Dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô luôn được chính
phủ và các tổ chức kinh tế đặc biệt quan tâm. Trong
những thập kỷ gần đây đã có rất nhiều nghiên cứu ứng
dụng các phương pháp định lượng nhằm xây dựng
các mô hình dự báo kinh tế vĩ mô. Hiện tại ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới người ta đã hình
thành và ứng dụng nhiều phương pháp khác nhau dự
báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu theo tháng,
quý và năm. Trong đó, các phương pháp thường được
sử dụng là: phương pháp chuyên gia, phương pháp
ngoại suy, phương pháp điều tra, phương pháp chuỗi
thời gian, phương pháp chỉ số dẫn báo và mô hình
kinh tế lượng (hay hệ phương trình đồng thời).
Với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của khoa học
công nghệ các thông tin dữ liệu được hình thành trong
quá trình hoạt động cũng như trong công tác chỉ đạo
điều hành và quản lý nền kinh tế ngày càng có cơ hội
được thu thập đầy đủ và toàn diện. Khi đó những yếu
tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến sự thay đổi của
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô sẽ được nhận diện ngày
càng nhiều hơn và mô hình dự báo các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô cần phải chứa đầy đủ nhất có thể các yếu tố
ấy. Khi đó vấn đề xây dựng các mô hình dự báo các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần phải được thực hiện trên tập
thông tin dữ liệu rất lớn và các phương pháp xây dựng
mô hình dự báo kinh tế truyền thống ở trên không thể
đáp ứng được yêu cầu này.
Trong những năm gần đây người ta đã tập trung
nghiên cứu các phương pháp làm giảm chiều dữ liệu,
đó là các phương pháp lựa chọn, biến đổi tập dữ liệu
đầu vào ban đầu thành một tập dữ liệu khác nhỏ hơn
rất nhiều nhưng cơ bản phản ánh khá đầy đủ các thông
tin có trong tập dữ liệu gốc. Xây dựng mô hình dự báo
trên tập dữ liệu có số chiều cao (big data) được ứng
dụng để mô hình hóa nền kinh tế quốc dân ở những
nước phát triển như Mỹ (Lawrence R. Klein, 2009),
Nhật Bản (Yoshihisa Inada, 2009), Liên bang Đức
(Andrei Roudoi, 2009). Phương pháp luận chung của
cả 3 mô hình trên là: thực hiện một số kỹ thuật giảm
chiều dữ liệu để tạo ra một số biến mới ít hơn nhiều
so với số các biến ban đầu trong khi vẫn nắm bắt được
những thông tin trong tập ban đầu nhiều nhất có thể,
và sau đó xây dựng mô hình dự báo bằng phương
pháp hồi quy nhiều biến trên tập các biến mới.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến để đáp ứng nền kinh tế số, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 08 (193) - 2019
* Học viện Tài chính
1. Bối cảnh chung
Xuất phát từ bối cảnh chung trong công tác cải
cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin
trong cải cách hành chính nhà nước tại Việt Nam,
xu thế của một nền kinh tế số trong thời kỳ cách
mạnh công nghiệp 4.0, một nền kinh tế vận hành
chủ yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao
dịch điện tử tiến hành thông qua internet. Kinh tế
số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất, phân phối,
lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic,
tài chính ngân hàng) mà công nghệ số được áp
dụng. Bởi vì, dịch vụ công trực tuyến được xem là
khâu quan trọng, then chốt trong tiến trình cải cách
hành chính và triển khai Chính phủ điện tử. Việc sử
dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4
mang lại rất nhiều lợi ích cho người dân, tổ chức.
Thông qua việc triển khai dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3, 4, người dân, tổ chức có thể giao tiếp với
cơ quan nhà nước 24 giờ trong ngày, 7 ngày trong
tuần, tại bất cứ đâu có kết nối internet, các giao dịch
trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ
được thực hiện qua môi trường mạng, có thể theo
dõi, giám sát được tình trạng giải quyết hồ sơ. Qua
đó, giảm được thời gian, chi phí đi lại của người
dân, tổ chức, giảm sự trì chệ, quan liêu
2. Nền kinh tế số trong giai đoạn hiện nay
Nền kinh tế số là một nền kinh tế vận hành chủ
yếu dựa trên công nghệ số, đặc biệt là các giao
dịch điện tử tiến hành thông qua internet, kinh tế
số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, sản xuất, phân phối,
lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài
chính ngân hàng) mà công nghệ số áp dụng được.
Đặc biệt trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0
khi Đảng và Nhà nước đang tập trung xây dựng
chính quyền điện tử, cải cách thủ tục hành chính,
thì việc đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến trong
việc cung cấp các dịch vụ công của cơ quan Nhà
nước sẽ là một nấc thang quan trọng trong việc xây
dựng một nền kinh tế số hiệu quả và bền vững.
ĐẨY MẠNH DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN
ĐỂ ĐÁP ỨNG NỀN KINH TẾ SỐ
TS. Nguyễn Thị Việt Nga*
Ngày nhận bài: 2/5/2019
Ngày chuyển phản biện: 10/5/2019
Ngày nhận phản biện: 15/5/2019
Ngày chấp nhận đăng: 20/5/2019
Thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 là thời kỳ kinh tế số được xác định là một trong những trụ cột tất
yếu và có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, tạo bước đột phá cho mỗi quốc gia. Tuy nhiên,
kinh tế số ở Việt Nam hiện nay chưa phát triển kịp với xu thế. Vì vậy, trong thời gian tới cần có những giải
pháp hữu ích. Xuất phát từ các yếu tố tạo nên sự phát triển của nền kinh tế số, là xây dựng một chính
phủ điện tử kiến tạo, từ đó tác giả mạnh dạn đề xuất phương hướng, đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến
thủ tục hành chính trong các cơ quan Nhà nước để có nền tảng xây dựng chính quyền điện tử đáp ứng
nền kinh tế số.
• Từ khóa: chính phủ điện tử, dịch vụ công trực tuyến, nền kinh tế số.
In the period of industrial revolution 4.0, it was
a period of digital economy that was identified as
one of the essential pillars and an important role
for economic growth, creating a breakthrough for
each country. However, the digital economy in
Vietnam has not developed in time with the trend,
so in the future, there should be useful solutions.
Stemming from the factors that make up the
development of the digital economy, is to build a
constructive e-government, from which the author
boldly proposes a direction, promoting public
services online administrative procedures in State
agencies to have e-government building platform
to meet the digital economy.
• Keywords: e-government, online public services,
digital economy...
6 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Điểm qua một vài nét của nền kinh tế số thời
gian qua ở Việt Nam, nền kinh tế số trong nước
đã có rất nhiều thay đổi sau hơn 20 năm Internet
có mặt tại Việt Nam, Kinh tế số dần được phổ cập
là khi có mật độ điện thoại thông minh đạt mức
trên 50% vào cuối những năm 2000. Năm 2007,
số người sử dụng internet ở Việt Nam là 17,7 triệu
người. Đến nay, số người sử dụng internet ở Việt
Nam đã tăng lên mức 64 triệu người, xấp xỉ 67%
dân số.
Ba yếu tố để phát triển nền kinh tế số là xây
dựng chính phủ số kiến tạo, phát triển nhân lực
công nghệ thông tin, phát triển hạ tầng số, tuy nhiên,
thực trạng phát triển nền kinh tế số ở Việt Nam vẫn
tồn tại nhiều hạn chế khó có thể tăng tốc, bắt nhịp
nhanh chóng cùng thế giới, do có nhiều nguyên
nhân như: Thứ nhất, thương mại điện tử của Việt
Nam chưa có sự phát triển đồng đều và thống nhất,
ở các thành phố lớn thì phát triển, trong khi đó ở
địa phương thì ngược lại, việc hỗ trợ thương mại
điện tử còn kém, nhất là tại các địa phương vùng
sâu, vùng xa; thứ hai, trình độ năng lực của nguồn
nhân lực ngành công nghệ thông tin còn kém, chưa
có đội ngũ nhân lực trình độ cao; thứ ba, nền hành
chính ở mức 1.0. Vì vậy, trong thời gian tới để phát
triển nền kinh tế nhanh so với hội nhập quốc tế và
bền vững thì cần có những giải pháp cụ thể, bài viết
chỉ tập trung vào yếu tố xây dựng một chính phủ số
kiến tạo bắt nguồn từ việc đẩy mạnh dịch vụ công
trực tuyến.
Những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế số: Mục
tiêu đến năm 2030 “Việt Nam sẽ trở thành quốc
gia số và nền kinh tế số hàng đầu khu vực, nơi cho
phép thử nghiệm các công nghệ và mô hình mới
trong kinh tế số, từ đó nâng cao tính cạnh tranh
của nền kinh tế, với tốc độ tăng trưởng kinh tế số
trung bình 20%/năm, năng suất tăng trưởng hàng
năm 7-10%, đưa Việt Nam vào Top 20 thế giới
và Top 3 ASEAN về chỉ số cạnh tranh toàn cầu.
Chính phủ minh bạch và hiệu quả, với mục tiêu
có trên 50 thế giới về xếp hạnh Chính phủ điện tử
theo đánh giá của Liên hiệp quốc. Bên cạnh đó, đặt
ra mục tiêu đến năm 2030 phấn đấu 100% người
dùng di động có thể sử dụng được dịch vụ thanh
toán di động Mobile, Payment, 100% người dân có
internet và điện thoại thông minh. Nền kinh tế số
không đơn giản là mức ứng dụng và phát triển cao
hơn của ICT, mà phải hiểu là nút đột phá trong nền
kinh tế xã hội. Khi đó, dữ liệu và công nghệ số làm
chuyển đổi, cải biến toàn diện mô hình, quy trình,
sản phẩm, kết quả đầu ra của quá trình sản xuất,
kinh doanh
3. Kết quả triển khai dịch vụ công trực tuyến
Theo khoản 4 Điều 3 Nghị định số 43/2011/
NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định
về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực
tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông
tin điện tử của cơ quan nhà nước “dịch vụ công
trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch
vụ khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho
các tổ chức, cá nhân trên môi trường mạng”. Dịch
vụ công trực tuyến (DVCTT) có 4 mức độ, trong
đó, mức độ 3 và 4 được thực hiện trên môi trường
mạng. Với mức độ 3, người sử dụng có thể điền
và gửi trực tuyến các mẫu văn bản đến cơ quan,
tổ chức cung cấp dịch vụ; với mức độ 4, người sử
dụng có thể thanh toán lệ phí (nếu có) trực tuyến và
việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến,
gửi trực tiếp hoặc qua đường bưu điện đến người
sử dụng. Như vậy, với DVCTT mức độ 4, tổ chức,
người dân, doanh nghiệp có thể thực hiện thủ tục
hành chính (TTHC) mà hoàn toàn không phải đến
cơ quan nhà nước.
Theo số liệu thống kê của Cục Tin học (Bộ
Thông tin và Truyền thông), việc cung cấp dịch
vụ công trực tuyến các tỉnh trong năm 2017 chưa
cao, số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và
4 hoàn toàn không phản ánh đúng thực trạng phát
triển của Chính phủ điện tử và nền kinh tế số, số
lượng này chỉ chiếm 11,54% tổng số dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, 4. Hiện nay, các tỉnh thành
trong cả nước đang triển khai thực hiện Quyết định
số 846/QĐ-TTg ngày 09/6/2016 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành danh mục dịch vụ
công trực tuyến mức độ 3, 4 tại các bộ, ngành, địa
phương năm 2017 và Quyết định số 877/QĐ-TTg
ngày 18/7/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc
ban hành danh mục dịch vụ công trực tuyến mức
độ 3, 4 để các bộ, ngành, địa phương thực hiện
trong các năm 2018 - 2019. Kết quả đã đạt được
cụ thể như sau:
Thứ nhất, về số lượng thủ tục hành chính tiếp
nhận và trả kết quả qua dịch vụ công trực tuyến.
Hà Nội là thành phố đi đầu cả nước về cung cấp
dịch vụ công trực tuyến, hiện nay theo báo cáo của
Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội, toàn thành
phố đã có 1.055 dịch vụ công trực tuyến, trong đó,
916 DVCTT mức 3 và 139 DVCTT mức 4, bao
gồm các DVCTT tiếp nhận từ các bộ, ngành, các
DVCRR do đơn vị tự triển khai trên Cổng Dịch
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 08 (193) - 2019
7Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 08 (193) - 2019
vụ công dùng chung, 761 DVCTT đang vận hành
chính thức và 294 DVCTT đã xây dựng, đang vận
hành thử nghiệm. Tại tỉnh Hà Nam, theo thống kê
thì tổng các dịch vụ công trực tuyến của các sở,
ban, ngành, UBND các huyện, thành phố trên địa
bàn tỉnh gồm 1.948 bộ thủ tục đạt (100%), trong đó
251 bộ thủ tục ở mức độ 2 (12,9%), 1.498 bộ thủ
tục ở mức độ 3 (76,9%), 199 bộ thủ tục mức độ 4
(10,2%). Tỉnh Đắc Lắk, theo Quyết định số 3269/
QĐ-UBND ngày 01/11/2016 của UBND tỉnh về
việc phê duyệt Kế hoạch triển khai Hệ thống Dịch
vụ hành chính công trực tuyến tích hợp một cửa
điện tử liên thông. Tỉnh đã cung ứng 614 TTHC
tiếp nhận và giải quyết trực tuyến mức độ 3, 182
TTHC tiếp nhận và giải quyết trực tuyến mức độ 4
trong tổng số 1.723 TTHC được giải quyết tại các
cơ quan nhà nước trên địa bàn tỉnh. Tỉnh Bắc Ninh
đã triển khai được 819 dịch vụ công trực tuyến mức
độ 3, 4 và tích hợp được 59 dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3, mức độ 4. Đối với tỉnh Sơn La, đã cung
cấp 1.961 dịch vụ công trực tuyến, trong đó 1.420
dịch vụ mức độ 1 và 2, 463 dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3, 78 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, đã
hoàn thành việc triển khai hệ thống dịch vụ hành
chính công trực tuyến tích hợp một cửa điện tử
liên thông cho các sở, ngành và UBND các huyện,
thành phố, UBND các xã, phường trên địa bàn tỉnh.
Đối với thành phố Hồ Chí Minh, hiện tại có 767 thủ
tục hành chính ở mức độ 3, 4 (trong đó mức độ 3
là 655, mức độ 4 là 112). Tỉnh Thái Nguyên, hiện
nay đã cung cấp gần 1.500 dịch vụ công trực tuyến
mức độ 1 và 2, trên 260 dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3 và 4.
Thứ hai, về số hồ sơ thực tế phát sinh dịch vụ
công trực tuyến mức độ. Mặc dù đã cung cấp danh
mục thủ tục hành chính thực hiện dịch vụ công trực
tuyến nhưng số lượng hồ sơ phát sinh đạt tỉ lệ khác
nhau giữa các địa phương trên cả nước, cụ thể ở Hà
Nội, mức giải quyết hồ sơ trực tuyến đạt 98% đến
100% với 500.000 hồ sơ được xử lý qua mạng, tạo
thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. Tại Hà
Nam thì tính đến hết năm 2018, có 147.692 hồ sơ
được nhập vào hệ thống một cửa điện tử dịch vụ
công trực tuyến, trong đó dịch vụ công trực tuyến
mức độ 3, 4 là 144.346 hồ sơ, đạt tỉ lệ 99,8%. Tại
tỉnh Đắk Lắk, theo số liệu thống kê đến nay, tỉ lệ
TTHC cung cấp trực tuyến mức độ 3, 4 có phát
sinh hồ sơ chỉ đạt trên 79%, trong đó mức độ 3
chiếm chủ yếu, mức độ 4 gần như không phát sinh.
Tỉnh Bắc Ninh tính đến nay mới chỉ có 22.600 hồ
sơ được giải quyết theo dịch vụ công trực tuyến,
(chiếm tỉ lệ hơn 10% tổng số hồ sơ). Theo số liệu
báo cáo của tỉnh Sơn La, kết quả thực hiện dịch vụ
công trực tuyến của tỉnh đến hết năm 2018, toàn
tỉnh có 29 cơ quan, đơn vị (18 sở, ban, ngành; 11
huyện, thành phố, công ty điện lực) triển khai ứng
dụng dịch vụ công trực tuyến, cả hệ thống dịch vụ
công trực tuyến các cơ quan, đơn vị đã tiếp nhận
gần 15.000 hồ sơ TTHC (đạt trên 60% tổng số hồ
sơ tiếp nhận), trong đó, đã giải quyết gần 12.000 hồ
sơ. Tại thành phố Hồ Chí Minh, số liệu tổng hợp
hết năm 2018, tổng số hồ sơ nộp trực tuyến mức độ
3, 4 là 412.965 hồ sơ, tỷ lệ sử dụng dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3, 4 là 41%. Tại Thái Nguyên,
theo thống kê năm 2018, trong số 263 dịch vụ công
trực tuyến mức độ 3 và 4 thì có 152 dịch vụ có
phát sinh hồ sơ. Số lượng dịch vụ công trực tuyến
là 3.500 hồ sơ/33.680 hồ sơ, đạt tỷ lệ 10, 39% dịch
vụ có phát sinh hồ sơ, số hồ sơ tiếp nhận và xử lý
qua dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 là 900/1.826
hồ sơ (cả trực tuyến và trực tiếp), đạt 49,3% dịch
vụ phát sinh hồ sơ.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, những
lợi ích mà dịch vụ công trực tuyến mang lại cho
người dân và doanh nghiệp, giảm được thời gian
nhận, gửi hồ sơ, giảm thiểu chi phí và thời gian đi
lại của người dân, tổ chức, giảm sự trì trệ, quan liêu
của một số bộ phận trong cả nước, tránh nạn tham
nhũng, cửa quyền thì việc cung cấp dịch vụ công
trực tuyến vẫn tồn tại một số hạn chế nên tỉ lệ hồ sơ
giải quyết qua môi trường mạng còn có sự chênh
lệch giữa các tỉnh thành.
Thứ nhất, qua số liệu cho thấy dịch vụ có phát
sinh hồ sơ trực tuyến tại một số tỉnh còn rất thấp so
với số lượng dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4.
Thứ hai, về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin,
chưa xây dựng, khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ
sở dữ liệu chuyên ngành liên quan đến tổ chức và
công dân, do đó khi thực hiện cung cấp các dịch vụ
công trực tuyến ở mức độ 3, mức độ 4 các cơ quan
nhà nước mất rất nhiều thời gian trong việc kiểm
tra, xác minh các thông tin nộp hồ sơ trực tuyến,
mặt khác, việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các hệ
thống thông tin của các cơ quan nhà nước trong
cùng một tỉnh hoặc giữa một tỉnh với các bộ, cơ
quan ngang bộ hoặc giữa các cơ quan thuộc Chính
phủ với nhau còn gặp nhiều khó khăn về mặt pháp
lý và cơ sở hạ tầng. Do đó, hạn chế trong việc chia
sẻ thông tin, dữ liệu để giải quyết các thủ tục hành
chính liên thông với nhau trong môi trường mạng.
8 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
Thứ ba, trình độ, nhận thức của cá nhân, tổ
chức, doanh nghiệp khi làm thủ tục hành chính
còn chưa đồng đều, nhiều người chưa được tiếp
xúc với máy tính, internet. Bên cạnh đó, còn tâm
lý lo ngại về sự không thuận tiện, mất an toàn
thông tin khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến, do
vậy mọi người vẫn lựa chọn cách truyền thống
để thực hiện thủ tục hành chính, do vậy tỉ lệ hồ
sơ tiếp nhận và trả kết quả qua môi trường mạng
chưa cao.
Thứ tư, việc tuyên truyền, hỗ trợ sử dụng dịch
vụ công trực tuyến chưa cao, thường xuyên dẫn
đến việc triển khai dịch vụ còn thiếu tính đồng bộ,
thống nhất. Bên cạnh đó, công tác tuyên truyền,
phổ biến về lợi ích của dịch vụ công trực tuyến
vẫn còn hạn chế dẫn đến chưa tạo điều kiện thuận
lợi cho người sử dụng tiếp cận với các dịch vụ
công trực tuyến từ các cơ quan nhà nước.
4. Giải pháp triển khai dịch vụ công trực
tuyến trong thời gian tới
Thứ nhất, đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn
thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, toàn diện
cho việc triển khai, xây dựng phát triển Chính
phủ điện tử, tạo nền tảng vững chắc cho dịch vụ
công trực tuyến phát triển thông suốt và bền vững
bằng cách xây dựng Luật Chính phủ điện tử và
các văn bản hướng dẫn bảo đảm hành lang pháp
lý phát triển Chính phủ điện tử dựa trên dữ liệu
mở, ứng dụng các công nghệ mới như SMS, Zalo,
email, chức năng tự động gửi SMS thông báo trên
tài khoản của người dân khi đã nhận hồ sơ dịch
vụ công trực tuyến và khi có kết quả xử lý hồ sơ,
hướng tới nền kinh tế số, xã hội số.
Thứ hai, phải coi dịch vụ công trực tuyến là
một loại sản phẩm, từ đó tăng cường công tác
thông tin, tuyên truyền về lợi ích và sự thuận tiện
của dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4
thông qua các hình thức tuyên truyền trực quan,
thông qua các tin bài, phóng sự được đăng phát
trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đồng
thời, tiếp tục có biện pháp hướng dẫn trực tiếp
người dân, doanh nghiệp, tổ chức đến làm thủ
tục hành chính tại các trung tâm phục vụ hành
chính công cấp tỉnh, bộ phận một cửa cấp huyện
và xã Bên cạnh đó, người dân cũng cần phải
nâng cao trách nhiệm, chủ động tìm hiểu, nâng
cao kiến thức về công nghệ thông tin, phát huy
hiệu quả cung ứng dịch vụ công trực tuyến ở mức
độ 3 và 4.
Thứ ba, tiếp tục rà soát, chuẩn hóa toàn bộ các
thủ tục hành chính, lập danh mục đề xuất văn bản
quy phạm pháp luật cần bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung
hoặc ban hành mới phù hợp với quy định của pháp
luật. Tăng cường xây dựng và sử dụng thống nhất
biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan, tổ
chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản, minh
bạch, thuận tiện và tạo điều kiện tăng số lượng các
dịch vụ hành chính công trực tuyến. Qua đó, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dịch vụ công
trực tuyến, góp phần tinh giản tổ chức bộ máy cơ
quan hành chính nhà nước.
Thứ tư, tăng cường kiểm tra, giám sát, khen
thưởng và xử lý trách nhiệm trong thực hiện cung
ứng dịch vụ hành chính công trực tuyến.
Các hoạt động thanh tra, kiểm tra không thể
thiếu trong quá trình xây dựng cũng như phát triển
chính phủ điện tử nói chung và các dịch vụ công
điện tử nói riêng. Các hoạt động này cần được tiến
hành thường xuyên, định kỳ để có thể phát hiện
những thiếu sót của các quy định điện tử trong hoạt
động của nội bộ hoặc những sai phạm trong các
giao dịch điện tử. Kiểm tra định kỳ còn có thể dự
đoán được các rủi ro sẽ xảy ra, từ đó tìm các biện
pháp hữu hiệu để phòng ngừa.
Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực về công nghệ
thông tin trong các cơ quan Nhà nước, bởi vì trong
nền kinh tế số, ảnh hưởng của cách mạng công
nghiệp 4.0, lĩnh vực công nghệ thông tin sẽ có nhiều
biến đổi nhất, luôn có sự thay đổi nhanh chóng. Vì
vậy, để ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin
trong cung ứng dịch vụ công trực tuyến, rất cần có
đội ngũ công chức, viên chức giỏi về các kỹ năng
công nghệ thông tin. Do đó, các cơ quan nhà nước
cần phải đặc biệt quan tâm việc tuyển dụng và sử
dụng đội ngũ công chức, viên chức chuyên ngành
CNTT để đáp ứng yêu cầu ứng dụng CNTT trong
cung ứng dịch vụ công trực tuyến.
Tài liệu tham khảo:
Báo cáo tham luận của Bộ Thông tin và Truyền thông tại Hội
nghị sơ kết CCHC giai đoạn 2011-2015 và triển khai Kế hoạch
CCHC giai đoạn 2016-2020 cho biết “Việc triển khai các cơ sở
dữ liệu, hệ thống thông tin quốc gia làm nền tảng cho phát triển
Chính phủ điện tử còn chậm do thiếu kinh phí”.
Nghị định 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 của Chính phủ
về việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải
quyết Thủ tục hành chính.
https://binhphuoc.gov.vn/stttt/dich-vu-cong-truc-tuyen/loi-
ich-khi-su-dung-dich-vu-cong-truc-tuyen-175.html
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 08 (193) - 2019
9Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
1. Giới thiệu vấn đề
Dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô luôn được chính
phủ và các tổ chức kinh tế đặc biệt quan tâm. Trong
những thập kỷ gần đây đã có rất nhiều nghiên cứu ứng
dụng các phương pháp định lượng nhằm xây dựng
các mô hình dự báo kinh tế vĩ mô. Hiện tại ở Việt
Nam cũng như các nước trên thế giới người ta đã hình
thành và ứng dụng nhiều phương pháp khác nhau dự
báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu theo tháng,
quý và năm. Trong đó, các phương pháp thường được
sử dụng là: phương pháp chuyên gia, phương pháp
ngoại suy, phương pháp điều tra, phương pháp chuỗi
thời gian, phương pháp chỉ số dẫn báo và mô hình
kinh tế lượng (hay hệ phương trình đồng thời).
Với sự phát triển hết sức mạnh mẽ của khoa học
công nghệ các thông tin dữ liệu được hình thành trong
quá trình hoạt động cũng như trong công tác chỉ đạo
điều hành và quản lý nền kinh tế ngày càng có cơ hội
được thu thập đầy đủ và toàn diện. Khi đó những yếu
tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến sự thay đổi của
các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô sẽ được nhận diện ngày
càng nhiều hơn và mô hình dự báo các chỉ tiêu kinh
tế vĩ mô cần phải chứa đầy đủ nhất có thể các yếu tố
ấy. Khi đó vấn đề xây dựng các mô hình dự báo các
chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần phải được thực hiện trên tập
thông tin dữ liệu rất lớn và các phương pháp xây dựng
mô hình dự báo kinh tế truyền thống ở trên không thể
đáp ứng được yêu cầu này.
Trong những năm gần đây người ta đã tập trung
nghiên cứu các phương pháp làm giảm chiều dữ liệu,
đó là các phương pháp lựa chọn, biến đổi tập dữ liệu
đầu vào ban đầu thành một tập dữ liệu khác nhỏ hơn
rất nhiều nhưng cơ bản phản ánh khá đầy đủ các thông
tin có trong tập dữ liệu gốc. Xây dựng mô hình dự báo
trên tập dữ liệu có số chiều cao (big data) được ứng
dụng để mô hình hóa nền kinh tế quốc dân ở những
nước phát triển như Mỹ (Lawrence R. Klein, 2009),
Nhật Bản (Yoshihisa Inada, 2009), Liên bang Đức
(Andrei Roudoi, 2009). Phương pháp luận chung của
cả 3 mô hình trên là: thực hiện một số kỹ thuật giảm
chiều dữ liệu để tạo ra một số biến mới ít hơn nhiều
so với số các biến ban đầu trong khi vẫn nắm bắt được
những thông tin trong tập ban đầu nhiều nhất có thể,
và sau đó xây dựng mô hình dự báo bằng phương
pháp hồi quy nhiều biến trên tập các biến mới.
Việc nghiên cứu xây dựng mô hình dự báo trên tập
dữ liệu có số chiều cao (hay big data) đã được một số
nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm. Các nghiên cứu
của Đỗ Văn Thành và cộng sự đã sử dụng kết hợp
một số kỹ thuật giảm chiều dữ liệu, mô hình phương
sai thay đổi tự hồi quy và phương pháp hồi quy nhiều
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP LỰA CHỌN THUỘC TÍNH
VÀ CHỈ SỐ DẪN BÁO TRONG XÂY DỰNG MÔ HÌNH
DỰ BÁO CÁC CHỈ TIÊU KINH TẾ VĨ MÔ
TS. Cù Thu Thủy - Ths. Đồng Thị Ngọc Lan*
Ngày nhận bài: 2/5/2019
Ngày chuyển phản biện: 10/5/2019
Ngày nhận phản biện: 15/5/2019
Ngày chấp nhận đăng: 20/5/2019
Bài viết đưa ra các bước ứng dụng kỹ thuật lựa chọn thuộc tính trong khi xây dựng mô hình dự báo kinh
tế - xã hội theo cách tiếp cận của phương pháp chỉ số dẫn báo kết hợp với mô hình kinh tế lượng. Đây là
một hướng nghiên cứu và ứng dụng mới trong lĩnh vực phân tích và dự báo dữ liệu nói chung, xây dựng
mô hình dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô nói riêng.
• Từ khóa: dự báo kinh tế vĩ mô; lựa chọn thuộc tính; chỉ số dẫn báo.
This article applies the technique of feature
selection to build a socio-economic forecasting
model based on leading indicators combined with
econometric model. This is a new researching
approach in the field of data analysis and
forecasting in general, and in forecasting
macroeconomic targets in particular.
• Keywords: macroeconomic forecasts; select
properties; indicator.
* Học viện Tài chính
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅIÂSoá 08 (193) - 2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- day_manh_dich_vu_cong_truc_tuyen_de_dap_ung_nen_kinh_te_so.pdf