Quốc tế hoá là một xu hướng khách quan của sự phát triển ở tấ cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn cũng phải bước hội nhập vào quĩ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tê quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước đang phát triển; nâng cao năng lực sản xuất của một quốc gia thông qua cung cấp về vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến, kỹ năng và trình độ quản lý; góp phần nâng cao khă năng cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
50 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1642 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam: Kế hoạch 2006- 2010 và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c mà họ còn chuyển đại bản doanh của họ tại khu vực Châu á đến Thượng Hải, Bắc Kinh, Quảng Châu.
Sự biến động của quy mô dự án FDI tương đối rõ rệt. Trong thời kỳ 1991- 1995 bình quân mỗi dự án FDI là 11,6 triệu USD, thời kỳ 1996- 2000 là 12,37 triệu USD và thời kỳ 2001- 2005 là 5 triệu USD. Việc giảm quy mô bình quân của dự án FDI ở nước ta là một xu hướng đáng buồn, thể hiện số dự án có quy mô lớn giảm xuống, còn số dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên. Có thể trong thời gian tới đây, quy mô dự án sẽ chuyển biến theo hướng tích cực khi có nhiều dự án đầu tư lớn đang chờ được cấp phép.
-Theo địa phương
Các nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt ở tất cả các địa phương trong cả nước, ở cả 65tỉnh thành phố nhưng phân bố không đều. FDI tập trung ở thành phố HCM và các tỉnh lân cận chiếm hơn một nửa vốn đăng ký của cả nước (với 28,66 tỷ USD chiếm 56% vốn đăng ký).
Tiếp theo là Hà Nội và các tỉnh lân cận chỉ chiếm chưa đầy ½ số lượng vốn ở khu vực phía Nam, với 13,42 tỷ USD chiếm 26,3% vốn đăng ký. Nếu tính cả các tỉnh thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng thì tổng số vốn đầu tư chiếm tới trên 75% vốn đăng ký của cả nước.
Sự phân bố không đều vốn FDI chủ yếu là do nhân tố địa lý- tự nhiên quyết định. Những nơi có cảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông thuận tiện, điện nước tốt và các dịch vụ phát triển tốt là những nơi hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến lập nghiệp. Các dự án khách sạn, văn phòng và khu căn hộ cho thuê được đầu tư chủ yếu ở 2thành phố lớn là thành phố HCM, Hà Nội và một vài địa phương có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch như Bà Rịa- Vũng Tàu và Khánh Hoà…
Số dự án và vốn đăng ký tập trung chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam (gồm thành phố HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Tây Ninh, Bình Phước, Long An) đã chiếm 58,6% tổng vốn đăng ký của cả nước.Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc chiếm 27,5% tổng vốn đăng ký của cả nước.
Tính tới ngày 31/12/2005, 10 tỉnh thành đứng đầu trong thu hút FDI của Việt Nam theo thứ tự là: Thành phố HCM, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Long An, Hải Dương, Thanh Hoá, Quảng Ninh.
Bảng4: FDI vào Việt Nam theo địa phương
(Giai đoạn 1988- 2005, chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
STT
Địa phương
Số DA
Tỷ trọng
(% )
Tổng VĐT (1000 USD)
Tỷ trọng
( %)
Vốn pháp định
(1000 USD)
1
- TP Hồ Chí Minh
1.869
31,0
12.239.898
23,99
5.862.546
2
- Hà Nội
654
10,85
9.319.622
18,27
4.003.496
3
- Đồng Nai
700
11,61
8.494.859
16,65
3.347.156
4
- Bình Dương
1.083
17,96
5.031.857
9,86
2.113.531
5
- Bà Rịa- Vũng Tàu
120
1,99
2.896.444
5,68
1.029.058
6
- Hải Phòng
185
3,07
2.034.582
3,99
840.362
7
-Vĩnh Phúc
95
1,58
773.943
1,52
307.344
8
- Long An
102
1,69
766.080
1,5
327.589
9
- Hải Dương
77
1,28
720.072
1,41
286.597
Tổng số
6.030
100
51.017.946
100
22.684.982
Nguồn: Bộ kế hoạch và Đầu tư
- Theo hình thức đầu tư
Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực Châu Á thì hinh thức DNLD được các nhà đầu tư nước ngoài ưu thích nên tỷ lệ các dự án DNLD chiếm tỷ trọng cao so với các hình thức FDI khác. Sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra thì ngày càng nhiều các dự án DNLD xin chuyển đổi sang hình thức 100% VNN.
Tính cho đên hết năm 2004, các dự án đầu tư trực tiếp vào nước ta mới chỉ được phép đầu tư trong 4 hình thức được quy định trong luật ĐTNN. Đến năm 2005, các nhà đầu tư nước ngoài được phép đầu tư trong 6 hình thức FDI. Ngoài 4 hình thức cũ, các nhà đầu tư nước ngoài còn được phép đầu tư vào 2 hình thức mới là công ty cổ phần FDI và công ty quản lý vốn (thí điểm ). Tính chung đến hết ngày 31- 12 năm 2005, cơ cấu FDI vào Việt Nam theo hình thức được phân bổ như sau:
Bảng5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư 19888-2005
(Tính tới ngày 31- 12- 2005. Chỉ tính các dự án còn hiệu lực )
STT
Hình thức đầu tư
Dự án
Vốn đầu tư
Tổng số DA
Tỷ trọng
(%)
Tổng số vốn(1000 USD)
Tỷ trọng
(%)
1
100% VNN
4.504
74,7
26.041
51,0
2
DNLD
1.327
22,0
19.180
37,6
3
HĐHTKD
184
3,05
4.710
8,17
4
BOT
6
0,1
1.370
2,7
5
Công ty cổ phần
8
0,13
199
0,4
6
Công ty quản lý vốn
1
0,02
55,5
0,11
Tổng số
6.030
100
51.017
100
Nguồn: Cục đầu tư nước ngoài và Bộ kế hoạch và Đầu tư
Qua bàn5 ta thấy: Tính đến hết năm 2005, hình thức 100% VNN chiếm tới gàn 75% số dự án và 51% vốn đăng ký. Hình thức DNLD chiếm 22% số dự án và 37,6% vốn đăng ký. Chỉ có khoảng 3% số dự án và 11,4% vốn đăng ký là thuộc về 3 hinh thức đầu tư còn lại. Như vậy có thể thấy rằng các nhà đầu tư nước ngoài ưa thích đầu tư vào hình thức 100% VNN. Hình thức DNLD cung không được ưa chuộng vì tính phức tạp của hình thức này trong quản lý và điều hành. Tuy nhiên số liệu này cũng cho thấy, quy mo của các dự án 100% VNN thường là nhỏ, đầu tư vào những ngành ít rủi ro. Trong khi đó, các dự án liên doanh thường đầu tư vào những lĩnh vực mà nếu đầu tư 100% VNN thì sẽ ít chắc chắn vì nhà đầu tư nước ngoài ít am hiểu lĩnh vực này hoặc ít am hiểu thị trường Việt Nam. Hình thức BOT được chính phủ ưu đãi nhiều hơn so với các hình thức FDI khác như không thu tiền thuê đất, thời hạn thực hiện dự án thường là dài nhưng có rất ít các nhà đầu tư nước ngoài lựa chòn, chủ yếu là do tính chất cục bộ rất lớn. Đây là thực tế cần được nghiên cứu và có các giải pháp tháo gỡ kịp thời để khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư bằng hình thức BOT; hoàn thiện và hiện đại hoa cơ sở hạ tầng của quốc gia nhằm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài mới và phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
* Vốn đầu tư đăng ký bổ sung.
Giai đoạn 2001- 2005, số dự án tăng vốn hàng năm có xu hướng tăng lên theo tốc độ 151,9%; 113,7%; 119,5%,122.1%. Sở dĩ năm 2001 có tốc độ tăng vọt của các dự án xin tăng vốn là do trong các năm trước, các nhà đầu tư nước ngoài đang phải đối mặt với những khó khăn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực. Tính chung cho cả giai đoạn, số dự án tăng vốn đạt 2127 dự án, tăng là 257,8% so với giai đoạn 1996- 2000 là 825 dự án. Vốn đăng ký tăng thêm giai đoạn 2001- 2005 đạt 6.973 triệu USD so với 4113 triệu USD giai đoạn 1996- 2000, tăng 169,5% trong đó vốn cấp mới giai đoạn 2001- 2005 lại chỉ bằng 60% giai đoạn 1996- 2000.
Riêng năm 2005 đã có 607 dự án xin tăng vốn với số vốn đăng ký là 2070 triệu USD bằng 48,5% vốn cấp mới, gần bằng số vốn cấp mới của năm 2003. So với năm 2004, tuy số dự án tăng vốn năm 2005 nhiều hơn tăng 122,13% nhưng số vốn đăng ký lại tăng không đáng kể. Điều đó chứng tỏ các dự án xin tăng vốn của năm 2005 hầu hết là quy mô nhỏ, và có thể luận ra rằng các dự án quy mô nhỏ làm ăn hiệu quả hơn quy mô lớn. Một số dự án tăng vốn trong năm có quy mô tương đối như: CTLD LARKHALI Việt Nam tăng 62,5 triệu USD, công ty Honđa Việt Nam tăng 58 triệu USD, công ty TNHH Hoya Việt Nam tăng 55 triệu USD, công ty phát triển quốc tế Thế kỷ tăng 46,9 triệu, công ty Uni- President tăng 46,5 triệu USD. Trong năm 2005, các dự án trong khu công nghiệp có 359 lượt tăng vốn với tổng số vốn đăng ký tăng thêm là 1032 triệu USD chiếm gần 50% vốn tăng thêm và tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước. Các khu công nghiệp trên địa bàn Đồng Nai, Bình Dương, TP HCM và Hà Nội thực hiện tăng vốn nhiều nhất, chiếm hơn ¾ tổng vốn đầu tư tăng thêm trong các khu công nghiệp của cả nước.
* Tình hình thực hiện dự án và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực có vốn FDI
@ Chỉ tiêu đề án
- Căn cứ vào mục tiêu đề ra tại NĐ số 09/2001/NĐ - CP ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả FDI giai đoạn 2001-2005, mục tiêu thu hút vốn thực hiện cho giai đoạn này là 12 tỷ USD (Trung bình 2,4 tỷ USD/năm). Dựa trên tình hình thực tế trong những năm qua, Bộ Kế hoạch đầu tư đã dự kiến vốn thu hút mới trong năm 2005 là 3,1 tỷ USD.
@ Kết quả thực hiện.
- Vốn thực hiện (VHT) trong giai đoạn 2001-2005 đạt 13,822 tỷ USD, tăng 2,6% so với giai đoạn 1996-2000, trong khi vốn cấp mới tăng gần gấp đôi về số lượng. Tính trung bình VHT đạt 2,76 tỷ USD/1năm, cao hơn mục tiêu đặt ra cho cả giai đoạn 2001-2005 là 2,4 tỷ USD. Đó cũng là kết quả của sự cố gắng nhiều mặt ở mọi cấp, mọi ngành trong nền kinh tế nước ta thời gian qua trong việc cải thiện môi trường đầu tư. Riêng trong năm 2005 đạt 3,3 tỷ USD tăng 15,4% so với năm 2004 và vượt so với dự kiến ban đầu (mục tiêu năm 2005 là 3,1 tỷ USD). Trong đó, đa số là vốn thực hiện trong ngành công nghiệp (kể cả dầu khí) và xây dựng chiếm 65%, trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm 7% và vào dịch vụ chiếm 28%.
- Trong 5 năm vừa qua, chúng ta có những tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện quản lý Nhà nước trong các khâu thẩm định, cấp giấy phép đầu tư, triển khai các dự án đi vào hoạt động. Cụ thể là:
+Việc thẩm định cấp giấy phép đầu tư đã có những tiến bộ như: (a) quá trình thẩm định cần được cải tiến cả về thủ tục và hồ sơ. (b) đã áp dụng ngày càng nhiều phương thức đăng ký dự án nhất là các dự án đầu tư vào các KCN, KCX. (c) thời hạn thẩm định và cấp giấy phép đầu tư được rút ngắn rất nhiều so với trước đây. Một số địa phương lập kỷ lục về thời gian từ khi nhận hồ sơ đến khi cấp giấy phép đầu tư chỉ trong vòng 1-2 ngày .
+ Việc triển khai thực hiện các dự án FDI cũng có những tiến bộ kể như lộ trình áp dụng cơ chế một giá về cơ bản đã được giảm bớt như thủ tục cấp phép quyền sử dụng đất, giải phóng mặt bằng, nhập khẩu vật tư thiết bị, cấp phép xây dựng…
+ Việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh nghiệp FDI có những tiến bộ đáng kể thể hiện ở một số chủ trương đã được quy định trong luật thuế, luật hải quan tạo điều kiện cho các doanh nghiệp FDI được chủ động trong việc tính thuế phải nộp, giảm thiểu thời gian và chi phí làm thủ tục hải quan. Tình trạng thanh tra, kiểm soát cũng được cải thiện rõ rệt hơn trước.
- Doanh thu của một khu vực FDI giai đoạn 2001-2005 đạt hơn 77,9 tỷ USD, tăng gần 2,9 lần so với giai đoạn 1996-2000, đạt mức trung bình gần 15,6 tỷ USD/năm so với mức trung bình 5,4 tỷ USD giai đoạn 1996-2000. Đây thực là một đóng góp to lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam những năm gần đây. Riêng trong năm 2005, khu vực FDI đạt mức 21 tỷ USD tăng 16.7% so với năm 2004. Ước cả năm 2005, sản xuất công nghiệp cua khu vực FDI tăng 21% cao hơn mức tăng trưởng chung của công nghiệp cả nước (khoảng 16,5%). Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường xuất khẩu của một số sản phẩm công nghiệp được mở rộng, giá dầu thô tăng cao và trong năm có thêm nhiều doanh nghiệp FDI mới chính thức đi vào hoạt động.
- Kim ngạch xuất nhập khẩu (KNXK) giai đoạn 2001-2005 đạt 83,317 tỷ USD tăng gấp 3,2 lần giai đoạn 1996-2000. Tính chung cho cả giai đoạn 2001-2005, KNXK đạt gần 16,7 tỷ USD/năm so với mức trung bình 5,2 tỷ USD giai đoạn 1996-2000. Tính chung của cả giai đoạn 2001-2005, khu vực FDI xuất siêu được 5,8 tỷ USD. Đây là một thành tựu đáng kể khi nền kinh tế Việt Nam đang còn gặp nhiều khó khăn trong việc cân đối ngoại tệ để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế trong nước, đồng thời góp phần cân bằng cán cân thương mại. Riêng trong năm 2004 và chiếm 56% tổng KNXK là 15,9 tỷ USD (tăng 20% so với năm 2004 và chiếm 56% tổng KNXK của cả nước). Nhập khẩu của khu vực FDI đạt 13,1 tỷ USD, tăng 19,4% so với năm 2004, chiếm 34% tổng kim ngạch NK của cả nước. Như vậy, nếu không tính xuất khẩu dầu thô, năm 2005 khu vực FDI xuất siêu 2,8 tỷ USD - một con số ban đầu thật đáng ghi nhận.
-Nộp ngân sách của khu vực FDI tính chung của cả giai đoạn 2001-2005 là 3,55 tỷ ÚD, tăng gần 2,4 lần giai đoạn 1996-2000. Riêng trong năm 2005, nộp ngân sách của khu vực FDI đạt con số kỷ lục, vượt ngưỡng 1 tỷ ÚD (1,29 tỷ USD), tăng 39,5% so với năm 2004 và chiếm 12% tổng thu ngân sách Nhà Nước,
-Số việc làm được tạo ra trong giai đoạn 2001-2005 có xu hướng tăng dần và nhiều hơn các năm giai đoạn 1996-2000. Riêng năm 2005, khu vực FDI đã tạo thêm việc làm cho 14 vạn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 90 vạn người.
-Trong năm 2005, có gần 200 doanh nghiệp FDI chính thức đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đưa tổng số doanh nghiệp FDI đang hoạt động trong nền kinh tế Việt Nam lên con số hơn 3000 doanh nghiệp. Tình hình hoạt động và triển khai của các dự án trong KCN, KCX diễn ra nhanh và thuận lợi. Xu hướng mở rộng hoạt động và xin tăng vốn của các doanh nghiệp trong KCN, KCX tiếp tục gia tăng. Giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp trong KCN, KCX ước đạt 14 tỷ ÚD, tăng 25% so với năm 2004 và tăng lớn hơn so với tốc độ tăng trưởng công nghiệp FDI nói chung là 21%. Giá trị xuất khẩu đạt gần 6 tỷ USD, giá trị xuất khẩu gần 6 tỷ USD, giá trị NK đạt gần 8 tỷ USD, nộp ngân sách tăng và đạt 650 triệu USD.
3. Đánh giá thực trạng thu hút và triển khai các dự án FDI tại Việt Nam thời gian qua.
3.1 Ưu điểm.
-Số dự án FDI và lượng vốn FDI thu hút được có xu hướng tăng lên qua các năm. Cơ cấu FDI đã có sự chuyển biến theo hướng tích cực- Tăng tỷ trọng của lĩnh vực dịch vụ, các dự án cấp mới trong lĩnh vực dịch vụ chiếm trên 37% VĐK.
-Quy mô bình quân một dự án FDI cũng có xu hướng tăng từ 2,08 triệu USD năm 2002 lên 4,6 triệu ÚD năm 2005. Chất lượng cảu các dự án mới và các dự án tăng vốn trong năm 2005 có chuyển biến tích cực. Đã thu hút được một số dự án có quy mô lớn, sử dụng công nghệ tiên tiến như dự án xây dựng hệ thống điện thoại di động CDMA, dự án đầu tư nghiên cứu phát triển và sản xuất mô tơ chính xác cao của tập đoàn NIDEC, dự án nghiên cứu, phát triển và sản xuất các thiết bị âm thanh siêu nhỏ của tập đoàn SINION, các dự án mở rộng sản xuất của Canon…
-Tổng số dự án tăng vốn có xu hướng tăng từ 241 dự án năm 2001 lên 607 dự án năm 2005. Tổng số vốn tăng thêm cũng tăng từ 632 triệu USD năm 2001 lên 2070 triệu USD năm 2005.
-Số dự án giải thể được thời hạn có xu hướng giảm từ 452 dự án giai đoạn 1996-2000 xuống 371 dự án giai đoạn 2001-2005. Tính riêng trong giai đoạn 2001-2005, năm 2001 giải thể 94 dự án, nhưng đến năm 2005 chỉ có 51 dự án bị giải thể trước thời hạn. Tỷ lệ các dự án tạm ngừng triển khai và bị rút giấy phép trước thời hạn có xu hướng giảm. Tổng số vốn giải thể giai đoạn 2001-2005 giảm đi so với giai đoạn trước( giảm từ 6756 triệu USD giai đoạn 1996-2000 xuống 5041 triệu USD giai đoạn 2001-2005).
-Các dự án đi vào hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thực hiện tốt các nghĩa vụ nộp ngân sách và có tác động khá tốt đến nền kinh tế Việt Nam. Doanh thu NKXK, nộp ngân sách đều tăng với tốc độ nhanh. Giải quyết thêm được nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Khu vực kinh tế FDI thực sự đóng góp khá lớn vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam những năm qua, tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam những năm tiếp theo.
-FDI đã đóng góp đáng kể vào việc gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cảu đất nước. Vốn FDI đã tạo ra khoảng trên dưới 15% GDP của Việt Nam giai đoạn 2001-2005.
-Ngày càng nhiều dự án của các tập đoàn đa quốc gia quay trở lại đầu tư và mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Đến nay đã có 95 công ty đa quốc gia đầu tư vào 230 dự án FDI tại Việt Nam với tổng VĐK ( kể cả tăng vốn) là 10,6 tỷ ÚD, chiếm 20% tổng VĐK. Hầu hết các công ty nói trên đầu tư vào các dự án có quy mô lớn ( bình quân trên 45 triệu USD/dự án).
-Nhận thức được lợi ích do hoạt động FDI mang lại cho nền kinh tế quốc gia, chính phủ đã chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh thu hút FDI và cải thiên mạnh mẽ môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Thủ tướng và Phó thủ tướng chính phủ đã trực tiếp tham gia các diễn đàn doanh nghiệp tổ chức trong nước và nước ngoài chủ trì hội nghị gặp mặt các nhà đầu tư,lắng nghe tiếng nói tâm tư,nguyện vọng của các nhà đầu tư, có những giải thích và chỉ đạo kịp thời nhằm tháo gỡ khó khăn trở ngại cho các doanh nghiệp FDI tạo môi trưòng thuận lợi hơn cho việc thu hút FDI.
-Công tác xúc tiến đầu tư trong 5 năm qua đã có những chuyển biến tích cực và có những đổi mới trong phương thức xúc tiến đầu tư. Công tác xúc tiến đầu tư được chính phủ và địa phương chú trọng thông qua hoạt động đối ngoại như ngày Việt Nam tại các nước, đoàn Chính phủ thăm Hoa kỳ, Nhật bản, Trung Quốc, Singapore…Các bộ, ngành và địa phương cũng đã bước đầu chủ động xây dựng những chương trình xúc tiến cho riêng ngành và địa phương mình, xúc tiến đầu tư và kêu gọi đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia, từng dự án cụ thể. Hội thảo xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước đã có những chuyển biến tích cực về số lượng và chất lượng. Số lượng các đoàn đi tìm hiểu về đầu tư vào Việt Nam trong những năm gần đây tăng lên, đặc biệt là năm 2005.
3.2. Hạn chế
-Tuy số dự án FDI và lượng vốn FDI thu hút được có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng lại không ổn định. Mặc dù năm 2005 FDI đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút FDI trong những năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn thấp hơn mức đạt được của năm 1996.
-Tuy quy mô bình quân một dự án FDI có xu hướng tăng nhưng quy mô thực của một dự án rất nhỏ. Trong các năm 2002 đến 2004 quy mô binh quân một dự án chỉ từ 2 tỷ đến 3 tỷ USD, đến năm 2005 mới đạt 4,6 tỷ USD. So với giai đoạn 1996.
-Sức ép cạnh tranh quốc tế gai tăng cùng với tiến trình hội nhập trong điều kiện tiêm lực kinh tế của Việt Nam còn yếu, khả năng cạnh tranh còn thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, chất lượng tăng trưởng kinh tế và hiệu quả đầu tư chưa cao…làm kém đi tính hấp dẫn đó với FDI với tư cách là một đối tác đầu tư trực tiếp.
-Những biến động khó lường trên thị trường thế giới nhất là giá dầu, giá vàng và một số mặt hàng káhc có tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam, trong đó có hoạt động FDI.
*Nguyên nhân chủ quan.
@ Về quan điểm của các bộ, ngành còn thiếu thống nhất trong từng dự án cụ thể.
Việc cấp giấy phép cho một số dự án FDI còn bị nhiều cơ quan quản lý Nhà nước lên tiếng phản đối khi dự án đi vào giai đoạn triển khai thực hiện. Mặc dù, trong giai đoạn thẩm định cấp giấy phép đầu tư, cơ quan này cũng đã đồng ý cho cấp giấy phép, hoặc là cũng không phản đối, nhưng thấy các cơ quan quản lý nhà nước khác phản đối họ cũng bắt đầu phản đối.
@ Về pháp luật chính sách liên quan đến FDI
Việc sửa đổi Luật ĐTNN năm 1996 có tác động tiêu cực đến môi trường pháp lý của nước ta, gây tâm lý lo ngại đối với các nhà đầu tư. Luật sửa đổi 1996 đã xoá đi rất nhiều ưu đãi đối với doanh nghiệp FDI, đặc biệt là xoá bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu đối với một số vật tư, thiết bị, phương tiện vật chất để hình thành các cơ sở sản xuất kinh doanh. Việc sửa đổi Luật đầu tư nước ngaòi 2000 đã khắc phục được nhược điểm của lần sửa đổi trước đó. Tuy vậy, rất đáng tiếc là nhiều ý tưởng mời phù hợp với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế và với Luật doanh nghiệp của Việt Nam đã được dự thảo nhưng không được Quốc hội thông qua. Ví dụ như các hình thức công ty như công ty cổ phần, công ty hợp doanh, công ty quản lý và chủ trương cho doanh nghiệp FDI phát hành cổ phiếu ở trong nước và ở nước ngoài…
Việc ban hành các văn bản dưới luật ( Nghị định và thông tư hướng dẫn) còn chậm, gây khó khăn cho việc chỉ đạo và thực hiện của các dự án FDI. Ví dụ như Luật đầu tư chung đã được Quốc hội khoá XI thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 nhưng cho đến nay vẫn chưa có Nghị định quy định chi tiết thi hành luật và các văn bản pháp lý khác của các bộ ngành cũng phải chờ nghị định này ra đời rồi mới nghiên cứu ban hành được.
Sự thay đổi một số chính sách của nhà nước và tình trạng thiết nhất quán, thiếu minh bạch trong chính sách và pháp luật đang là tình trạng phổ biến ở nước ta. Có thể kể ra nhiều ví dụ “đã làm cho các nhà đấu tư lao đao như chủ trương cấm xuất khẩu gỗ tròn, gỗ xẻ đã gây ra sự phá sản cho hàng chục doanh nghiệp FDI. Trong việc sản xuất rượu bia, nước giải khát, lúc thì cho, lúc, lại hạn chế FDI , trong khi đó thuế tiêu thụ đặc biệt đã thu trên một nửa sản phẩm của doanh nghiệp. Chủ trương đối với thuốc lá điếu cũng không minh bạch nên khi Hải Phòng đàm phán được một dự án lớn dành cho xuất khẩu được nhiều Bộ ủng hộ, chỉ vì Tổng công ty thuốc lá phản đối mà Chính phủ không cho phép thực hiện. Chủ trương không khuyến khích đầu tư nước ngoài vào ngành xi măng, rồi chủ trương giao cho doanh nghiệp Nhà nước mấy nghìn tỷ đồng tiền vốn ưu đãi để xây dựng nhà máy sản xuất ôtô vận tải trong khi nhà nước đã có nhiều nhà máy loại này mới sử dụng 10% công suất và để chế tạo thép mà đã có một dự án FDI tương tự bị từ chối cấp giấy phép…đã hạn chế hoạt động FDI trong những ngành này”
Cơ chế, chính sách định hướng thu hút FDI chưa thật minh bạch và đủ hấp dẫn .
Việc thực thi pháp luật, cũng như các quyết định của Chính phủ còn nhiều nhược điểm. Một số địa phương đã đề ra các quy định vượt quá thẩm quyền như miễm giảm thuế cho các dư án FDI nhiều hơn với thời hạn dài hơn các khung pháp lý mà Quốc hội đã thông qua – đã gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các địa phương trong một vùng lãnh thổ làm thiệt hại đến quyền lợi của Việt Nam. Một số bộ đã không chấp hành nghiêm chỉnh quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Điển hình là Bộ công nghiệp và tổng công ty điện lực Việt Nam cho đến nay vẫn chưa hoàn thành việc hoàn trả vốn đầu tư cho các doanh nghiệp FDI ứng trước để xây dựng lưới điện ngoài hàng rào doanh nghiệp mà lẽ ra phải hoàn thành chậm nhất là năm 2001. Chủ trương giảm chi phí kinh doanh cho các nhà đầu tư nước ngoài và thống nhất giá cả dịch vụ giữa doanh nghiệp FDI với daonh nghiệp trong nước , trong đó có việc giảm giá cước viễn thông quốc tế, giảm giá cước dịch vụ vận tải, bến cảng hàng không và cảng biển quốc tế, dịch vụ quảng cáo trên truyền hình…đã thực hiện quá chậm so với đòi hỏi cải thiện môi trường đầu tư và sự chỉ đạo của chính phủ. Rõ ràng là đã nảy sinh tình trạng đối lập giữa lợi ích cục bộ của từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp với lợi ích dân tộc, trong khi môi trường đầu tư cần được cải thiện, cần giảm mạnh chi phí cơ hội cho các dự án FDI, thực hiện bình đẳng về mặt luật pháp giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI… thì lợi ích cục bộ đã trở thành lực cản lớn nhất cho quá trình phát triển.
Chủ trương HNKTQT trong đó có FDI đang đòi hỏi phải đồng thời giải quyết cả 6 vấn đề có liên quan đến thể chế luật pháp của nước ta như vừa nêu trên nhằm làm cho hệ thống pháp luật cảu nước ta vừa đảm bảo thực hiện xây dựng kinh tế thị trưòng theo định hướng XHCN, vừa tiếp cận được pháp luật và thông lệ quốc tế để hội nhập có hiệu quả.
@ Về quản lý nhà nước đối với FDI.
Tuy trong 5 năm vừa qua, chúng ta có những tiến bộ đáng kể trong việc thực hiện quản lý nhà nước trong các khâu thẩm định, cấp giấy phép đầu tư triển khai các dự án FDI và đưa các dự án đi vào hoạt động nhưng tình hình quá chú trọng khâu thẩm định cấp giấy phép đầu tư vẫn là nguyên nhân làm cho thủ tục hành chính trong công đoạn này còn khá phức tạp và những nội dung quy định trong nội dung hồ sơ là không cần thiết. Đã đến lúc cần giảm bớt mối quan tâm của các cơ quan quản lý Nhà nước vào khâu thẩm định cấp giấy phép đầu tư mà chú trọng hơn đến các giai đoạn sau khi được cấp giấy phép.
@ Về xúc tiến đầu tư
Hiệu quả của công tác xúc tiến đầu tư chưa tương xứng với đòi hỏi trong tình hình mới
Trang thông tin Website về đầu tư nước ngoài còn chưa nhiều và chưa cập nhật
@ Về thủ tục hành chính
Những thủ tục đối với FDI cần được cải tiến bao gồm:
Hồ sơ và thủ tục thẩm định cấp giấy phép đầu tư
Thủ tục cấp quyền sử dụng đất, xây dựng các công trình, đánh giá tác động môi trường
Các thủ tục về xuất nhập khẩu, thuế…
Các nhà ĐTNN còn phải trải qua quá nhiều cửa trong quá trình triển khai các dự án FDI nên nhiều vướng mắc phát sinh của dự án FDI chưa được giải quyết, tháo gỡ ịp thời
@ Về cơ sở hạ tầng: còn yếu kém đặc biệt là các địa bàn khó khăn về điện, nước, viễn thông, dịch vụ vận tải
@ Về nguồn nhân lực: dồi dào nhưng chất lượng chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nhghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao.
@ Việt Nam còn thiếu ngành công nghiệp phụ trợ để tạo điều kiện cho các cơ sở sản xuất lắp ráp.
Ma trận SWOT về thu hút FDI
S:
- sự ổn định về kinh tế, chính trị, văn hoá
- cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH- HĐH
- chính sách thông thoáng hơn trong thu hút vốn đầu tư
- quan hệ quốc tế được củng cố và phát triển
- cải cách hành chính có bước chuyển biến tích cực
W:
- sức cạnh tranh, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta còn thấp
- quy mô kinh tế nhỏ
- tiến độ giải ngân thấp
- cơ cấu sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu
- trình độ lao động thấp
- một số lĩnh vực xã hội còn yếu
- cải cách hành chính tiến hành chậm
O:
- hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế chủ yếu của thế giới và khu vực
- cuộc CMKHCN tiếp tục phát triển theo chiều sâu
- toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, tự do thương mại được đẩy nhanh
- tăng cường xúc tiến đầu tư
- hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư
- củng cố hoạt động quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài
- tăng cường áp dụng KHCN
- mở rộng quan hệ ngoại giao, có các chính sách ngoại giao mềm dẻo
- tăng cường hội nhập quốc tế
T:
- nguy cơ khủng hoảng, suy thoái nền kinh tế
- xung đột cục bộ và sự bất ổn định
- sức ép cạnh tranh khi toàn cầu hoá.
- các dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên
- lựa chọn đối tác và tiêu chí đầu tư phù hợp và có hiệu quả
- có chính sách bảo vệ môi trường
- tiếp tục cải cách hành chính theo hướng nhanh gọn, làm việc hiệu quả
- hoàn thiện thị trường lao động: đào tạo cán bộ quản lý, nhân viên kỹ thuật, công nhân
- đẩy nhanh tiến độ giải ngân
- phát triển kinh tế thị trường và hoàn thiện hệ thống thị trường đồng bộ
II/ Kế hoạch thu hút FDI 2006- 2010
1/ Định hướng và mục tiêu thu hút FDI giai đoạn 2006- 2010
Theo dự thảo Chương trình Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2006- 2010 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giai đoạn này sẽ đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ nguồn từ các nước phát triển, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông- lâm- thuỷ hải sản.
Dự thảo lần 3 Chương trình Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thời kỳ 2006- 2010 vừa được Bộ Kế hoạch và Đầu tư hoàn tất. Theo đó, dự kiến, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới và tăng vốn trong 5 năm 2006- 2010 đạt 30- 34 tỷ USD, trong đó vốn đăng ký cấp mới đạt 22- 24 tỷ USD, vốn tăng thêm đạt 8- 10 tỷ USD. Vốn FDI thực hiện trong giai đoạn này dự kiến đạt khoảng 24- 25 tỷ USD, trong đó FDI trong ngành công nghiệp chiếm 55%, dịch vụ 37% và nông- lâm- ngư nghiệp chiếm 8%.
Về định hướng lĩnh vực thu hút đầu tư, sẽ đặc biệt khuyến khích đầu tư vào các ngành công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học, công nghệ nguồn từ các nước phát triển, công nghiệp phụ trợ, chế biến nông- lâm- thuỷ hải sản. Về dịch vụ, đặc biệt khuyến khích thu hút đầu tư vào các ngành kinh doanh bất động sản, du lịch, y tế, giáo dục- đào tạo…
Đầu tư nước ngoài sẽ được ưu tiên, khuyến khích vào những ngành nghề, lĩnh vực có tác dụng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế như sản xuất sản phẩm công nghệ cao, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, công nghệ chế tạo, nuôi trồng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng, phát triển các ngành dịch vụ nhất là giáo dục, đào tạo, y tế.
Riêng năm 2006, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5năm 2006- 2010, cần tăng mạnh thu hút FDI để tạo ra sự chuyển biến về mọi mặt kinh tế xã hội, môi trường, chủ động thực hiện từng bước lộ trình hội nhập có hiệu quả và đạt tốc độ tăng trưởng GDP là 85 thì FDI cần phải đạt 6,5 tỷ USD vốn cấp mới và 35 tỷ USD vốn thực hiện. Trong đó vốn của các dự án mới khoảng 4,2 tỷ USD và vốn tăng thêm khoảng 2,3 tỷ USD. Trong 3,5 tỷ vốn thực hiện thì vốn đầu tư bên ngoài khoảng 3,3 tỷ USD.
Tăng cường công tác quản lỹ dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đối thoại thường xuyên với các cộng đồng doanh nghiệp nhằm nhanh chóng tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Mở rộng các kênh đầu tư mới gắn với mở cửa thị trường phù hợp với các cam kết quốc tế.
Thành lập quỹ xúc tiến đầu tư, đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến đầu tư.
Xây dựng các đầu mối xúc tiến đầu tư tại các khu vực trọng điểm.
2/ Kết quả thực hiện 2năm 2006, 2007 và nhiệm vụ cho các năm còn lại.
2.1/ Kết quả thực hiện năm 2006
Bộ Kế hoạch Đầu tư đã cho biết, con số cuối cùng về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong năm 2006 tỷ USD bao gồm cả dự án cấp mới và tăng vốn.
Con số này, dù thấp hơn so với con số 10,2 tỷ USD mà một số báo đưa tin cách đây vài ngày, nhưng cũngtăng tới 45% so với năm trước và vượt 32% kế hoạch cả năm.
Theo thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài cho biết, năm 2006 đã có 797 dự án được cấp mới với tổng vốn đầu tư đăng ký là 7,5 tỷ USD và 439 dự án tăng vốn với tổng cộng 2,121.7 tỷ USD.
Mặc dù có tới 70 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 300 triệu USD giải thể trước thời hạn trong năm 2006, nhưng tình hình thu hút FDI nói chung là “vượt quá mong đợi”.
“Mức thu hút FDI trong năm nay đã tăng cao nhất kể từ khi Luật Đầu tư Nước ngoài được thông qua năm 1987. Nó thể hiện làn sóng đầu tư thứ hai vào Việt Nam đã bắt đầu”.
Con số FDI năm 2006 rõ ràng đã làm mát mặt các nhà hoạch định chính sách, những người vốn chỉ dám đặt mục tiêu thu hút 6.5 tỷ USD năm nay.
Thu hút FDI đã chạm đỉnh 8,6 tỷ USD cách đây 10 năm, khi giới đầu tư nước ngoài đặt kỳ vọng rất lớn về triển vọng kinh doanh ở đây sau một thập kỷ Việt Nam tiến hành đổi mới và mở cửa.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và việc chậm cải thiện môi trường kinh doanh trong những năm sau đó của Việt Nam đã làm suy giảm luồng vốn FDI.
Nguyên nhân thành công trong năm 2006 là do Việt Nam đã tạo được hành lang pháp lý thông thoáng hơn với việc ban hành các luật Đầu tư, Doanh nghiệp, Đấu thầu,... cùng các nghị định hướng dẫn.
Ngoài ra, đích thân Thủ tướng và các Phó Thủ tướng cũng đã trực tiếp kêu gọi đầu tư ở các hội thảo nước ngoài ở Nhật Bản, Châu Âu và Trung Quốc, điều chưa từng có tiền lệ.
Đặc biệt là việc Việt Nam tổ chức thành công tuần lễ APEC, trong đó có Diễn đàn Đầu tư Kinh doanh với sự tham dự của đại diện hàng trăm tập đoàn lớn trên thế giới đã tác động trực tiếp đến hoạt động đầu tư nước ngoài.
Hơn nữa, kỳ vọng của các nhà đầu tư về môi trường kinh doanh, sức mua nội địa, ... của Việt Nam sau khi gia nhập WTO cũng là một điểm mạnh.
Trong năm 2006 có thêm 250 doanh nghiệp FDI đi vào hoạt động, đưa tổng số doanh nghiệp FDI trong cả nước tới 3.500.
Tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp này đạt 29.4 tỷ USD, tăng hơn 31% so với năm ngoái.
Đến nay, cả nước có 6.813 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 60 tỷ USD, trong đó 28,6 tỷ USD đã thực hiện. Khu vực kinh tế FDI đã được coi là “một phần của nền kinh tế Việt Nam”.
5 tỉnh đứng đầu về thu hút FDI năm 2006 trong tổng số 45 tỉnh có FDI
Tỉnh
Số dự án
Tổng vốn (USD)
Bà Rịa Vũng Tàu
19
1,69 tỷ
TP. Hồ Chí Minh
195
1,2 tỷ
Hà Tây
17
805 triệu
Bình Dương
155
709 triệu
Quảng Ngãi
1
556 triệu
Một số dự án tăng vốn lớn năm 2006
Công ty
Vốn tăng (triệu USD)
Intel
395
Gốm Bạch Mã
150
Giầy Ching Luh
98
VMEP
93,6
Canon
70
Hưng Nghiệp Formosa
66,4
Panasonic
55,5
Yamaha Motor
43
Ritek
30,5
Nortel
30
(Nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài)
2.2/ Kết quả thực hiện năm 2007
Trong 10 tháng đầu năm, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào Việt Nam đạt 11,26 tỷ USD, vượt qua con số 10,2 tỷ USD của năm ngoái. Với tốc độ thu hút vốn như hiện nay, FDI sẽ vượt kế hoạch cả năm. Với con số trên 11 tỷ USD, FDI trong 10 tháng đã tăng 36,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong số này có 1.144 dự án cấp mới với 9,75 tỷ USD, tăng 59% và 300 dự án hiện hữu xin tăng vốn, đạt 1,5 tỷ USD. Công nghiệp vẫn đang là nhóm ngành dẫn đầu về nguồn vốn đầu tư nước ngoài với trên 5,3 tỷ USD trong 10 tháng, tiếp sau là dịch vụ với 4,25 tỷ USD.
Tính riêng trong tháng 10, các địa phương có 99 dự án FDI cấp mới với 1,46 tỷ USD và 26 dự án tăng vốn, trị giá 196 triệu USD. Tổng cộng, FDI đổ vào Việt Nam trong tháng đạt 1,65 tỷ USD. Theo Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch - Đầu tư, hiện có một loạt dự án trị giá khoảng 50 tỷ USD đang xúc tiến vào Việt Nam, với các nhà đầu tư lớn từ Mỹ, Hàn Quốc, tập trung ở các lĩnh vực công nghiệp, công nghệ cao và địa ốc. Dự kiến từ nay đến cuối năm sẽ có thêm nhiều dự án lớn được cấp phép và có khả năng FDI sẽ vượt kế hoạch 12 tỷ USD của cả năm.
Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn giữ vị trí địa phương thu hút lượng vốn FDI cao nhất cả nước, với 18 dự án trị giá trên 1 tỷ USD. Tiếp sau là TP HCM và Hà Nội với lần lượt 987,4 và 896,4 triệu USD. Cho đến nay, các dự án đầu tư vào Bà Rịa - Vũng Tàu chủ yếu trong lĩnh vực thép và nhiệt điện, trong khi các dự án tại Hà Nội tập trung vào bất động sản và khách sạn.
Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam trong 10 tháng đầu năm với tổng vốn 2,44 tỷ USD, chiếm 21,6% lượng FDI cả nước. Đứng kế tiếp là British Virgin Islands, một lãnh thổ thuộc Vương quốc Anh tại vùng biển Caribê, và Singapore với lần lượt 1,7 và 1,3 tỷ USD.
Ông Phan Hữu Thắng- Cục trưởng Cục đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch- Đầu tư ) cho biết: dự kiến vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong năm 2007 có thể đạt 14 tỷ USD, tăng khoảng 31% so với năm 2006.
2.3/ Kế hoạch vốn đầu tư 2008- 2010 và nhiệm vụ cho các năm còn lại
Đơn vị: tỷ USD
Chỉ tiêu
KH 2006- 2010 ban đầu
Kết quả thực hiện 2006- 2007
KH 2006- 2007 điều chỉnh
Nhiệm vụ còn lại 2008- 2010
FDI
trong đó:
- vốn cấp mới
- vốn tăng thêm
- vốn thực hiện
30- 34
22- 24
8- 10
24- 25
24,2
17
4,5
-
65- 70
-
-
-
41- 46
-
-
-
Nguồn: trang www.mpi.gov.vn
Có thể nói qua các kết quả mà chúng ta đạt được trong năm 2006 và 10 tháng năm 2007 (dự kiến cho năm 2007 ) thì luồng vốn FDI đầu tư vào Việt Nam sẽ vượt nhiều so với kế hoạch đề ra ban đầu cho giai đoạn 2006- 2010. Do đó chúng ta phải xây dựng lại kế hoạch cho cả giai đoạn nói chung và cho 3 năm 2008- 2010 nói riêng để phù hợp với tiềm năng và thực trạng thu hút vốn hiện tại. Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ông Phan Hữu Thắng cho biết theo đà tăng trưởng thì lượng vốn FDI năm 2008 sẽ đạt từ 14,5- 15 tỷ USD. Sở dĩ lượng vốn FDI vào Việt Nam tăng mạnh mẽ vậy là do Việt Nam đang đón một làn sóng đầu tư mạnh mẽ khi gia nhập WTO, môi trường đầu tư được cải thiện và một số yếu tố thuận lợi khác. Căn cứ vào thực tế tình hình thu hút FDI trong 2năm đầu của giai đoạn 2006- 2010, các nhà hoạch định chính sách đã điều chỉnh lại kế hoạch, lượng FDI thu hút được trong giai đoạn này là 65- 70 tỷ USD. Từ kết quả 2 năm đã đạt được thì nhiệm vụ cho 3 năm còn lại 2008- 2010 là phải thu hút được 41- 46 tỷ USD.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THU HÚT FDI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006- 2010
I/ Giải pháp tăng cường thu hút và triển khai các dự án FDI tại Việt Nam
1/ Những giải pháp chính trị
1.1/ Hoàn thiện luật đầu tư nước ngoài và các văn bản dưới luật, xây dựng hệ thống luật pháp đầy đủ và đồng bộ.
Tính hấp dẫn của một quốc gia về lĩnh vực đầu tư trước hết phải được thể hiện ở luật. Đối với mọi quốc gia, luật đầu tư nước ngoài là một bằng chứng cụ thể của sự mở cửa và là cái mà tất cả các nhà đầu tư đều quan tâm. Cùng với luật, các văn bản dưới luật trong hệ thống pháp luật là không kém phần quan trọng. Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào một nước đều phải đụng chạm tới nhiều vấn đề về luật pháp và các văn bản dưới luật. Do đó, nếu không có các văn bản hướng dẫn cụ thể thì họ không thể hiểu được ý đồ của nước chủ nhà và sẽ không hoạt động được.
1.2/ Vấn đề lao động và quyền của người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Vấn đề lao động vừa liên quan đến vấn đề kinh tế vừa liên quan đến vấn đề chính trị, xã hội, pháp luật.
Đối với các nhà đầu tư, lao động rẻ không còn là sự hấp dẫn nhất đối với họ, nhất là những nhà đầu tư trong những ngành mũi nhọn, bởi vì ở đó phần chi phí lao động chiếm tỷ lệ thấp và có xu hướng giảm theo tiến bộ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Điều này đã có quá nhiều bằng chứng. Do vậy cần phải lựa chọn từng lĩnh vực để phát huy tính hấp dẫn của yếu tố lao động. Một đội ngũ có tay nghề cao, cần cù chịu khó, có ý thức tổ chức kỷ luật, trung thực … mới là yếu tố hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư. Tuy nhiên trong nhiều ngành vẫn cần có hàm lượng lao động thủ công cao. Vì vậy đối với nước ta cần phát huy cả hai khả năng đó để tạo tính hấp dẫn, bằng cách một mặt quy định tiền lương tối thiểu hợp lý vừa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, vừa đảm bảo có thu nhập hợp lý của nhà nước và phù hợp với mặt bằng các nước trong khu vực, đặc biệt là còn sức cạnh tranh.
Điều quan trọng khác là nhà nước cần điều tiết thị trường sức lao động, nhất là lao động “chất xám ” một cách hợp lý, tạo điều kiện cho người lao động và nhà đầu tư tự do lựa chọn trong khuôn khổ nhất định, làm như vậy sẽ khuyến khích người lao động vươn lên để được hưởng ưu đãi nhiều hơn.
2/ Những giải pháp kinh tế
2.1/ Đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược kinh tế mở
Thu hút đầu tư nước ngoài thuộc lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Vì vậy chỉ có thể thu hút được đối tác bên ngoài nếu như quốc gia có chủ trương mở rộng quan hệ, nói cách khác là thực hiện chiến lược kinh tế mở. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết, tuy nhiên trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế quốc tế như hiện nay sẽ không có một nước nào lại tự mình đóng cửa, không quan hệ với bên ngoài. Song tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức, mức độ và phương thức “mở cửa ” khác nhau mà hiệu quả khác nhau.
Đối với Việt Nam ta cần thực hiện chính sách mở cửa bên ngoài đông thời tăng cường mở cửa bên trong. Mở cửa về thông tin trong và ngoài nước, đặc biệt là thông tin kinh tế, thị trường, văn hoá, xã hội, khoa học công nghệ dưới mọi hình thức, đặc biệt là phát triển liên lạc viễn thông quốc tế.
Về đối ngoại, Đảng ta đã chủ trương sử dụng sức mạnh tổng hợp khai thác một các có hiệu quả nguồn lực để xây dựng đất nước bằng cách thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá hướng về xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu.
2.2/ Phát triển kinh tế thị trường và thiết lập hệ thống thị trường đồng bộ
Thị trường đầu tư mà chủ thể là các nhà đầu tư nước ngoài vốn là sản phẩm của nền kinh tế thị trường hiện đại. Vì vậy cần phải có môi trường đồng bộ để hướng dẫn hoạt động và có như vậy hoạt động đầu tư mới có hiệu quả. Mặt khác, đi liền với FDI là cả một hệ thống các quan hệ kinh tế chứa đựng trong quá trình tái sản xuất. Do vậy quá trình này chỉ có thể thực hiện trôi chảy, đem lại hiệu quả nếu như các yếu tố, các khâu của nó đều có đủ điều kiện để vận động bình thường. Trên cơ sở đó muốn thu hút đầu tư có hiệu quả, các nước chủ nhà không thể không quan tâm đến cơ chế thị trường và việc thiết lập một thị trường đồng bộ.
2.3/ Các chính sách khuyến khích đầu tư.
a) Tạo lập và lựa chọn đối tác đầu tư
Nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào một nước nào đó trước hết nhằm mục đích lợi nhuận, song họ thường gặp khó khăn về nhiều mặt như chưa quen phong tục tập quán, luật pháp, chưa khai thông các mối quan hệ với chính quyền các cấp, chưa am hiểu thị trường.
Kinh nghiệm ở nhiều nước trong khu vực cho thấy, nếu tạo ra các đối tác có năng lực kinh doanh, biết làm ăn với người nước ngoài thì đó là sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Nhiều nhà đầu tư rất muốn làm ăn với người Nhật vì họ là những người có năng lực kinh doanh. Thực tiễn những năm qua ở nước ta cho thấy, trong các xí nghiệp liên doanh, nếu đối tác bên Việt Nam có năng lực, có vốn đóng góp thì thường thu hút thêm vốn nước ngoài mở rộng dự án đầu tư. Những đối tác không biết làm ăn thì thường phải thu hẹp lại quy mô thậm chí phải rút giấy phép.
b) Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần mở rộng các hình thức để thu hút đầu tư. Mở rộng hình thức cũng là biện pháp thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài. Đó cũng là thực hiện đa dạng hoá các hình thức quan hệ trên thực tế, đồng thời cần thực hiện từ hình thức thấp đến cao. Đó cũng chính là các bước thử nghiệm để nâng cao trình độ các đối tác trong nước và chọn lọc các đối tác nước ngoài phù hợp.
c) Chính sách khuyến khích đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với việc tạo lập đối tác trong nước, lựa chọn đối tác trong nước và nước ngoài, và các hình thức thu hút vốn. Đây thực sự là một đòn bẩy kinh tế và vai trò của các chính sách kinh tế là ở chỗ nó quyết định trực tiếp tới mức lợi nhuận.
Đối với nước ta trong những năm qua, kể từ khi Luật đầu tư ra đời, chúng ta có nhiều cải tiến về chính sách thuế, giá thuê đất … song cho đến nay vẫn còn nhiều vấn đề cần phải tính toán lại. Dưới con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài, giá thuê đất, dịch vụ điện nước, bưu chính viễn thông còn quá cao, nhiều địa phương và cơ sở còn tuỳ tiện tăng giá, gây sự thắc mắc, thậm chí nản lòng một số nhà đầu tư. Trong khi một số quốc gia láng giềng lại thường xuyên đưa ra ưu đãi.
2.4/ Xây dựng kế cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật
Trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì kết cấu hạ tầng vật chất kỹ thuật hiện đại là điều kiện tiên quyết, vì kỹ thuật cao chỉ phát huy được trong một cơ sở hạ tầng thích hợp.
Thường thi các quốc gia đang phát triển không có được một hệ thống hạ tầng vật chất đầy đủ, đồng bộ: đường giao thông, bến cảng, sân bay, thông tin liên lạc phục vụ đủ mức ngay từ đầu, nhưng yếu tố này chỉ hình thành từng bước, có trọng điểm và cùng với sự phát triển của nền kinh tế ngày càng được hoàn thiện hơn. Vì đầu tư vào xây dựng một kết cấu hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đồng bộ đòi hỏi những khoản vốn kỹ thuật vô cùng to lớn, vốn luân chuyển chậm, nên lợi nhuận không cao nếu tư bản tư nhân không chịu bỏ vốn vào khu vực này đòi hỏi chính phủ nước nhận đầu tư phải gánh vác.
Trong hệ thống, các giải pháp có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Thực hiện các giải pháp chính trị ở mức độ nào cũng không thể tách rời đường lối chính sách xây dựng và phát triển đất nước. Nếu như những giải pháp chính trị có ý nghĩa hàng đầu, mở ra sự tin tưởng yên lòng của nhà đầu tư, để họ có thể rót vốn thì những giải pháp kinh tế tác động có tính trực tiếp hơn đến phương thức hoạt động kinh doanh, đến các yếu tố chi phí và cuối cùng tác động đến tỷ suất và mức lợi nhuận- mục tiêu cao nhất của họ, mối quan hệ này cũng nằm trong mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế. Suy cho cùng giải pháp kinh tế vẫn có tính quyết định cuối cùng của công cuộc thu hút vốn đầu tư.
II/ Kiến nghị
Thứ nhất: Có 2 quan điểm trong thu hút vốn FDI vào Việt Nam. Quan điểm thứ nhất cho rằng tăng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài về số lượng, bất kể vào lĩnh vực nào, quy mô bao nhiêu, miễn là đầu tư, quan điểm thứ hai cho rằng đã đến lúc chúng ta phải tăng thu hút FDI về mặt chất lượng, ưu đãi với những lĩnh vực công nghệ kỹ thuật cao, những lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất. Quan điểm thứ nhất hiện nay là phổ biến, hầu như các tỉnh, thành phố đều tập trung thu hút FDI vào địa bàn mình bất kể ngành nào, sản phẩm gì, vì vậy FDI quá tập trung vào các ngành chế biến lương thực- thực phẩm: rượu, bia, nước giải khát, các ngành sản xuất tiêu dùng, chưa có sự đầu tư thích đáng vào ngành sản xuất tư liệu sản xuất, chỉ đầu tư vào lắp ráp cơ khí điện tử.
Cần chú trọng phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động, song điều đó không có nghĩa là không chú trọng thu hút FDI vào phát triển các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, công nghiệp nặng để đảm bảo sản xuất hiệu quả, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong hội nhập kinh tế quốc tế. Bài học quan trọng nhất của các nước NIC trong những năm qua là phải xây dựng được một cơ cấu sản phẩm hợp lý, một cơ cấu sản phẩm phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế, tập trung thu hút FDI vào các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật, vốn cao do các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động mất khả năng cạnh tranh quốc tế, sức lao động không còn là lợi thế nữa.
Cần có chính sách ưu tiên phát triển ngành trong từng tỉnh và khu công nghiệp mà vừa qua chúng ta còn chưa có. Trước hết coi trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài dựa trên lợi thế của từng tỉnh và khu công nghiệp. Đối với một số vùng cần nêu bật định hướng thu hút FDI vào một số ngành, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất, các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học và vốn cao, các ngành hỗ trợ và liên quan.
Thứ hai: Chính sách nội địa hoá chưa thoả đáng. Đáng lẽ cần phải tăng cường nội địa hoá thì chính sách ở Việt Nam còn chưa chú trọng, chính vì lẽ đó đã làm cho sản phẩm của FDI ở Việt Nam đắt hơn ở Thái Lan và các nước khác. Ví dụ: chính sách nội địa hoá của ta đối với ngành công nghiệp ô tô, xe máy ít tham vọng hơn các quốc gia khác trong ASEAN như Thái Lan, Malaysia … Đối với việc lắp ráp hoàn tất, Việt Nam đòi hỏi 5% vào năm thứ 5, là 30% vào năm thứ 10, Thái Lan đòi hỏi 60% vào năm thứ 5. Chính sách đó ảnh hưởng quan trọng đén sự phát triển các ngành liên quan và hỗ trợ, các ngành này phát triển rất ít và rất chậm trong thời gian qua và phải nhập phụ tùng linh kiện từ bên ngoài, do đó làm tăng giá thành sản phẩm, giảm khả năng cạnh tranh.
Chính sách nội địa hoá của ta cần phải tích cực hơn và phải được giải quyết từ đầu từ gốc, thể hiện khi duyệt các dự án đầu tư nước ngoài và quy định thời gian nội địa hoá ngắn. Vừa qua Bộ tài chính đưa ra chính sách tỷ lệ nội địa hoá càng cao, thuế suất càng giảm. Tỷ lệ nội địa hoá trên 65- 80% thì thuế nhập khẩu phụ tùng chỉ còn 5- 7% và trên 80% thì thuế nhập khẩu chỉ còn 3- 5%; 40% thì thuế nhập khẩu linh kiện là 15%. Khuyến khích nội địa hoá trong khi chính sách nội địa hoá đối với FDI đưa ra tỷ lệ thấp, mặt khác năng lực sản xuất phụ tùng, máy móc để lắp ráp xe máy của doanh nghiệp trong nước còn yếu, giá thành cao thì cũng vẫn chỉ tiếp tục làm nẩy sinh gian lận.
Thứ ba: Việt Nam không có chính sách chuyển giao công nghệ như các nước Trung Quốc, Hàn Quốc … Vì vậy sau 10 năm nước ta có nhiều hãng ô tô nổi tiếng thế giới đầu tư nhưng các chuyên gia này kêu rằng có lẽ Việt Nam vĩnh viễn sẽ không có ngành công nghiệp ô tô phải đạt tỷ lệ nội địa hoá 40%, giá thành của ô tô sản xuất trong nước cao hơn khu vực khá lớn là do tỷ lệ nội địa hoá quá thấp, đến nay tỷ lệ nội địa hoá của các doanh nghiệp ô tô từ 2- 10%. Tham gia WTO năm 2005 nếu không đạt tỷ lệ nội địa hoá thấp nhất là 20% thì công nghiệp ô tô Việt Nam sẽ khó có.
Cần phải có chính sách chuyển giao công nghệ đối với các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nếu không chúng ta sẽ chỉ là một thị trường tiêu thụ khổng lồ với dân số 80 triệu dân cho các nước.
Thứ tư: Chính sách giá chưa hợp lý, chi phí đầu tư vào Việt Nam còn quá cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam, làm nản lòng các nhà đầu tư. Theo JETRO Nhật Bản cho biết cước phí viễn thông, chi phí lưu thông giao nhận, điện … hiện nay tại Việt Nam quá cao. Cước điện thoại quốc tế của Việt Nam cao gấp khoảng 7 lần so với Singapore, gần 6 lần so với Malaysia, 4 lần so với Jakata, Bangkok và gần 2 lần so với Trung Quốc. Chi phí lưu thông giao nhận nếu gửi hàng container thì cao gấp 3 lần so với Singapore, khoảng 2,5 lần so với Kuala Lumpur, khoảng 2lần so với Jakarta, Thượng Hải. Các chi phí và lệ phí liên quan đến giao nhận tại các cảng biển và sân bay quá cao. Có 12 loại phí và lệ phí bất hợp lý mà doanh nghiệp phải nộp như phí lưu kho sân bay 1.200đ/kg, phí an ninh 230đ/kg, phí lao vụ 0,06 USD/kg, phụ phí xăng dầu 30 USD/container 20 feet, 60USD/container 40 feet, hàng lẻ 2,5 USD/m3 …
Để giảm chi phí đầu vào, mà hiện nay chủ yếu là các doanh nghiệp nhà nước nắm, cần ngăn chặn việc biến độc quyền nhà nước thành độc quyền doanh nghiệp Nhà nước. Cần xây dựng Luật cạnh tranh và nhanh chóng thông qua.
Thứ năm: Chi phí cho đất đai ngày càng tăng. Từ nămg 1996 trở lại đây thị trường kinh doanh đất sôi động. Đất đai ngày càng giá cao. Giá đất lớn, đền bù lớn, đền bù lớn, giá san lấp mặt bằng lớn. Giá cả đất đai của thành phố ở Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, giá thuê đất TP. Hồ Chí Minh gấp 4- 6lần Trung Quốc, 6 lần so với Thái Lan. Tình hình này ảnh hưởng lớn đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính phủ cần kiểm soạt chặt thị trường bất động sản do thị trường bất động sản là một thị trường không hoàn hảo, dễ dẫn đến những độc quyền trong cạnh tranh, tạo nên một cơn sốt giá, nâng giá đất giả tạo, làm cho chi phí đầu tư của FDI nước ta cao hơn các nước khác trong khu vực.
Thứ sáu: Ngoài ra quan điểm nới lỏng đầu vào quản lý chặt đầu ra, hậu kiểm thay thế tiền kiển như các nhà đầu tư nước ngoài từng nói chính phủ Việt Nam chỉ khuyến khích đầu tư không khuyến khích sản xuất, tiền hậu bất nhất không nhất quán. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho thu hút FDI của ta giảm. Bài học Trung Quốc là trước cho, sau lấy có tính làm ăn lâu dài là những kinh nghiệm trong thu hút FDI.
C/ PHẦN KẾT LUẬN
Quốc tế hoá là một xu hướng khách quan của sự phát triển ở tấ cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn cũng phải bước hội nhập vào quĩ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tê quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển quan hệ kinh tế quốc tế.
Đầu tư nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của các nước đang phát triển; nâng cao năng lực sản xuất của một quốc gia thông qua cung cấp về vốn, công nghệ sản xuất tiên tiến, kỹ năng và trình độ quản lý; góp phần nâng cao khă năng cạnh tranh của nền kinh tế; góp phần mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế.
Với chính sách mở cửa, chủ động hội nhập, sẵn sàng làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới, Việt Nam đã từng bước đạt được những thành công nhất định trong quá trình thu hút và sử dụng FDI, phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Giáo trình kế hoạch hoá phát triển kinh tế- xã hội
Giáo trình kinh tế phát triển
Kinh tế Việt Nam 2006
Tổng kết kinh tế Việt Nam 2001- 2005: lý luận và thực tiễn
Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5năm 2006- 2010
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Giáo trình đầu tư nước ngoài
Hướng dẫn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam
Các trang web www.mpi.gov.vn
www.mof.gov.vn
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0203.doc