Một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam
Một là, nhà nước và doanh nghiệp xuất khẩu cần tăng cường công tác nghiên cứu thị
trường Đài Loan để có thể kết nối và đẩy mạnh xuất khẩu sầu riêng sang thị trường tiềm
năng này nhằm tận dụng cơ hội và lợi thế hiện tại hơn so với Thái Lan.
Hai là, doanh nghiệp cần lưu ý rằng giá cả xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan đang tăng
lên và của Việt Nam đang thấp hơn so với Thái Lan. Do đó, Thái Lan có thể nhập khẩu từ
Việt Nam và tái xuất khẩu sang Đài Loan và các thị trường khác. Với kinh nghiệm và năng
lực tốt trong hoạt động xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan, cách thức này sẽ làm phương
hại đến hoạt động xuất khẩu và giảm thị phần xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường
tiềm năng.
Giá cả và chất lượng đang là một yếu tố cạnh tranh cao của sầu riêng Việt Nam so với
Thái Lan tại thị trường Đài Loan. Do đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam cần học hỏi kinh nghiệm của Thái Lan trong xây dựng quy hoạch, chiến lược trồng
và phân loại sầu riêng nhằm nâng cao chất lượng và thương hiệu sầu riêng trong nước. Các
hộ nông dân cần tăng cường quy mô trồng, áp dụng các biện pháp và tiêu chuẩn trồng sầu
riêng tiên tiến nhất, cải thiện hệ thống phân phối và logistics để vừa đảm bảo nâng cao chất
lượng, tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu và rào cản từ thị trường mà giá cả lại vẫn có thể
cạnh tranh được với đối thủ của mình trên thị trường quốc tế. Chất lượng, quy trình và
kĩ thuật trồng sầu riêng, phân loại sầu riêng theo các mức độ yêu cầu khắt khe của các thị
trường là một bài học quan trọng từ Thái Lan có thể giúp sầu riêng Việt Nam vượt qua các
hàng rào phi thuế quan tại các thị trường khó tính, trong đó có Đài Loan.
Nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sầu riêng, Việt Nam cần đa dạng
hóa thị trường xuất khẩu sầu riêng nhằm tránh phụ thuộc vào một hoặc một số thị trường
truyền thống và trọng yếu. Bên cạnh đó, chất lượng, giá cả và thương hiệu là ba yếu tố
quan trọng khác Việt Nam cần đảm bảo và duy trì nhằm đảm bảo năng lực cạnh tranh và
có thể gia tăng vượt trội so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đặc biệt là thị
trường Đài Loan.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
16 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 770 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đẩy mạnh xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang thị trường Đài Loan, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Trang chủ của tạp chí: 
Đẩy mạnh xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang thị trường Đài Loan
Promoting exports of Vietnamese durian to Taiwan
Nguyễn Thu Hằng1
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
Đào Thị Khánh Linh
Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội, Việt Nam
Ngày nhận: 27/03/2020; Ngày hoàn thành biên tập: 25/05/2020; Ngày duyệt đăng: 28/05/2020
Tóm tắt
Các tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính trong bài viết để đánh giá thực 
trạng xuất khẩu và năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sầu riêng Việt Nam tại thị trường Đài 
Loan. Nghiên cứu chỉ ra rằng, kim ngạch, sản lượng và giá cả xuất khẩu sầu riêng của Việt 
Nam đang gia tăng mạnh mẽ tại thị trường Đài Loan, tuy nhiên, kết quả vẫn còn rất khiêm 
tốn so với tiềm năng xuất khẩu sang thị trường này. Năng lực xuất khẩu sầu riêng của Việt 
Nam đang gia tăng, nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh. Việt Nam không 
bị bất lợi thế về thuế quan so với các đối thủ cạnh tranh tại Đài Loan. Tuy nhiên, các quy định 
kiểm dịch động thực vật và tiêu chuẩn kĩ thuật chính là rào cản thương mại lớn nhất đối với 
sầu riêng của Việt Nam tại thị trường Đài Loan.
Từ khóa: Xuất khẩu, Sầu riêng, Việt Nam, Đài Loan
Abstract
Qualitative research methods are used in this paper to assess the export situation and 
export competitiveness of Vietnamese fresh durian in the Taiwan market. The research study 
indicates that Vietnam's fresh durian export, output, and price are rising significantly in the 
Taiwan market, but have not reached the market’s full potential. Although Vietnam’s export 
capacity is increasing in Taiwan, there is a huge gap between Vietnam and the competing 
countries. Vietnam does not face any disadvantages regarding tariffs as other competitors, 
however, sanitary and phytosanitary measures and technical barriers to trade regulations are 
the most difficult challenges for exporting Vietnamese fresh durian in the Taiwan market.
Keywords: Export, Fresh durian, Vietnam, Taiwan
1 Tác giả liên hệ: hang.nguyen.ftu@gmail.com
Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế, số 128 (5/2020), 131-146
ISSN 2615-9848
TẠP CHÍ
QUẢN LÝ
và KINH TẾ QUỐC TẾ
131Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
1. Lời mở đầu
Theo Báo cáo từ Cục Trồng trọt (2018), tổng giá trị xuất khẩu rau quả của Việt Nam đạt 
3,8 tỷ USD năm 2018, tăng trên 47,3% so với năm 2017, trong đó, ước tính các sản phẩm 
từ quả chiếm trên 80% tổng giá trị. Hiện nay, các loại quả xuất khẩu chủ yếu là thanh 
long, chuối, chôm chôm, nhãn, vải, xoài, măng cụt và sầu riêng. Những năm gần đây, sầu 
riêng trở thành nông sản có giá trị đặc biệt cao, với kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh từ 
608 nghìn USD năm 2013 lên 266 triệu USD năm 2018 đã giúp nâng cao giá trị kinh tế, 
từ đó cải thiện đời sống cho người dân ở các vùng sản xuất và tăng dự trữ nguồn ngoại tệ 
lớn cho nền kinh tế. Trademap (2019) cho thấy trong giai đoạn 2013 - 2018, Việt Nam liên 
tục lọt vào Danh sách 3 nước xuất khẩu sầu riêng lớn nhất thế giới, đứng sau Thái Lan và 
Hồng Kông. Năm 2018, Việt Nam chiếm 16,9% tổng giá trị xuất khẩu sầu riêng thế giới 
với kim ngạch xuất khẩu đạt 266 triệu USD. Bên cạnh đó, sầu riêng của Việt Nam đã xuất 
khẩu sang một số thị trường lớn trên thế giới như Trung Quốc, Mỹ, Hồng Kông, Đài Loan 
và đạt giá trị cao, cũng như mức tăng trưởng khá ổn định qua các năm. Trong năm này, 
Trung Quốc đang là thị trường xuất khẩu sầu riêng trọng điểm và lớn nhất, chiếm 96,9% 
tổng giá trị xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay, Trung Quốc vẫn chưa 
đồng ý cho phép Việt Nam xuất khẩu sầu riêng chính ngạch vào thị trường này, đồng thời, 
Chính phủ quốc gia này đang triển khai các chính sách quản lý ngày càng siết chặt nhập 
khẩu theo đường tiểu ngạch. Điều này ảnh hưởng rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu của 
sầu riêng Việt Nam trong ngắn hạn và dài hạn sang thị trường Trung Quốc. Vì vậy, nếu 
phụ thuộc quá lớn vào một thị trường đầy rủi ro như Trung Quốc, thì đây là một vấn đề 
đáng quan ngại cho các doanh nghiệp xuất khẩu và nông dân trồng sầu riêng trong nước. 
Do đó, hiện nay, Chính phủ Việt Nam cần tìm kiếm những thị trường tiềm năng mới để 
giảm sự phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc.
Đài Loan là một trong những thị trường xuất khẩu rau quả lớn của Việt Nam, trong đó, 
sầu riêng là một trong những mặt hàng có tiềm năng lớn khi xuất khẩu sang thị trường 
phát triển này. Theo Trademap (2019), Đài Loan là quốc gia có kim ngạch nhập khẩu sầu 
riêng lớn thứ 5 trên thế giới. Bên cạnh đó, Đài Loan là một trong những nước tiêu thụ và 
nhập khẩu sầu riêng với khối lượng lớn trên thế giới, trung bình từ 7 đến 13 nghìn tấn 
mỗi năm. Đài Loan đứng thứ 4 trong danh sách thị trường xuất khẩu sầu riêng của Việt 
Nam năm 2018. Điều đó cho thấy tiềm năng của thị trường Đài Loan đối với mặt hàng sầu 
riêng của Việt Nam. Trong các nước xuất khẩu sầu riêng vào thị trường Đài Loan, Thái 
Lan đang là đối thủ lớn nhất của Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị nhập khẩu của Đài Loan 
đối với sầu riêng của Việt Nam chỉ bằng 3,2% so với sầu riêng từ Thái Lan trong năm 
2018 (Trademap, 2019). Điều đó cho thấy, sầu riêng Thái Lan đang gần như chiếm lĩnh thị 
trường Đài Loan, còn thị phần của sầu riêng Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Do vậy, 
phân tích thực trạng xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang thị trường Đài Loan là rất cần 
thiết, từ đó đề xuất những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang thị 
trường Đài Loan.
132 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Hiện nay, nghiên cứu về hoạt động xuất khẩu sầu riêng nói chung và của Việt Nam 
sang thị trường Đài Loan nói riêng còn hạn chế. Đoàn (2012) nghiên cứu định tính về 
thực trạng xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Đài Loan và kết luận rằng 
sản phẩm này rất có tiềm năng xuất khẩu, nhưng Việt Nam chưa khai thác hết tiềm năng 
vốn có của nó. Nghiên cứu mới mô tả và phân tích thực trạng xuất khẩu nói chung, mà 
chưa đề xuất được các giải pháp cụ thể, đặc biệt là đối với hoạt động xuất khẩu sầu riêng. 
Bên cạnh đó, Vũ (2009) đã sử dụng phương pháp phân tích định lượng để đi đến kết luận 
rằng mặc dù còn một số tồn tại, nhưng sầu riêng là sản phẩm mang lại hiệu quả kinh tế 
cao cho nông dân và tại tỉnh Tiền Giang đã phát triển hệ thống marketing sầu riêng. Trên 
cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất và tiêu thụ 
sầu riêng của tỉnh Tiền Giang. Tuy nhiên, nghiên cứu này chưa tập trung vào hoạt động 
xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam. Năm 2014, Phan (2014) đã triển khai nghiên cứu định 
lượng để đánh giá ưu và nhược điểm của từng thành phần tham gia trong chuỗi cung ứng 
sầu riêng và phát hiện ra một số xu hướng tiêu dùng đối với sản phẩm sầu riêng, từ đó tác 
giả đề xuất một số giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng sầu riêng để nâng cao chất lượng 
sản phẩm và đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Nghiên cứu chưa khai thác yếu 
tố tiêu thụ và xuất khẩu ở nước ngoài kết hợp với xem xét các quy định về thuế quan và 
phi thuế quan của nước nhập khẩu. Tóm lại, hiện nay, các công trình nghiên cứu khoa 
học liên quan chưa đánh giá đầy đủ hoạt động xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang thị 
trường Đài Loan.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1 Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này sẽ trả lời ba câu hỏi sau đây: (i) Thực trạng về xuất khẩu sầu riêng của 
Việt Nam sang thị trường Đài Loan như thế nào?; (ii) Năng lực cạnh tranh của sầu riêng 
Việt Nam so với đối thủ cạnh tranh?; (iii) Sầu riêng của Việt Nam gặp những rào cản 
thương mại nào khi tiếp cận thị trường Đài Loan?
3.2 Phương pháp nghiên cứu
Trong bài viết, các tác giả đã áp dụng phương pháp nghiên cứu định tính: Nghiên cứu 
sử dụng phương pháp thống kê, mô tả, tổng hợp và phân tích để đánh giá thực trạng xuất 
khẩu của sầu riêng Việt Nam sang Đài Loan, bao gồm các vấn đề về kim ngạch, sản lượng, 
giá cả, rào cản thuế quan và phi thuế quan từ thị trường Đài Loan. Các vấn đề nghiên cứu 
liên quan sẽ được so sánh với đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam để thấy rõ được 
thực trạng.
Bên cạnh đó, nghiên cứu sử dụng hệ số so sánh biểu hiện RCA (Revealed Comparative 
Advantage) do Balassa (1965) phát triển để tính toán, đánh giá và so sánh năng lực cạnh 
tranh và lợi thế xuất khẩu của sầu riêng Việt Nam và đối thủ cạnh tranh.
133Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Về nguồn số liệu, các tác giả tổng hợp số liệu kim ngạch, khối lượng và giá cả xuất khẩu 
từ Trung tâm Thương mại quốc tế (ITC) giai đoạn 2015 - 2019. Ngoài ra, trong nghiên cứu 
còn có thông tin thứ cấp khác từ các nguồn trên internet và các công trình khác.
4. Kết quả nghiên cứu
4.1 Thực trạng xuất khẩu của sầu riêng Việt Nam sang Đài Loan
4.1.1 Kim ngạch xuất khẩu
Kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam vào thị trường Đài Loan đang gia tăng 
mạnh mẽ với mức trung bình là 680% trong giai đoạn 2015 - 2019 (Trademap, 2019). Đặc 
biệt, kim ngạch xuất khẩu năm 2019 tăng lên đáng kể so với năm 2018, đạt 9.491 nghìn 
USD và cao hơn 25 lần so với kim ngạch xuất khẩu năm 2018. So với nhu cầu nhập khẩu 
sầu riêng của Đài Loan, nếu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang 
Đài Loan mới chỉ chiếm 3% so với tổng kim ngạch nhập khẩu sầu riêng của Đài Loan, 
thì đến năm 2019, giá trị xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Đài Loan đã chiếm đến 
44,65% tổng kim ngạch nhập khẩu sầu riêng của nước này trong năm 2019. Điều đó cho 
thấy tăng trưởng vượt bậc về giá trị xuất khẩu trong hoạt động xuất khẩu sầu riêng của 
Việt Nam sang Đài Loan (Biểu đồ 1).
 Biểu đồ 1. Kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Đài Loan
giai đoạn 2015 - 2019
Nguồn: Các tác giả tổng hợp từ Trademap (2015 - 2019)
Hiện nay, Thái Lan đang là đối thủ cạnh tranh duy nhất và lớn nhất của Việt Nam ở thị 
trường sầu riêng Đài Loan. Mặc dù, kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Đài 
Loan thấp hơn nhiều so Thái Lan, tuy nhiên, nhu cầu nhập khẩu sầu riêng của Đài Loan từ 
Thái Lan đang trên đà suy giảm, còn từ Việt Nam lại có xu hướng tăng lên nhanh chóng 
trong giai đoạn 2015 - 2019, cụ thể tổng hợp trong Bảng 1.
134 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam và Thái Lan 
vào thị trường Đài Loan giai đoạn 2015 - 2019
Đơn vị: nghìn USD
Nước xuất khẩu 2015 2016 2017 2018 2019
Thái Lan 12.471 13.013 14.412 11.908 11.761
Việt Nam 66 193 130 385 9.491
Nguồn: Các tác giả tổng hợp từ Trademap (2020a)
Đặc biệt, năm 2019 ghi nhận tốc độ tăng trưởng đột phá về xuất khẩu sầu riêng của Việt 
Nam sang Đài Loan do nhu cầu nhập khẩu sầu riêng của thị trường này năm 2019 tăng 
62% so với năm 2018. Tuy nhiên, năm 2019, kim ngạch nhập khẩu sản phẩm này của Đài 
Loan từ thị trường Thái Lan lại giảm nhẹ, nhưng nhu cầu nhập khẩu sản phẩm này từ Việt 
Nam lại gia tăng (Trademap, 2020). Đây cũng là một dấu hiệu tích cực trong hoạt động 
xuất khẩu sẩu riêng của Việt Nam.
4.1.2 Khối lượng xuất khẩu
Khối lượng xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Đài Loan có xu hướng biến động 
liên tục cùng chiều với sự gia tăng kim ngạch xuất khẩu. Khối lượng xuất khẩu sầu riêng 
của Việt Nam sang Đài Loan tăng mạnh trong giai đoạn 2015 - 2019. Năm 2019, khối lượng 
xuất khẩu đạt 5264 tấn, cao gấp 21 lần so với năm 2018, chiếm 46% tổng nhu cầu khối 
lượng nhập khẩu sầu riêng của Đài Loan (Xem chi tiết Bảng 2).
Bảng 2. Khối lượng nhập khẩu sầu riêng của Đài Loan 
từ Việt Nam và Thái Lan giai đoạn 2015 - 2019
Đơn vị: tấn
Nước xuất khẩu 2015 2016 2017 2018 2019
Thái Lan 10.308 8.507 8.520 7.047 6.113
Việt Nam 51 112 79 250 5,264
Nguồn: Tổng hợp của các tác giả
Trong khi khối lượng xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang Đài Loan ngày càng gia 
tăng, thì khối lượng xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan ngày càng giảm liên tục (Bảng 2). 
Mặc dù khối lượng xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan vào thị trường Đài Loan giảm, nhưng 
vẫn lớn hơn so với Việt Nam. Sự cạnh tranh của đối thủ lớn như Thái Lan đặt ra một bài 
toán không hề nhỏ về chiến lược sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu và xây dựng thương hiệu 
cho ngành trái cây Việt Nam.
135Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
4.1.3 Giá cả
Giá xuất khẩu sầu riêng Việt Nam sang Đài Loan có xu hướng tăng lên trong giai đoạn 
2014 - 2019. Năm 2019, giá xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam đạt 1,8 nghìn USD/tấn, tăng 
17% so với năm 2018 và tăng 39% so với năm 2014. Như vậy, đây là dấu hiệu đáng mừng 
cho doanh nghiệp xuất khẩu và nông dân trồng sầu riêng ở Việt Nam, bởi vì, tăng giá mà 
vẫn gia tăng được khối lượng xuất khẩu, chứng tỏ chất lượng sầu riêng của Việt Nam tăng 
lên và ngày càng tiếp cận được nhiều khách hàng tại thị trường Đài Loan.
Biểu đồ 2. Giá xuất khẩu trung bình của sầu riêng Việt Nam và Thái Lan 
sang Đài Loan giai đoạn 2015 - 2019
Nguồn: Tổng hợp của các tác giả
So sánh với đối thủ cạnh tranh, từ năm 2015 - 2017, giá xuất khẩu sầu riêng của Việt 
Nam cao hơn so với Thái Lan. Trong năm 2016, giá xuất khẩu bình quân sầu riêng của 
Việt Nam sang Đài Loan là 1,72 nghìn USD/tấn, còn của Thái Lan là 1,53 nghìn USD/tấn. 
Đây có thể là lý do trong giai đoạn này, kim ngạch và khối lượng xuất khẩu sầu riêng của 
Việt Nam sang Đài Loan thấp hơn rất nhiều so với Thái Lan. Như vậy, trong giai đoạn 
này, Việt Nam không thể cạnh tranh với Thái Lan về giá xuất khẩu sầu riêng. Tuy nhiên, 
từ năm 2017 - 2019, giá xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan lại tăng cao hơn so với giá xuất 
khẩu sầu riêng của Việt Nam. Năm 2017, giá sầu riêng của Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu 
giảm do tình hình thời tiết trong nước không thuận lợi dẫn đến lượng cung giảm và chất 
lượng sầu riêng cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu trong năm 
này giảm đi đáng kể, nhưng vẫn duy trì ở mức giá tương đối. Đến 2018, diện tích sầu riêng 
của Việt Nam tăng lên khiến sản lượng tăng dần và nguồn cung ngày càng mạnh mẽ. Lúc 
này, khả năng dẫn đến dư thừa cung đã kéo theo giá thành giảm nhẹ, xuống còn 1,54 nghìn 
USD/tấn. Năm 2019, giá xuất khẩu bình quân sầu riêng của Việt Nam sang Đài Loan là 1,8 
nghìn USD/tấn, còn của Thái Lan là 1,92 nghìn USD/tấn. Điều này cũng là một dấu hiệu 
tốt cho Việt Nam khi giá xuất khẩu đang ngày càng gia tăng, nhưng vẫn thấp hơn so với 
136 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
giá của đối thủ cạnh tranh. Đây là tiền đề để Việt Nam có thể vừa tăng cường khối lượng, 
chất lượng và giá cả xuất khẩu nhưng vẫn đảm bảo mức độ lợi thế cạnh tranh với đối thủ 
trên thị trường.
Biểu đồ 2 cho thấy giá sầu riêng của Thái Lan bắt đầu cao hơn đáng kể so với giá của 
Việt Nam kể từ 2017, nguyên nhân là người tiêu dùng Đài Loan đã quen thuộc với hương 
vị của sầu riêng Monthong Thái Lan. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu thuộc một trường Đại 
học ở Thái Lan đã phát triển một quy trình bọc sầu riêng mới, nhằm giải quyết tình trạng 
nứt vỏ trong quá trình vận chuyển và duy trì độ tươi ngon của trái khi được bày bán trên 
thị trường, từ đó đã đẩy mạnh xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan, đồng thời giá thành sầu 
riêng cũng tăng lên. Giai đoạn 2017 - 2019, giá sầu riêng của Thái Lan xuất khẩu sang thị 
trường Đài Loan có khoảng cách rõ rệt so với giá sầu riêng của Việt Nam tại thị trường 
này. Điều này cho thấy Thái Lan không những thành công trong xuất khẩu những quả sầu 
riêng có chất lượng tốt, mà còn phát triển rất thành công thương hiệu vua trái cây của mình 
để luôn giữ thế chủ động trên thị trường. Việt Nam có thể học hỏi Thái Lan trong nghiên 
cứu kỹ thuật bảo quản và xây dựng thương hiệu để gia tăng chất lượng và giá cả xuất khẩu.
4.2 Năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sầu riêng Việt Nam
Để đánh giá năng lực cạnh tranh sầu riêng của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường 
Đài Loan, tác giả sử dụng hệ số so sánh biểu hiện RCA để so sánh với đối thủ cạnh tranh 
Thái Lan trên thị trường này. Balassa (1965) đã phát triển Hệ số so sánh biểu hiện RCA 
(Revealed Comparative Advantage) vào năm 1965.
Bảng 3. Hệ số RCA mặt hàng sầu riêng Việt Nam trong giai đoạn 2013 - 2018
Năm 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019
Hệ số RCA 0,2094 0,3882 3,3767 9,368 19,7041 13,3757 5,264
Nguồn: Tính toán của các tác giả
Dựa vào Bảng 3, có thể thấy hệ số RCA của sầu riêng Việt Nam không ngừng gia tăng 
qua các năm, đánh dấu sự tăng trưởng đột phá về năng lực cạnh tranh của mặt hàng sầu 
riêng Việt Nam. Giai đoạn 2013 - 2014, Việt Nam không có lợi thế so sánh (RCA < 1) đối 
với mặt hàng sầu riêng vì giá trị xuất khẩu mặt hàng này chiếm tỷ trọng rất nhỏ 0,14% 
trong tổng giá trị xuất khẩu sầu riêng của thế giới và 0,0004% trong tổng kim ngạch xuất 
khẩu của Việt Nam. Như vậy, giai đoạn 2013 - 2014, sầu riêng của Việt Nam không có năng 
lực cạnh tranh trên thế giới. Chỉ sau 2 năm, hệ số RCA đã đạt mức 3,37 giúp nâng tầm vị 
thế sầu riêng Việt lên thành sản phẩm có lợi thế so sánh rất cao 
(RCA > 2,5) và chứng minh sầu riêng Việt Nam rất có năng lực cạnh tranh vào năm 
2015. Thời kỳ vàng của sầu riêng Việt Nam còn kéo dài sang giai đoạn 2016 - 2017, chứng 
kiến hệ số RCA tăng lên đáng kể, lên tới 19,7. Tuy nhiên, năm 2018 năng lực cạnh tranh 
của sầu riêng Việt Nam đã giảm nhẹ, nhưng vẫn duy trì ở mức rất cao. Nguyên nhân của sự 
sụt giảm do thị trường tiêu thụ lớn nhất của sầu riêng Việt Nam là Trung Quốc bắt đầu siết 
137Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
chặt nhập khẩu theo con đường tiểu ngạch, yêu cầu khắt khe hơn trong việc đáp ứng các 
quy định về an toàn nguyên liệu thực phẩm và kiểm dịch thực vật của Trung Quốc. Điều 
này đã khiến khối lượng xuất khẩu sầu riêng đi xuống, kéo theo sự giảm sút của tổng giá trị 
xuất khẩu sầu riêng Việt Nam trong năm 2018. Nhìn chung, chỉ số RCA mặt hàng sầu riêng 
Việt Nam những năm trở lại đây đều lớn hơn 2,5 và điều này cho thấy rằng sầu riêng Việt 
Nam là một sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao. Tuy nhiên, việc dao động nhanh chóng về 
chỉ số này cho thấy sầu riêng Việt Nam vẫn chưa có khả năng đứng vững trước biến động 
của thị trường, đặc biệt là nếu vẫn tiếp tục phụ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc.
Năm 2018, so sánh hệ số RCA mặt hàng sầu riêng Việt Nam với đối thủ khác tại Đài 
Loan là Thái Lan, ta thấy năng lực cạnh tranh của sầu riêng Việt Nam còn hạn chế hơn 
nhiều so với Thái Lan. Trong khi năng lực cạnh của Việt Nam ngày càng tăng thì Thái Lan 
có xu hướng giảm.
Biều đồ 3. Hệ số RCA mặt hàng sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam và Thái Lan
Nguồn: Tính toán của tác giả dựa vào số liệu từ Trademap (2020a)
Hệ số RCA của Việt Nam ngày càng tăng vì sản lượng xuất khẩu sầu riêng sang các thị 
trường tăng mạnh, đặc biệt là thị trường Trung Quốc, Mỹ và Đài Loan. Đồng thời, chất 
lượng sầu riêng Việt Nam đang dần được cải thiện vì Nhà nước, doanh nghiệp xuất khẩu 
và người dân đã chú trọng hơn vào khâu trồng trọt và chăm sóc theo các quy định thực 
hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) và Quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt 
(GAP). Mặc dù quy mô áp dụng còn nhỏ, nhưng năng suất và chất lượng trái sầu riêng cao 
hơn, tạo sự tin tưởng đối với người tiêu dùng và nâng cao giá trị kinh tế của mặt hàng sầu 
riêng. Hiện nay, Nhà nước đã chứng nhận chỉ dẫn địa lý “sầu riêng Cái Mơn”, nhãn hiệu 
sầu riêng tập thể “sầu riêng Đạ Huoai” đối với sầu riêng có chất lượng cao được sản xuất 
tại các vùng sản xuất tốt, cho thấy Việt Nam đã bước đầu xây dựng thương hiệu cho loại 
trái cây đầy tiềm năng này.
138 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Trong khi đó, RCA của Thái Lan giảm dần qua các năm và chạm đáy vào năm 2017 với 
hệ số RCA chỉ đạt 29,2. Mặc dù vậy, hệ số RCA thấp nhất của Thái Lan vẫn ở mức rất cao, 
cao hơn 1,5 lần so với mức cao nhất của Việt Nam. Sự giảm sút trong hệ số RCA của sầu 
riêng Thái Lan năm 2017 là do kim ngach xuất khẩu sầu riêng Thái Lan sang Trung Quốc, 
Hồng Kông và In-đô-nê-xi-a giảm mạnh, đặc biệt là thị trường In-đô-nê-xi-a (Trademap, 
2019). Năm 2016, In-đô-nê-xi-a - thị trường tiêu thụ sầu riêng lớn thứ 5 của Thái Lan đã 
hạn chế nhập khẩu sầu riêng của Thái Lan và chỉ cho phép nước này xuất sầu riêng trong 
vòng một tháng nhằm bảo vệ sầu riêng trong nước trước nguy cơ bị giảm giá khi sầu riêng 
Thái Lan thâm nhập vào thị trường này (Báo Thanh niên, 2019). Quy định cấm nhập khẩu 
sầu riêng Thái Lan của In-đô-nê-xi-a đã phần nào ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu 
sầu riêng của Thái Lan trong năm 2017 và 2018. Sang năm 2018, mặc dù chỉ số RCA của 
Việt Nam giảm nhưng chỉ số năng lực cạnh tranh của sầu riêng Thái Lan lại tăng lên 45,7.
Như vậy, mặc dù, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam trên đà gia tăng trong năm 
2013 - 2018, tuy nhiên vẫn thấp hơn rất nhiều so với Thái Lan. Do đó, việc gia tăng năng 
lực và lợi thế cạnh tranh sầu riêng của Việt Nam trên thị trường quốc tế nói chung và thị 
trường Đài Loan nói riêng vẫn là một vấn đề lớn đối với ngành trái cây Việt Nam.
4.3 Các chính sách quản lý nhập khẩu sầu riêng của Đài Loan
4.3.1 Chính sách thuế quan
Theo Macmap (2020), Việt Nam và Đài Loan đều là thành viên WTO, nên Đài Loan áp 
dụng chế độ tối huệ quốc (MFN) đối với sản phẩm xuất xứ từ Việt Nam và không có hạn 
chế đặc biệt. Vì vậy, Đài Loan áp dụng thuế suất MFN là 17% đối với thuế quan nhập khẩu 
sầu riêng từ Việt Nam. Hiện nay, thuế nhập khẩu của Đài Loan đối với sầu riêng từ đối thủ 
cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Thái Lan cũng là 17%. Do đó, so với Thái Lan, Việt 
Nam không có lợi thế hơn và cũng không bị bất lợi thế về thuế nhập khẩu tại thị trường 
Đài Loan. Tuy nhiên, hiện nay, Đài Loan đang dành thuế suất ưu đãi đặc biệt 0% đối với 
sầu riêng nhập khẩu từ nhiều quốc gia khác như New Zealand, Singapore, Nicaragua, 
Panama. Đây cũng là cơ sở để Việt Nam có thể đàm phán với Đài Loan nhằm được hưởng 
thuế suất ưu đãi 0% trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, Đài Loan cũng đang áp dụng hạn ngạch thuế quan nhập khẩu đối với 
một số nông sản nhập khẩu từ Việt Nam để bảo vệ nền sản xuất trong nước như lê Đông 
Phương, chuối tiêu, xoài, bưởi, nhung hươu, dừa, dứa, Hiện nay, sầu riêng là loại trái 
cây có múi Đài Loan chưa có khả năng trồng trọt, cho nên, không có tên trong danh sách 
bị áp dụng hạn ngạch thuế quan của Đài Loan.
4.3.2 Các biện pháp phi thuế quan
Bên cạnh chính sách thuế quan, Chính phủ Đài Loan ngày càng áp dụng chặt chẽ các 
biện pháp phi thuế quan về kỹ thuật và phi kỹ thuật và trở thành rào cản lớn đối với nông 
sản của các quốc gia xuất khẩu vào thị trường này.
139Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
4.3.2.1 Các biện pháp kỹ thuật
Biện pháp kiểm dịch động thực vật (Sanitary and Phytosanitary Measure - SPS)
Quy định về kiểm dịch thực vật. Chính phủ Đài Loan quy định chặt chẽ về nhập khẩu 
trái cây phải tuân thủ nghiêm ngặt “Luật kiểm dịch phòng dịch thực vật Đài Loan” của Cục 
Kiểm dịch phòng dịch động thực vật Đài Loan (BAPHIQ) và “Quy định kiểm dịch đối với 
thực vật hoặc sản phẩm thực vật nhập khẩu” của Tổng cục Quản lý thực phẩm dược phẩm 
Đài Loan (TFDA). “Luật kiểm dịch phòng dịch thực vật” quy định sinh vật có hại; thiên 
địch dùng để phòng trị sinh vật có hại, sinh vật kháng thể; đất; thực vật, sản phẩm thực 
vật có kèm thổ nhưỡng; bao bì, vật đựng của các vật phẩm nêu trên nếu chưa được Ủy ban 
Nông nghiệp Đài Loan cấp phép nhập khẩu sẽ bị cấm nhập khẩu. Những mặt hàng thuộc 
danh mục vật kiểm dịch sẽ phải xuất trình giấy chứng nhận kiểm dịch do cơ quan kiểm 
dịch nước xuất khẩu cấp. Trường hợp giấy chứng nhận kiểm dịch không phù hợp thì cơ 
quan kiểm dịch linh động áp dụng các biện pháp khác nhau để xử lý như gia hạn bổ sung 
giấy chứng nhận kiểm dịch, tiến hành xử lý kiểm dịch; trả lại hoặc tiêu hủy. Nếu kết quả 
kiểm dịch đối với các vật kiểm dịch và các vật phẩm bị cấm nhập khẩu không đạt yêu cầu, 
thì doanh nghiệp không được phép xin kiểm dịch lại (AIT Taipei AGR và ATO, 2019).
“Quy định kiểm dịch đối với thực vật hoặc sản phẩm thực vật nhập khẩu” liệt kê các 
giấy tờ cần thiết để tiến hành thủ tục kiểm dịch cho một lô hàng nhập khẩu, gồm có: (1) 
Đơn yêu cầu kiểm dịch; (2) Tờ khai thông tin sản phẩm; (3) Bản sao đơn đăng ký khai 
báo nhập khẩu; (4) Các giấy chứng nhận cần thiết khác theo yêu cầu của Cục quản lý thực 
phẩm và dược phẩm Đài Loan và Bộ Y tế và Phúc lợi Đài Loan. Ngoài ra, bản Quy định 
cũng nhấn mạnh về các sản phẩm có vật kiểm dịch có sức sinh sôi chưa từng nhập khẩu 
từ các nuớc, khu vực hoặc các sản phẩm đã quá 5 năm không nhập khẩu, thì cần cung cấp 
tư liệu liên quan phục vụ công tác đánh giá rủi ro, sau khi đuợc cơ quan kiểm dịch thực 
vật cho phép mới đuợc nhập khẩu. Điều 8 của Quy định cũng đưa ra 5 phương pháp để 
tiến hành kiểm tra một lô hàng sầu riêng nói riêng và các lô hàng thực phẩm nhập khẩu nói 
chung nhằm đảm bảo tính chính xác trong kiểm nghiệm: (1) Kiểm tra chi tiết từng đợt; (2) 
Kiểm tra lô được chọn ngẫu nhiên; (3) Xác minh hàng loạt; (4) Kiểm tra giấy chứng nhận; 
và (5) Giám sát kiểm tra.
Sầu riêng tươi Việt Nam là một trong 3 loại quả có tên trong “Danh mục các thực vật 
xuất xứ Việt Nam được phép nhập khẩu vào Đài Loan”. Trước khi các thực vật hoặc sản 
phẩm thực vật trong Danh mục này nhập khẩu vào Ðài Loan, thì doanh nghiệp phải xuất 
trình giấy chứng nhận kiểm dịch thực vật do cơ quan kiểm dịch thực vật Việt Nam cấp để 
xin kiểm nghiệm với cơ quan kiểm dịch Ðài Loan. Ngoài ra, do Việt Nam là vùng phát 
sinh các sinh vật có hại như Phthorimaea operculella, Rhizoglyphus echinopsis, nên các 
sản phẩm thực vật trong Danh mục nêu trên nếu có các sinh vật có hại này, thì trên giấy 
chứng nhận kiểm dịch thực vật do Việt Nam cấp phải có ghi chú các điều kiện kiểm dịch 
liên quan, đồng thời qua kiểm dịch tại chỗ đạt yêu cầu mới đuợc nhập khẩu.
140 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Quy định về an toàn thực phẩm. Luật quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm quy định các 
loại trái cây chưa chín mà có khả năng gây hại cho sức khỏe con người; các loại thực phẩm 
bị thối và hư hại, có dư lượng thuốc trừ sâu vượt quá dung sai cho phép, chứa phụ gia thực 
phẩm không được cơ quan có thẩm quyền trung ương phê duyệt và các sản phẩm chưa bao 
giờ được cung cấp cho người tiêu dùng mà được chứng minh là vô hại đối với sức khỏe 
con người sẽ không được phép nhập khẩu vào Đài Loan. Ngoài ra, để thuận tiện cho truy 
xuất hoặc đề phòng các vụ việc về an toàn vệ sinh thực phẩm phát sinh, khi cần thiết, cơ 
quan kiểm tra có thể yêu cầu doanh nghiệp thực phẩm, doanh nghiệp phi thực phẩm hoặc 
người đại lý cung cấp các ghi chép liên quan, các văn bản, hồ sơ điện tử và kho tư liệu về 
sản phẩm nhập khẩu.
Quy định về dư lượng thuốc trừ sâu. Đài Loan là quốc gia rất khắt khe trong đảm bảo 
đúng giới hạn thuốc bảo vệ thực vật trên trái cây và rau quả tránh gây ảnh hưởng xấu đến 
sức khỏe của người tiêu dùng trong nước. Các thanh tra viên của Cơ quan quản lý Thực 
phẩm Dược phẩm Đài Loan (TFDA) chịu sự kiểm tra và thử nghiệm về thuốc trừ sâu, 
thuốc thú y và các chất gây ô nhiễm khác như kim loại nặng có trong sản phẩm trái cây, 
rau, thịt và các sản phẩm thực phẩm nhập khẩu tại cảng nhập. Bộ Y tế và Phúc lợi Đài 
Loan là cơ quan có thẩm quyền chịu toàn bộ trách nhiệm thiết lập và ban hành giới hạn dư 
lượng tối đa về thuốc bảo vệ thực vật (Maximum residue limit - MRL) tại Đài Loan thông 
qua “Quy định về Giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm”, liệt kê dung 
sai dư lượng thuốc BVTV cho phép trong trái cây và rau quả. Việc không tuân thủ các tiêu 
chuẩn thuốc trừ sâu của Đài Loan sẽ dẫn đến thu hồi và từ chối các sản phẩm.
Ở Việt Nam, bệnh Sâu đục thân hại sầu riêng là một trong những bệnh hại cây trồng 
đáng sợ nhất, chúng tấn công và làm ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, phát triển và 
năng suất của cây sầu riêng. Vì vậy, nông dân cần được hướng dẫn sử dụng thuốc BVTV 
có chứa Chlorpyrifos, Alpha-Cypermethrin (Cypermethrin) để trị bệnh này. Tại “Quy 
định về Giới hạn dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong thực phẩm” của Đài Loan quy định 
về dư lượng tối đa với các chất hóa học được sử dụng bên trên như sau (Bureau of Animal 
and Plant Health Inspection and Quarantine, 2018):
Bảng 4. Dư lượng tối đa thuốc BVTV một số hóa chất đối với sầu riêng 
theo quy định của Đài Loan
Tên hóa chất Dư lượng tối đa (mg/kg)
Cypermethrin 1
Chlorpyrifos 0,5
Nguồn: Bureau of Animal and Plant Health Inspection and Quarantine, 2019
Rào cản kỹ thuật đối với thương mại (TBT)
Quy định về bao gói và nhãn mác. “Luật Nhãn hiệu hàng hóa Đài Loan” quy định tất cả 
các sản phẩm thực phẩm đóng gói phải mang (1) Nhãn chung và (2) Nhãn dinh dưỡng. Cả 
hai nhãn phải ghi bằng chữ Trung Quốc truyền thống. Nhãn tiếng Trung có thể đi kèm với 
141Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
nhãn tiếng Anh, nhưng điều này không bắt buộc đối với hàng hóa nhập khẩu. Sầu riêng 
thuộc nhóm trái cây tươi nên theo quy định được miễn ghi nhãn dinh dưỡng bắt buộc.
Hàng hóa nhập khẩu được bán tại thị trường Đài Loan phải được dán nhãn thông tin sản 
phẩm bao gồm tên của chính hàng hóa đó; tên, số điện thoại và địa chỉ của nhà sản xuất; 
nơi xuất xứ của hàng hóa và tên, số điện thoại và địa chỉ của nhà nhập khẩu. Thông tin liên 
lạc của các công ty hoặc địa điểm nước ngoài không bắt buộc phải viết bằng tiếng Trung 
Quốc. Nhãn sản phẩm cũng phải bao gồm nội dung hoặc thành phần của hàng hóa; thành 
phần chính, nguyên vật liệu cấu thành; và trọng lượng tịnh, khối lượng hoặc số lượng và 
kích thước của sản phẩm. Các nội dung của thông tin trên dán nhãn phải được dán nhãn 
bằng tiếng Trung Quốc (Food and Drug Administration, Department of Health, 2015).
4.3.2.2 Các biện pháp phi kỹ thuật
Biện pháp phòng vệ đặc biệt (Special safeguards - SSG)
Macmap (2020) và Bureau of Animal and Plant Health Inspection and Quarantine (2018) 
cập nhật Đài Loan sử dụng Biện pháp phòng vệ đặc biệt (Special safeguards - SSG) - biện 
pháp trưng thu thêm thuế quan đối với phần vượt mức mà Đài Loan hiện đang cho phép 
nhập khẩu đối với các nông sản nhạy cảm có xuất xứ từ Việt Nam. Khi lượng nhập khẩu 
những nông sản như lạc, lê Đông Phương, đường, tỏi, cau, sữa dạng lỏng, đậu đỏ, lũy 
kế vượt quá số lượng cơ bản đã quy định, hoặc khi giá nhập khẩu thấp hơn giá cơ bản đã 
quy định thì sẽ bị đánh thuế ngoài hạn ngạch. Trong các mặt hàng trên, sầu riêng Việt Nam 
không nằm trong danh sách được liệt kê.
Quy tắc xuất xứ
Thủ tục và hồ sơ nhập khẩu sầu riêng vào thị trường Đài Loan bao gồm những giấy 
tờ cơ bản để nhập khẩu hàng hóa. Bộ hồ sơ xuất trình khi nhập khẩu bao gồm chứng từ 
hàng hóa và chứng từ thương mại, chi tiết như sau: Hoá đơn thương mại; Vận đơn đường 
biển; Phiếu đóng gói; Tờ khai nhập khẩu; Các chứng từ bảo hiểm; Giấy chứng nhận xuất 
xứ (C/O) form B.
Đài Loan yêu cầu giấy chứng nhận xuất xứ đối với một số mặt hàng được chỉ định như 
xe hơi, các sản phẩm từ rượu và thuốc lá và một số sản phẩm nông sản. Xuất xứ của hàng 
hóa nước ngoài xuất khẩu vào Đài Loan được xác định là xuất xứ của nước ngoài khi có 
một trong những văn bản sau có ghi tên nước đó: (1) C/O do nước xuất xứ cấp; (2) Copy 
giấy khai báo nhập khẩu; và (3) Các giấy tờ chứng nhận nhập khẩu liên quan khác do Cục 
Thương mại quy định.
Như vậy, hiện nay, về quy định thuế quan áp dụng của Đài Loan, Việt Nam không bị 
bất lợi thế so với đối thủ cạnh tranh là Thái Lan với mức thuế quan áp dụng chung đều là 
17%. Đối với các quy định/biện pháp phi thuế quan, sầu riêng Việt Nam đang phải đối mặt 
với nhóm biện pháp kĩ thuật (SPS và TBT) rất khắt khe nhằm đáp ứng được chất lượng và 
tiêu chuẩn để có thể nhập khẩu được vào thị trường Đài Loan. Trong bối cảnh dịch bệnh 
Covid-19 đang gia tăng trên toàn cầu, nhu cầu nhập khẩu của thế giới nói chung và của 
142 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Đài Loan nói riêng sẽ giảm xuống, đồng thời, các rào cản kĩ thuật cũng sẽ tăng lên. Đây 
là một thách thức rất lớn đối với hoạt động xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam trong những 
năm tới đây.
4.4 Kinh nghiệm của Thái Lan và gợi ý chính sách đối với Việt Nam
4.4.1 Một số thành tựu và hạn chế
Thứ nhất, kim ngạch và khối lượng xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam vào thị trường 
Đài Loan có xu hướng tăng dần trong 5 năm gần đây. Tuy nhiên, so với đối thủ cạnh tranh 
là Thái Lan, kim ngạch, khối lượng và giá cả xuất khẩu sang thị trường Đài Loan đang 
thấp hơn rất nhiều. Do đó, một thách thức lớn đối với Việt Nam là chiếm lĩnh được thị 
trường Đài Loan trước đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, giá cả xuất khẩu sầu riêng bình quân của Việt Nam sang Đài Loan đang có 
xu hướng tăng lên, tuy nhiên, giá xuất khẩu vẫn thấp hơn giá cả của đối thủ cạnh tranh. 
Đây là một dấu hiệu tích cực đối với Việt Nam, bởi vì, trong thời gian qua, giá tăng nhưng 
khối lượng xuất khẩu không giảm, mà còn tăng lên. Trong khi đó, giá xuất khẩu của Thái 
Lan tăng lên, nhưng khối lượng xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan sang Đài Loan lại giảm 
xuống. Như vậy, từ trước đến nay, Thái Lan chiếm lĩnh thị trường xuất khẩu sầu riêng 
sang Đài Loan bằng giá, còn hiện nay, Việt Nam đang khẳng định được vị thế xuất khẩu ở 
thị trường này bằng cả chất lượng và giá cả.
Thứ ba, Việt Nam đang đạt được lợi thế cạnh tranh xuất khẩu sầu riêng ở mức rất cao. 
Năng lực cạnh tranh và lợi thế xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam đang ngày càng gia tăng, 
tuy nhiên, vẫn thấp hơn rất nhiều so với Thái Lan. Ngoài ra, thực tế Việt Nam sẽ tiềm ẩn 
rủi ro suy giảm lợi thế cạnh tranh xuất khẩu sầu riêng nếu vẫn tiếp tục tập trung vào một 
số thị trường truyền thống.
Thứ tư, Việt Nam không bị bất lợi thế về thuế quan so với các đố thủ cạnh tranh xuất 
khẩu sầu riêng tại Đài Loan. Tuy nhiên, các quy định về kiểm dịch động thực vật (SPS) và 
tiêu chuẩn kĩ thuật (TBT) là rào cản thương mại lớn nhất đối với sầu riêng tại thị trường 
Đài Loan. Đặc biệt, trong bối cảnh Đài Loan và thế giới đang phải đối mặt với Covid -19 
và giai đoạn sau này, các quốc gia sẽ có xu hướng gia tăng bảo hộ bằng tăng cường các 
hàng rào phi thuế quan.
4.4.2 Kinh nghiệm của Thái Lan tại thị trường Đài Loan
Sầu riêng của Thái Lan luôn giữ vững vị thế số một trong thị trường sầu riêng thế giới 
về chất lượng và số lượng. Là quốc gia cung ứng sầu riêng lớn nhất cho các thị trường 
nhập khẩu khó tính như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản đã minh chứng cho chất lượng sản phẩm 
đạt chuẩn của nước này. Sầu riêng Thái Lan được phân loại thành 4 loại: Loại đặc biệt - 
sầu riêng có chất lượng cao, yêu cầu trọng lượng lên đến 4 ki-lô-gam, hình thức bên ngoài 
đẹp và thường được xuất khẩu sang Nhật Bản và Đài Loan; loại AB - sầu riêng có chất 
lượng tốt và đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, thường được xuất khẩu sang Trung Quốc và các thị 
trường không quá khắt khe về chất lượng; loại C - sầu riêng có chất lượng thấp hơn, xuất 
143Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
khẩu sang In-đô-nê-xi-a khi nước này vào trái vụ; và loại cuối cùng - sầu riêng không đạt 
tiêu chuẩn, thường được vận chuyển đến các nhà máy để tiếp tục chế biến hoặc bán cho 
các nước láng giềng hoặc tại thị trường nội địa của Thái Lan.
Để được phép xuất khẩu, sầu riêng Thái Lan phải tuân thủ ít nhất hai tiêu chuẩn cơ bản: 
Tiêu chuẩn thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) và Tiêu chuẩn thực hành sản xuất 
tốt, áp dụng đối với cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm (Good Manufacturing Practices 
- GMP). Dựa theo các quy định của Thái Lan, để xuất khẩu sầu riêng tươi, nông dân cần 
tuân thủ tiêu chuẩn GAP. Cục Khuyến nông Thái Lan là cơ quan quản lý có trách nhiệm 
tăng cường kiến thức và đánh giá thực hành cơ bản từ các hộ nông dân trồng sầu riêng, sau 
đó, họ sẽ liệt kê những nông dân được phê duyệt và gửi danh sách đó cho Bộ Nông nghiệp 
để chứng nhận GAP. Ngoài ra, nông dân Thái Lan có thể liên hệ với Sở Nông nghiệp trực 
tiếp thực hiện các hoạt động đánh giá nuôi trồng và thủ tục để có được chứng nhận phê 
duyệt. Đối với những loại trái cây có mùa vụ dài như sầu riêng, chứng nhận GAP sẽ có 
hiệu lực trong ba năm, sau đó phải làm mới chứng nhận. Đối với GMP, tiêu chuẩn dành 
cho các nhà máy chế biến và đóng gói hoạt động trong việc xuất khẩu trái cây, nằm trong 
kiểm soát của Bộ Nông nghiệp Thái Lan. Để đáp ứng được tiêu chuẩn GMP, các nhà máy 
chế biến và đóng gói chỉ chấp nhận sầu riêng từ các trang trại được chứng nhận GAP trước 
khi tiến hành các bước tiếp theo (Wannarat & Nattapon, 2018).
Có thể thấy, sầu riêng Thái Lan được phép xuất khẩu ra nước ngoài và vào thị trường 
Đài Loan, các cơ quan quản lý nông nghiệp và chất lượng của Thái Lan luôn yêu cầu khắt 
khe về phân loại, quy hoạch vùng nuôi trồng, quy trình và chất lượng trồng sầu riêng để 
đảm bảo chất lượng và thương hiệu sầu riêng đáp ứng các yêu cầu về hàng rào phi thuế 
quan ở các thị trường nước ngoài, trong đó có Đài Loan.
4.4.3 Một số gợi ý chính sách đối với Việt Nam
Một là, nhà nước và doanh nghiệp xuất khẩu cần tăng cường công tác nghiên cứu thị 
trường Đài Loan để có thể kết nối và đẩy mạnh xuất khẩu sầu riêng sang thị trường tiềm 
năng này nhằm tận dụng cơ hội và lợi thế hiện tại hơn so với Thái Lan.
Hai là, doanh nghiệp cần lưu ý rằng giá cả xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan đang tăng 
lên và của Việt Nam đang thấp hơn so với Thái Lan. Do đó, Thái Lan có thể nhập khẩu từ 
Việt Nam và tái xuất khẩu sang Đài Loan và các thị trường khác. Với kinh nghiệm và năng 
lực tốt trong hoạt động xuất khẩu sầu riêng của Thái Lan, cách thức này sẽ làm phương 
hại đến hoạt động xuất khẩu và giảm thị phần xuất khẩu của Việt Nam tại các thị trường 
tiềm năng.
Giá cả và chất lượng đang là một yếu tố cạnh tranh cao của sầu riêng Việt Nam so với 
Thái Lan tại thị trường Đài Loan. Do đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt 
Nam cần học hỏi kinh nghiệm của Thái Lan trong xây dựng quy hoạch, chiến lược trồng 
và phân loại sầu riêng nhằm nâng cao chất lượng và thương hiệu sầu riêng trong nước. Các 
hộ nông dân cần tăng cường quy mô trồng, áp dụng các biện pháp và tiêu chuẩn trồng sầu 
144 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
riêng tiên tiến nhất, cải thiện hệ thống phân phối và logistics để vừa đảm bảo nâng cao chất 
lượng, tiêu chuẩn đáp ứng được yêu cầu và rào cản từ thị trường mà giá cả lại vẫn có thể 
cạnh tranh được với đối thủ của mình trên thị trường quốc tế. Chất lượng, quy trình và 
kĩ thuật trồng sầu riêng, phân loại sầu riêng theo các mức độ yêu cầu khắt khe của các thị 
trường là một bài học quan trọng từ Thái Lan có thể giúp sầu riêng Việt Nam vượt qua các 
hàng rào phi thuế quan tại các thị trường khó tính, trong đó có Đài Loan.
Nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh xuất khẩu của sầu riêng, Việt Nam cần đa dạng 
hóa thị trường xuất khẩu sầu riêng nhằm tránh phụ thuộc vào một hoặc một số thị trường 
truyền thống và trọng yếu. Bên cạnh đó, chất lượng, giá cả và thương hiệu là ba yếu tố 
quan trọng khác Việt Nam cần đảm bảo và duy trì nhằm đảm bảo năng lực cạnh tranh và 
có thể gia tăng vượt trội so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đặc biệt là thị 
trường Đài Loan.
5. Kết luận
Năng lực cạnh tranh sầu riêng xuất khẩu của Việt Nam đang ở mức rất cao và ngày càng 
gia tăng, tuy nhiên vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro suy giảm, bởi vì chủ yếu vẫn phụ thuộc vào 
một số thị trường truyền thống. Đài Loan là một thị trường rất tiềm năng đối với hoạt động 
xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam. Tại thị trường này, so với đối thủ cạnh tranh, mặc dù 
quy mô xuất khẩu còn thấp hơn so với Thái Lan, nhưng Việt Nam đang ngày càng chiếm 
lĩnh thị trường sầu riêng Đài Loan bằng giá cả và chất lượng. Năm 2018 là năm đánh dấu 
gia tăng vượt trội của giá trị, kim ngạch và giá cả xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam sang 
thị trường Đài Loan trong 5 năm gần đây. Đây là một dấu hiệu tích cực và là tiền đề để 
Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu nông sản này.
Tài liệu tham khảo
AIT Taipei AGR và ATO. (2019), Taiwan food and agricultural import regulations and standards 
report, GAIN Report, United States Department of Agriculture.
Balassa, B. (1965), “Trade liberalisation and revealed comparative advantage, wiley online library”, 
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/epdf/10.1111/j.1467-9957.1965.tb00050.x, truy cập 
20/12/2019.
Báo Thanh niên. (2019), “Indonesia hạn chế nhập khẩu sầu riêng Thái Lan”, https://thanhnien.vn/tai-
chinh-kinh-doanh/indonesia-han-che-nhap-khau-sau-rieng-thai-lan-695863.html, truy cập 
ngày 25/12/2019.
Bureau of Animal and Plant Health Inspection and Quarantine. (2019), Plant Protection and 
Quarantine Act, Taipei Bureau of Animal and Plant Health Inspection and Quarantine.
Cục Trồng trọt. (2018), “Năm 2018, tăng trưởng nông nghiệp cao nhất trong bảy năm qua”, http://
www.cuctrongtrot.gov.vn/TinTuc/Index/4300, truy cập ngày 22/12/2019.
Đoàn, L.M.H. (2012), Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang thị trường Đài Loan, Khóa luận tốt 
nghiệp, Trường Đại học Ngoại thương.
145Số 128 (5/2020) Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
Food and Drug Administration, Department of Health. (2015), Regulations of inspection of imported 
foods and related Products, Taipei Food and Drug Administration, Department of Health.
Macmap. (2020), “Mac Map - market access map”, https://www.macmap.org/, truy cập ngày 
20/3/2020.
Phan, T.H.Y. (2014), Giải pháp hoàn thiện chuỗi cung ứng sầu riêng của huyện Cai Lậy tỉnh Tiền 
Giang, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
Trademap. (2020a), “Trade Map - Trade statistics for international business development”, 
International Trade Center- ITC, https://www.trademap.org/Country_SelProductCountry.
aspx?nvpm= 1%7c704%7c%7c%7c%7c081060%7c%7c%7c6%7c1%7c2%7c2%7c1%7c%
7c2%7c1%7c%7c1, truy cập ngày 01/03/2020.
Trademap. (2020b), “Bilateral trade between Viet Nam and Taipei, Chinese in 2019 - Product: 
081060 Fresh durians”, International Trade Center ITC, https://www.trademap.org/Bilateral.
aspx?nvpm= 1%7c704%7c%7c490%7c%7c081060%7c%7c%7c20%7c1%7c2%7c2%7c1
%7c1%7c1%7c1%7c1%7c1, truy cập ngày 03/03/2020.
Võ, M.S. & Đỗ, V.X. (2016), “Ba quan điểm chính đo lường lợi thế so sánh trong sản xuất - xuất 
khẩu hàng hóa quốc gia”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, Số 44, tr. 114 - 126.
Vũ, T.D. (2009), Phân tích hiệu quả sản xuất và tiêu thụ sầu riêng tỉnh Tiền Giang, Luận văn Thạc 
sỹ, Trường Đại học Cần Thơ.
Wannarat, T. & Nattapon, T. (2018), “Thai export of durian to China”, Impact of Chinas Increasing 
Demand for Agro Produce on Agricultural Production in the Mekong Region, BRC Research 
Report Bangkok Research Center, JETRO Bangkok/IDE-JETRO, https://www.ide.go.jp/
library/English/Publish/Download/Brc/pdf/21_05.pdf , truy cập ngày 20/02/ 2020.
146 Số 128 (5/2020)Tạp chí Quản lý và Kinh tế quốc tế
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
day_manh_xuat_khau_sau_rieng_cua_viet_nam_sang_thi_truong_da.pdf