Khoản mục tiền tệ luôn luôn được coi là có tính chất trọng yếu trong doanh nghiệp, tất cả các thay đổi về tiền cần phải được theo dõi chặt chẽ và phản ánh trên tài khoản tiền cũng như việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nhưng để hiểu rõ về tình hình tài chính của doanh nghiệp thì nên chú ý đến phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp .
Với khuôn khổ một đề án môn học em xin được trình bày những hiểu biết của mình về đề tài: “Bàn về báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ”. Việc nghiên cứu trên đã giúp em hiểu được cách lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp . Vì thời gian, thông tin, trình độ còn hạn chế nên việc thực hiện đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót.
37 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1796 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về báo cáo lưu chuyển tiền tệ và việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa là luồng tiền mà doanh nghiệp chi trả ít hơn so với số nợ, tăng vốn lưu động bằng chiếm dụng tiền của người bán nên cần phải được cộng vào chỉ tiêu “Vốn kinh doanh trước những thay đổi của vốn lưu động” và sẽ trừ nếu các khoản mục này giảm do doanh nghiệp đã trả các khoản nợ của mình làm giảm luồng tiền từ hoạt động kinh doanh
+ Còn theo phương pháp trực tiếp thì các khoản mục đã có sự phân biệt rõ ràng bằng các từ “thu”,”chi”, “đã trả”, nó thể hiện dòng tiền ra và vào doanh nghiệp từ các hoạt động khác nhau nhưng dòng chi được ghi âm, dòng thu được ghi dương khi tính lưu chuyển tiền thuần từng hoạt động
+ Chỉ tiêu lưu chuyển tiền thuần ở hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài chính, nếu là số dương thì thể hiện dòng thu lớn hơn dòng chi ra, nếu là số âm thì thể hiện việc chi tiêu qúa mức thu vào.
+ Chỉ tiêu “Tiền và tương đương tiền đầu kì”, “Tiền và tương đương tiền cuối kì” phản ánh số dư đầu kì, cuối kì của các tài khoản “Tiền mặt”, “Tiền gửi ngân hàng”, “Tiền đang chuyển” và các khoản “Đầu tư chứng khoán ngắn hạn ”, “Chênh lệch ảnh hưởng thay đổi tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ” phản ánh tổng số chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại số dư của tiền và các khoản tương đương bằng ngoại tệ tại thời điểm cuối kì báo cáo. Nó được ghi số dương khi tỷ giá cuối kì cao hơn trong kì nghĩa là giá trị của các khoản ngoại tệ được đánh giá tăng thêm so với trong kì, và nó được ghi âm khi tỷ giá hối đoái cuối kì nhỏ hơn tỷ giá trong kì.
Mẫu lập BCLCTT theo quy định của Bộ Tài chính (trang sau)
b. Phương pháp kiểm tra BCLCTT
BCLCTT là tổng hợp các chỉ tiêu theo các tính chất, sắp xếp nó theo từng hoạt động của doanh nghiệp, giữa các chỉ tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, từ đó người ta sử dụng các mối quan hệ này để kiểm tra việc lập BCLCTT. Thêm nữa, BCLCTT nằm trong hệ thống báo cáo tài chính, nguồn số liệu của nó được lấy từ các báo cáo tài chính khác, từ sổ sách kế toán do đó mà giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ qua lại mặc dù về cách lập và đối tượng lập có khác nhau. Điều này thuận lợi cho việc kiểm tra các thông tin trên BCLCTT
Mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trên cùng báo cáo lưu chuyển tiền tệ
Theo phương pháp gián tiếp
Chỉ tiêu “Lợi nhuận kinh doanh trước những thay đổi của vốn lưu động” được lập căn cứ vào chỉ tiêu “Lợi nhuận trước thuế” cộng hoặc trừ với những khoản điều chỉnh không trực tiếp thu chi bằng tiền. Bởi vậy chỉ tiêu này có quan hệ chặt chẽ với số khấu hao TSCĐ, với chi phí dự phòng, chênh lệch tỷ giá hối đoái chưa thực hiện, lãi lỗ hoạt động đầu tư, chi phí lãi vay
Chỉ tiêu “Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động sản xuất, kinh doanh” phản ánh số chênh lệch giữa tổng số tiền thu vào với tổng số tiền chi ra từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong kì. Chỉ tiêu này được xác định bằng cách lấy “Lợi nhuận trước những thay đổi của vốn lưu động’’ trừ hoặc cộng các khoản vốn lưu động thay đổi.
Việc tăng các khoản phải thu, hàng tồn kho, tăng chi phí trả trước thì có nghĩa là lượng tiền ra của doanh nghiệp tăng lên như vậy lưu chuyển tiền thuần của hoạt động kinh doanh sẽ giảm đi vì lượng vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng, tồn đọng tăng lên và ngược lại.
Theo phương pháp trực tiếp thì lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh sẽ bằng tiền thu từ bán hàng, cung cấp dịch vụ và doanh thu khác, tiền thu khác trừ đi các khoản chi trả người cung cấp hàng hoá, dịch vụ, người lao động, trả lãi vay, nộp thuế thu nhập doanh nghiệp , chi khác từ hoạt động kinh doanh
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào số tiền thu vào, chi ra thuộc hoạt động đầu tư trong kì
Ngay cả việc chi để mua sắm tài sản, xây dựng TSCĐ và tài sản dài hạn khác thì có thể cũng dẫn đến việc tiền thu từ thanh lý nhượng bán TSCĐ và tài sản dài hạn khác do doanh nghiệp đầu tư tiền mua, lắp đặt dây chuyền công nghệ mới và thay thế các công nghệ cũ và cũng nảy sinh thêm các khoản vay bên ngoài.
Nếu doanh nghiệp đầu tư góp vốn vào đơn vị khác, tiền cho vay, mua cổ phiếu của doanh nghiệp khác ở kì trước thì kì này tiền lãi cho vay, cổ tức, lợi nhuận được chia của doanh nghiệp sẽ tăng.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động tài chính là sự chênh lệch giữa số tiền thu vào và chi ra thuộc hoạt động tài chính trong kì. Nếu doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp liên doanh ở kì trước thì kì này doanh nghiệp sẽ phải tính mức cổ tức lợi nhuận trả cho chủ sở hữu làm luồng tiền chi ra tăng ở hoạt động tài chính
Bên cạnh đó ở chỉ tiêu “Tiền vay ngắn hạn, dài hạn nhận được” nếu kì trước doanh nghiệp tăng các khoản vay thì luồng tiền vào các hoạt động đầu tư tăng nhưng cũng tăng lượng tiền ra ở các hoạt động kinh doanh do phải trả lãi vay ở trong kì đó.
Nếu doanh nghiệp dùng tiền do nhận vốn góp của các chủ sở hữu để mua sắm tài sản cố định ngay thì sẽ có sự thanh toán bù trừ giữa luồng tiền vào ở hoạt động tài chính và luồng tiền ra ở hoạt động đầu tư.
Lưu chuyển tiền thuần trong kì chính là kết quả tổng hợp của lưu chuyển tiền thuần từ 3 mặt hoạt động của doanh nghiệp
Chỉ tiêu “Tiền và tương đương tiền cuối kì” trừ đi các khoản tiền và tương đương tiền đầu kì và cộng, trừ ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ chính là lượng tiền thuần trong kì, là lượng tiền phát sinh trong kì của doanh nghiệp .
Như vậy trong cùng một BCLLTT thì các chỉ tiêu có mối quan hệ chặt chẽ, khăng khít với nhau. Ta thấy luồng tiền các doanh nghiệp tăng hay giảm trong kì này không chỉ là do ảnh hưởng của các quyết định kinh doanh của doanh nghiệp ở hiện tại mà còn do cả các quyết định trong quá khứ nữa.
- Mối quan hệ giữa BCLCTT với các báo cáo tài chính khác
BCLCTT được lấy nguồn số liệu từ các báo cáo tài chính khác do đó BCLCTT có mối quan hệ chặt chẽ với các báo cáo tài chính khác
+ Chỉ tiêu “Lợi nhuận trước thuế” được lấy từ chỉ tiêu tổng lợi nhuận trước thuế trên Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh trong kì báo cáo
+ Chỉ tiêu “Khấu hao tài sản cố định” được lấy từ số khấu hao tài sản cố định đã trích trong kì trên bảng tính và phân bổ khấu hao. Tài sản cố định và chỉ tiêu “Chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố” và chỉ tiêu “ Chi phí khấu hao tài sản cố định” trên Thuyết minh báo cáo tài chính.
+ Chỉ tiêu “Chi phí lãi vay” được lấy số liệu từ chỉ tiêu “Chi phí lãi vay” trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh.
+ Chỉ tiêu “Tiền và tương đương tiền đầu kì”, “Tiền và tương đương tiền cuối kì” được lập căn cứ vào số dư đầu kì và cuối kì của chỉ tiêu “Tiền” gồm: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển của Bảng cân đối kế toán và số dư của khoản tương đương tiền đầu kì, cuối kì trên sổ kế toán chi tiết tài khoản “Đầu tư chứng khoán ngắn hạn”
+ Chỉ tiêu ‘Tăng giảm các khoản phải thu” bằng tổng số chênh lệch đầu kì và cuối kì của chỉ tiêu “Phải thu khách hàng” và “Trả trước cho người bán” và các khoản phải thu khác: “Tạm ứng”, “ Thuế giá trị gia tăng được khấu trừ” trên Bảng cân đối kế toán,
+ Chỉ tiêu “Tăng giảm chi phí trả trước” bằng tổng số chênh lệch đầu kì và cuối kì của chỉ tiêu “Chi phí trả trước dài hạn” và “Chi phí trả trước” trên Bảng cân đối kế toán.
3.Các chỉ tiêu phân tích tài chính thông qua BCLCTT và việc sử dụng BCLCTT trong các hoạt động quản lí doanh nghiệp
Mục đích chính, quan trọng mà mỗi doanh nghiệp đều chú ý là lợi nhuận kinh doanh và khả năng chi trả. Với Báo cáo kết quả kinh doanh chỉ ra những thành công và thất bại của doanh nghiệp . Và với Bảng cân đối kế toán ta cũng thấy được khả năng chi trả của doanh nghiệp qua các chỉ tiêu tổng tài sản lưu động, nợ ngắn hạn…Tuy nhiên để đánh giá chính xác về khả năng thanh toán, về lượng tiền mà doanh nghiệp thu được trong một kì từ những nguồn gốc nào, chi phí nào phát sinh trong năm và phát sinh nhiều nhất ở hoạt động nào…thì chúng ta cần tiến hành hoạt động phân tích tài chính đối với báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nội dung của phân tích BCLCTT là phân tích các hệ số dòng tiền và dự báo kế hoạch tiền tệ
a. Việc phân tích tình hình tài chính trong doanh nghiệp thông qua việc phân tích hệ số dòng tiền
- Nguyên tắc phân tích BCLCTT là nên xem xét trong hệ thống báo cáo liên tục, không nên dừng lại ở một báo cáo. Việc BCLCTT trong nhiều kì liên tiếp sẽ tạo ra một cái nhìn sâu sắc và toàn diện về tình hình tài chính doanh nghiệp , đây chính là nguyên tắc hoạt động liên tục của kế toán. Chúng ta phải chú ý đến việc phân tích các dòng tiền tệ trong mối liên hệ giữa các hoạt động. Đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh thì lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh là lớn nhất và phải là dòng tiền dương thì doanh nghiệp làm ăn mới có hiệu quả. Dòng tiền thu từ hoạt động kinh doanh sẽ duy trì các hoạt động của doanh nghiệp, và có thể kéo theo các hoạt động khác từ đầu tư và tài chính. Dòng tiền thuần từ hoạt động đầu tư, tài chính là âm thì vẫn có thể chấp nhận được tuỳ theo tình hình hoạt động cụ thể của doanh nghiệp . Một điểm nữa là khi phân tích BCLCTT thì chún ta cần phân tích nó gắn liền với những báo cáo khác để có cái nhìn tổng quát nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp .
- Phân tích các hệ số dòng tiền: là việc phân tích các hệ số dòng tiền của từng hoạt động so với tổng dòng tiền vào. Phân tích hệ số thanh toán của doanh nghiệp , phân tích hệ số dòng tiền ra để trả cổ tức so với dòng lưu chuyển dòng từ hoạt động kinh doanh.
Hệ số dòng tiền từ hoạt động kinh doanh so với tổng dòng tiền vào.
Hệ số này nêu ra tỷ trọng tạo ra nguồn tiền từ hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp . Chỉ tiêu này được xác định trên cơ sở là dòng tiền thu vào của hoạt động kinh doanh. So với tổng các dòng tiền có được trong kì của doanh nghiệp . Thông thường tỷ lệ này chiếm rất cao (trên 80%) và là nguồn tiền chủ yếu chi trả cho các hoạt động đầu tư dài hạn và trả cổ tức cũng như các khoản vay ngắn hạn, dài hạn. Tỷ lệ này thể hiện ở các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trong kì cao, thu hồi được khoản nợ nhiều, chi phí thấp, điều này tạo ra sự ân tâm cho người quản lí về tình hình thanh toán nợ, sản xuất kinh doanh và tiêu thụ của doanh nghiệp . Đối với các nhà đầu tư thì tỷ lệ này cao khiến họ tin tưởng vào tình hình tài chính của công ty, an tâm về mức độ cổ tức kì vọng được chia trong tương lai sẽ cao và đầu tư vào doanh nghiệp nhiêu tiền hơn. Tuy nhiên khi phân tích cần phải xem xét các hệ số kì báo cáo so với kì trước để thấy xu hướng tăng trưởng hay mức độ ổn định và so sánh với các doanh nghiệp tiêu biểu của ngành về đặc điểm dòng lưu ngân.
(2). Hệ số dòng tiền từ hoạt động đầu tư so với tổng dòng tiền vào
=
Doanh nghiệp thường đầu tư vào các lĩnh vực dài hạn như mua sắm, xây dựng tài sản cố định, các tài sản dài hạn khác, mua các công nợ của các đơn vị khác, góp vốn liên doanh… nhằm mục đích thu lợi từ các khoản tiền nhàn rỗi tạm thời chưa sử dụng đến. Hệ số dòng tiền từ hoạt động đầu tư so với tổng dòng tiền thể hiện khả năng tạo tiền từ hoạt động đầu tư. Tuỳ từng điều kiện kinh doanh, chiến lược kinh doanh, các khoản đầu tư đến hạn thu hồi mà các hệ số này có sự thay đổi. Vì nếu hệ số này cao chứng tỏ dòng thu tiền từ hoạt động đầu tư cao, doanh nghiệp nhận được tiền thu từ việc thanh lí, nhượng bán tài sản cố định thu hồi vốn vay, thu lãi cho vay. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã tối thiểu được chi phí sử dụng vốn, tận dụng các khoản tiền nhàn rỗi, thu lợi từ hoạt động đầu tư. Và nếu thu được luồng tiền lớn từ hoạt động đầu tư mà chưa có kế hoạch tái đầu tư thì doanh nghiệp nên sử dụng để trả các khoản nợ dài hạn, ngắn hạn nhằm giảm chi phí vay. Nhưng chúng ta cần chú ý là hệ số này cao do luồng thu nhập từ hoạt động nào, nếu là hoạt động thanh lí, nhượng bán tài sản cố định thì có thể doanh nghiệp đang bán các tài sản cố định để trang trải các chi phí khác do làm ăn không có lãi.
(3).Hệ số dòng tiền vào từ hoạt động tài chính so với tổng dòng tiền vào
=
Dòng tiền vào và ra của hoạt động tài chính tương ứng với nghiệp vụ tăng, giảm các khoản phải vay, phát hành cổ phiếu, mua lại trái phiếu, cổ phiếu, trả cổ tức, lợi nhuận giữ lại. Nếu lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh không đáp ứng đủ nhu cầu tiền cho hoạt động đầu tư buộc doanh nghiệp phải huy động từ hoạt động tài chính. Hệ số này phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tạo tiền từ hoạt động kinh doanh. Chủ nợ và các nhà đầu tư sẽ rất lo sợ khi quyết định đầu tư vào một doanh nghiệp mà không tạo đủ tiền từ hoạt động kinh doanh vì có liên quan đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp với các khoản nợ, tiền trả lãi vay.Tuy nhiên, muốn thu hút được nguồn thu từ hoạt động tài chính tốt ngoài việc tạo ra nguồn tiền dương từ hoạt động kinh doanh, cần chú ý đến nhu cầu tiền mặt của doanh nghiệp dù trả nợ vay, đầu tư mua sắm, xây dựng tài sản cố định để cân đối các nguồn nay một cách hợp lí. Nếu tỷ trọng này âm chứng tỏ doanh nghiệp đã trả được nợ nhiều hơn khoản đi vay, không vay mới hoặc trả được các khoản lãi, cổ tức trong kì hay tình hình tài chính của công ty rất lành mạnh, an toàn cho đầu tư.
Hệ số dòng tiền của hoạt động kinh doanh so với tổng dòng tiền thu phải là lớn nhất thì mới chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Nếu hệ số dòng tiền của hoạt động đầu tư và tài chính chiếm tỷ trọng lớn thì doanh nghiệp và người cho vay cần phải tìm hiểu nguyên nhân, kiểm tra lại tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nhất là hoạt động kinh doanh để có nhứng điều chỉnh cho hợp lí
(4). Hệ số thanh toán của doanh nghiệp
Các chủ nợ, nhà cho vay và những nhà đầu tư đặc biệt quan đến hệ số này vì nó cung cấp nhiều thông tin về khả năng trả nợ thực tế của doanh nghiệp hơn so với hệ số thanh toán nhanh và tỷ số thanh toán hiện hành. Nó gồm:
Hệ số thanh toán tức thời
=
Hệ số thanh toán tức thời chỉ ra rằng doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán nợ hay không từ lượng tiền thu ở hoạt động kinh doanh. Hệ số này càng cao thì khả năng chi trả nợ càng tốt, điều này là rất hợp lí do các khoản vay ngắn hạn có thể đáp ứng được nhu cầu thiếu tiền mặt tạm thời, nó hay dùng để mua nguyên vật liệu, trả các chi phí kinh doanh. Do vậy lượng tiền thuần thu từ hoạt động kinh doanh nhất thiết phải trả được các khoản nợ trên. Hệ số này càng cao thì chứng tỏ tình hình tài chính của công ty rất tốt do công ty có khả năng thanh toán nợ cao và ít nhất không phải đi vay vốn bên ngoài do hoạt động kinh doanh đã đáp ứng được các nhu cầu về vốn cho sản xuất
=
Hệ số này chỉ ra cụ thể hơn cho chúng ta về tình hình doanh nghiệp có đủ khả năng chi trả lãi hay không, các khoản lãi vay ngắn hạn và dài hạn đều nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư vì vậy mà điều quan trọng nhất ở đây là lượng tiền từ hoạt động kinh doanh sẽ bù đắp được gấp bao nhiêu lần so với chi phí lãi vay. Nếu hệ số này thấp chứng tỏ chi phí lãi vay cao, doanh nghiệp có rất nhiều khoản lãi vay do đó nó ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp hiện nay và khả năng thanh toán trong tương lai. Chi phí này thấp làm giảm hứng thú cho các nhà đầu tư vào doanh nghiệp , khi họ thấy được một tình hình tài chính không lấy gì làm khả quan lắm, đồng vốn đầu tư của họ đầy biến động, mức trả cổ tức thấp.
(5) . Hệ số dòng tiền ra để trả nợ dài hạn so với tổng dòng tiền vào
=
Người ta còn quan tâm đến chỉ tiêu này vì nó gắn liền với một chiến lược nào đó của doanh nghiệp . Trả nợ dài hạn đến với các khoản nợ chưa đến hạn trả làm hệ số dòng tiền tăng cao. Thông thường tỷ lệ thanh toán này rất thấp (từ 5%- 10%) và mang tính ổn định qua các năm. Nhưng hệ số này cao chứng tỏ doanh nghiệp có tình hình tài chính khá tốt vì doanh nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ dài hạn, làm giảm chi phí lãi vay. Tuy vậy ta cần chú ý một điều là có thể doanh nghiệp kiếm một khoản nợ dài hạn khác để trả cho khoản nợ dài hạn sắp đến hạn trả của doanh nghiệp thì hệ số này có thể có sự xê dịch đôi chút. Do đó hệ số này thay đổi đột ngột thì cần quan tâm tìm hiểu nguyên nhân.
(6). Phân tích triển vọng tương lai của doanh nghiệp và khả năng về tình hình tài chính để doanh nghiệp hoạt động liên tục
Một trong các vấn đề cần chú ý khi phân tích tài chính doanh nghiệp đó là doanh nghiệp có khả năng hoạt động liên tục hay không, các chiến lược phát triển của doanh nghiệp như thế nào? Vì các nhà đầu tư, người cho vay mong muốn đồng vốn đầu tư của họ được bảo toàn, phát triển và đem lại lợi ích trong tương lai. Để đánh giá hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai thì người ta sử dụng hai chỉ tiêu: khả năng chi trả và khả năng sinh lời. Để trả lời các vấn đề trên thì người ta dùng các chỉ tiêu:
Hệ số tài trợ
Hệ số tài trợ =
Hệ số này thể hiện một điều là doanh nghiệp có sẵn vốn để đầu tư phát triển hay không. Chỉ tiêu càng lớn càng tốt, nó chứng tỏ việc đầu tư cho tài sản chủ yếu là lấy từ vốn doanh nghiệp mà không cần nguồn tài trợ, nó chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng mở rộng phát triển và sản xuất kinh doanh đến đâu
Hệ số dòng tiền ra để trả cổ tức so với dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh
=
Các nhà đầu tư, cổ đông rất quan tâm đến chỉ tiêu này vì nó thể hiện hiệu quả kinh doanh làm ăn có lãi của doanh nghiệp . Bởi vì doanh nghiệp làm ăn có lãi thì cổ tức trả cho cổ đông mới cao được và khuyến khích cổ đông góp vốn vào công ty. Đây là chiến lược của công ty vì có liên quan đến việc bổ sung nguồn vốn, nhu cầu đầu tư, uy tín của công ty. Tuy nhiên, các nhà đầu tư cũng phải thật cảnh giác vì hệ số này cao thì mức trả cổ tức cao nhưng có phải thực sự mức lợi nhuận được chia lấy từ hoạt động kinh doanh không, để dám chắc doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Vì có thể doanh nghiệp đi vay từ các nguồn khác để trả cổ tức cao nhằm thu hút vốn đầu tư vào doanh nghiệp mà thực sự làm ăn không có lãi.
- Tỷ số trả hết các khoản nợ
=
Tỷ số này thể hiện khoản nợ phải trả có lấy từ thu nhập hoạt động kinh doanh hay không và cũng thể hiện lượng thời gian cần thiết để trả hết các khoản nợ này. Trong một doanh nghiệp thì thường tỷ số này nhỏ hơn 1 vì lượng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh khó có thể bù đắp hết các khoản nợ được. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ tình hình tài chính công ty rất tốt và gây niềm tin cho các nhà đầu tư, người cho vay, ngân hàng… khi thấy doanh nghiệp làm ăn có lãi, đủ sức trả hết các khoản nợ và tình hình tài chính chuyển biến có lợi.
Phân tích trực tiếp các khoản chi bằng tiền từ các dòng doanh thu trong kì
Tiền chi cho từng nội dung phát sinh trong kỳ
Tổng dòng thu tiền trong kỳ
Chỉ tiêu này được xác định như sau:
=
Tổng dòng tiền thu vào trong kì có thể là lượng tiền thuần xác định cho từng hoạt động hay cho cả ba hoạt động. Từ đó ta có thể có các chỉ số sau:
.Hệ số tiền mặt dùng mua sắm tài sản cố định
.Hệ số tiền mặt thanh toán cả gốc và lãi vay trong kì
.Hệ số tiền mặt thanh toán nợ ngắn hạn ( hoặc nợ dài hạn )
Hệ số này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp đã chi dùng nhiều tiền cho các nội dung này. Tuỳ theo tình hình kinh doanh, chiến lược phát triển của doanh nghiệp , các khoản nợ đến hạn thanh toán mà ta có thể đánh giá các tỷ lệ này cao thấp là tốt hay xấu phù hợp với tình hình thực tế. Bởi nếu doanh nghiệp có ý định phát triển sản xuất thì tỷ số tiền mặt đầu tư cho tài sản cố định là cao như các doanh nghiệp sản xuất, bán hàng là chính thì tỷ lệ này thường là chiếm 30% - 40% nếu doanh nghiệp đang tiến hành đổi mới trang thiết bị máy móc, nhưng các doanh nghiệp thương mại thì thường rất thấp do nhu cầu về vốn lưu động cao. Nhưng cần chú ý là đầu tư cho TSCĐ có sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh hay không, hay chi dùng cho những tài sản khác. Tỷ số tiền mặt thanh toán cả gốc và lãi vay trong kì, hay thanh toán các khoản nợ ngắn hạn (dài hạn) nhìn chung cao là chứng tỏ doanh nghiệp có khả năng thanh toán tốt. Nhưng cũng cần căn cứ vào tổng số tiền thu trong kì từ hoạt động nào để đánh giá cho phù hợp vì có thể doanh nghiệp sẽ đi vay hoặc chiếm dụng vốn của người bán, ngân hàng để trả các khoản nợ đến hạn.
Phân tích trực tiếp khoản tiền thu vào trong tổng số thu trong kì
Số tiền bán hàng thu trong kỳ
Tổng số thu từ hoạt động kinh doanh
=
Hệ số tiền bán hàng
thu vào trong kì
=
Số tiền bán hàng thu đựoc trong kỳ
Tổng doanh thu bán hàng trong kỳ
Hệ số tiền bán hàng thu được trong
tổng doanh thu bán hàng trong kì
Các hệ số trên cho thấy thực tế trong kì doanh nghiệp đã thu được bao nhiêu tiền từ việc bán hàng hoá hay nói cách khác là cách quản lý nợ phải thu của doanh nghiệp có tốt không. Hệ số tiền bán hàng thu vào trong kì cho chúng ta thấy được phần tiền thu từ bán hàng hoá trong kì của doanh nghiệp có chiếm tỷ lệ bao nhiêu, thường ở các doanh nghiệp hệ số này rất cao trên 80%, nó thể hiện hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệpcó tốt không. Hệ số tiền bán hàng thu được trong tổng doanh thu bán hàng trong kì là một chỉ tiêu quan trọng cho chúng ta thấy được lượng tiền mà doanh nghiệp thực thu trong kì chiếm bao nhiêu trên tổng doanh thu bán hàng. Chỉ tiêu này cũng chỉ ra có thể doanh nghiệp bán được nhiều hàng, có mức lợi nhuận cao nhưng tình hình thanh toán chưa chắc đã tốt,vì có thể để tăng lượng hàn bán doanh nghiệp chấp nhận cho khách hàng mua chịu nhiều, đây cũng là nguy cơ dẫn đến phá sản doanh nghiệp. Ngược lại nếu hệ số này cao quá chưa chắc đã tốt vì nó cho thấy doanh nghiệp thu được tiền bán hàng ngay nhưng đó là chính sách bán hàng cứng nhắc, khó có khả năng mở rộng thị trường. Các hệ số này ở các loại hình công ty khác nhau thì khác nhau nhưng ở tong doanh nghiệp cụ thể thì các hệ số này có sự thay đổi không đáng kể qua các thời kì.
Các hệ số trên đã đưa ra cho chúng ta một cái nhìn khái quát chung về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chúng ta hiểu được phần nào các chiến lược, kế hoạch phát triển của doanh nghiệp có phù hợp với tình hình thực tế không và hơn nữa tình hình tài chính của công ty có đáng tin cậy không, lành mạnh không mà ra các quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp vào thời điểm này không. Ngoài việc sử dụng các kỹ năng phân tích tài chính như trên thì mục đích sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ là còn lập kế hoạch tiền mặt cho doanh nghiệp . Việc lập này áp dụng cho kế toán quản trị là chủ yếu. Và yêu cầu rất lớn cho việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là các thông tin đưa ra phải xác thực, tin cậy và lập được kế hoạch thu chi tiền cho từng lĩnh vực hoạt động trong tương lai.
b. Dự báo kế hoạch tiền tệ.
Phân tích dự báo kế hoạch tiền tệ còn gọi là hoạch định ngân sách, là việc căn cứ vào kết quả phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ hiện hành để lập kế hoạch thu chi tiền cho từng mặt hoạt động. Việc phân tích dự báo này phụ thuộc vào các giả định có tính khoa học và khả năng phân tích của người làm kế hoạch. Cơ sở để xây dựng kế hoạch tiền tệ là mối liên hệ giữa tiền mặt với các khoản mục khác từ đó đề ra các kế hoạch tài chính ngắn hạn.
- Bản chất mối quan hệ.
Ta có phương trình kế toán cơ bản sau:
Tổng tài sản = Nợ phải trả + Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản = Tài sản lưu động + Tài sản cố định.
Nợ phải trả = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn
Tài sản lưu động + Tài sản cố định = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu
Tiền mặt + Khoản phải thu + Hàng tồn kho + Tài sản cố định = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu,
Nên ta có :
Tiền mặt = Nợ ngắn hạn + Nợ dài hạn + Vốn chủ sở hữu – (Khoản phải thu + Hàng tồn kho + Tài sản cố định)
Như vậy muốn tăng vốn vốn chủ sở hữu thì ta phải tăng tiền mặt tương ứng bằng phát hàng chứng khoán, đi vay. Mặt khác khi tăng khoản mục tài sản nào đó thì lượng tiền mặt sẽ giảm đi. Như vậy lưu lượng tiền mặt tỷ lệ thuận với khoản mục nguồn vốn, tỷ lệ nghịch với khoản mục tài sản. Điều này cũng chỉ ra rằng nhiều khi doanh nghiệp bán được nhiều hàng, có lợi nhuận cao nhưng chưa chắc có khả năng thanh toán tốt. Vì khi bán được hàng, doanh thu được ghi nhận nhưng khách hàng nợ nhiều nhưng lượng tiền thu về không cao, không chi trả được các khoản chi phí sản xuất, hoạt động đầu tư, tài chính. Chất lượng của lợi nhuận được đánh giá qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ là vì vậy.
- Kế hoạch tài chính ngắn hạn:
Kế hoạch tài chính ngắn hạn được lập ra để phục vụ cho một kỳ kinh doanh thường là quý, năm. Thời gian lập càng ngắn thì kế hoạch này càng chính xác và gắn với thực tế nhiều hơn. Bởi vì thị trường kinh doanh cũng như lượng tiền ra vào doanh nghiệp luôn biến động do đó nếu lập trong thời gian ngắn thì càng dễ điều chỉnh.
Kế hoạch tài chính ngắn hạn được dựa trên kế hoạch sản xuất kinh doanh và chỉ tiêu về tài chính tiền tệ thuộc kỳ trước có được thông qua phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Như vậy kế hoạch tài chính ngắn hạn là đưa ra kế hoạch thu chi tiền của doanh nghiệp , đưa ra kế hoạch vay vốn, huy động vốn và sử dụng vốn trong một thời gian ngắn. Kế hoạch tài chính ngắn hạn được lập theo một trình tự các bước sau:
+ Dự báo doanh thu từ sản xuất kinh doanh là dự báo khả năng tiêu thụ sản phẩm, để có kế hoạch chi tiêu cho sản xuất kinh doanh. Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến toàn bộ các chỉ tiêu kế hoạch khác và các dự báo có liên quan khác. Sau đó ta dự báo tiếp các khoản phải thu, phải trả khác trong kỳ tới như thu nợ khách hàng, trả nợ người bán, trả nợ vay căn cứ theo các phương thức thanh toán của hợp đồng kinh tế giữa doanh nghiệp với các bên có liên quan.
+ Lập báo cáo tài chính dự toán gồm bảng cân đối dự toán và báo cáo thu nhập dự toán.
+ Xác định nhu cầu về vốn của doanh nghiệp trong kỳ tới để xem xét doanh nghiệp thừa vốn hay thiếu vốn mà có kế hoạch đầu tư hay bổ sung các nguồn vốn khác một cách hợp lý, khoa học, tối thiểu hoá chi phí sử dụng vốn vay
4. ảnh hưởng của việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ đối với các chính sách tài chính trong và ngoài doanh nghiệp .
ở trên, ta đã phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ thông qua các hệ số dòng tiền, nhưng việc phân tích được sử dụng với mục đích như thế nào lại tuỳ thuộc vào người sử dụng thông tin đó. Nhưng chắc chắn một điều là các quyết định được đề ra nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận, đảm bảo và phát triển nguồn vốn của doanh nghiệp. Ta sẽ xem xét các ảnh hưởng của phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ đối với các chính sách này.
a. Chính sách tỷ giá hối đoái
Trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì các chỉ tiêu liên quan đến tỷ giá hối đoái là “Lãi, lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái chưa thực hiện” và “ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái quy đổi ngoại tệ”. Do phát sinh các quan hệ làm ăn với nước ngoài nên doanh nghiệp cần phải sử dụng đến ngoại tệ. Các luồng tiền phát sinh bằng ngoại tệ được quy đổi ngay ra đồng tiền dùng ghi sổ kế toán tại thời điểm giao dịch. Căn cứ vào sự biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường, căn cứ vào các kế hoạch tài chính ngắn hạn mà doanh nghiệp có quyết định mua thêm ngoại tệ để tích trữ hay không? Vì nếu như đồng Việt Nam có xu hướng giảm giá trị trong thời gian gần đây so với đồng đôla Mỹ thì nếu doanh nghiệp tích trữ được lượng ngoại tệ nhất định sẽ có lợi hơn. Do đó nó ảnh hưởng đến lượng cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Và cũng dựa vào phân tích tài chính mà ngân hàng nhà nước Việt Nam sẽ công bố các tỷ giá liên ngân hàng thực tế hàng ngày. Nhưng doanh nghiệp tuyệt đối không được đầu cơ về ngoại tệ gây rối loạn thị trường mà chỉ nên có khoản dự trữ hợp lý.
b. Chính sách nợ của ngân hàng:
Ngân hàng với tư cách là nhà đằu tư luôn quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trước, trong và sau khi vay. Việc phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ chỉ ra được doanh nghiệp tạo được tiền từ hoạt động sản xuất kinh doanh hay không, doanh nghiệp thừa thiếu tiền trong lĩnh vực hoạt động nào, nguyên nhân và các giải pháp khắc phục. Ngân hàng đề ra đối tượng cho vay hoặc xác định thời gian cho vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm bổ sung lượng tiền thiếu.
Khi doanh nghiệp đệ trình kế hoạch xin vay vốn lên ngân hàng thì điều đầu tiên là ngân hàng cần xem doanh nghiệp vay để sử dụng cho mục đích gì ? Nếu là mua tài sản cố định, trả các chi phí trước dài hạn thì ngân hàng sẽ cho doanh nghiệp vay các khoản trung, dài hạn. Nếu vay tiền để đáp ứng nhu cầu kinh doanh theo thời vụ thì ngân hàng có thể cho doanh nghiệp vay ngắn hạn giúp doanh nghiệp giải quyết khó khăn tạm thời. Hoặc các doanh nghiệp đã sử dụng các nguồn vốn vay ngắn hạn vào đầu tư tài sản cố định và tài sản dài hạn thì khi đến hạn trả nợ ngắn hạn, doanh nghiệp buộc phải vay đảo vốn hoặc tăng cường chiếm dụng vốn của người bán thì ngân hàng có thể xác định lại kỳ hạn nợ, gia hạn nợ cho doanh nghiệp nhưng ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp .
Với các chỉ tiêu về khả năng tạo tiền, khả năng thanh toán của doanh nghiệp , báo cáo lưu chuyển tiền tệ sẽ cung cấp cho ngân hàng các thông tin về tình hình kinh doanh của doanh nghiệp có khả quan hay không, có phát sinh các khoản phải thu khó đòi hay không mà ngân hàng mới quyết định cho doanh nghiệp vay vốn thêm.
c. Chính sách bảo toàn và phát triển vốn
Chính sách này là biện pháp để bảo vệ lợi ích của nhà nước và các chủ đầu tư đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp ổn định và phát triển kinh doanh, đảm bảo thu nhập cho người lao động. Dựa trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ đặc biệt là các hệ số dòng tiền hoạt động kinh doanh so với tổng dòng tiền thu vào để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mà từ đó yêu cầu doanh nghiệp phải sử dụng vốn đúng mục đích và có hiệu quả. Nếu thấy sai phạm các chủ sở hữu sẽ ra quyết định buộc giám đốc doanh nghiệp phải thu hồi các nguồn vốn đầu tư sai và xử lý sai phạm.
d. Chính sách bán chịu của doanh nghiệp :
Bán chịu cho khách hàng là một hình thức có thể làm tăng khối lượng hàng bán ra nhưng lại dẫn đến nhiều rủi ro tài chính do các khoản nợ khó đòi lớn hơn số tiền mang lại do tăng lượng hàng bán ra.
Các khoản nợ sẽ ảnh hưởng đến chỉ tiêu “tăng, giảm các khoản phải thu”, “các khoản dự phòng” trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nếu việc tăng các khoản phải thu lớn chứng tỏ doanh nghiệp có chính sách thu hồi nợ không tốt, nếu doanh nghiệp tiếp tục để tăng các khoản phải thu thì có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của công ty và các khoản dự phòng nợ phải thu khó đòi sẽ lớn làm giảm kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Doanh thu cao, lợi nhuận cao nhưng dòng tiền thực sự thu được thì rất thấp. Nhà quản trị doanh nghiệp cần chú ý phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ để thấy được các khoản phải thu tăng hay giảm và các khách hàng nợ nhiều, có mối quan hệ làm ăn với công ty như thế nào, tình hình thanh toán của họ để có chính sách thu hồi nợ kịp thời hợp lý. Nếu họ nợ quá nhiều thì doanh nghiệp còn có thể sử dụng các chính sách chiết khấu bằng tiền mặt khuyến khích trả nợ sớm sẽ cải thiện được lưu lượng tiền mặt và thậm chí xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Doanh nghiệp cần đưa ra các văn bản thúc đẩy việc thu hồi nợ như thư đòi nợ, vì khách hàng không để ý đến khoản nợ của họ sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tình hình tài chính của doanh nghiệp . Tuy nhiên nếu các khoản nợ phải đòi của doanh nghiệp có xu hướng giảm, cùng với hệ số vòng quay phải thu quá thấp thì có thể là chính sách tín dụng của doanh nghiệp quá cứng nhắc, luôn thu tiền ngay và khó có thể tìm thêm thị trường mới, doanh nghiệp cần phải có các biện pháp cải thiện tình hình này.
e. Chính sách đầu tư của các nhà đầu tư:
Đứng trên góc độ các nhà đầu tư, thì vấn đề quan tâm nhất là hệ số dòng tiền ra để trả cổ tức so với dòng tiền ròng từ hoạt động kinh doanh và chỉ tiêu “lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp ” vì ảnh hưởng đến mức sinh lời cao trong tương lai. Mức sinh lời cao sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư mua cổ phiếu, trái phiếu công ty giúp công ty huy động vốn nhanh. Nhưng các nhà đầu tư cần quan tâm thêm tỷ số về khả năng thanh toán của công ty, đến hệ số tài trợ cho tài sản cố định và đầu tư dài hạn với lượng tiền thuần từ hoạt động kinh doanh bởi như vậy mới có cái nhìn tổng quát hơn về tình hình tài chính của công ty. Nhiều thực tế cho thấy các công ty có chính sách trả cổ tức cao thu hút vốn đầu tư nhưng khả năng hoạt động cũng như xu hướng đầu tư về lâu dài thì không có. Một quyết định sáng suốt đầu tư các công ty sẽ giúp đem mức cổ tức cao, đảm bảo an toàn đồng vốn cho các nhà đầu tư.
5. So sánh việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Nền kinh tế nước ta đang ngày càng hoà nhập xu hướng phát triển chung của thế giới. Một vấn đề đặt ra là hệ thống tài chính kế toán của chúng ta cũng cần phải sửa đổi và hoàn thiện cùng với thông lệ quốc tế. ở đây em xin trình bày việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong chuẩn mực số 24 so với chuẩn mực kế toán quốc tế và những bước hoàn thiện việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hiện nay so với chế độ kế toán trước kia.
a. Chuẩn mực kế toán Việt Nam so với chuẩn mực quốc tế.
Chuẩn mực kế toán quốc tế Việt Nam quy định về việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ có một sự hoà hợp lớn với chuẩn mực kế toán quốc tế. Chuẩn mực kế toán Việt nam và IAS7 đều coi đối tượng của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là tiền và các khoản tương đương tiền. Tiền gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Các khoản tương đương tiền là các khoản đầu tư ngắn hạn có tính thanh khoản cao và được chuyển ngay thành tiền trong thời gian ngắn, có rủi ro về thay đổi giá trị không đáng kể. IAS7 và chuẩn mực số 24 đều yêu cầu không được trình bày các giao dịch về đầu tư và tài chính không trực tiếp sử dụng tiền và các khoản tương đương tiền nhưng phải có một báo cáo đi kềm theo chi tiết các khoản như: chuyển đổi nợ sang vốn chủ sở hữu, các tài sản mua bằng cách nhận các khoản nợ liên quan trực tiếp hoặc đi thuê tài chính. Doanh nghiệp phải trình bày rõ lý do các khoản mục tiền và tương đương tiền mà doanh nghiệp không được sử dụng do những ràng buộc hoặc hạn chế về pháp luật. IAS 7 và chuẩn mực số 24 có sự thống nhất trong việc phân loại tiền và các khoản tương đương tiền.
IAS 1 và chuẩn mực số 24 đều quy định việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ phải phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp , việc trình bày và phân loại các khoản mục trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ phải nhất quán từ niên độ này sang niên độ khác, các thông tin bằng số liệu giữa kỳ kế toán phải được trình bày tương ứng và có thể so sánh được.
Nhưng chuẩn mực kế toán Việt Nam cần quy định cụ thể hơn cho việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ giữa các công ty mẹ và các công ty con có hệ thống chỉ tiêu như thế nào, các công ty liên doanh thì lập báo cáo tài chính hợp nhất cho cả hai công ty hay cho từng công ty một. Cần có thêm “Bảng đối chiếu tiền và các khoản tương đương tiền” đi kềm với báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhằm mục đích để người sử dụng thông tin có thể phân biệt được trong các luồng tiền của doanh nghiệp thì luồng tiền nào có thể sử dụng được ngay và khoản tương đương tiền sẽ trở thành tiền trong tương lai gần.
b. Việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trước kia
Việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo chuẩn mực kế toán mới đã thể hiện sử thay đổi lớn về cách lập, phân loại các chỉ tiêu theo từng mặt hoạt động rõ ràng hơn so với trước kia. Về tính pháp lý quy định nộp báo cáo lưu chuyển tiền tệ bắt buộc với mọi loại hình doanh nghiệp là phù hợp với thông lệ quốc tế và làm tăng thêm phạm vi, chất lượng của các thông tin kế toán, giúp các nhà đầu tư và các đối tượng có lợi ích liên quan có khả năng đánh giá phân tích sâu sắc hơn tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Theo phương pháp gián tiếp ở báo cáo lưu chuyển tiền tệ mới đã coi thuế thu nhập doanh nghiệp đã nộp là một khoản chi phí từ hoạt động kinh doanh là chính xác, nó phải được điều chỉnh vào chỉ tiêu “lợi nhuận trước thuế” từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ đã phân định rõ khoản nào là khoản phải thu, phải trả và thuộc hoạt động nào là thuận lợi cho việc lập và sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Chỉ tiêu “ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá hối đoái” là chỉ tiêu mới được đưa vào phản ánh các khoản chênh lệch tỷ giá của khoản mục ngoại tệ trong kỳ so với lúc lập báo cáo. Mặc dù chỉ tiêu “tiền chi trả lãi vay” được hạch toán vào hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng tiền vay ngắn hạn, dài hạn lại thuộc về hoạt động tài chính do có sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn. Doanh nghiệp đi vay nhằm mục đích chính để sản xuắt kinh doanh hoặc đầu tư tài sản cố định phục vụ cho hoạt dộng kinh doanh nên các chi chí lãi vay phải nằm trong chi phí kinh doanh nhưng tiền nhận được do doanh nghiệp đi vay được hạch toán vào hoạt động đầu tư. Đây là nét mới trong việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hiện nay.
Phần II.
Phương hướng hoàn thiện
1.Đánh giá báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống kế toán Việt Nam
Trong đợt cải cách hệ thống kế toán , bộ Tài chính coi báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một bộ phận hợp thành của báo cáo tài chính mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải lập và cung cấp cho các đối tượng sử dụng. Nhưng vì báo cáo lưu chuyển tiền tệ còn quá mới với người làm kế toán nên đến tháng 12 năm 2002, Bộ Tài chính mới chính thức quy định có tính chất bắt buộc đối với việc lập và nộp báo cáo này. Tuy nhiên, do ý thức được tầm quan trọng của báo cáo lưu chuyển tiền tệ nên một số doanh nghiệp đã lập và sử dụng nó cùng với các báo cáo tài chính khác đặc biệt là các công ty cổ phần niêm yết. Nhìn chung ở các công ty cổ phần niêm yết có tình hình tài chính rất tốt, có uy tín trên thị trường, có sự giám sát chặt chẽ của các cơ quan chức năng. Các công ty cổ phần niêm yết (nếu là doanh nghiệp Việt Nam) phải có mức lãi năm trước, có vốn điều lệ lớn hơn 5 tỷ đồng, tiền lương của các công nhân viên ngày một tăng, các quỹ vốn tăng, có tình hình tài chính lành mạnh…được sự kiểm duyệt của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước, các báo cáo tài chính phải được kiểm toán hàng năm.
Về quy định lập, gửi: các công ty cổ phần phải lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo mẫu chuẩn mực kế toán đã ban hành và phù hợp với đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp , thời hạn nộp cho các cơ quan thuế, thống kê, Uỷ ban chứng khoán nhà nước, trung tâm giao dịch chứng khoán chậm nhất 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm tài chính. Với quy định như trên, đa số các công ty cổ phần đã thực hiện lập và gửi báo cáo lưu chuyển tiền tệ cùng các báo cáo tài chính khác theo quy định. Nhưng đã xuất hiện một số bất cập là số công ty không minh bạch ngày càng nhiều. Các công ty niêm yết vi phạm pháp luật về lập các báo cáo tài chính gây suy suy giảm niềm tin cho các nhà đầu tư. Vi phạm ở đây các thông tin trên báo cáo tài chính không chính xác quá nhiều so với thực tế. Điển hình như công ty Bibica, các báo cáo của hội đồng quản trị năm 2002 cho biết doanh số tăng 15.88% so với năm 2001 nhưng lợi nhuận cả năm lại âm 5,442 tỷ đồng không rõ gốc. Về công tác xây dựng cơ bản thì báo cáo của Hội đồng quản trị đã thừa nhận có 3 dự án còn treo số liệu đầu tư ở khoản xây dựng cơ bản dở dang hơn 5,56 tỷ đồng chi phí xây dựng cơ bản dở dang không rõ nguyên nhân. Về sau Ban kiểm soát lại đưa ra bằng chứng có chữ kí của kế toán trưởng là doanh nghiệp thực lỗ 12,3 tỷ đồng và 5,56 tỷ đồng chính là chi phí nguyên vật liệu trong quý 2 và quý 3. Như vậy, nếu nhìn vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì ta sẽ thấy rằng có khoản chi tiền mặt ở hoạt động đầu tư mua sắm tài sản cố định là 10,7 tỷ đồng và hơn 5,56 tỷ đồng chi phí xây dựng cơ bản. Giá trị đầu tư cho xây dựng cơ bản tăng lên rất nhiều so với thực tế, nó làm tăng giá trị của tài sản cố định khi công trình bàn giao. ở đây đã có sự vi phạm trong phân loại các khoản mục chi phí, làm luồng tiền hoạt động đầu tư tăng lên ở khoản chi và giảm chi phí hoạt động kinh doanh, tăng lưu chuyển tiền thuần hoạt động kinh doanh nên các nhà đầu tư dễ lầm tưởng rằng doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có lãi, luồng tiền chi hoạt động đầu tư sẽ rất lớn là do doanh nghiệp đang mở rộng sản xuất kinh doanh chứ không phải là làm ăn không hiệu quả. Do có sự sai lệch này mà công ty Bibica nhiều lần xin hoãn nộp các báo cáo tài chính cho các bên có liên quan.
Và ở công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) thì việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ diễn ra theo đúng quy định nhưng công ty có vướng mắc về phương thức, hình thức, nội dung những thông tin trên báo cáo, công ty thực hiện công tác lập báo cáo theo định kì nhưng không biết việc công bố thông tin các bản báo cáo bạch này đến các nhà đầu tư như thế nào. Công ty lập báo cáo tài chính hợp nhất về tình hình tài chính của REE và các đối tác mà REE sở hữu trên 50% số vốn. Nhưng thực sự chưa có một mẫu báo cáo chính xác cho việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất nên việc lập của công ty là tự phát và công ty yêu cầu được hướng dẫn cụ thể. Thêm nữa việc công ty mua thêm các cổ phiếu ngân quỹ được hạch toán trong lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư nhưng khi lập các báo cáo tài chính khác thì tính lỗ lãi hàng tháng hay việc tăng, giảm nguồn vốn của công ty. Nếu là lỗ, lãi thì lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp có sự thay đổi khi tính theo phương pháp gián tiếp và sẽ coi đó là khoản chi phí được tách khỏi lợi nhuận rồi nhưng đến hoạt động đầu tư lại được tính tiếp thì có phải là tính trùng không. Ngoài ra với các công ty sản xuất kinh doanh theo thời vụ thì nên khuyến khích việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo tháng để có sự giám sát kiểm tra kịp thời.
Về trách nhiệm kiểm tra báo cáo lưu chuyển tiền tệ thì các công ty cổ phần nếu có Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc phải kiểm tra, giám sát trong ghi chép sổ sách số liệu kế toán và báo cáo tài chính, đặc biệt Ban kiểm soát phải thẩm định các báo cáo tài chính của công ty trước khi công bố. Nhưng không có sự thống nhất về cách lập các thông tin nên giữa Ban kiểm soát và Hội đồng quản trị nhiều khi bất đồng quan điểm về các thông tin đưa ra. Và thực sự Ban kiểm soát có thực hiện được quyền kiểm soát của mình đối với doanh nghiệp hay không, vai trò của Ban kiểm soát có được coi trọng đúng mức không. Khi có sự sai sót về số liệu thì không ai đứng lên chịu trách nhiệm, đành rằng việc sai số là do kế toán lập thật nhưng ai trong doanh nghiệp phải thực hiện việc kiểm tra số liệu đó trước khi công bố ra thị trường thì không có quy định cụ thể, nếu hệ thống kiểm toán nội bộ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì chắc sẽ không xảy ra trường hợp đáng tiếc như vậy. Các công ty chứng khoán theo luật quy định phải thực hiện giám sát hoạt động kinh doanh của các công ty niêm yết nhưng họ đã không kiểm tra số liệu đó, quy trách nhiệm thuộc về ai ?
Về việc công bố thông tin báo cáo lưu chuyển tiền tệ: các thông tin của báo cáo lưu chuyển tiền tệ là các thông tin thô, các công ty chứng khoán cần phải là người phân tích các thông tin thô thành các thông tin thứ cấp thể hiện qua các chỉ số và sâu hơn là các lời bình luận. Nhiều khi các tổ chức niêm yết có các dự án đầu tư, nhưng các nhà đầu tư không thể tiếp cận chi tiết với các thông tin về dự án, dự án thuộc lĩnh vực gì, tổng giá trị dự án… và các công ty niêm yết cũng có lí khi quyết định không công bố các thông tin đó, coi đó là thông tin mật của doanh nghiệp . Ta chỉ thấy trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh các hoạt động đầu tư là mua sắm, xây dựng tài sản cố định và tài sản dài hạn khác, hoặc mua các công cụ nợ của các đơn vị khác, góp vốn vào các đơn vị khác nhưng đó mới chỉ là chỉ tiêu chung chung không thoả mãn sự quan tâm của các nhà đầu tư vì họ muốn biết nhiều điều cụ thể hơn thế. Phải chăng bên cạnh báo cáo lưu chuyển tiền tệ cần có thêm các bản chi tiết diễn giải về việc đầu tư tài sản cố định, tài sản dài hạn khác cho các nhà đầu tư an tâm về đồng vốn của họ sử dụng có đúng mục đích hay không.
Một điều nữa, các tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán chưa thấy được tầm quan trọng của việc công bố thông tin, nhiều nội dung còn lập sơ sài hạn chế, bản báo cáo bạch chưa phổ biến đến các nhà đầu tư. Vì vậy mà chức năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán bị hạn chế, công ty không huy động vốn theo như dự tính được, ảnh hưởng đến luồng tiền từ hoạt động tài chính, doanh nghiệp sẽ thiếu tiền khi thực hiện đầu tư cho các dự án lớn, phải lập các kế hoạch vay ngắn hạn, dài hạn của các tổ chức tín dụng mà không huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường được lập trên góc độ kế toán quản trị phục vụ cho hoạt động dự báo luồng tiền, phân tích kinh doanh mà cách chia các hoạt động của kế toán quản trị lại khác so với kế toán tài chính nên có sự nhầm lẫn trong việc lập các chỉ tiêu trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính mới đang trong quá trình hoàn thiện do đó còn có nhiều bất cập xảy ra, các doanh nghiệp phải tuỳ từng tình huống mà xử lí cho hợp lí.
Thuận lợi cho việc lập là báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong hệ thống kế toán Việt Nam phân chia quá trình lưu chuyển tiền theo các hoạt động, xác định dòng lưu chuyển tiền thuần trong ki và chỉ tiêu tiền tồn đầu kì, cuối kì. Các công ty dễ dàng tách biệt giữa các hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài chính và lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ ở từng mặt hoạt động. Các chỉ tiêu trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ có sự phân định rõ về nội dung, tính chất nên việc lập cũng dễ dàng hơn, tránh việc băn khoăn khi hạch toán nhiều khoản mục không rõ ràng. Công ty có thể kiểm soát được lượng tiền ở hoạt động kinh doanh, đầu tư, tài chính. Với phương pháp lập thì các công ty cổ phần ưa thích sử dụng phương pháp gián tiếp hơn do có sự áp dụng các phần mềm kế toán vào hoạt động tài chính nên đơn giản, tốn ít nhân lực, thời gian. Chuẩn mực kế toán Việt Nam đưa một số chỉ tiêu cụ thể “Tiền thu, chi từ phát hành cổ phiếu, nhận vốn góp chủ sở hữu” và chỉ tiêu “Cổ tức, lợi nhuận đã trả cho chủ sở hữu” là một bằng chứng cho việc thừa nhận của báo cáo lưu chuyển tiền tệ với các hoạt động của công ty cổ phần trên thị trường chứng khoán là một hoạt động tất yếu thường xuyên.
2.Giải pháp
Để việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ trở thành thường xuyên cần có sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước và doanh nghiệp .
a.Về phía Nhà nước
- Cần ban hành đồng bộ các quy chế pháp luật, các quy định Nhà nước về lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ thống nhất để các doanh nghiệp lập các báo cáo có thể so sánh các thông tin với nhau, dễ kiểm tra, kiểm soát, và khi công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán thì các nhà đầu tư, người cho vay, ngân hàng cũng dễ theo dõi, phân tích các thông tin này.
- Nhà nước phải buộc các công ty kiểm toán các báo cáo hằng năm, cung cấp các thông tin một cách trung thực nhất
- Cần sớm ban hành việc hướng dẫn thực hiện lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất, hệ thống chỉ tiêu cần lập, các thông tin mà doanh nghiệp buộc phải công bố để tránh việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ sơ sài, hạn chế.
- Yêu cầu công ty chứng khoán phải cung cấp các thông tin niêm yết trung thực cả tốt lẫn xấu, phải đưa thông tin đến tay các nhà đầu tư và luôn cập nhật thông tin, giám sát việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ tại doanh nghiệp .
- Ban hành các quy định về trách nhiệm, quyền hạn, các đối tượng có liên quan, nêu rõ trách nhiệm các đối tượng, hình thức xử lí vi phạm nếu có.
b.Về phía các doanh nghiệp
Để báo cáo lưu chuyển tiền tệ thực sự phát huy được các mặt tích cực của nó, các doanh nghiệp đặc biệt là các công ty cổ phần niêm yết cần lưu ý đến các điểm sau:
- Các công ty cần xây dựng quy trình công bố thông tin của mình, Bộ Tài chính khuyến khích các doanh nghiệp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ phù hợp với doanh nghiệp nhưng phải dựa trên cơ sở mẫu biểu của chuẩn mực kế toán quy định. Các bản báo cáo lưu chuyển tiền tệ phải được kiểm toán hằng năm, nêu rõ cam kết những người chịu trách nhiệm lập và công bố.
- Công ty cần có một bộ phận kế toán có năng lực trình độ hiểu biết pháp luật để thực hiện việc lập một cách chính xác theo chuẩn mực kế toán mới, luôn cập nhật các thay đổi về chế độ kế toán.
- Ban kiểm soát phải làm việc có hiệu quả, phải thực hiện kiểm soát các báo cáo lưu chuyển tiền tệ từ lúc lập và thẩm định nó. Khi lập xong, lãnh đạo doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm với những thông tin được trình bày trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ về các mặt hoạt động kinh tế tài chính. Các chỉ tiêu phải được định lượng và diễn giải thoả mãn các yêu cầu trình bày báo cáo như tính chính xác, dễ hiểu, hữu ích, so sánh được.
- Để việc sử dụng báo cáo lưu chuyển tiền tệ trong doanh nghiệp có hiệu quả thì doanh nghiệp nên lập các báo cáo này hàng tháng tiện cho việc theo dõi, kiểm tra khoản mục tiền, phân tích các dòng tiền ở từng hoạt động mà có kế hoạch điều chỉnh cho hợp lí.
Kết luận
Khoản mục tiền tệ luôn luôn được coi là có tính chất trọng yếu trong doanh nghiệp, tất cả các thay đổi về tiền cần phải được theo dõi chặt chẽ và phản ánh trên tài khoản tiền cũng như việc lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Nhưng để hiểu rõ về tình hình tài chính của doanh nghiệp thì nên chú ý đến phân tích báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp .
Với khuôn khổ một đề án môn học em xin được trình bày những hiểu biết của mình về đề tài: “Bàn về báo cáo lưu chuyển tiền tệ và phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp ”. Việc nghiên cứu trên đã giúp em hiểu được cách lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ và việc phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp . Vì thời gian, thông tin, trình độ còn hạn chế nên việc thực hiện đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong được sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn GV Trần Đức Vinh đã hướng dẫn em hoàn thành đề tài
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Phân tích hoạt động kinh doanh - Nguyễn Tấn Bình
2.Kế toán quản trị – Nguyễn Tấn Bình
3.Giáo trình Kế toán tài chính
4.Giáo trình Tài chính doanh nghiệp
5.Chuẩn mực kế toán Việt Nam số 24
6.Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS 01 và IAS7
7.Luật Kế toán
8.Các tạp chí Kế toán, Kinh tế và phát triển, Tài chính doanh nghiệp , Thị trường chứng khoán, Đầu tư chứng khoán
Lời nhận xét:
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33803.doc