đã mang
đến nguồn vốn đầu tư lớn cho nền
kinh tế của các tỉnh, thành phố, cải
thiện môi trường đầu tư. Ngoài ra, với
sự chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ
thuật, các doanh nghiệp FDI trong quá
trình đầu tư còn làm tăng giá trị sản
phẩm trên thị trường quốc tế, điển
hình là các doanh nghiệp FDI tại khu
công nghệ cao TPHCM.
Sau 15 năm thành lập, đến tháng
8/2018 khu công nghệ cao TPHCM có
Biểu đồ 4. Cơ cấu lao động làm việc hàng năm theo loại hình kinh tế ở các
tỉnh vùng Đông Nam Bộ năm 2017
Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê của các tỉnh, thành phố vùng Đông
Nam Bộ năm 2017.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019
35
khoảng 130 dự án đầu
tư với tổng số vốn đăng
ký gần 7 tỷ USD từ
những Tập đoàn hàng
đầu thế giới trong lĩnh
vực sản xuất sản phẩm
công nghệ cao, giá trị
gia tăng lớn như Intel,
Microsoft, Nidec, Sanofi,
Nipro, Samsung Đặc
biệt, việc Samsung đưa
vào hoạt động một trung
tâm nghiên cứu và phát
triển với số vốn đầu tư
hàng trăm triệu USD đã
khẳng định được hướng
đi đúng đắn của khu công nghệ cao
TPHCM (Trần Văn Tùng, 2018).
Thứ ba, FDI tham gia đầu tư vào lĩnh
vực giao thông vận tải giúp giảm bớt
một phần gánh nặng đầu tư công, đặc
biệt là tính hiệu quả quản lý, tiếp cận
thị trường quốc tế và chuyển giao
công nghệ. Trong thời gian qua, nhiều
tập đoàn hàng đầu thế giới trong lĩnh
vực vận tải và điều hành khai thác
cảng biển trên thế giới đã hình thành
các liên doanh đầu tư xây dựng và
khai thác cảng biển tại vùng Đông
Nam Bộ, như Hutchison, PSA, DP
World, SSA Nguồn vốn huy động
ngoài ngân sách để đầu tư các cảng
trên khu vực sông Cái Mép - Thị Vải
khoảng 7,88 tỷ USD, chiếm khoảng
70 - 80% vốn đã đầu tư (Vũ Ngọc
Đông, 2018) (trong đó bao gồm nguồn
vốn FDI và nguồn vốn doanh nghiệp
tự huy động).
Hoạt động của các doanh nghiệp FDI
đã tác động, thúc đẩy các doanh
nghiệp trong nước không ngừng đổi
mới công nghệ và phương thức quản
lý để nâng cao chất lượng, sức cạnh
tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị
trường trong nước và quốc tế. Hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp FDI
có tác động lan tỏa đến các thành
phần khác của nền kinh tế thông qua
sự liên kết giữa doanh nghiệp FDI với
các doanh nghiệp trong nước. Sự lan
tỏa này có thể theo hàng dọc giữa các
doanh nghiệp trong ngành dọc hoặc
theo hàng ngang giữa các doanh
nghiệp cùng ngành. Nhìn chung, cùng
với các loại hình doanh nghiệp khác,
các doanh nghiệp FDI góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các
tỉnh, thành trong vùng phù hợp với
định hướng phát triển chung của cả
nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế.
5. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO
SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG
Biểu đổ 5. Tỷ lệ vốn FDI trong tổng vốn phát triển toàn xã
hội của các tỉnh vùng Đông Nam Bộ
Nguồn: Tổng hợp từ niên giám thống kê của các tỉnh,
thành phố vùng Đông Nam Bộ năm 2017.
NGUYỄN THỊ VÂN – ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
36
ĐÔNG NAM BỘ
Để góp phần tạo nên sự phát triển
bền vững vùng Đông Nam Bộ, các dự
án FDI trong vùng phải phát triển toàn
diện dựa trên ba trụ cột chính là kinh
tế, xã hội, môi trường. Qua phân tích
tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam nói chung và tại vùng
Đông Nam Bộ nói riêng, có thể nhận
thấy một số vấn đề đặt ra như sau:
- Về kinh tế: Đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại vùng Đông Nam Bộ phát
triển không đều giữa các tỉnh, thành
phố. Bình Phước và Tây Ninh có số
dự án và số vốn đăng ký đầu tư rất
thấp. Để tăng cường các dự án và
nguồn vốn FDI, hai tỉnh này cần cải
thiện môi trường cạnh tranh, đó là đầu
tư cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực,
chuẩn bị tốt nhất các điều kiện khác;
đồng thời, tạo mối liên kết giữa các
địa phương, tổ chức, quảng bá, giới
thiệu tiềm năng và thế mạnh riêng của
mỗi tỉnh để mời gọi các nhà đầu tư tìm
hiểu và đầu tư.
Thời gian tới, khi quỹ đất cũng như
không gian đô thị bị hạn chế tại những
tỉnh, thành có nhiều dự án đầu tư FDI,
thì luồng đầu tư tiếp theo có xu hướng
dịch chuyển đến những vùng ngoại vi
liền kề các khu kinh tế phát triển, trong
đó, Bình Phước, Tây Ninh có lợi thế,
có khả năng tạo nên gia tốc mới trong
thu hút FDI.
Bên cạnh đó, các dự án FDI trong lĩnh
vực nông - lâm nghiệp - thủy sản của
vùng Đông Nam Bộ còn quá thấp.
Trong khi Đông Nam Bộ có thế mạnh
về sản xuất cây công nghiệp lâu năm
do đất đai, khí hậu và hệ sinh thái cây
trồng rất đa dạng. Cao su, điều, tiêu là
3 nông sản công nghiệp lâu năm, có
sản phẩm chủ yếu làm nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến và cho xuất
khẩu. Tuy nhiên các dự án đầu tư vào
nhóm ngành nông - lâm nghiệp - thủy
sản rất thấp, chỉ chiếm 0,6% tổng số
dự án đầu tư toàn vùng tính đến hết
năm 2017 (Bảng 2).
Vì đầu tư vào nông nghiệp tiềm ẩn
nhiều rủi ro bởi thời tiết, thiên tai, dịch
bệnh nên nhiều doanh nghiệp trong
nước và nước ngoài khá dè dặt khi
đầu tư vào lĩnh vực này nếu như
doanh nghiệp không có thế mạnh về
công nghệ và nguồn vốn không đủ lớn.
Thời gian qua Chính phủ đã ban hành
nhiều nghị định, chính sách, luật và
các văn bản dưới luật nhằm thu hút
vốn đầu tư FDI trong lĩnh vực nông
nghiệp, điển hình là Nghị định
210/2013/NĐ-CP ngày 19/12/2013 về
khuyến khích doanh nghiệp đầu tư
vào nông nghiệp, nông thôn. Tuy
nhiên, nhiều chính sách này vẫn chưa
trở thành đòn bẩy. Vùng còn thiếu
những chính sách đặc thù, chiến lược,
định hướng rõ ràng cho việc thu hút
FDI vào lĩnh vực nông nghiệp, nhất là
các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh. Bên
cạnh đó, việc thu hút dòng vốn FDI
vào nông nghiệp vẫn còn phụ thuộc
nhiều vào các yếu tố như cơ sở hạ
tầng, tích tụ đất đai, nguồn nhân lực,
nguồn cung cấp nguyên liệu, quy mô
sản xuất... Tuy tại vùng Đông Nam Bộ
cây công nghiệp phát triển mạnh và
chiếm tỷ lệ lớn diện tích cả nước
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019
37
nhưng nhóm ngành nông - lâm nghiệp -
thủy sản vẫn chưa hấp dẫn và chưa
thu hút được các dự án FDI, đây là
khó khăn lớn cần tháo gỡ để phát
triển vùng Đông Nam Bộ một cách
toàn diện và bền vững.
- Về xã hội: Đông Nam Bộ thu hút các
dự án FDI cao nhất nước, kéo theo tỷ
lệ người nhập cư, người lao động, tốc
độ phát triển giao thông, cơ sở hạ
tầng cao. Sự gia tăng liên tục hai nhân
tố đầu vào này giúp Đông Nam Bộ
duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm của vùng (GRDP) cao hơn
mặt bằng chung cả nước. Tuy nhiên,
sự gia tăng đó làm cho Đông Nam Bộ
phải đối diện một thực tế là dư địa
vốn, tài nguyên đất, nước và lao động
sẽ dần cạn kiệt, đồng thời dẫn tới gia
tăng kẹt xe và áp lực quá tải hạ tầng
giao thông vốn đang là lực cản tăng
trưởng rất lớn của toàn vùng. Điển
hình là TPHCM, tuy mức độ gia tăng
dân số rất cao, nhưng tăng trưởng
chủ yếu dựa vào các ngành công
nghiệp, dịch vụ thu hút nhiều lao
động, trong khi đô thị lại chưa được
chuẩn bị sẵn về cơ sở hạ tầng, do đó
gây kẹt xe, ngập nước, ô nhiễm môi
trường, gia tăng tội phạm và các tệ
nạn xã hội những vấn đề này ảnh
hưởng lớn đến sự phát triển bền vững
của TPHCM cũng như vùng Đông
Nam Bộ.
Thời gian qua Đông Nam Bộ đã xảy ra
một số cuộc đình công, ngừng việc
tập thể. Do tập trung nhiều doanh
nghiệp với lực lượng lao động đông
đảo nên các cuộc đình công và ngừng
việc tập thể xảy ra trong vùng chiếm tỷ
lệ cao nhất cả nước. Nghiên cứu của
Bảo Duy (2016) cho thấy gần 80% các
cuộc đình công xảy ra ở vùng Đông
Nam Bộ, tập trung ở các tỉnh Bình
Dương, TPHCM, Đồng Nai. Trong đó,
đình công, ngừng việc tập thể xảy ra
ở các doanh nghiệp FDI chiếm tỷ lệ
cao nhất với 75%. Nguyên nhân xuất
phát từ nhiều phía, chủ yếu do quyền
và lợi ích của người lao động không
được chủ doanh nghiệp đáp ứng.
Nhiều doanh nghiệp đã không thực
hiện đúng theo pháp luật lao động
trong áp dụng các chính sách tiền
lương, bảo hiểm xã hội, phụ cấp, điều
kiện làm việc của người lao động
dẫn đến mâu thuẫn và xung đột trong
quan hệ lao động ở doanh nghiệp.
Những cuộc đình công xảy ra ảnh
hưởng không nhỏ đến an ninh chính
trị, kinh tế, xã hội của tỉnh cũng như
toàn vùng Đông Nam Bộ.
- Về môi trường: Thu hút FDI tại Việt
Nam nói chung và tại vùng Đông Nam
Bộ nói riêng đều chưa có tính chọn lọc.
Trong 30 năm qua, FDI phát triển
mạnh ở vùng Đông Nam Bộ song thu
hút đầu tư FDI là một quá trình chưa
kiểm soát tốt, hiệu quả chưa thật sự
cao. Đông Nam Bộ đã thu hút nhiều
đầu tư vào những ngành thâm dụng
lao động nhưng giá trị gia tăng không
cao như dệt nhuộm, hóa chất, tái chế,
sản xuất bột giấy điển hình như một
số dự án FDI ở Bà Rịa - Vũng Tàu,
Đồng Nai, Bình Dương gây ô nhiễm
môi trường và ảnh hưởng đến đời
sống của người dân ở khu vực lân
NGUYỄN THỊ VÂN – ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
38
cận. Nhiều sản phẩm công nghệ cao
đã được doanh nghiệp FDI đưa vào
sản xuất một công đoạn, chủ yếu là
gia công lắp ráp, không tạo ra nhiều
giá trị gia tăng, thực chất chỉ là hoạt
động gia công trên cơ sở nguồn nhân
công giá rẻ và các chi phí rẻ khác của
địa phương.
Để thu hút FDI bền vững và hiệu quả,
vùng Đông Nam Bộ cần chuyển từ
việc tìm kiếm nhà đầu tư phù hợp với
những gì mình đang có (tổng hợp các
yếu tố của môi trường đầu tư có lợi
cho nhà đầu tư) sang xây dựng môi
trường đầu tư và phát triển các yếu tố
phù hợp cho loại hình đầu tư. Các tỉnh
cần đặt ra chiến lược thu hút đầu tư
có chọn lọc, tập trung vào chất lượng
dự án, nên thay đổi phương thức thu
hút đầu tư theo hướng ưu tiên cho
công nghiệp hỗ trợ và các ngành công
nghiệp công nghệ cao với các tiêu chí
đặt ra là bảo đảm môi trường, sử
dụng ít năng lượng, khai thác gắn với
chế biến. Bên cạnh nhóm ngành công
nghiệp - xây dựng đã được các đối
tác chú trọng đầu tư, các tỉnh vùng
Đông Nam Bộ chú trọng và có chính
sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư
vào nhóm ngành dịch vụ và nông -
lâm nghiệp, bởi các nhóm ngành này
ở các tỉnh hiện nay chưa thu hút được
nhiều dự án đầu tư trong khi đó tiềm
năng khai thác lợi thế lớn. Bên cạnh
đó, Bình Phước và Tây Ninh là hai
tỉnh đi sau trong quá trình thu hút đầu
tư, từ những kinh nghiệm thu hút FDI
của các tỉnh đi trước, Bình Phước và
Tây Ninh hoàn toàn có thể tránh được
những hệ quả đáng tiếc để thu hút
FDI bền vững trong tỉnh.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Bảo Duy. 2016. “Để đình công đúng luật”,
500/de-dinh-cong-dung-luat-125532.tld, truy cập ngày 9/6/2019.
2. Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 2018.
6108/Tinh-hinh-thu-hut-Dau-tu-nuoc-ngoai-nam-2018, truy cập ngày 25/01/2019.
3. Cục Thống kê TPHCM. 2018. Niên giám thống kê TPHCM năm 2017 (tr. 85-116). Hà
Nội: Nxb. Thanh niên,
2017, truy cập ngày 4/10/2018.
4. Cục Thống kê tỉnh Bình Dương. 2018. Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương 2017. Hà
Nội: Nxb.Thanh niên.
5. Cục Thống kê tỉnh Bình Phước. 2018. Niên giám thống kê tỉnh Bình Phước 2017. Hà
Nội: Nxb.Thanh niên.
6. Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai. 2018. Niên giám thống kê tỉnh Đồng Nai 2017. Hà Nội:
Nxb. Thống kê.
7. Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh. 2018. Niên giám thống kê tỉnh Tây Ninh 2017. Hà Nội:
Nxb. Thống kê.
8. Cục Thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. 2018. Niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 9 (253) 2019
39
2017. Hà Nội: Nxb. Thống kê.
9. Mạnh Tiến. 2017. “Đông Nam Bộ phát triển chưa tương xứng với tiềm năng”.
nang-post3560.html, truy cập ngày 26/8/2018.
10. Minh Sơn - Anh Minh. 2018. “Những viên gạch đầu tiên trong hành trình 30 năm thu
hút FDI”. https://vnexpress.net/longform/nhung-vien-gach-dau-tien-trong-hanh-trinh-30-
nam-thu-hut-fdi-3818834.html, truy cập ngày 4/10/2018.
11. Nguyễn Minh Thưởng. 2019. “Tạo “xung lực” mới từ thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam”.
moi-tu-thu-hut-von-dau-tu-truc-tiep-nuoc-ngoai-vao-viet-nam-309948.html, truy cập ngày
16/7/2019.
12. Nguyễn Trí Dũng. 2018. “Tầm nhìn mới, cơ hội mới cho đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam”. Trong Kỷ yếu hội thảo 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Tầm nhìn
và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tr. 4-11.
13. Phạm Thị Thanh Bình. 2016. “Phát triển bền vững ở Việt Nam: tiêu chí đánh giá và
định hướng phát triển”. Tạp chí Cộng sản. tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.
aspx?distribution=41199&print=true, truy cập ngày 19/6/2019.
14. Tổng cục Thống kê Việt Nam. 2017. https://www.gso.gov.vn, truy cập ngày
27/12/2018.
15. Thụy Miên. 2018. Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 đạt 2.587USD.
2018122715235412.htm, truy cập ngày 27/12/2018.
16. Trần Văn Tùng. 2018.” Đầu tư nước ngoài trong hoạt động đổi mới và chuyển giao
công nghệ”. Trong Kỷ yếu hội thảo 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam: Tầm
nhìn và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tr. 34-39.
17. Vũ Ngọc Đông. 2018. “Đầu tư nước ngoài với phát triển kết cầu hạ tầng giao thông
tại Việt Nam”. Trong Kỷ yếu hội thảo 30 năm thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
Tầm nhìn và cơ hội mới trong kỷ nguyên mới. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tr. 28-33.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- dau_tu_truc_tiep_nuoc_ngoai_o_dong_nam_bo_nhung_van_de_dat_r.pdf