Đề án Bàn về các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay

Đổi mới tổ chức, quản lý DNNN, phát huy vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng là một trong những nội dung trọng tâm trong quá trình đổi mới nền kinh tế và đồng thời nó cũng là chủ trương đổi mới của Đảng,Nhà nước ta trong nhiều năm qua. Những thành quả đạt được của quá trình đổi mới DNNN cũng đồng thời phản ánh kết quả chuyển đổi chung của nền kinh tế. Để đạt được những thành công trong quá trình tìm tòi, đổi mới DNNN là hết sức khó khăn, đó cũng chính là những khó khăn của quá trình chuyển đổi chung của toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước nói chung,DNNN nói riêng gắn liền với quá trình đổi mới của toàn bộ nền kinh tế,xã hội, do đó cũng không thể có những thành quả thật hoàn hảo của riêng khu vực kinh tế Nhà nước và DNNN trong khi toàn bộ nền kinh tế đang tiếp tục chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN. CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta và đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng. Song CPH không thể là “liều thuốc cấp cứu”, có thể làm “ hồi sinh” các DNNN, mà phải dặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới tổ chức quản lý, đa dạng hoá sở hữu khác. Bản thân việc CPH DNNN cũng phải đặt trong sự chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN của toàn bộ nền kinh tế.

doc50 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về các chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tiêu dùng và dịch vụ, thị trường tư liệu sản xuất, thị trường các yếu tố sản xuất khác như sức lao động, vốn... đang ở trình độ sơ khai, thị trường chứng khoán chưa hình thành. Theo logic của sự phát triển thì CTCP là sản xuất tất yếu của nến sản xuất xã hội hoá và của nền kinh tế thị trường phát triển. Nhưng ở nước ta, nền sản xuất đang trong giai đoạn đầu của xã hội hoá, nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hình thành. Vì vậy các điều kiện kinh tế liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP, cũng như việc triển khai DNNN ở nước ta chưa phải đã hình thành đầy đủ và đồng bộ như ở các nước đã có nền kinh tế thị trường phát triển. Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ.Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại nhiều năm vận hành trong cơ chế cũ, nên trình độ kiến thức và yếu tố tâm lý của ta còn bị ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với cơ chế mới. Theo điều tra mới đây của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội Số người có trình độ đại học,cao đẳng trở lên của ta chiếm 1,3% dân số (khoảng 1 triệu người). Số lao động giản đơn chiếm tỷ lệ rất cao:87,8%, trong khi số trình độ lao động có trình độ trung cấp và sơ cấp lại rất thấp khoảng 4% trong tổng số lao động hiện có. Kiến thức thiếu hụt nhất trong nhân dân và cán bộ ta hiện nay về KTTT, công nghệ, tin học và ngoại ngữ. Ngay cả đội ngũ giám đốc trong các DNNN cũng phần lớn chưa ngang tầm được giao.Qua khảo sat 506 DNNN có 37 giám đốc chưa tốt nghiệp văn hoá phổ thông, chỉ co 87 người sử dụng được ngoại ngữ nhưng chưa thành thạo. Đội ngũ này trình độ đào tạo mới chỉ được nâng lên về hình thức,vì vậy tri thức về, kinh doanh... chưa được chuyển tải kịp thời và đầy đủ cho đội nguc cán bộ doanh nghiệp. Đây là những lực cản không nhỏ đối với tiến trình CPH. Về mặt tâm lý xã hội: do bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của xã hội cổ truyền và những năm bao cấp, nên nhân dân ta còn mang nặng tâm lý “đồng tiền ăn liền khúc ruột”, chưa quen với đầu tư tiền vào mua cổ phiếu. Theo điều tra, ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư và tổng cục thống kê, nguồn vốn trong dân hiện có từ 6-8 tỷ USD, trong đó 44% để dành mua vàng, ngoại tệ; 20% mua nhà, đất, cải thiện điều kiện sinh hoạt; 17% tiền gửi tiết kiệm, chủ yếu loại ngắn hạn; chỉ có 19% dùng trực tiếp cho các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là đầu tư ngắn hạn. Những hiện tượng như chụp giật, chiếm giật vốn của nhau, lừa đảo, tham nhũng, coi thường kỷ cương phép nước... đã có ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào cổ phiếu của người có vốn. Thực tế, vốn trong dân có nhiều, nhưng do môi trường pháp lý chưa thật sự đảm bảo nên họ không dám đầu tư. b. Về phía chủ quan. Trong điều kiện chủ quan như trên, để thúc đẩy tiến trình CPH DNNN đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan, song trong thời gian qua nhân tố này có nhiều vướng mắc. Thứ nhất, chưa làm tốt việc thâu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Nhà nước. Cho đến nay vẫn còn các cấp, ngành, địa phương chưa hưởng ứng tích cực chủ trương CPH vì cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nó sẽ là chệch hướng XHCN, làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Từ đó họ do dự, chần chừ, chờ đợi, nghe ngóng thiếu chủ động. Một số bộ, tỉnh, thành phố xuất phát từ những lợi ích cục bộ, muốn có trong tay một số doanh nghiệp để chi phối nên cũng không muốn CPH. Họ sợ mất chức quyền, bổng lộc,lại phải lãnh trách nhiệm nặng nề hơn. Họ viện lý do củng cố, sắp xếp tổ chưc lại doanh nghiệp, để trì hoãn công việc này. Đây là nguyên nhân dẫn đến việc phối hợp chỉ đạo giữa các cấp uỷ, chính đoàn thể không đồng bộ, thiếu thống nhất, làm cho CPH chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án cơ sở. Công ty tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, trong cán bộ công nhân viên và toàn xã hội chưa được đẩy mạnh. Thậm chí đã có những công nhân đã mua cổ phần ở doanh nghiệp CPH, song cũng không hiểu biết về chủ trương này. Thực chất họ nộp tiền mua cổ phần là để tiếp tục được làm việc tại công ty. Họ không biết rằng họ dã trở thành cổ đông của công ty, rằng mình sẽ có quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với số cổ phần mà mình mua vv....Tất cả những điều đó là do công tác tuyên truyền, vận động, giải thích về chủ trương CPH chưa được quán triệt, chưa làm đến nơi, đến chốn và đó là một trong những nguyên nhân làm chậm tiến trình này. Thứ hai, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng. Điều này trước hết thể hiện ở một số nội dung trong đó các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng và thiếu tính hệ thống. Chẳng hạn: CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Giá trị đất đai có tính vào giá trị doanh nghiệp để CPH không? Trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong triển khai CPH như thế nào? Sự chậm trễ và lúng tung trong việc triển khai CPH còn thể hiện ở chỗ cho đến nay chính phủ vẫn chưa có chủ trương CPH tổng thể mang tầm vĩ mô cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân để làm căn cứ cho việc xác định tiến độ CPH; chưa có một đạo luật hay pháp lệnh CPH DNNN làm cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện, vẫn con những tỉnh chưa, thành phố chưa thành lập được ban chỉ đạo CPH. Thứ ba, chế độ chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các doanh nghiệp CPH chậm được ban hành, sửa đổi và chưa đủ sức hấp dẫn.Theo nghị định 44/1998/NĐ-CP, các doanh nghiệp CPH được hưởng một số ưu đãi hơn các doanh nghiệp được CPH về mức vay, khoản nợ, xoá nợ tại ngân hàng thương mại, lại chưa nộp tiền thuê đất. Các DNNN được vay vốn bằng tín chấp của cơ quan Nhà nước, còn các doanh nghiệp được CPH phải thế chấp mới được vay...Thực tế này đã níu kéo các DNNN, không khuyến họ hưởng ứng CPH. Mặc dù chính phủ đã ban hành và sửa đổi nhiều chế độ, chính sách đối với người lao động trong các doanh nghiệp CPH song đến nay vẫn còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn việc thực hiện nghị định 44/1998/ NĐ-CP đã dẫn đến hiện tượng ở doanh nghiệp này người lao động được mua đủ 10 cổ phiếu ưu đãi cho một năm, nhưng ở doanh nghiệp khác người lao động chỉ được mua 6 cổ phiếu, 4 cổ phiếu thậm chí còn ít hơn. Bộ tài chính đã trình đề án thành lập quỹ hộ trợ sắp xếp và CPH DNNN để giải quyết tình trạng trên. 2.1.2.2.2. Khó khăn khi thực hiên cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước. - Khó khăn đầu tiên đối với quá trình CPH DNNN là phản ứng từ một bộ phận lãnh đạo DNNN. Những người này sợ bị mất chức, mất quyền, sợ trách nhiệm, sợ phải đối mặt với thị trường nên đã không hang hai thực hiện CPH. Ngoài ra còn có một số quy định chưa đồng bộ và không khuyến khích người lãnh đạo doanh ngiệp tham gia CPH. Ví dụ: Việc xếp lương chức vụ đối với viêm chức quản lý doanh nghiệp, xác định phụ cấp...dựa trên cơ sở xếp hạng doanh nghiệp và hạng doanh nghiệp được đánh giá theo các tiêu chí về vốn, chủng loại mặt hàng kinh doanh, phạm vi hoạt động, hiểu quả sản xuất kinh doanh (doanh thu, nộp ngân sách Nhà nước, lợi nhuận...). Khi DNNN CPH đơn vị thành viên hay tổng công ty CPH doanh nghiệp thành viên thì các tiêu chí nêu trên của doanh nghiệp hay tổng công ty đều có xu hướng giảm xuống,... và doanh nghiệp sẽ bị xuống hạng, làm giảm mức lương, phụ cấp của người lãnh đạo. Do vậy, họ không muốn CPH bộ phận doanh nghiệp hoặc CPH doanh nghiệp thành viên của tổng công ty. Người lao động có tâm lý chung sợ mất việc làm sau khi doanh nghiệp CPH, sợ sự phân biệt đối xử giữa khu vực Nhà nước và khu vực ngoài Nhà nước... Tuy quan niệm Xã hội đã có nhiều thời thay đổi nhưng định kiến về vị trí người lao động làm việc trong doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn còn khá nặng nề. Thực tế người lao động trong DNNN được chia lợi tức của doanh nghiệp thông qua việc họ được hưởng và các khoản phúc lợi từ lợi tức của doanh nghiệp dù họ không phải đóng góp vốn, nhưng trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh người lao động không được chia lợi tức nếu hộ không góp vốn. Việc sa thải lao động trong DNNN khó hơn nhiều so với việc sa thải lao động không muốn CPH. Nhiều cơ quan quản lý chuyên ngành, địa phương đã không tích cực triển khai việc CPH bởi vì họ không muốn mất đầu mối quản ly, giảm quyền lực đối với những DNNN này. - Một số quy định ưu đãi đối với DNNN CPH ít đi vào thực tế do chưa đảm bảo tính đồng bộ giữa các văn bản pháp lý. Mặc dù có quy định doanh nghiệp CPH tiếp tục được vay vốn tín dụng ngân hàng theo cơ chế và lãi suất như DNNN, nhưng thực tế doanh nghiệp CPH gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực này. Ví dụ: trong một số trường hợp khi doanh nghiệp CPH muốn vay vốn ngân hàng để mở rộng sản xuất, kinh doanh thì phải có ý kiến của cơ quan chủ quản, nhưng doanh nghiệp đã CPH nên không có cơ quan chủ quản và như vậy doanh nghiệp không thẻ vay được vốn của ngân hàng. -Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp và giá bán cổ phần của doanh nghiệp còn nhiều bất hợp lý. Theo quy định hiện hành, việc xác định giá trị doanh nghiệp mới tính đến giá trị tài sản và lợi thế kinh doanh trong quá khứ và hiện tại. Trên thực tế, còn có doanh nghiệp bất lợi thế nhưng quy định hiện hành không khấu trừ bất lợi vào trong giá trị doanh nghiệp. Giá bán cổ phần của doanh nghiệp cũng có những điểm bất cập. Hiện tại, việc xác định giá trị doanh nghiệp đồng nghĩa với việc xác định giá bán. Do đó, giá bán mang tính áp đặt mới chỉ cá các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và doanh nghiệp tham gia định giá, còn người mua thụ động và lệ thuộc vào quyết định của người bán. - Một điểm nữa trong việc xác định giá bán doanh nghiệp là chưa tính đầy đủ đến yếu tố lao động. Với các điều kiện khác tương tự như nhau thì giá của doanh nghiệp có nhiều lao động dôi dư phải khác giá của doanh nghiệp ít hoặc không có lao động dôi dư. Theo quy định hiện hành, Doanh nghiệp CPH phải đảm bảo sử dụng hết lao động của doanh nghiệp trong thời gian ít nhất là một năm. Như vậy, lao động là một yếu tố mà nhà đầu tư xem xét khi quyết định mua cổ phần của doanh nghiệp. Như hiện nay cách định giá doanh nghiệp chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư mua cổ phần. - Chưa có chính sách công khai hoá hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp đã CPH để tạo lòng tin cho các doanh nghiệp chuẩn bị CPH và các doanh nghiệp khác trong diện CPH. - Quy định việc phân bổ quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận trên vốn năm nay không thấp hơn năm trước đã gây khó khăn đối với doanh nghiệp CPH bộ phận hoặc tổng công ty CPH doanh nghiệp thành viên, bởi vì bộ phận hoặc doanh nghiệp thành viên tiến hành CPH thường là những đơn vị kinh doanh tốt và do đó sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận trên vốn của doanh nghiệp hoặc tổng công ty sau CPH 2.1.2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế. a. Nguyên nhân khách quan. - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp. Đại bộ phận cơ sở vật chất- kỹ thuật còn ở trình độ thấp máy móc cũ, kỹ thuật, công nghệ lạc hậu, quy mô nhỏ bé. Bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm một tỷ trọng lớn trong toàn xã hội. Trình độ phân công lao động xã hội còn rất thấp, hơn 70% lao động và 80% dân số thuộc lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn. Nông nghiệp chủ yếu là cây lúa, cây công nghiệp mới được chú trọng phát triển, công nghiệp chế biến phát triển chậm, tỷ trọng nông sản hàng hoá thấp so với tổng khối lượng sản phẩm nông nghiệp, nhiều vùng còn mang tính tự túc tự cấp. - Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành. Việt Nam trong quá trình chuyển đổi sang nền KTTT với điểm xuất phát thấp và chịu ảnh hưởng rất nặng nề của cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp. Các hình thức tổ chức của KTTT đang trong quá trình hình thành. Cả nước có hơn 40000 doanh nghiệp và công ty, nhưng quy mô nhỏ và hoạt động của chúng chưa thực sụ được thương mại hoá. Tính đến hết năm 2000 cả nước mới chỉ có 396 doanh nghiệp CPH. - Trình độ dân trí thấp, mang nặng tâm lý sản xuất nhỏ. Xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, lại qua nhiều năm vận hành theo cơ chế tập trung, quan liên, bao cấp nên cả trình độ văn hoá cũng như chuyên môn và tâm lý xã hội bị hạn chế và ảnh hưởng nặng nề, chưa thích ứng với yêu cầu phát triển cơ chế thị trường. Về mặt tâm lý xã hội, do nền kinh tế kém phát triển, lại sống trong chế độ bao cấp nhiều năm, nên tâm lý kinh doanh, đầu tư, nhất là kinh doanh vốn, tiền tệ, như đầu tư và mua cổ phiếu vẫn là vấn đề rất xa lạ với đại đa số dân cư. Theo điều tra và ước tính của bộ kế hoạch và đầu tư, tổng cục thống kê, số tiền để dành trong dân cư trong thời điểm năm 2000 có từ 6 đến 8 tỷ USD, trong đó 44% để mua vàng, 20% mua nhà đất và cải thiện đời sống sinh hoạt; 17% gửi tiết kiệm; chỉ có 19% được sử dụng vào các dự án đầu tư, nhưng chủ yếu là ngắn hạn. Bên cạnh đó, những hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, chụp giật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản...xảy ra phố biến và nghiêm trọng cùng với môi trường pháp lý không hoàn thiện đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lý đầu tư vào cổ phiếu của người dân. Tóm lại, các điều kiện kinh tế xã hội liên quan trực tiếp đến sự ra đời, tồn tại và phát triển của CTCP cũng như triển khai CPH DNNN ở Việt Nam chưa phải đã hình thành đầy đủ và đồng bộ. b. Nguyên nhân chủ quan. - Nhận thức về vai trò của DNNN trong nền KTTT chưa thống nhất. Không ít ý kiến vẫn coi trọng số lượng hơn chất lượng - Chưa làm tốt việc tuyên truyền về chủ trương CPH DNNN của đảng và chính phủ. Công tác tuyên truyền chưa được quan tâm đúng mức, nội dung và hình thức tuyên truyền chưa phù hợp nên chưa thống nhất được nhận thức về CPH DNNN trong toàn đảng, toàn dân. Nhiều người cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, nảy sinh tư tưởng sợ chệch hướng XHCN, chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của việc CPH DNNN. Vì vậy, chủ trương CPH DNNN chưa được các cấp, các nghành, địa phương hưởng ứng tích cực. - Đặt lợi ích cục bộ lên lợi ích quốc gia. Các địa phương, bộ, ngành, tổng công ty vẫn muốn có trong tay mình một số DNNN đáng kể để chi phối, nên CPH- tức là mất quyền mất lợi ích. Nhiều lãnh đạo doanh nghiệp, bí thư đảng uỷ tỏ ra lo ngại CPH, vì sợ mất quyền lực, chức tước và lợi ích, mất đặc quyền, đặc lợi, còn là DNNN thì công việc nhẹ nhàng hơn, trách nhiệm thì đỡ nặng hơn, nhưng quyền lợi thì nhiều hơn. Vì vậy, họ chỉ đạo triển khai CPH mang tính chất đối phó, hình thức. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc phối hợp không đồng bộ, thiếu thống nhất giữa các cấp uỷ, chính quyền và đoàn thể, làm cho CPH bị chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án cơ sở. - Tâm lý sợ mất việc làm của đại bộ phận người lao động trong DNNN, vốn đã quen sống dựa vào chế độ bao cấp. - Việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng, một số cơ chế chính sách còn chưa thông thoáng thiếu thực tế, thủ tục còn phiền hà. Việc điều hành còn yếu nên chưa thúc đẩy được các bộ, các nghành các địa phương triển khai nhanh hơn. Một số nội dung của các văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng, thiếu tính hệ thống và đồng bộ, nhiều vấn đề được khẳng định như : CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? những doanh nghiệp nào tiến hành, hoặc chưa hoặc không tiến hành CPH? Tỷ lệ cổ phần quy định bao nhiêu là hợp lý? trách nhiệm của các bộ, các ngành, các địa phương triển khai như thế nào trong việc CPH ? - Chế độ chính sách đối với DNNN đã CPH và người lao động của các doanh nghiệp này chậm được ban hành, chưa đủ hấp dẫn và không được thực thi. Theo nghị định số 44 /1998/ NĐ- CP, các doanh nghiệp đã CPH được hưởng một số ưu đãi, tuy vậy, vẫn chưa được đối xử bình đẳng như các DNNN. Các DNNN được hưởng ưu đãi hơn các CTCP về mức vay vốn, khoản nợ, xoá nợ... 2.2. Mục đích đặt ra trong những năm sắp tới. Một số vấn đề về CPH DNNN trong thời gian tới. Lộ trình đổi mới, sắp xếp DNNN mà trọng tâm là CPH và chuyển đổi sở hữu DNNN được xây dựng trên cơ sở kết quả phân loại DNNN theo chỉ thị số 20/1998/ CT-TTg của thủ tướng chính phủ, của các bộ, địa phương, tổng công ty 91 và đánh giá phân loại DNNN theo các tiêu chí tài chính như vốn sản xuất kinh doanh, vốn chủ sở hữu, tổng nợ, nợ ngân hàng, lãi, lỗ, hiệu quả sử dụng vốn, tính khả thi cũng như trên cơ sở kinh nghiệm tiến hành sắp xếp, CPH, sát nhập, giải thể, phá sản DNNN trong thời gian qua và những chủ trương sắp tới. Theo lộ trình đó dự kiến đến năm 2005, tổng số DNNN Nhà nước sẽ được sắp xếp là 3280. Đến cuối năm 2005, Nhà nước sẽ duy trì 2000 doanh nghiệp có 100% vốn Nhà nước, tập trung vào các doanh nghiệp công ích, các doanh nghiệp thuộc thuộc những lĩnh vực mà Nhà nước cần độc quyền, các tổng công ty lớn và các doanh nghiệp độc lập quy mô lớn có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở lộ trình chung và điều kiện cụ thể của từng bộ, tỉnh và tổng công ty 91 mà các đơn vị này xây dựng và thực hiện phương án tổng thể sắp xếp và đổi mới DNNN thuộc phạm vi quản lý của mình, trong đó có kế hoạch từng năm về lĩnh vực này. Để thực hiện lộ trình trên, các giải pháp và chính sách trong giai đoạn tới như sau. 2.2.1. Quán triệt sâu sắc chủ trương chính sách và giải pháp đổi mới DNNN. Trước hết, cần triển khai tổ chức thực hiện lộ trình nêu trên của chính phủ một cách kiên quyết. Đồng thời cần làm cho nhân dân mà đặc biệt là người lao động trong các DNNN hiểu rõ mục tiêu đổi mới và phát triểnDNNN là làm cho khu vực này mạnh hơn, có sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế- xã hội cao hơn và bảo đảm thu nhập cho người lao động bâừng việc phát triển sản xuất- kinh doanh và các chính sách hỗ trợ của Nhà nước. Người lao động và nhà đầu tư nhờ đó mà có cơ hội làm chủ thực sự doanh nghiệp thông qua mua cổ phần, nhận cổ phần. Hơn nữa, cần làm cho mọi người hiểu rằng cổ phần hoá, giao, bán, khoán, cho thuê DNNN là xuất phát từ yêu cầu phát triển của doanh nghiệp, nhằm huy động thêm vốn của cả trong doanh nghiệp lẫn ngoài xã hội để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất tăng thêm khả năng cạnh tranh, tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và tăng thu nhập cho người lao động. Đa dạng hoá sở hữu là hình thức chủ yếu, quan trọng hàng đầu, có nội dụng, mục đích, bản chất, cách làm khác hẳn ở các nước Đông Âu hoặc các nước khác. Đó là hình thức xã hội hoá một bộ phận DNNN để nhiều người sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ cổ phần của mình. Chỉ có trên cơ sở nhận thức sâu sắc như vậy thì mới có thể hành động thống nhất từ trung ương đến địa phương, từ cơ quan hoạch định chính sách, chỉ đạo đến cơ sở thực hiện. Trên nền tổng thể của chương trình quốc gia, các bộ, các ngành, địa phương, tổng công ty 91 cần phải tổ chức thực hiện bằng được chương trình cổ phần hoá, chuyển đổi sở hữu, đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước thuộc phạm vi quản lý đã được Thủ tướng chính phủ phê duyệt. 2.2.2. Giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm, tạo tiền đề cho việc thực hiện thành công chương trình cổ phần hoá, giao, khoán, cho thuê DNNN. Khi thực hiện cổ phần hoá, giao, khoán, bán, cho thuê DNNN, phương án đầu tư phát triển sản xuất và kinh doanh hiệu quả phải được chú trọng nhằm sử dụng tốt số vốn đầu tư của chủ sở hữu và duy trì, thu hút thêm lao động vào làm việc ở các doanh nghiệp chuyển đổi sở hữu. Đối với những người lao động tự nguyện thôi việc, doanh nghiệp có thể giải quyết chính sách nghỉ việc cho họ theo chế độ hiện hành, sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp, cổ phần hoá DNNN để bổ sung. Số lao động dôi dư khi thực hiện các hình thức chuyển đổi sở hữu sẽ được quỹ này hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại để có thể làm việc tại các doanh nghiệp khác hoặc tìm việc làm ở nơi khác. Vì vậy, cần nghiên cứu để sửa đổi các quy định của Luật lao động theo phương pháp cho phép áp dụng chế độ trợ cấp mất việc cho một số lao động dôi dư tại thời điểm khoán, bán, cho thuê DNNN. 2.2.3.Tích cực giải quyết các khoản nợ của DNNN thực hiện cổ phần hóa, giao, khoán, bán, cho thuê. Các khoản nợ khó đòi của DNNN gồm nợ và con nợ đã giải thể, phá sản, bỏ trốn, đang thi hành án, con nợ và các doanh nghiệp đang trong tình trạng thua lỗ không có khả năng trả nợ và các khoản nợ khác đã quá hạn 3 năm trở lên, nợ khó đòi sẽ được tính vào kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp có lãi hoặc trừ vào giá trị doanh nghiệp đối với doanh nghiệp không có lãi để chuyển đổi sở hữu. Ngoài ra doanh nghiệp còn được quyền bán nợ cho các tổ chức mua bán nợ. Các khoản nợ đã được xử lý cho doanh nghiệp nói trên giao cho công ty mua bán nợ để theo dõi và thu hồi cho nhà nước. Các khoản nợ ngân sách mà doanh nghiệp đã đầu tư vào tài sản cố định thì được coi như vốn của nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển đổi sở hữu hoặc được xoá nợ với doanh nghiệp do thu lỗ mà không có khă năng trả nợ. Đối với các khoản nợ vay của ngân hàng thương mại quốc doanh, phương án xử lý gồm: + Những DNNN gặp khó khăn trong thanh toán các khoản nợ quá hạn được phép khoanh các khoản nợ quá hạn tính đến thời điểm chuyển đổi sở hữu với thời gian khoanh nợ từ 2 đến 3 năm nếu DNNN đó vẫn tiếp tục hoạt động. + Nếu DNNN bị thua lỗ, mất khẳ năng thanh toán các khoản nợ quá hạn được phép xoá nợ lãi vay ngân hàng; nếu sau đó doanh nghiệp vẫn còn bị lỗ thì nó sẽ được xem xét để được xử lý nợi gốc tương ứng với phần lỗ của doanh nghiệp sau khi xử lý nợ ngân sách. Đối với phần nợi gốc quá hạn còn lại, doanh nghiệp cần phối hợp với ngân hàng chủ nợ và các tổ chức mua bán nợ thuộc ngân hàng để xử lý theo hướng bán nợ trước khi doanh nghiệp cổ phần hóa. -Các khoản tổn thất của ngân hàng thương mại quốc doanh do khoanh nợ hoặc xoá nợ cho các DNNN trước khi chuyển đổi sở hữu sẽ được hạch toán vào chi phí hoạt động kinh doanh, quỹ bù đắp rủi ro của ngân hàng và được giản trừ vào nợ vay của ngân hàng Nhà nước hoặc được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một phần khi ngân hàng thương mại không đủ nguồn để bù đắp. -Đối với các khoản nợ bảo hiểm xã hội của người lao động của đang làm việc trong doanh nghiệp thì doanh nghiệp phải có trách nhiệm thanh toán dứt điểm trước khi chuyển đổi sở hữu. Nếu doanh nghiệp không có khẳ năng thanh toán các khoản nợ này thì họ được dùng tiền thu từ chuyển đổi sở hữu để chi trả và nếu cỏ thiếu thì quỹ sắp xếp và CPH DNNN sẽ chi trả. 2.2.4. Hoàn thiện chính sách cổ phần hoá, giao khoán, cho thuê DNNN. Chính sách CPH cần được hoàn thiện để chúng phù với luật doanh nghiệp theo các hướng sau: - Bỏ quy định về mức mua CPH lần đầu và mực mua cổ phần ưu đãi của cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp, theo đó họ không được phép mua quá mức bình quân của các cổ đông trong và ngoài doanh nghiệp. Điều đó nhằm khuyến khích việc huy động vốn và tăng cường vai trò tích cực của giám đốc doanh nghiệp để làm cho mọi người đều quan tâm và hưởng ứng chủ trương này. -Thay đổi phương pháp định giá doanh nghiệp theo "hội đồng" và theo kiểu "hành chính" chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan như hiện nay sang hình thức đấu giá thịnh hành trong nền KTTT. - Ban hành hướng dẫn về việc sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và CPH DNNN cũng như việc sử dụng tiền bán cổ phần đối với doanh nghiệp CPH và lợi tức cổ phần của phần vốn Nhà nước tại DNNN đã CPH để có thể huy động nhanh chóng, có hiệu quả nhất khoản tiền này và khắc phục hiện tượng tồn đọng hiện nay tại kho bạc Nhà nước. - Nâng tỷ lệ giá trị cổ phần được mua với giá ưu đãi ở những DNNN có vốn Nhà nước nhỏ để thu hẹp phần chênh lệch được mua ưu đãi giữa doanh nghiệp có nhiều vốn Nhà nước với doanh nghiệp có ít vốn Nhà nước. Đối với DNNN có mức vốn Nhà nước tự tích luỹ trên 40% giá trị doanh nghiệp khi thực hiện CPH thì tỷ lệ cổ phần được mua với giá ưu đãi của người lao động trong doanh nghiệp đó sẽ được nâng lên từ mức hiện nay là 30% lên 50% giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Đối với nguồn vốn tự tích luỹ có được do doanh nghiệp tự vay và đã thanh toán bằng vốn tự có cả doanh nghiệp thì tỉ lệ này sẽ là 70%. - Khẩn trương ban hành chính sách ưu đãi để người cung cấp nguyên liệu được phép mua cổ phần của nhà máy công nghiệp chế biến được CPH nhằm gắn lợi ích và trách nhiệm của các nhà cung cấp. - Ban hành các chính sách để chấm dứt tình trạng bất bình đẳng trong quan hệ với các tổ chức tín dụng giữa các DNNN và các doanh nghiệp đã CPH. Đồng thời ban hành các quy chế hoạt động của các tổ chức cơ sở Đảng và các đoàn thể khác trong các công ty CPH, giao, khoán, bán, cho thuê. -Tăng cương công tác quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp đã CPH, đặc biệt là trên các mặt như định hướng, chiến lược, quy hoạch, phat triển theo ngành kinh tế kỹ thuật và trên địa bàn lãnh thổ; tài chính và thuế; quản lý phần vốn Nhà nước trong CTCP, cổ phần ưu đãi. 2.2.5. Tăng cường tổ chức chỉ đạo công tác cổ phần hoá, giao, khoán, bán, cho thuê. Củng cố hệ thống chỉ đạo thực hiện bằng cách kiệm toàn các ban đổi mới quản lý doanh nghiệp từ TW đến các tỉnh, thành phố trực thuộc TW, tổng công ty 91. Các ban này phải là cơ quan giúp chính phủ, bộ, ngành, địa phương, tổng công ty 91 triển khai thực hiện tốt lộ trình đổi mới và phát triển DNNN. Gắn trách nhiệm của bộ trưởng, chủ tịch UBND tỉnh, hội đồng quản trị tổng công ty 91 với nhiệm vụ thực hiện và đổi mới DNNN trong phạm vi từng bộ, địa phương, ngành được phân công theo quy định của pháp luật. Có chế độ thưởng đối với những nơi những người làm tốt và phạt đối với những người không hoàn thành nhiệm vụ. Hình thành bộ máy giúp chính phủ về đổi mới quản lý doanh nghiệp bao gồm từ khâu nghiên cứu hoạch định chính sách, xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức chỉ đạo thực hiện trong cuộc sống. Đến nay, đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước đã bước sang giai đoạn mới thể hiện sự biến đổi về chất trong đường lối chỉ đạo phát triển doanh nghiệp nói chung và DNNN nói riêng, với lộ trình và mục tiêu rõ ràng, hiểu quả kinh tế phải đạt được. Vì vậy, bộ máy giúp việc này cần phải tăng cường cả về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm lẫn điều kiện đảm bảo hoàn thành chức năng nhiệm vụ, quyền hạn,trách nhiệm đó. 2.3. Một số khó khăn gây trở ngại cho việc cổ phần hoá và nguyên nhân. 2.3.1. Chính sách CPH còn nhiều yếu tố bất hợp lý. Các chế độ chính sách hiện hành về CPH DNNN chưa đủ sức hấp dẫn, khuyến khích thúc đẩy các doanh nghiệp và người lao động tham gia tích cực vào CPH. Các DNNN, hiện tại được nhiều ưu đãi hơn so với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác như không phải chịu góp vốn, không phải chịu rủi ro trong kinh doanh, đặc biệt có nhiều lợi thế hơn so với công ty cổ phần về sử dụng đất đai, vay vốn ngân hàng, được khoanh nợ, xoá nợ khi gặp rủi ro, được xét giảm, miễn thuế dễ dàng. Môi trường kinh doanh chưa bình đẳng giữa DNNN với các doanh nghiệp khác, trong đó CTCP cũng là một cản trở cho việc đẩy nhanh tiến độ CPH DNNN. Nghị định số 44/ CP ngày 29/6/1998 của chính phủ về việc chuyển DNNN thành CTCP cũng có những ưu đãi nhất định đối với người lao động trong DNNN (được mua cổ phần ưu đãi với mức giảm giá 30% so với các đối tượng khác); Song, để được hưởng ưu đãi đó, họ phải bỏ ra 70% giá trị cổ phần mà họ được mua. Trên thực tế với thu nhập hiện nay, người lao động trong doanh nghiệp Nhà nước cũng còn những khó khăn nhất định trong cuộc sống hằng ngày, khó có thể tích luỹ để mua cổ phần. Thêm vào đó, quy định của bộ Lao động -Thương binh và xã hội về người nghèo được hưởng ưu đãi theo nghị định 44/CP là người có thu nhập bình quân đầu người trong gia đình thấp hơn 144000 đồng/ tháng là chưa hợp lý và không phù hợp với thực tế. Trang 13- công nghiệp - tháng 1/1999 Công tác về kế toán tài chính còn nhiều vướng mắc. Việc quản lý sổ sách các chế độ báo cáo kế toan thống kê, đặc điệt là việc thực hiện chế độ quyết toán của năm tài chính hiện tại thường gây nhiều trở ngại cho công tác xác định căn cứ, lập phương án, làm thủ tục CPH doanh nghiệp. Một thực tế khá phổ biến là nhiều công trình đã hoàn thành và đưa vào sử dụng nhưng vẫn chưa được quyết toán hoặc không được quyết toán. Đây cũng là trở ngại lớn cho việc lập phương án CPH DNNN.Tình hình này đòi hỏi Nhà nước sớm ban hành luật kế toán thống kê, tuyển chọn, đào tạo và tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ kế toán tài chính vừa có năng lực nghiệp vụ chuyên môn, vừa có được đạo đức phẩm chất tốt đáp ứng yêu cầu quản lý tài chính của DNNN. Trang 18- tạp chí quản lý Nhà nước. 2.3.2. Khâu tổ chức còn yếu kém. Thực tiễn ở nước ta những năm qua đã khẳng định là sau khi CPH, hầu hết các doanh nghiệp cổ phần đều làm ăn tốt lên; doanh nghiệp được củng cố, tăng nhiều lần vốn, việc làm, lợi nhuận; thu nhập thực tế của người lao động, nộp ngân sách Nhà nước cũng tăng rõ rệt; mọi mặt quản lý đi vào nề nếp, quản lý tài sản tài chính chặt chẽ hơn; giảm các hiện tượng tiêu cực.Tuy nhiên, sau khi được CPH, doanh nghiệp có quyền tự chủ cao hơn, song cũng không còn sự bao cấp của Nhà nước như trước, lại chịu rủi ro lớn đòi hỏi cán bộ quản lý, nhất là giám đốc doanh nghiệp phải có năng lực, có trách nhiệm cao hơn, không thể ra những quyết định tuỳ tiện để ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp; chưa kể đến những trường hợp người lãnh đạo, cán bộ quản lý, công nhân viên năng lực kém không đáp ứng được yêu cầu của cơ chế mới còn bị đào thải. Cơ chế quản trị có hội đồng quản trị và sự giám sát chặt chẽ hơn- của những người lao động, những cổ đông- người chủ đích thực của doanh nghiệp, hiện tượng tham nhũng dễ bị phát hiện và nhăn chặn. Đối với cơ quan chủ quản, nếu CPH thì sẽ giảm số doanh nghiệp trực thuộc lâu nay, thực chất là giảm quyền và cũng không loại trừ là giảm lợi ích của cán bộ lãnh đạo cơ quan chủ quản cấp trên, tự nguyện và nghiêm chỉnh thi hành chủ trương CPH doanh nghiệp. Trang 19- tạp chí quản lý Nhà nước. 2.3.3. Những vướng mắc đối với người lao động: Thực hiện CPH là doanh nghiệp thực hiện bước chuyển mang tính bước ngoặt về quản lý. Điều này tác động đến người lao động. Chưa nói đến những người bị “giảm biên chế”mà ngay với người lao động còn ở lại doanh nghiệp thì ngoài thu nhập tính theo giá trị cổ tức có thể lên do doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nhưng các quyền lợi khác của họ có thể không còn được như trước. Lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp trước đây được chia thành 3 quỹ: phát triển sản xuất, phúc lợi khen thưởng, giờ đây trước khi chia thành 3 quỹ phải thanh toán cổ tức cho các cổ đông do vậy quỹ phúc lợi và khen thưởng đều giảm. Những quyền lợi về học hành, trau dồi kiến thức, tham quan nghỉ mát đều bị hạn chế đến mức tối đa. Một vấn đề quan trọng khác nữa là cán bộ, công nhân viên chức, nhiều năm làm việc trong cơ chế Nhà nước, ngạch bậc và nhiều quyền lợi chính trị khác, khi chuyển sang CPH các quyền lợi này sẽ ra sao, trong trường hợp mất việc khi công ty, doanh nghiệp đã cổ phần hóa thì các chế độ chính sách đối với họ như thế nào?... vẫn là những câu hỏi còn bỏ ngỏ. Trang 5 – thông tin lý luận só 12/ 2000 Chương III: Một số chính sách nhằm đẩy mạnh việc cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước. Vào cuối tháng 6 năm 1998, Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký quyết định ban hành Nghị định 44/ CP thay thế cho nghị định 28/ CP về việc chuyển DNNN thành CTCP. Đây là một tín hiệu cho thấy chính phủ Việt Nam quyết tâm kiên trì cải cách DNNN, một chủ trương lớn nằm trong chương trình đổi mới kinh tế tại Việt Nam bắt nguồn từ năm 1998. Điểm đáng chú ý nhất trong Nghị định này là việc cho phép bán cổ phần này cho các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Nhưng phải chờ đến 1 năm sau, ngày 28/6/1999, Thủ tướng chính phủ mới có quyết định số 115/ 1999 QĐ - TTg ban hành quy chế bán cổ phần cho các nhà đầu tư nước ngoài, và cho đến gần đây Bộ tài chính mới có thông tư số 132/ 1999/ TT - BTC ngày 15/11/1999 hướng dẫn cụ thể quy chế này. Như vậy, từ nay vốn nước ngoài tại Việt Nam không chỉ có hình thức đầu tư trực tiếp FDI như hiện nay mà sẽ có thêm hình thức đầu tư gián tiếp FPI. Tuy nhiên, nếu vốn FDI có ưu nhược điểm là “khó vào, khó ra” thì ngược lại vốn FPI lại “dễ vào- dễ ra”. Mỗi khi nền kinh tế có những thông tin nhạy cảm đối với các nhà đầu tư nước ngoài, lập tức sẽ có hàng loạt lệnh bán lại cổ phiếu và mỗi ngày có hàng trăm triệu USD có thể rời khỏi nước này để chuyển dịch sang nước khác. Những đồng vốn FDI vội vã đến và vội vã đi như thế rất dễ dẫn đến hệ quả không chỉ là những cơn biến động giá chứng khoán mà còn có thể gây ra chao đảo cả thị trường hối đoái. Chính vì vậy, nước nào cũng phải có những hạn chế nhất định đối với vốn nước ngoài nói chung cả FDI lẫn FPI không chỉ bảo vệ chủ quyền quốc gia, đối với hệ thống cơ sở sản xuất kinh doanh của nước mình mà còn làm ngăn ngừa những rối loạn trên cả hai thị trường: thị trường chứng khoán và thị trường hối đoái. Trước tình hình đó cùng với những khó khăn trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đưa ra một số chính sách sau: 3.1. Các chính sách chung: 3.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp lý: Điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh tế thị trường, đồng thời phải hướng dẫn, kiểm tra nhằm chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các luật đã ban hành. Sớm ban hành một số luật hoặc pháp lệnh quan trọng khác, như luật hoặc pháp lệnh về chống độc quyền của doanh nghiệp lớn, ngăn cấm việc áp dụng các thủ thuật đầu cơ, bán phá giá, lừa đảo đồng thời khuyến khích cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất lượng, hạ giá bán sản phẩm. Ban hành luật hoặc pháp lệnh về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước. Để nâng cao tính pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cổ phần hóa, tạo hành lang pháp lý cần thiết, đảm bảo để cơ chế thị trường vận hành theo đúng định hưóng của Nhà nước. Cụ thể như sau: -Cần xem xét soạn thảo sớm ban hành 1 văn bản pháp lý cao về CPH (pháp lệnh hay pháp luật về cổ phần hoá) đề thể chế chủ trương CPH với các quy định rõ ràng cụ thể các vấn đề: cổ phần khống chế, tiến trình định giá, chế độ hỗ trợ doanh nghiệp được CPH, chế độ chính sách đối với người lao động để nhân dân yên tâm triển khai CPH. -Cần nới rộng tỷ lệ mua cổ phần đối với người nước ngoài đã đăng ký thường trú ở Việt Nam, bỏ khống chế mua cổ phiếu ưu đãi đối với cán bộ quản lý DNNN để họ tích cực tham gia vận động thực hiện CPH. -Giải quyết thoã đáng đối với số lao động dư thừa trong qua trình CPH và sắp xếp lại DNNN, có thể lập quỹ đền bù (quỹ trợ cấp thất nghiệp) từ các nguồn tài chính như tiền bán cổ phần, ngân sách Nhà nước, viện trợ nước ngoài. -Sớm tổng kết và rút kinh nghiệm về hoạt động của thị trường chứng khoán để hoàn thiện cơ chế hoạt động của thị trường này như một thúc đẩy, khuyến khích quá trình CPH. - Nâng cao hơn nữa quyền tự chủ của doanh nghiệp, để các doanh nghiệp thực sự chủ động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần mạnh dạn tổ chức thí điểm việc hình thành tổ chức đại diện chủ sở hữu (không phải là hội đồng quản trị) để làm chủ thật sự DNNN như là các cổ đông trong các công ty không phải là DNNN. -Đi đôi với việc mạnh dạn trao quyền chủ động, tự chủ cho DNNN nhiều hơn, cần tăng cường thực hiện quyền kiểm soát của Nhà nước với tư cách là chủ sở hữu bằng các hình thức hữu hiệu để đảm bảo hoạt động của DNNN đi đúng hướng, không để cấp thoát tài sản và lãng phí của công. khắc phục dần tình trạngcan thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, quản lý chồng chéo hoặc buông lỏng vai trò quản lý của người chủ sở hữu. -Cần xác định rõ đại diện chủ sở hữu tài sản tại DNNN, quyền và trách nhiệm của người quản lý, điều hành DNNN, nâng cao được khẳ năng quyết đoán, hạn chế được “độ trễ” vốn có của DNNN. 3.1.2. Tập trung chỉ đạo cải tiến, cải cách tổ chức thực hiện CPH. -Ban đổi mới DNNN cần được giao các thẩm quyền, chức năng lớn hơn để có thể tổ chức, điều hành phối hợp hoạt động giữa các bộ, ngành liên quan, giữa bộ với ngành với địa phương để thống nhất chương trình, kế hoạch, biện pháp tháo gỡ khó khăn thúc đẩy CPH tiếp tục tiến lên với nhịp điệu khẩn trương hơn.Cần có sự phân loại các doanh nghiệp để xác định các doanh nghiệp đưa vào diện CPH, đưa kế hoạch CPH vào chương trình công tác của bộ, tổng cục, tổng công ty với nhiệm vụ và chỉ tiêu cụ thể để các đơn vị có căn cứ xây dựng kế hoạch triển khai đồng thời làm căn cứ để các cơ quan quản lý, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá kết quả thực hiện. -Tổ chức công tác tư vấn CPH, với việc đào tạo và tập hợp đội ngũ chuyên viên giỏi, đồng bộ, am hiểu để giúp các doanh nghiệp thực hiện các thủ tục CPH, xây dựng phương án kinh doanh sau CPH, làm cho CPH thực sự phát huy hiệu quả. -Cần tăng cường vai trò của các tổng công ty đối với CPH. Thí dụ, có thể trao cho quyền quyết định về việc CPH đối với các DNNN có giá trị từ 10 tỷ đồng trở xuống. -Yêu cầu các tỉnh, thành ban hành quy định về giá nhà xưởng, kho tàng bến bãi, phương tiện vận tải, máy móc thiết bị để rút ngắn quá trình định giá doanh nghiệp. Trong những trường hợp cần thiết có thể mời chuyên gia kiểm toán quốc tế tư vấn, giải quyết vấn đề này. 3.2. Các chính sách cụ thể. 3.2.1 Chính sách tài chính -vốn. Những năm trước đây do nguồn lực ngân sách Nhà nước có hạn nên đầu tư vốn cho DNNN còn thấp, chưa đủ 30% định mức vốn lưu động, DNNN phải vay ngân hàng 70-80% vốn cho sản xuất kinh doanh: nhiều DNNN đã đầu tư phần lớn tài sản từ vốn vay ngân hàng. Theo thông tư số 06/1998 TT/NHNN ngày 15/8/1998 của NHNNVN hướng dẫn một số nội dung liên quan đến ngân hàng khi chuyển DNNN thành công ty cổ phần quy định giá trị thực tế phần vốn Nhà nứơc tại doanh nghiệp để CPH thao các hình thức quy định tại điều 7 nghị định 44/1998 NĐ-CP ngày 27/6/1998 được tính bằng giá trị thực tế của doanh nghiệp trừ các khoản nợ phải trả, kể cả nợ vay các tổ chức tín dụng( bao gồm cả nợ gốc và lãi ) Như vậy, công ty cổ phần có trách nhiệm thừa kế và thực hiện các quyền nghĩa vụ của DNNN trước đây trong quan hệ với các tổ chức tín dụng theo quy định hiện hành của pháp luật, chịu trách nhiệm nhận các khoản nợ vay cả gốc và lãi với các tổ chức tín dụng và nghĩa vụ trả nợ. Khi CPH DNNN đối với các tài sản hình thành từ vốn vay. Doanh nghiệp đã trả nợ ngân hàng đủ gốc và lãi vay thì tài sản cố định đó thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp, nhưng khi CPH thì tài sản đó lại được định giá bán cổ phần, các cổ đông còn lại phải mua chính tài sản của mình là điều không hợp lý. Vì lẽ đó số tiền bán cổ phần đối với những tài sản trong trường hợp trên đã nộp vào tài khoản tại kho bạc cần được rút ra chuyển trả cho công ty cổ phần đã bảo đảm cho các công ty mới hợp lý. Khu vực DNNN là khu vực nắm gần 80% tiềm lực của quốc gia, là khu vực mang tính quyết định và phát triển nền kinh tế Việt Nam. Chính vì vậy công tác quản lý tài chính của các DNNN phải được đề cao và thường xuyên củng cố hoàn thiện. 3.2.2 Quản trị chiến lược. Tiếp tục đổi mới các cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với DNNN. - Cần đổi mới chế độ vay vốn tín dụng của Nhà nước hiện nay để DNNN có điều kiện tăng vốn đầu tư, giải quyết tình trạng thiếu vốn triền miên, phải vay vốn ngắn hạn của ngân hàng để đầu tư dài hạn trong DNNN hiện nay. Về phía ngân hàng, phải hạ lãi suất cho vay, giúp các doanh nghiệp có điều kiện sản xuất, tăng nhanh vòng quay của vốn. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp không có đủ vốn để đảm bảo sản xuất kinh doanh. Nhà nước cần có cơ chế để nắm bắt được đầy đủ thực trạng sử dụng vốn, tín dụng, việc bảo toàn vốn và cũng cần có các cơ chế chính sách cụ thể tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự huy động vốn trong và ngoài nước, đặc biệt là nguồn vốn còn nhàn rỗi trong dân cư. Cần chú trọng công tác kiểm toán nội bộ và kiểm toán Nhà nước, đồng thời tăng cường chế độ kiểm tra việc sử dụng vốn của Nhà nước thông qua chế độ báo cáo tài chính của DNNN. - Tăng cường đầu tư, đổi mới công nghệ trong DNNN. Đổi mới và kiểm soát công nghệ trong DNNN. Đổi mới công nghệ chính là một trong những yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Chính phủ cần tập trung giúp đỡ DNNN trong việc huy động vốn đầu tư đổi mới công nghệ để tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp, đồng thời cũng cần đưa ra các yêu cầu kiểm tra, kiểm soát việc đổi mới trang thiết bị và công nghệ của DNNN. Hiện nay, trong điều kiện vốn, năng lực của nước ta còn hạn chế, Nhà nước cần tăng cường quản lý, hướng dẫn và kiểm tra việc nhập công nghệ của các DNNN. Việc xây dựng nhà máy, nhập công nghệ mới phải gắn với việc quy hoạch và xây dựng vùng nguyên liệu một cách đồng bộ. Nếu DNNN dùng tiền của của Nhà nước để đổi mới công nghệ thì phải ưu tiên sử dụng máy móc, thiết bị nhập, cấm nhập những công nghệ lạc hậu để biến nước ta thành bãi rác công nghiệp của các nước phát triển. - Có chính sách giải quyết đúng đắn vấn đề lao động hiện nay trong DNNN. Đây không chỉ là vấn đề riêng của doanh nghiệp mà còn là vấn đề chung của Nhà nước và xã hội. Nhà nước ta đã rất quan tâm và có những chính sách cụ thể giúp các DNNN tháo gỡ khó khăn, bảo đảm quyền lợi cho người lao động, không gây mất ổn định về mặt xã hội. Tuy nhiên, các DNNN cũng cần chủ động hơn nữa thông qua các hình thức hợp tác liên doanh, liên kết với nước ngoài, với các khu vực ngoài quốc doanh để có thể cung cấp một bộ phận lao động dôi dư, có tay nghề cho các khu vực đó, nhất là khu vực kinh tế tư nhân đang được khuyến khích đầu tư sản xuất, thu hút nhiều lao động. 3.2.3.Đẩy mạnh tuyên truyền, cổ động cho cổ phần hóa: Đây là 1 công việc rất quan trọng nhưng từ trước đến nay chưa được quan tâm đúng mức. Mục tiêu của đẩy mạnh tuyên truyền CPH là làm cho các cấp, các ngành, từng doanh nghiệp và từng người lao động nhận thức sâu sắc về CPH như 1 xu thế tất yếu và sẽ đem lại lợi ích lâu dài cho cả Nhà nước lẫn cá nhân, từ đó tích cực, yên tâm thực hiện CPH, đẩy mạnh nhanh tiến độ thực hiện chủ trương quan trọng này của Đảng và Nhà nước. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giải thích, vận động trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước, từ trung ương đến địa phương, trong các doanh nghiệp và toàn xã hội về CPH DNNN. Cụ thể: - Kịp thời nêu gương tốt của các doanh nghiệp, địa phương, bộ, ngành trong thực hiện CPH và những bài học kinh nghiệm về CPH. - Các Bộ, ngành, địa phương, tổng công ty tiếp tục mở các khoá tập huấn đối với doanh nghiệp và cán bộ tham gia CPH, đảm bảo để các đối tượng trong phạm vi mình quản lý thông hiểu từ chủ trương đến cách thức tiến hành CPH. - Với hình thức tuyên truyền đa dạng và phù hợp, phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong công tác tuyên truyền về CPH. - Khuyến khích các nhà khoa học và quản lý nghiên cứu, lý giải cặn kẽ về CPH nhằm giúp cho công tác tuyên truyền đạt được kết quả mong muốn. -Mặt khác, về lâu dài, đưa các kiến thức chủ yếu về kinh tế thị trường, về đầu tư, về CTCP, thị trường chứng khoán, CPH DNNN, vv... vào các chương trình đạo tạo chính thức của hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học nhằm hình thành nhận thức và tâm lý về KTTT cho các chủ nhân tương lai của đất nước. 3.2.4. Nâng cao trình độ nguồn nhân lực. Để nâng cao tầm hiểu biết, tầm nhìn cũng như định hướng được một cảnh khái quát nhất về vấn đề CPH, thì vấn đề chúng ta không thể không bàn tới đó là trình độ nguồn nhân lực. Khi mà trình độ công nghệ thoong tin- máy móc thiết bị hiện đại, thế giới đi vào đa chuyên môn hoá sản xuất, áp dụng các công nghệ- kỹ thuật tiên tiến thì đòi hỏi phải có những nhà lãnh đạo chuyên môn cao, có cái nhìn bao quát nhất, quyết đoán nhất để xử lý tình huống và đưa ra các quyết định một cách chính xác, một cách nhanh chóng nhất. Bên cạnh đó là đội ngũ thợ- công nhân lành nghề, trình độ chuyên môn cao, biết sử dụng các ,máy móc thiết bị hiện đại- biết nắm bắt và đáp ứng được yêu cầu của thời cuộc. 3.2.5 Một số chính sách khác. - Theo nghị định, bổ sung nghị định 44/1998/ NĐ-CP và các văn bản có liên quan. Một là: Có thể bãi bỏ hoặc mở rộng các quy định hạn chế mua cổ phiếu của giám đốc và cán bộ quảnlý doanh nghiệp. Hai là: Về cấn đề giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp CPH, chỉ khống chế thời gian công tác và số cổ phiếu của mỗi năm công tác, không khống chế tổng giá trị cổ phiếu giá ưu đãi theo vốn Nhà nước. Ba là: Điều chỉnh tỷ lệ ưu đãi đối với phần vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp khi CPH. Kiến nghị dành 50% vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp để lại cho người lao động trong doanh nghiệp mua cổ phiếu nhằm động viên doanh nghiệp đã có tích luỹ cao, mặt khác, có tác dụng khuyến khích các DNNN chưa CPH tích luỹ vốn, vừa có lợi cho Nhà nước vừa có lợi cho doanh nghiệp khi CPH. Bốn là: Quy định mức khởi điểm tối thiểu được mua cổ phiếu ưu đãi để khuyến khích thu hút và tạo điều kiện cho người lao động trẻ, nhất là những người qua đào tạo (lực lượng quan trọng của doanh nghiệp) có cơ hội được hưởng chế độ ưu đãi. Nên cho lao động trẻ đã qua đào tạo, đủ điều kiện làm việc tại DNNN CPH, được hưởng cổ phần ưu đãi ở mức nhất định. Nguồn chi này lấy từ quỹ hỗ trợ và sắp xếp DNNN. Năm là: Không khống chế pháp nhân, cá nhân mua cổ phiếu ở loại doanh nghiệp mà Nhà nứơc không nắm cổ phần chi phối và cổ phần đặc biệt. Trong trường hợp người lao động trong doanh nghiệp không có khả năng mua hết tổng số cổ phiếu bán ra, không nên khống chế mua cổ phiếu lần đầu của cá nhân, pháp nhân ngoài doanh nghiệp để huy động vốn thêm ngoài xã hội, góp phần rút ngắn thời gian CPH. Sáu là: Cụ thể hoá một bước luật pháp chính sách về cổ phần hoá bằng văn bản hướng dẫn mang tính đồng bộ, tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh trong qúa trình CPH nhằm góp phần thúc đẩy nhanh CPH DNNN. -Chính sách về quyền lợi người lao động trong CTCP: đại bộ phận người lao động trong công ty cổ phần thiết tha làm việc trong công ty, trong đó một bộ phận công nhân nghèo thu nhập chỉ đủ ăn nên ít có tiền mà cổ phần. Để giải quyết vấn đề này nghị định số 44/1998/ NĐ-CP quy định “ người nghèo trong doanh nghiệp được mua cổ phần theo giá ưu đãi thì được hoãn trả trong 3 năm đầu để được hưởng cổ tức và trả dần tối đa trong 10 năm không chịu lãi suất” . Số cổ phần mua trả dành cho người lao động nghèo không vượt quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, điều đó chứng tỏ giá trị cổ phần ưu đãi cho người nghèo rất thấp chỉ bằng 1/5 giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp. Để khuyến khích người lao động trong công ty cổ phần có thêm tiền mua cổ phần, Nhà nước nên xem xét để lại 50% vốn tự tích luỹ của doanh nghiệp chia cho người lao động để mua cổ phần là hợp lý vì lẽ DNNN khi chưa CPH chỉ được Nhà nước cấp 30% vốn lưu động, 70% vốn kinh doanh phải vay ngân hàng. Khi sản xuất kinh doanh tạo lợi nhuận DNNN đã nộp thuế lợi tức và các loại thuế theo luật định. Phần lợi nhuận còn lại sau thuế nhiều doanh nghiệp giảm bớt chi thưởng đã trích lập quỹ đầu tư phát triển, tạo nên quỹ tự tíchluỹ mở rộng sản xuất kinh doanh nên phải được trả người lao động 50% quỹ tự tích luỹ là phù hợp. -Có những hạn chế đối với vốn nước ngoài nói chung- cả FDI lẫn FPI không chỉ vì bảo vệ chủ quyền quốc gia đối với hệ thống cơ sở sản xuất kinh doanh của nước mình mà còn nhằm ngăn ngừa những rối loạn trên cả 2 thị trường: thị trường chứng khoán và thị trường hối đoái. -Chính sách về chương trình tổng thể quốc gia về CPH. -Tiến hành CPH có trọng tâm, trọng điểm tức là xây dựng đúng đối tượng và trình tự tiến hành CPH. +Xác định số doanh nghiệp mà Nhà nước cần giữ 100% vốn, số doanh nghiệp cần chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác. + Xét tổng số doanh nghiệp cần tiến hành CPH cả nước, của từng địa phương, từng bộ ngành, vv..., trong đó số doanh nghiệp CPH mà Nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. + Xác định lộ trình CPH cụ thể cho từng ngành, từng bộ, từng địa phương, từng doanh nghiệp trong lộ trình tổng thể của cả nước. -Chính sách quan tâm hỗ trợ các doanh nghiệp trong và sau cổ phần hoá. + Hoàn thiện thể chế chính sách tạo hành lang pháp lý thông thoáng, đồng thời có văn bản hướng dẫn thực hiện rõ ràng nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thuộc mọi tổ chức hoạt động bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh trên thị trường. + Các cơ quan hữu trách cần quan tâm chỉ đạo sâu sắc, cụ thể nắm chắc tình hình của doanh nghiệp, tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc của từng doanh nghiệp bằng các hình thức hỗ trợ cần thiết nhằm giúp các doanh nghiệp tiến hành CPH thuận lợi, ngăn chặn việc gây phiền hà, sách nhiễu, phân biệt đối xử với doanh nghiệp CPH thực hiện đầy đủ những ưu đãi đối với những doanh nghiệp và người lao động. Kết luận Đổi mới tổ chức, quản lý DNNN, phát huy vai trò của khu vực kinh tế Nhà nước nói chung và DNNN nói riêng là một trong những nội dung trọng tâm trong quá trình đổi mới nền kinh tế và đồng thời nó cũng là chủ trương đổi mới của Đảng,Nhà nước ta trong nhiều năm qua. Những thành quả đạt được của quá trình đổi mới DNNN cũng đồng thời phản ánh kết quả chuyển đổi chung của nền kinh tế. Để đạt được những thành công trong quá trình tìm tòi, đổi mới DNNN là hết sức khó khăn, đó cũng chính là những khó khăn của quá trình chuyển đổi chung của toàn bộ nền kinh tế, xã hội. Đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước nói chung,DNNN nói riêng gắn liền với quá trình đổi mới của toàn bộ nền kinh tế,xã hội, do đó cũng không thể có những thành quả thật hoàn hảo của riêng khu vực kinh tế Nhà nước và DNNN trong khi toàn bộ nền kinh tế đang tiếp tục chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN. CPH DNNN là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta và đã mang lại những kết quả ban đầu quan trọng. Song CPH không thể là “liều thuốc cấp cứu”, có thể làm “ hồi sinh” các DNNN, mà phải dặt trong tổng thể các giải pháp đổi mới tổ chức quản lý, đa dạng hoá sở hữu khác. Bản thân việc CPH DNNN cũng phải đặt trong sự chuyển đổi sang nền KTTT định hướng XHCN của toàn bộ nền kinh tế. Hiện nay, khó khăn trong việc cải cách DNNN nói riêng, và tổng thể nền kinh tế Nhà nước nói chung không chỉ chủ yếu về mặt lý luận, phương pháp luận mà chủ yếu ở các biện pháp cụ thể trong thực tiễn. Quá trình đổi mới DNNN sẽ là một cuộc đấu tranh gay go, phức tạp đòi hỏi sự nỗ kự to lớn của toàn Đảng, Nhà nước và toàn xã hội, và không thể tính bằng thời gian vài quý, thậm chí vài năm mà phải gắn liền với quá trình chuyển đổi chung của nền kinh tế xã hội. Tài liệu tham khảo Kinh tế Nhà nước và quá trình đổi mới doanh nghiệp Nhà nước. Nhà xuất bản chính trị và quốc gia. Sách cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Nhà xuất bản tài chính. Sách giáo trình quản lý kinh tế II. Tạp chí cổ phần hoá và thị trường tài chính chứng khoán. Số 2- tháng 3/1999. Tạp chí phát triển kinh tế. Tạp chí tài chính – tháng 10/2001. Tạp chí quản lý Nhà nước. Công nghiệp- số 1/1999, số 23/1999, số 4/2000. Thông tin lý luận- số 12/2000. Chứng khoán Việt Nam- số 6- tháng6/2000. Tài chính- số tháng 1/1999 và số 10/2001. Kinh tế và phát triển- số 32 tháng 9-10/1999. Mục lục Trang Bảng chữ viết tắt DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước. CPH : Cổ phần hoá. CTCP : Công ty cổ phần. KTTT : Kinh tế thị trường. XHCN : Xã hội chủ nghĩa. UBND : Uỷ ban nhân dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35629.doc
Tài liệu liên quan