Như đã nói, lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường. Cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời “ thừa “ và tạm thời “thiếu “ vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của ngân hàng trong việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung - cầu về vốn quyết định, khi cung lớn hơn cầuvề vốn thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng.
Lãi suất rất nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường, đó là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ để quản ký và điều tiết nền kinh tế. Đối với Việt nam, đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu để luôn có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Lãi suất đã trở thành một công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta.
Trên thực tế, từ năm 1990 chúng ta đã từng bước chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang lãi suất dương, và từ tháng 06/ 1991, đã thực hiện triệt để chính sách lãi suất dương trong hoạt động tín dụng. Lãi suất vượt trên chỉ số lạm phát và được điều chỉnh theo sự biến động của thị trường, có tham khảo lãi suất trên các thị trường khu vực và quốc tế. Chính sách lãi suất đẫ từng bước xử lý hài hoà lợi ích người gửi tiền, các TCTD và người vay tiền, cũng tức là giữa yêu cầu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và tiền vay từ 1986 đến 1995 như sau:
1986 - 1990 1991 1992 1993 1994 1995
Lãi suất tiền gửi
BQ tháng (%) 6, 0 2, 9 1, 9 1, 4 1, 3 1, 4
Lãi suất tiền vay
BQ tháng (%) 4, 3 3, 5 2, 5 1, 8 1, 5 1, 7
(Nguồn: NH Việt Nam 45 năm xây dựng và trưởng thành)
Từ đầu năm 1996, chính sách lãi suất của NHNN có sự thay đổi theo hướng tự do hoá, hủy bỏ các quy định về lãi suất tiền gửi, điều chỉnh giảm mức lãi suất trần cho vay, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0, 35%/tháng. Để ấn định mức lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn trên thị trường và từ tháng 11 năm 1997 Nghị quyết của Quốc hội đẫ không quy định về mức chênh lệch lãi suất là 0, 35% đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Chính sách lãi suất đã đảm bảo được yêu cầu của lãi suất vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, rút ngắn khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi dân cư và tiền gửi doanh nghiệp. Mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn không còn bị khống chế mà phụ thuộcvào thị trường và hiệu quả kinh doanh của từng TCTD. Những giải pháp đó đã được thị trưòng chấp nhận và góp phần rất lớn vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về hệ thống lãi suất tín dụng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
háng hoặc năm ( ở việt năm thường công bố theo tháng còn hầu hết các nước công bố theo năm).
Tuỳ theo từng hình thức tín dụng mà người ta phân biệt lãi suất tín dụng thành các loại khác nhau với những qui địng cụ thể khác nhau.
Lãi suất tín dụng thương mại tính trên cơ sở giá giữa việc trả tiền ngay với việc kéo dài thời gian trả tiền. người ta thông báo cho người mua biết có thể mua chịu hoặc trả tiền ngay và néu trả tiền ngay có thể giảm giá 2%.
Lãi suất tín dụng nhà nước chính là lãi suất các trái phiếu, tín phiếu theo công bố khi nhà nước phát hành trái phiếu tín phiếu. lãi suất này có thể cố định trong suốt thời gian vay.
Ví dụ: loại tín phiếu có thời hạn 3 năm lãi suất 6% thì trong suốt thời hạn 3 năm người mua tín phiếu đực hưởng lãi suất 6%/năm. lãi suất cũng có thể biến đổi. ví dụ cũng loại tín phiếu 3 năm năm đàu công bố hay ghi trên mặt phiếu còn năm thứ 2 năm thứ 3 sẽ đièu chỉnh theo tình hình cụ thể của những năm đó (có thể lên hoặc xuống theo thị trường).
Trong thực tế lãi suất được quan niệm thống nhất là: “Lãi suất tín dụng là tỷ lệ phần trăm so sánh giữa số lợi tức thu được với số tiền bỏ ra cho vay trong một thời kỳ nhất định”.
= x 100 (%)
Trong đó lợi tức tín dụng là số tiền người đi vay phải trả cho người cho vay ngoài phần vốn gốc sau một thời gian sử dụng tiền vay, hay nói cách khác đó chính là phần giá trị tăng thêm so với phần vốn gốc mà người cho vay thu được sau một thời gian nhất định.
Lãi suất tín dụng là một chỉ tiêu đặc biệt đánh giá mức độ lợi tức coa hay thấp khác nhau.
3-/ Nguyên tắc xác định lãi suất:
Những nguyên tắc xác định lãi suất hình thành theo cơ chế thị trường:
3.1. Căn cứ vào quan hệ cung-cầu tiền vay:
- Cung tiền vay chịu tác động của các yếu tố:
+ Mức thu nhập: sự gia tăng thu nhập trong nền kinh tế sẽ làm tăng các khoản tiền dư thừa ngoài chi tiêu dẫn đến sự tăng lên của cung tiền vay qua đó kéo lãi suất hạ xuống.
+ Mức lạm phát: sự gia tăng lạm phát làm cho giá trị thực tế của các khoản tiền giảm xuống làm cho giá trị các khoản tiền thu về khi cho vay giảm, cung tiền giảm, đảy lãi suất tăng lên.
+ Mức rủi ro của việc cho vay: khi mức rủi ro trong cho vay tăng lên, làm giảm bớt việc cho vay, cung về tiền vay giảm đẩy lãi suất lên cao.
- Những yếu tố tác động đến cầu tiền vay:
+ Mức lợi tức dự tính của các cơ hội đầu tư: Khi mức lợi tức này tăng làm tăng nhu cầu về vốn đàu tư, cầu tiền vay tăng đẩy lãi lên suất lên cao.
+ Mức lạm phát: Sự gia tăng lạm phát làm giảm chi phí thực tế của việc sử dụng tiền vay, cầu về tiền vaytăng đẩy lãi suất lên cao.
+ Mức bội chi ngân sách nhà nước: ngân sách nhà nước bội chi làm tăng cầu tiền vay dẫn đến lãi suất tăng.
Khi cung tiền vay nhỏ hơn cầu tiền vay thì lãi suất tăng và ngược lại. Khi cung tiền vay bằng cầu tiền vay thì lãi suất ổn định.
3.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
< <
3.3. Căn cứ vào cơ chế lãi suất dương:
< < <
4-/ Các loại lãi suất tín dụng:
Trên thị trường vốn ở các nước, thông thường có các loại lãi suất sau đây:
4.1. Lãi suất cơ bản:
Là lãi suất do NHTƯ công bố làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại và các tổ chức ấn định lãi suất kinh doanh.
4.2. Lãi suất sàn và lãi suất trần:
Là lãi suất thấp nhất và cao nhất trong một khung lãi suất nào đó, mà NHTƯ ấn định cho các NHTM, hoặc do các NHTM qui định trong hệ thống của nó, nhằm thống nhất các hoạt động trong nền kinh tế quốc dân.
4.3. Lãi suất tái chiết khấu:
Là lãi suất cho vay ngắn hạn mà NHTƯ dành cho các NHTM, trong trường hợp cấp vốn cho chúng thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất của các NHTM đẻ từ đó chúng ấn định lãi suất chiết khấu và lãi suất cho vay khác trong khung lãi suất được phép.
4.4. Lãi suất tái cấp vốn:
Là lãi suất do NHTƯ áp dụng khi tái cấp vốn.
4.5. Lãi suất danh nghĩa:
Là lãi suất mà người cho vay được hưởng, không tính đén sự biến động của giá trị tiền tệ.
4.6. Lãi suất thực:
Là lãi suất sau khi đã loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ, như lạm phát hoặc lên giá tiền tệ.
4.7. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng:
Là lãi suất mua bán vốn giữa các NHTM do NHTƯ điều hành và ấn định.
Các loại lãi suất tín dụng được hình thành một cách đa dạng trong nền kinh tế thị trường. Đại bộ phận chúng đều do NHTƯ kiểm soát và khống chế. Xu hướng chung sẽ tiến tới một lãi suất phổ thông đơn giản. Hiện nay, ở các nước chậm phát triển lãi suất tín dụng còn cao. Còn ở các nước có nền kinh tế phát triển lãi suất thường hạ. Ngày nay do sự hội nhập kinh tế giữa các quốc gia, cho nên mặt bằng lãi suất có cơ hội được thiết lập giữa nhiều nước trong khu vực và nhiều nước trên thế giới.
5-/ Các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng:
5.1. Cung và cầu về tiền vay:
Như phần trên đã đè cập, cung-cầu tiền vay có ảnh hưởng đến sự biến động lãi suất.
5.2. Mức độ rủi ro trong việc hoàn trả vốn:
Khi mức độ rủi ro càng cao thì người ta sẽ tính lãi suất càng cao và ngược lại. do vậy, tuỳ theo điều kiện đảm bảo và mức độ bảo toàn vốn vay của các khoản tiền vay mà lãi suất có thể cao hay thấp.
5.3. Số lượng vay và thời hạn vay:
Thông thường số lượng lớn và thời hạn vay dài sẽ được tính lãi suất cao hơn số lượng nhỏ và thời hạn ngắn vì mức độ rủi ro thường cao hơn.
5.4. Mức sinh lời của nền kinh tế:
Mức lãi suất cho vay chỉ được chấp nhận khi nó nhỏ hơn mức sinh lời của nền kinh tế đẻ đảm bảo cho người vay có lãi khi sử dụng vốn trong quá trình sản suất kinh doanh. Mức sinh lời cao thì lãi suất sẽ cao và ngược lại.
5.5 Thu - chi ngân sách:
Khi ngân sách nhà nước bội chi, chính phủ bù đắp bội chi bằng cách phát hành và bán tín phiếu, trái phiếu chính phủ, làm tăng nhu cầu vay tiền và tăng lãi suất.
Ngược lại khi ngân sách bội thu sẽ tăng mức cung của quỹ cho vay làm cho lãi suất giảm.
5.6. Chi phí hoạt động ngân hàng:
Vì:
= +
Do đó chi phí hoạt động ngân hàng cao sẽ đẩy lãi suất tăng và chi phí hoạt động giảm sẽ làm lãi suất giảm.
Như vậy để duy trì mức lãi suất vừa phải, thúc đẩy nhu cầu vay vốn thì các ngân hàng cần tích cực giảm chi phí hoạt động cũng như thu hẹp các bộ phận cán bộ dư thừa hay cán bộ kém năng lực, tiết kiệm chi phí để giảm lãi suất cho vay.
5.7. Lạm phát:
Khi lạm phát cao thì người cho vay sẽ không muốn cho vay, cung tiền vay giảm xuống trong khi cầu tiền vay tăng lên (do chi phí cho khoản vay giảm đi) đẩy lãi suất tăng cao.
Lãi suất tín dụng chịu tác động của rất nhiều yếu tố cho nên để xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý, các nhà quản lý, các cơ quan chức năng có liên quan phải có một cách nhìn nhận tổng hợp sát thực để có những quyết định đúng đắn đem lại lợi ích cho người đi vay cũng như đảm bảo quyền lợi của người cho vay, bảo toàn đồng vốn và đảm bảo cho các NHTM, tổ chức tín dụng kinh doanh có lãi và cao hơn nữa là ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
6-/ Ý nghĩa của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế thị trường:
Lãi suất tín dụng là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường. Nó tác động đến tất cả các doanh nghiệp có sử dụng vốn tín dụng nói riêng và do đó đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân nói chung. tác dụng của lãi suất được thể hiện ở những nội dung sau đây:
6.1. Lãi suất tín dụng là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô:
Tăng hay giảm lãi suất cho vay, sẽ làm vốn của doanh nghiệp giảm xuống hay tăng lên. Như vậy quyết định đến việc thu hẹp hay mở rộng sản suất. Tình trạng này sẽ dẫn đến số lượng công việc làm trong xã hội tăng lên hay giảm xuống. Điều đó có nghĩa rằng, lãi suất tín dụng đã có ảnh hưởng trực tiếp đến việc giải quyết tình trạng thất nghiệp trong xã hội
Mặt khác, tăng hay giảm lãi suất tiền gửi, đặc biệt là lãi suất tái chiết khấu sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng ngoại tệ đi vào trong nước. do đó sẽ ảnh hưởng đén cung cầu ngoại tệ dẫn đến sự thay đổi tỷ giá và quan hệ xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ.
Như vậy, có thể khẳng định lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
6.2. Lãi suất tín dụng là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô.
Trong nền kinh tế, thường xảy ra những đột biến ở từng khu vực hay trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân do những nguyên nhân không lường trước được. khi xảy ra những hiện tượng như vậy chính phủ thường sử dụng nhữnh công cụ kinh tế trong đó có lãi suất tín dụng để điều chỉnh lại những quan hệ tạo điều kiện cho kinh tế khu vực, ngành hay toàn bộ nền kinh tế phát triển. Chẳng hạn, trong điều kiện lạm phát, chính phủ có thể tăng lãi suất tiền gửi để rút bớt tiền trong lưu thông về, hoặc có thể áp dụng mức lãi suất khác nhau giữa các khu vực, để điều hoà lưu thông tạo mặt bằng giá cả hợp lý, đảm bảo cho sản suất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Là công cụ điều chỉnh kinh tế vi mô, lãi suất tín dụng phải được xử lý kịp thời và chính xác. Điều đó đòi hỏi hệ thống ngân hàng phải nắm vững thông tin kinh tế, biết xử lý thông tin, để có những quyết định chính xác trong việc thực hiện chính sách lãi suất.
6.3. Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại:
Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng lãi suất tiền gửi và hạ lãi suất cho vay. Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại. Thực chất của quá trình này là phân chia khối lượng tiền gửi và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngaan hàng ra thị trường. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, mỗi ngân hàng thương mại đều có chiến lược khách hàng của mình. Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các ngân hàng thương mại đều tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
6.4. Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư:
Theo lý thuyết tài chính, chúng ta có thể đưa ra một phương trình đơn giản về thu nhập.
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình, các doanh nghiệp mà cả đói với nền tài chính quốc gia. Giả sử, trong điều kiện của mộy nền kinh tế bình thường, tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý. Để tăng tỷ lệ tiết kiệm, khuyến đầu tư, tức là tăng khả năng tài chính cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thì biện pháp có hiệu quả nhất là tăng lãi suất huy động vốn. Khi lãi suất huy động vốn tăng lên, thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét lại các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên, có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi này, để tăng thêm tỷ lệ tiết kiệm trong tổng thu nhạp. Sau đó từ khoản tiết kiệm này, họ sẽ chọn hướng đầu tư : Gửi vào ngân hàng, vào quĩ bảo hiểm, hay đầu tư vào thị trường chứng khoán. . . khi thấy có lợi hơn.
Như vậy có thể khẳng định lãi suất là công cụ can thiệp có hiệu lực để phân chia giữa quỹ tiêu dùng và tiết kiệm. Nhưng nâng lãi suất huy động vốn đến mức độ nào, thì cần phải cân nhắc thận trọng để đảm bảo sự phát triển hài hoà của nền kinh tế quốc dân.
II-/ THỰC TRẠNG LÃI SUẤT TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM - ƯU NHƯỢC ĐIỂM & TÁC DỤNG ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI:
1-/ Giai đoạn từ trước tháng 3 - 1989:
Đây là thời kỳ điều hành lãi suất theo cơ chế lãi suất âm. Trong giai đoạn này tuỳ từng thời gian Ngân hàng Nhà nước có điều chỉnh lãi suất nhưng do lạm phát phi mã (tỷ lệ lạm phát năm 1986 là 747,7%, năm 1987 là 301,3%) nên lãi suất luôn ở tình trạng âm:
+ Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn mức lạm phát.
+ Lãi suất cho vay thấp hơn mức lãi suất huy động.
Hệ thống lãi suất âm có nhiều tiêu cực:
+ Khả năng huy động vốn đi với yêu cầu rút bớt tiền trong lưu thông, giải toả áp lực của tiền đối với giá cả hàng hoá bị hạn chế nhiều.
+ Nhu cầu vay vốn tăng lên không thực chất tạo lợi nhuận giả cho doanh nghiệp.
+ Ngân hàng bao cấp cho khách hàng qua lãi suất tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng, ngân hàng không thể kinh doanh bình thường, lãi suất hoàn toàn do Nhà nước quyết định theo ý muốn chủ quan.
Từ đó hình thành nên các kết quả trái ngược nhau, bất hợp lý giữa người gửi tiền, ngân hàng và người vay vốn. Người ta đã ví việc gửi tiền tiết kiệm như là việc bán một con trâu lấy tiền gửi vào ngân hàng, khi rút tiền ra thì số tiền ấy chẳng mua nổi cái dây thừng.
2-/ Giai đoạn từ tháng 3 - 1989 đến tháng 10 - 1993:
Thời kỳ này Ngân hàng Nhà nước đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông về, kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã nâng lãi suất huy động lên rất cao trong một thời gian ngắn: lãi suất không kỳ hạn là 9%/tháng tức là 108%/năm, lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 12%/tháng tức là 144%/năm. Việc làm đó đã thu hút một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng, giảm áp lực lạm phát. Siêu lạm phát bị chặn đứng nhanh chóng, sau đó xảy ra hiện tượng giảm lạm phát vào tháng 5 đến tháng 7/1989, được ổn định với mức thấp cho tới tháng 6/1990. Giá vàng, đôla Mỹ giảm đáng kể chứng tỏ lòng tin của dân cư đối với đồng nội tệ được phục hồi.
Chính sách lãi suất trên đã có hiệu quả tức thì nhưng chỉ thích hợp với những bối cảnh lịch sử nhất định vì đây chỉ là biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ tương tự như việc ấn định vì đây chỉ là biện pháp can thiệp trực tiếp vào thị trường tiền tệ tương tự như việc ấn định giá bằng các biện pháp hành chính của Nhà nước cho hàng hoá trên thị trường. Từ 20/3/1990 đến tháng 11/1990 Ngân hàng Nhà nước vẫn để lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 3 tháng là 4%, tiền gửi không kỳ hạn là 1,8%/tháng, lãi suất cho vay các tổ chức kinh tế là 2,4%/tháng thấp hơn lãi suất tiền gửi là 1,6%/tháng, do vậy Nhà nước phải bù lỗ cho ngân hàng hơn 400 tỷ đồng.
Thực tế lãi suất ở Việt Nam biến động hết sức thất thường và hệ thống thông tin số liệu chưa cho phép dự đoán tỷ lệ lạm phát chính xác, do đó khi lấy lạm phát làm cơ sở quy định mức lãi suất đã làm cho mức lãi suất thực tế dao động mạnh, sự ổn định kinh tế vĩ mô không duy trì được trong thời gian dài. Nửa cuối năm 1990 và đầu năm 1992 lạm phát lại quay trở lại.
Trước tình hình đó, tháng 6/1992, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có sự điều chỉnh lãi suất theo hướng lãi suất dương và đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng:
+ Chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương tức là lãi suất tiền gửi cao hơn mức lạm phát và lãi suất cho vay cao hơn lãi suất huy động, xử lý hài hoà lợi ích của người gửi tiền, người vay vốn và tổ chức tín dụng.
+ Xoá bỏ bao cấp qua lãi suất ngân hàng, chuyển hoạt động ngân hàng sang kinh doanh thực sự. Nhờ kiềm chế được lạm phát, giảm được giá đôla, vàng, từ tháng 6/1992 Ngân hàng đã giảm dần lãi suất tiết kiệm và từ thágn 8/1992 thực hiện lãi suất dương.
Tuy vậy trong giai đoạn này còn một số tồn tại:
+ Đối với từng ngành kinh tế (công - nông - thương nghiệp) có mức lãi suất riêng.
+ Đối với các thành phần kinh tế (quốc doanh và ngoài quốc doanh) có phân biệt lãi suất.
Chính vì vậy chưa khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh một cách bình đẳng.
3-/ Giai đoạn từ 01 - 01 - 1993 đến 01 - 01 - 1996:
Ngân hàng Nhà nước vừa áp dụng lãi suất trần cho vay vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.
3.1- Lãi suất trần:
Lãi suất trần cho vay doanh nghiệp Nhà nước là 1,8%/tháng, cho vay thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/tháng.
3.2- Lãi suất thoả thuận:
Trường hợp các ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận: lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng.
Trên thực tế khoảng 30 - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ là từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận và phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/tháng.
Với mức lạm phát năm 1993 là 5,2%, lãi suất thực của ta trở nên quá cao (lãi suất thực tiền gửi tiết kiệm là 11,6%/năm, lãi suất thực cho vay theo lãi suất trần là 20%/năm) lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ta cao gấp 1,1 lần của Hàn Quốc, 3,7 lần của Mỹ, lãi suất cho vay cao gấp 1,5 lần của Đức và 4,2 lần của Mỹ.
Vào cuối năm 1995, mức lãi suất trần của Việt Nam là 2,1%/tháng (25,2%/năm) sau khi trừ đi tỷ lệ lạm phát 12,7% còn 12,5%/năm trong khi lợi nhuận bình quân của toàn bộ nền kinh tế chưa vượt mức 6,5%/năm cho nên nhiều ngân hàng thương mại trở nên thừa vốn, dù nền kinh tế còn rất thiếu vốn nhưng lãi suất cho vay quá cao, vượt quá khả năng thanh toán so với lợi nhuận. Một số ngân hàng thương mại chủ động hạ lãi suất cho vay, chuyển sang đầu tư bất động sản hoặc tài trợ cho thương mại bán hàng trả góp thậm chí đầu tư vào trái phiếu Ngân hàng Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng với lãi suất thấp để “tiêu thụ” vốn dưới giá mua vào nhưng an toàn. Nhiều doanh nghiệp và nhà đầu tư đã chuyển vốn sang nhập hàng trả chậm lấy tiền Việt Nam, gửi tiết kiệm lấy lãi cao, ngày càng có xu hướng khuyến khích nhập khẩu, kìm hãm xuất khẩu, doanh số tín dụng ngân hàng đã một phần nhường chỗ cho doanh số tín dụng thương mại trong khi Luật Thương phiếu và Hối phiếu của Việt Nam chưa có, làm hoạt động kinh doanh của ngân hàng bị thu hẹp.
Với cơ chế lãi suất thoả thuận có thể hiểu là đã tự doa hoá một phần lãi suất hoặc đó là cơ chế cho vay với lãi suất tương ứng đi đôi với một biên độ dao động nhất định. Tuy nhiên, mức chênh lệch giữa sàn tiền gửi và trần cho vay rất lớn từ 0,7% - 1,0%/tháng làm cho các ngân hàng thương mại có lợi nhuận quá cao trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tế này kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá IX tháng 8/1995 cùng với Nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng đã yêu cầu các ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất cho vay huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng, đây là căn cứ để ra đời cơ chế lãi suất trần và mức khống chế từ 01/01/1996.
4-/ Giai đoạn từ sau 01 - 01 - 1996 đến nay:
4.1- Cơ chế quản lý lãi suất tín dụng thông qua mức khống chế 0,35%:
Theo quyết định số 381/QĐ - NH1 ngày 28/12/1995 từ 01/01/1996 Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất cho vay tối đa và mức chênh lệch 0,35% thay cho việc điều hành theo lãi suất cho vay, lãi suất tiền gửi chi tiết và lãi suất thoả thuận quy định trước đó.
Về lãi suất trần: do quy mô và địa bàn hoạt động khác nhau nên Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất có phân biệt như sau:
+ Trần lãi suất cho vay ngắn hạn: là mức lãi suất thấp nhất, áp dụng cho khu vực thành thị.
+ Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn: cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn một ít do thời hạn dài dễ gặp rủi ro.
+ Trần lãi suất cho vaytrên địa bàn nông thôn: cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung - dài hạn do điều kiện hoạt động ở địa bàn nông thôn khó khăn hơn thành thị.
+ Trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng đối với các thành viên: là trần lãi suất cho vay cao nhất do quỹ tín dụng mới lập thí điểm, quy mô nhỏ bé, chi phí hoạt động cao.
Về mức khống chế 0,35%/tháng đối với chênh lệch bình quân giữa vốn cho vay (đầu ra) và huy động vốn (đầu vào) ở mỗi ngân hàng. Từ đó đã hình thành một hành lang vận động hợp pháp của vốn tín dụng về phương diện giá cả của nó đó là một hành lang mà đường biên cứng là mức lãi suất trần cho vay còn đường biên còn lại thì không được cố định mà được thay thế bằng mức chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động của một chu kỳ kinh doanh tín dụng ở mỗi ngân hàng không được quá 0,35%/tháng.
Tuy vậy kiểm chứng trên thực tế qua hơn một năm thực hiện, việc khống chế trực tiếp đối với ngân hàng thương mại đã bộc lộ nhiều tồn tại, vướng mắc và hạn chế về hiệu lực thi hành.
Thứ nhất: Theo tài liệu về tình hình chênh lệch lãi suất năm 1996 và 6 tháng đầu năm 1997 cho thấy phần lớn ngân hàng thương mại có mức chênh lệch thực tế bình quân đạt dưới 0,35%/tháng là do: chất lượng tín dụng chưa cao, nợ khó đòi phát sinh làm giảm doanh thu, vốn huy động tăng mạnh, nhưng tín dụng tăng trưởng chậm do tỷ lệ nhu cầu vay vốn của tổ chức kinh tế và cá nhân không đủ điều kiện cần thiết cao, ngân hàng thương mại bị ứ đọng vốn tạm thời chi phí tăng mà doanh thu giảm, tiền gửi kỳ hạn 3 tháng chiếm tỷ trọng lớn đã làm tăng số lãi phải trả, dư nợ cho vay tăng khá nhưng lãi suất cho vay giảm, nhiều ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu bằng ngoại tệ với mức chênh lệch lãi suất thấp (2% - 2,5%/năm) chiếm khoảng 30% tổng dư nợ cho vay.
Như vậy nội dung kinh tế của chỉ tiêu chênh lệch lãi suất chỉ phản ánh thu nhập thực tế của ngân hàng thương mại, không phản ánh tính hình chi phí và việc khống chế chi phí theo mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng.
Thứ hai: Để chấp hành đúng mức khống chế 0,35% các ngân hàng phải căn cứ vào cơ cấu nguồn vốn tại thời điểm quyết định cho vay để xác định lãi suất huy động bình quân từ đó mới có thể xác định lãi suất cho vay, việc đó hết sức phức tạp và không bao giờ đạt được sự chính xác, vì nguồn vốn ngân hàng không ngừng biến đổi hàng ngày, hàng giờ, cho dù ở thời điểm ngân hàng quyết định lãi suất cho vay quy định mức chênh lệch £ 0,35% thì kết quả cũng chỉ mang tính thời điểm, vì sau đó do sự biến đổi cơ cấu của nguồn vốn, mức chênh lệch này sẽ thay đổi trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
Thứ ba: Việc quản lý và điều hành chênh lệch lãi suất trực tiếp đối với từng ngân hàng thương mại là không thể làm được. Vì:
+ Đặc điểm và điều kiện kinh doanh của các loại hình ngân hàng thương mại khác nhau, chênh lệch lãi suất của các ngân hàng thương mại là khác nhau nên quy định một mức chênh lệch chung là không hợp lý.
+ Cả nước hiện có hơn 9000 ngân hàng thương mại và gần 1000 Quỹ tín dụng nhân dân, Ngân hàng trung ương làm sao có thể kiểm tra việc chấp hành theo quy định kỳ tháng, quý, đối với từng đơn vị ? Vả lại nếu kiểm tra hết thì sẽ tốn kém, mà không kiểm tra thì hiệu lực thi hành rất hạn chế.
+ Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại có tính kỳ hạn, việc huy động vốn và cho vay việc thu - chi lãi sẽ xảy ra tình trạng “thu dồn” hoặc “chi dồn” trong một thời gian ngắn. Chế độ tài chính hiện hành chưa quy định cụ thể về việc trích trước, phân bổ đều đặn và đầy đủ các khoản thu - chi trong năm theo thông lệ quốc tế. Các ngân hàng sẽ có quý lỗ, quý lãi, nên có năm chênh lệch lãi suất nhỏ hơn 0,35%, có năm lớn hơn 0,35% không phụ thuộc hoàn toàn vào nỗ lực chủ quan của mỗi ngân hàng, vì vậy việc khống chế và xử lý chênh lệch là việc làm khó khăn.
Thứ tư: Việc khống chế chênh lệch lãi suất 0,35% có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của thị trường tiền tệ và hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại, biểu hiện là:
+ Khi lãi suất huy động bình quân bị khống chế cứng nhắc làm giảm sự cạnh tranh trên thị trường tiền tệ, không khuyến khích ngân hàng thương mại đưa ra sản phẩm mới.
+ Chênh lệch lãi suất = (Lãi suất cho vay thực tế bình quân - Lãi suất huy động thực tế bình quân) bị khống chế tối đa là 0,35%, nghĩa là các ngân hàng có chênh lệch lãi suất càng thấp càng tốt sẽ không khuyến khích các ngân hàng cạnh tranh bằng uy tín và hiệu quả kinh doanh mà thay vào đó là nâng cao lãi suất huy động vốn.
+ Không khuyến khích ngân hàng thương mại tập trung huy động vốn đầu tư mở rộng cho vay trung - dài hạn mà chỉ tập trung cho vay ngắn hạn để tránh rủi ro. Ngân hàng thương mại sẽ giảm thu lãi, tăng chi lãi huy động vốn vào những tháng cuối năm để nhằm khống chế chênh lệch lãi suất dưới 0,35% làm kết quả kinh doanh của ngân hàng không được phản ánh chính xác, luân chuyển vốn tín dụng bị ách tắc. Do vậy hạn chế tính năng động trong hoạt động tín dụng, gây nên tình trạng khó khăn cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng.
Như vậy việc khống chế lãi suất huy động bình quân và cho vay bình quân trong một mức chênh lệch cố định thì vai trò - công dụng về mặt quản lý tài chính rất hạn chế, hiệu lực thi hành không cao, kết quả không đạt như mong muốn, trái lại nó gây tiêu cực đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại.
4.2- Cơ chế điều hành lãi suất trần và không quy định mức chênh lệch lãi suất tín dụng.
Tại kỳ họp thứ 2, tháng 12 - 1997, Quốc hội khoá IX cho phép bỏ mức chênh lệch lãi suất 0,35%/tháng đồng thời thu hẹp sự cách biệt giữa mức lãi suất cho vay ở thành thị và nông thôn, Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất mới, rút từ 4 trần lãi suất xuống còn 3 trần lãi suất:
+ Trần lãi suất cho vay ngắn hạn 1,2%/tháng.
+ Trần lãi suất cho vay trung - dài hạn 1,25%/tháng.
+ Trần lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên 1,5%/tháng.
Việc điều hành theo cơ chế lãi suất trần có nhiều ưu điểm như:
+ Trong phạm vi trần các tổ chức tín dụng được tự do ấn định mức lãi suất cho vay và tiền gửi cụ thể, linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh doanh, tự chủ trong kinh doanh, cạnh tranh lành mạnh từng bước tự do hoá lãi suất.
+ Tạo mặt bằng chung về lãi suất chung trong cả nước, xoá bỏ lãi suất thoả thuận vượt quá xa mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định.
+ Có trần lãi suất sẽ bảo vệ lợi ích người vay tiền.
+ Đảm bảo vai trò quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất trong giai đoạn đầu mới hình thành của thị trường tiền tệ trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên đây là cách quản lý “cứng” trong giai đoạn thị trường chưa phát huy hết mặt tích cực, nhạy cảm của nó, lợi dụng mức khống chế “cứng” này nhiều tổ chức tín dụng cho vay ngay theo mức lãi suất tối đa, đụng trần để đạt lợi nhuận cao. Trần lãi suất kém linh hoạt, khó điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu về vốn và điều kiện khó khăn hay lợi nhuận của từng vùng.
Trong giai đoạn khủng hoảng và sau giai đoạn khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và thế giới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh nhiều lần mức lãi suất. Cụ thể là:
Theo quyết định số 30/QĐ - NHNN ngày 17/01/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất cho vay nội tệ là 1,2%/tháng (ngắn hạn) và 1,25%/tháng (trung và dài hạn).
Đặc biệt trong 11 tháng năm 1999, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNNVN) đã 5 lần điều chỉnh trần lãi suất, trong đó có 4 lần hạ trần lãi suất.
Ngày 29/01/1999, Thống đốc NHNNVN có chỉ thị số 01/CT - NHNN1 quy định từ ngày 01/02/1999 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam của 4 ngân hàng thương mại quốc doanh đối với khách hàng ở khu vực thành thị là 1,1%/tháng (ngắn hạn) và hạ còn 1,15%/tháng (trung và dài hạn). Mức lãi suất quỹ tín dụng cho vay thành viên vẫn giữ nguyên ở mức 1,5%/tháng.
Để kích cầu thêm một bước và tái lập sự bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, ngày 29/05/1999 Thống đốc NHNNVN ban hành quyết định số 189/1999/QĐ - NHNN1 về việc điều chỉnh lãi suất cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn cho vay cả ở thành thị, nông thôn đều áp dụng mức lãi suất thống nhất 1,15%/tháng.
Tiếp đến, ngày 30/07/1999, Thống đốc NHNNVN đã ban hành quyết định số 266/1999/QĐ - NHNN1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam từ 1,15%/tháng xuống còn 1,05%/tháng. Riêng các Hợp tác xã tín dụng và Quỹ tín dụng nhân dân giữ nguyên trần lãi suất cho vay là 1,5%/tháng.
Ngày 01/09/1999, Thống đốc NHNNVN ra chỉ thị số 05/1999/CT-NHNN1 hạ mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam xuống mức 0,95%/tháng ở khu vực thành thị, đồng thời ra quyết định số 307/1999/QĐ-NHNN1 quy định lãi suất tái cấp vốn là 0,7%/tháng.
Tại nhiều ngân hàng thương mại nhất là các ngân hàng thương mại quốc doanh tiền gửi vẫn không ngừng tăng lên nhưng cho vay không hết. Các ngân hàng thương mại quốc doanh phải đầu tư hàng nghìn tỷ đồng vào trái phiếu Kho bạc Nhà nước thời hạn 1 năm và công trái xây dựng Tổ Quốc thời hạn 5 năm mặc dù lãi suất thấp. Trước tình hình đó, các ngân hàng thương mại đồng thời hạ lãi suất để chống lỗ với mức độ khác nhau. Đến đầu tháng 10 năm 1999, lãi suất tiền gửi không kỳ hạn chỉ còn 0,3%/tháng so với lãi suất 0,5%/tháng đầu năm 1999, tính ra giảm 40%, lãi suất tiền gửi kỳ hạn 6 tháng chỉ còn 0,5%/tháng so với 0,75%/tháng vào đầu năm 1999 đã giảm 34%.
Ngày 22/10/1999, Thống đốc NHNNVN ra quyết định số 383/1999/QĐ-NHNN1 mức trần lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam ở khu vực thành thị là 0,85%/tháng, khu vực nông thôn là 1%/tháng. Đồng thời ra quyết định số 382/1999/QĐ-NHNN1 điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 0,5%/tháng có hiệu lực từ ngày 01/11/1999.
Trên cơ sở các mức lãi suất đó các tổ chức tín dụng cũng quyết định điều chỉnh giảm các mức tiền gửi và huy động vốn của mình. Kể từ ngày 25/10/199 mức lãi suất tiền gửi của hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam trong toàn quốc điều chỉnh giảm: Không kỳ hạn còn 0,15%/tháng, kỳ hạn 3 tháng còn 0,3%/tháng, kỳ hạn 6 tháng là 0,4%/tháng và kỳ hạn 12 tháng là 0,5%/tháng.
4.2.1- Cơ sở điều chỉnh:
Việc điều chỉnh lãi suất nhiều lần như vậy không hẳn do ý định chủ quan của Ngân hàng Nhà nước, nó xuất phát từ cơ sở như:
+ Năm 1998 tỷ lệ lạm phát đột ngột tăng lên 9,2% làm lãi suất huy động thực giảm còn 2,2%/năm vẫn cao gấp 2 lần so với thế giới. Trái lại trong 6 tháng đầu năm 1999 lãi suất huy động doanh nghiệp vẫn giữ nguyên ở mức 0,8%/tháng lãi suất thực trở lại mức 0,5%/tháng hay 6%/năm cao gấp 5 lần so với thế giới. Lãi suất huy động cao làm lãi suất cho vay cũng tăng cao, mà lãi suất tăng cao gây nhiều khó khăn cho phát triển kinh tế, làm đầu tư trì trệ cho nên phải hạ lãi suất.
- Hơn nữa lạm phát 9 tháng đầu năm ở mức thấp, 7 tháng gần đây liên tục thiểu phát ở mức: - 0,7%; - 0,6%; - 0,4%; - 0,3%; và - 0,4%. Giảm phát làm cho tốc độ tăng trưởng chậm lại và sức mua của thị trường giảm sút. Các ngành sản xuất vật đang gặp khó khăn về thị trường và vốn để đổi mới kỹ thuật, công nghệ. Vấn đề mất cân đối giữa hàng và tiền thực chất là mất cân đối giữa khối lượng hàng hoá trên thị trường và khả năng thanh toán của nền kinh tế là rất trầm trọng. Vốn trong các ngân hàng thì ứ đọng mà nông dân và các doanh nghiệp lại thiếu vốn cho đầu tư sản xuất, kinh doanh. Do vậy một biện pháp cần thiết để “kích cầu” là hạ lãi suất.
- Tỷ giá hối đoái ổn định từ nhiều tháng nay (từ tháng 10/1998) và kể cả việc thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái tháng 2/1999 cũng không gây biến động về tỷ giá.
- Tình hình cung - cầu về vốn tín dụng: tốc độ tăng số dư tiền gửi bằng đồng Việt Nam tăng nhanh hơn tiền gửi bằng ngoại tệ, đến giữa tháng 5/1999 tốc độ tăng tiền gửi là 9,3% trong khi tốc độ tăng dư nợ cho vay chỉ là 5,2% so với đầu năm 1999.
- Tình hình thực hiện lãi suất cho vay và huy động vốn bằng đồng nội tệ của các tổ chức tín dụng: nhìn chung do tình hình vốn ứ đọng nên các tổ chức tín dụng cũng đã giảm lãi suất cho và tiền gửi đảm bảo cân đối nên cung - cầu vốn tín dụng.
Vào thời điểm tháng 5/1999:
+ Lãi suất cho vay: phổ biến ở mức 1,1%/tháng (ngắn hạn) và 1,15%/tháng (trung - dài hạn) ở thành thị; ở nông thôn cho vay sát trần 1,2% và 1,25%/tháng nhưng một số tổ chức tín dụng chủ yếu là các ngân hàng thương mại quốc doanh thực hiện giảm 10 - 15% so với lãi suất trên để đẩy mạnh cho vay. Cá biệt có tổ chức tín dụng còn cho vay 0,9%/tháng, cho vay xuất khẩu: 0,8%/tháng.
+ Lãi suất tiền gửi: mặt bằng lãi suất tiền gửi hạ xuống đáng kể từ 0,1 - 0,2%/tháng so với năm 1998 và quý I/1999 nhằm cân đối cung - cầu về vốn. Tiền gửi không kỳ hạn phổ biến ở mức 0,3 - 0,5%/tháng, kỳ hạn 6 tháng: 0,75 - 0,8%/tháng, kỳ hạn 12 tháng: 0,9 - 1%/tháng.
Dưới đây là biểu một số lãi suất chính do Ngân hàng Nhà nước quy định trong thời gian gần đây:
Đơn vị tính: %
1/7/97
21/1/98
1/2/99
1/6/99
1/8/99
4/9/99
25/10/99
Ngắn hạn
1,0
1,2
1,1
1,15
1,05
0,95
0,85
Trung - dài hạn
1,1
1,25
1,15
1,15
1,05
0,95
0,85
Khu vực nông thôn
1,2
1,25
1,25
1,15
1,05
1,05
1,0
Quỹ tín dụng nhân dân
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
1,5
Lãi suất tái cấp vốn
1,1
1,1
1,0
0,85
0,85
0,7
0,5
4.2.2- Mục đích điều chỉnh lãi suất:
+ Đảm bảo tính phù hợp giữa mặt bằng lãi suất với tình hình lạm phát.
+ Giảm bớt khó khăn cho người vay, góp phần kích thích nền kinh tế phát triển, đảm bảo cân đối cung - cầu về vốn tín dụng, đẩy mạnh cho vay vốn của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế, tạo khuôn khổ đủ rộng để tổ chức tín dụng thuộc các loại hình khác nhau, năng lực tài chính khác nhau, độ rủi ro khác nhau định ra mức lãi suất huy động cho vay và hợp lý.
+ Giảm bớt các trần lãi suất chuẩn bị điều kiện tiến tới áp dụng cơ chế điều hành theo lãi suất cơ bản như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định.
4.2.3- Tác động của điều chỉnh lãi suất tín dụng thời gian vừa qua:
Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước đã thiết kế một mặt bằng lãi suất áp dụng chung cho cả vay ngắn hạn, trung - dài hạn, tạo sự bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn.
Tuy nhiên dư nợ của khu vực nông thôn không lớn trong đó các khoản cho vay chính sách, cho vay theo các chương trình của Chính phủ chiếm phần không nhỏ nên mặc dù có tạo điều kiện giảm chi phí và tăng đầu tư đối với khu vực nông thôn song tác dụng kích thích khu vực nông thôn của việc điều chỉnh lãi suất tới sự bình đẳng như vậy cũng chưa mạnh mẽ. Thêm vào đó, chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn này vẫn còn cao dẫn đến từ lần điều chỉnh lãi suất thứ tư trong năm trở đi, lãi suất trần, áp dụng đối với khu vực nông thôn trở lại cao hơn so với mức lãi suất trần cho vay ở thành thị.
Về việc thống nhất trần lãi suất đối với các khoản vay có thời hạn khác nhau trong giai đoạn hiện nay có thể nhận định là nhằm khuyến khích các nhà đầu tư đẩy mạnh đầu tư trung - dài hạn, khuyến khích đầu tư theo chiều sâu, đẩy mạnh phát triển sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội chủ nghĩa. Do mức độ rủi ro thường tăng theo thời hạn của khoản vay nên đây chưa phải là quyết định hợp lý. Nếu như trước kia chúng ta đã từng không phân biệt lãi suất cho vay các thời hạn khác nhau rồi đến quy định lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay dài hạn đã được nhìn nhận là không hợp lý và được sửa đổi bằng việc nâng lãi suất cho vay trung - dài hạn lên cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn thì việc thống nhất trần lãi suất như hiện nay phải chăng là một bước thụt lùi ? Có lẽ đây chỉ là một giải pháp tình thế để đẩy mạnh “đầu ra” của tín dụng mà thôi, chắc chắn trong tương lai chúng ta sẽ phải trở lại nguyên tắc đúng đắn là “Lãi suất tín dụng ngắn hạn < Lãi suất tín dụng dài hạn”.
Thứ hai: Việc điều chỉnh lãi suất tín dụng đã gây nên một số ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng:
+ Biên độ giảm trần lãi suất giữa các lần điều chỉnh quá lớn (0,1%/tháng; 1,2%/năm), khoảng cách giữa hai lần hạ trần lãi suất qua gần nhau liên tiếp đã gây ra các ảnh hưởng sau:
+ Hoạt động của ngân hàng thương mại chưa kịp ổn định qua việc hạ trần lãi suất lần này đã phải đối phó với việc hạ trần lãi suất lần sau. Các ngân hàng e dè trong huy động vốn nhất là vốn dài hạn vì sợ lãi suất tiếp tục hạ làm ngân hàng lỗ nhiều hơn.
+ Các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông thôn do địa bàn hoạt động khó khăn, cho vay món nhỏ, chi phí lớn, nguồn vốn hạn hẹp hơn các tổ chức tín dụng khác. Từ đó buộc các tổ chức tín dụng này giảm chi phí, tiết kiệm và nâng cao chất lượng phục vụ nông nghiệp và nông thôn với lãi suất thấp.
+ Khách hàng nảy sinh tâm lý chần chừ trong vay tiền ngân hàng, họ chờ một mức lãi suất thấp hơn nữa.
+ Lãi suất tái cấp vốn giảm khuyến khích các ngân hàng thương mại vay vốn từ Ngân hàng Nhà nước.
Thứ ba: Hiệu quả của hạ lãi suất với việc “kích cầu” nền kinh tế:
Kích cầu là một giải pháp kích thích khuyến khích tiêu dùng và mục tiêu cuối cùng là tăng tổng cầu, tổng cung hàng hoá xã hội để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam hiện nay nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu về vốn rất cao của doanh nghiệp và nông dân với sự dư thừa của nguồn vốn tồn đọng trong hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng, bằng việc hạ lãi suất cho vay Nhà nước muốn khai thông tín dụng từ đó kích thích tiêu dùng (bao gồm tiêu dùng cho sản xuất và tiêu dùng cho sinh hoạt, đời sống).
Hạ lãi suất có liên quan đến bố trí lại cơ cấu đầu tư, chi tiêu Ngân sách và là một trong hàng loạt các “kích cầu” mà Nhà nước đã áp dụng như: giảm khung thuế tiêu thụ đặc biệt, giảm thuế luân chuyển, bỏ thuế sát sinh, giảm một số thuế suất khác, tăng ưu đãi tín dụng, điều chỉnh phụ cấp lương, bảo hiểm xã hội, tài trợ mạnh hơn cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, tạo việc làm, xoá đói giảm nghèo. Nhưng có lẽ hạ lãi suất chưa có hiệu quả mạnh mẽ lắm đến việc kích thích nền kinh tế phát triển. Có thể đề cập đến một số nguyên nhân:
+ Lãi suất giảm nhưng do giảm phát nên ở các công ty, doanh nghiệp hàng hoá tồn kho nhiều. Tín dụng đang bí đầu ra, doanh nghiệp cạnh tranh kém, sản xuất trì trệ (riêng 17 Tổng công ty 90 - 91 đã ứ đọng 6000 tỷ đồng). Trong điều kiện làm ăn thua lỗ, các doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc không dám vay vốn, bản thân ngân hàng thương mại cũng không dám bỏ vốn ra để đầu tư vì vậy chỉ trông chờ hạ lãi suất cũng không mở rộng được tín dụng.
+ Lãi suất cho vay ở nông thôn vẫn cao hơn lãi suất thị trường mà nhu cầu đầu tư và tiêu dùng của nông thôn rất cấp bách chỉ riêng việc kiên cố hoá kênh mương thuỷ lợi, đường giao thông nông thôn, phát triển kinh tế trang trại... đã đặt ra yêu cầu rất lớn về vốn vay.
+ Lãi suất tiền gửi mặc dù giảm nhưng nguồn vốn huy động vào ngân hàng vẫn tăng cao vì ở thành phố người có tiền cũng không mua sắm gì nhiều mà đầu tư buôn bán thì khó tìm ra lợi nhuận cao nên tốt nhất là gửi ngân hàng kiếm lãi. Cung tín dụng tăng trong khi đầu ra không có do vậy đã hạ lãi suất mà hiệu quả vẫn không đạt như mong muốn.
+ Lãi suất tín dụng đã hạ thấp nhưng ngân hàng chỉ có thể cho vay nếu khách hàng hội tụ những điều kiện cần thiết, đảm bảo hoàn trả có lãi đúng thời hạn vay. Trên thực tế mặc dù hạ lãi suất cho vay, nới lỏng các điều kiện vay vốn nhưng do không đủ điều kiện để vay nên có thể cần nhưng khách hàng vẫn không vay được vốn. Ngân hàng cho vay tuỳ tiện sẽ tạo ra càng nhiều sự tiềm ẩn về nợ quá hạn gia tăng, khả năng không trả nợ được càng lớn.
Như vậy hạ lãi suất chỉ là điều kiện cần, chưa phải là điều kiện đủ để gia tăng tín dụng. Muốn tín dụng thực sự tăng trưởng thì phải tăng sức bật của nền kinh tế, tăng khả năng hấp thụ vốn cũng như độ an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Một yếu tố không thể thiếu đó là cần có một hệ thống pháp luật đồng bộ và cởi mở hơn.
Hạ lãi suất có ý nghĩa rất lớn đối với chủ trương phát huy nội lực, kích thích phát triển sản xuất và đầu tư, sẽ giúp nền kinh tế Việt Nam thoát khỏi ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ khu vực và thế giới, góp phần đưa tín dụng của nước ta tiến tới mức lãi suất của thế giới. Vậy nên mặc dù chưa đạt được những gì như mong đợi từ việc hạ lãi suất nhưng khách quan mà nói thì hạ lãi suất là một chủ trương đúng đắn.
III-/ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM:
1-/ Định hướng điều hành lãi suất tín dụng ở Việt Nam:
Lãi suất cơ bản:
Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng(TCTD) ấn định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản vẫn là mức lãi suất dược NHNN ấn hành một cách hành chính, chứ không phải tự hình thành trên thị trường tiền tệ và các TCTD buộc phải căn cứ vào mức lãi suất này để xác định các mức lãi suất kinh doanh.
Cũng từ định nghĩa này cần phân biệt rõ lãi suất lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn hiện hành của NHNN. Thực tế lãi suất tái cấp vốn của NHNN cũn có ảnh hưởng toàn diện tới hệ thống lãi suất trong nền kinh tế thị trường và cũng do NHNN xác định. tuy nhiên, hoạt động tái cấp vốn lại không phải là hoạt động bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng - thực tế, nó được thực hiện một cách tự nguyện theo nhu cầu của mỗi TCTD. Nói cách khác, lãi suất tái cấp vốn(mặc dù là một mức lãi sất nhất định trong một thời gian nào đấy) không phải là mức lãi suất bắt buộc đói với các TCTD (nếu TCTD không có nhu cầu tái cấp vốn thì nó không trực tiếp liên quan tới lãi suất tái cấp vốn). cũng vì lý do này, luật NHNN đã tách bạch hai loại lãi suất trên cơ sở qui định:” NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn”.
2-/ Một số ý kiến hoàn thiện chính sách lãi suất theo định hướng lãi suất cơ bản:
Gần đây đã và đang xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau xoay quanh việc NHNN bỏ qui định lãi suất “trần”, để chuyển sang ấn định và điều hành linh hoạt bằng một lãi suất cơ bả, theo như tinh thần qui định tại điều 18 và khoản 12 điều 9 Luật NHNN hiện hành. Quan điểm tập trung nhất chứa đựng các nội dung sau: về xu hướng chung là bỏ “trần” lãi suất vì cứng nhắc lâu nay (vẫn còn 3 loại trần lãi suất). Trên cơ sở lãi suất tái cấp vốn hiện hành sẽ cộng thêm một biên độ ước định để hình thành lãi suất cơ bảnhoặc dựa vào lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến cộng thêm một biên độ ước định để hình thành lãi suất cơ bản.
Nhìn chung, cách lập luận cho loại quan điểm này mới dừng ở định tính, còn bỏ ngỏ nhiều khía cạnh khoa học và pháp lý liên quan đến việc cải tiến chính sách lãi suất hiện nay.
Một là: Cần định dạng đúng đắn lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản để tránh áp dụng máy móc qui định tại diều 18 và khoản 12 điều 9 luật NHNN (liên quan):
+ Lãi suất tái cấp vốn, chủ yếu hướng tới 3mục đích: (1) NHTW cho vay lại với tư cách nhười cho vay cuối cùng đối với nền kinh tế căn cứ vào những khoản tín dụng đã cấp của NHTM (cho vay lưu phiếu, thế chấp khế ước tín dụng, chứng từ liên quan) ; (2) NHTƯ tái chiết khấu các thương phiếu dược NHTM cho vay; (3) NHTƯ sử dụng nguồn vốn dự trữ (DTBB, nguồn dự trữ khác) cho vay hỗ trợ knả năng thanh toán tạm thời của các NHTM (thông qua cầm cố, thế chấp các chứng từ có giá khác nhau).
Lâu nay, ta dùng khái niệm tái cấp vốn (refinancing) là gọi chung cho các nội dung trên. Khi tăng tỷ trọng cấp tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu - còn gọi là cửa sổ tái chiết khấu (resdiscount window) - thì mới có nghiệp vụ tái chiết khấu, nói khác đi khái niệm tái chiết khấu được sử dụng phổ biến hơn.
+ Lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu thường được ấn định chủ quan bởi NHTƯ. Tuy nhiên, mức độ chủ quánẽ giảm khi các nghiệp vụ tái chiết khấu có cơ sở hơn, có hàng hoá đủtiêu chuẩn hơn cho việc cấp tín dụng dưới hình thức tái chiết khấu thay vì tái cấp vốn theo kiểu giản đơn như cách làm của Việt Nam lâu nay. Khi thị trường tiền tệ đã khá phát triển, các nghiệp vụ mua bán vốn theo hợp đồng giao ngay, hợp đồng kỳ hạn - ngắn hạn. . . giữa các lực lượng thị trường trở nên phổ biến, theo đó lãi suất giao dịch liên ngân hàng (interbank interest rate), lãi suất chiết khấu giấy tờ có giá (lãi suất Lombardy), hay lãi suất mua bán hợp đồng xoay vòng kỳ hạn (lãi suất Repo) được hình thành. . . Đó là điều kiện thị trường hết sức quan trọng để NHTƯ điều hành đúng đắn lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu.
Trước mắt, do chưa đủ diều kiện về công cụ giao dịch như đã nêu, việc hình thành lãi suất tái cấp vốn chủ yếu dựa vào lãi suất “trần” yheo sự ấn định chủ quan của NHTƯ như lâu nay. Qua đây, cần khẳng định mặc dầu lãi suất tái cấp vốn đang đóng vai trò nhất định, nhưng chưa đến mức độ đủ để có thể dựa vào đó hình thành lãi suất cơ bản. Đây mới chỉ là dấu mốc còn khá mờ nhạt để tiến tới lãi suất tái chiết khấu nay mai.
+ Lãi suất cơ bản hướng vào hai mục đích: (i) làm tiêu chuẩn hình thành kãi suất kinh doanh của các NHTM; (ii) làm công cụ để NHTƯ can thiệp vào thị trường tiền tệ một cách uyển chuyển hơn là khống chế bởi lãi suất “trần”, dù ở mức nào vẫn mang tính cứng nhắc. ý nghãi “định chuẩn” của lãi suất cơ bản biểu hiện như một loại giá vốn phản ánh điểm hoà vốn bình quân của các NHTM. NHTM nào huy động vốn với lãi suất thấp hơn và cho vay tối thiểu bằng mức lãi suất cơ bản có cơ chí ít là hoà vốn. Còn huy động với lãi suát cao hơn là bắt đầu khó khăn. sự can thiệp của NHTƯ thông qua lãi suất cơ bản trở nên đơn giản ở chỗ không cần khống chế trần (cứng nhắc dễ bị phản ứng) và khách quan hơn, tạo sự tin cậy đối với các NHTM. Vấn đề là xác định đúng và ấn định cho linh hoạt. Xét trên nhiều mặt, thực chất lãi suất cơ bản đã là một bước thả nổi lãi suất.
+ Lãi suất cơ bản có cơ sở xác định tương đối ggiống lãi suất trần sàn, nghĩa là cũng chủ yếu dựa vào quan hệ cung cầu vốn phổ biến, được phản ánh bởi các lực lượng thị trường chiếm thị phần chủ yếu (hiện nay vẫn là các NHTM quốc doanh). thế hnưng về mặt tính toán có khác: lãi suất trần, sàn thường lấy con số tham chiếu “ chặn trên”, “chặn dưới” còn lãi suất cơ bản thì bình quân hoá gia quyền các tham số chọn mẫu, nên thường chuẩn xác khách quan hơn. lãi suất cơ bản được xác định như vậy khiến khoảng cách bất bình đẳng về cạnh tranh lãi suất giưã các NHTM mạnh, yêua khác nhau được giảm thiểu. Tất nhiên, việc tính toán chính xác lãi suất cơ bản phức tạp nơn lãi suất trần. Bởi vậy, khi mới áp dụng thường chưa đủ căn cứ để ấn định chính xác phải sử dụng một biên độ nhỏ để điều chỉnh. Cách xác định biên độ cũng không tuỳ tiẹn được mà phải căc cứ vào dung sai - còn gọi là độ lệch tiêu chuẩnbình quân giữa các mức lãi suất khác nhau và lãi suất trung bình chọn mẫu.
Hai là: Cần làm rõ ưu nhược điểm của lãi suất tái cấp vốn, cũng như bản thân trần lãi suất hiện nay làm căn cứ cho việc cải tiến lãi suất. Qua mấy lần NHNN kịp thời điều chỉnh trần, lãi suất đă bớt cứng nhắc gần với quan hệ cung cầu hơn ( từ nhiều trần xuống còn 3 loại trần, đồng thời mức lãi suất giảm đáng kể so với động thái giảm phát). Tuy nhiên, tình hình mâu thuẫn hiện nay là ở chỗ: áp lực giảm tiếp lãi suất vẫn đặt ra trong lúc bản thân việc hạ “trần “ lãi suất đã ở vào giới hạn khá thấp đang gây khó khăn cho các NHTM trong việc chủ động linh họat hoá các mức lãi suất thực tế cho vayvà khắc phục nguy cơ thua lỗ, thiếu khả năng tài chính do chênh lệchgiữa lãi suất huy động và cho vay cũng bị thu hẹp lớn. Như vậy, khi việc điều hành theo lãi suất “trần còn nhiều tồn tại thì bản thân cách ấn định lãi suất tái cấp vốn cũng thiếu cơ sở khách quan, không thể lấy lãi suất tái cấp vốn hiện nay làm cơ sở tính toán lãi suất cơ bản. Mặt khác, lãi suát “trần” hiện nay còn bất cập, thì trước mắt nên chăng là kế thừa hoàn thiện nó hơn là bỏ hẳn để thay bằng lãi suất cơ bản trong lúc chưa đủ điều kiện.
Ba là: Cần có sự phân biệt thứ bậc thấp cao, đơn giản và phức tạp giữa hai loại lãi suất ; lãi suất cơ bản là bước đệm tiến tới và được thay thế bởi lãi suất tái chiết khấu sau này hay ngược lại cùng tồn tại lãi suất tái cấp vốn / lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản?. Về lâu dài, hình thành lãi suất cơ bản là tạo lộ trình thuận lợi cho hoàn thiện chính sách lãi suất theo hướng từng bước thả nổi. Bản thân lãi suất cơ bản cũng được coi là một bước thả nổi vì nó tiến bộ hơn lãi suất “trần” với cách ấn định hoàn toàn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu, lấy cơ sở tính toán là các mức lãi suất thực. Tuy nhiên, bỏ lãi suất “trần” để chuyển sang lãi suất cơ bản cũng phải có những bước chuyển nhỏ, không thể máy móc gây sốc. Thực chất qui định tại các điều18, điều 9 khoản 12 Luật NHNN không nên hiểu phải có ngay lãi suất cơ bản khi chưa có đủ điều kiện, mà vấn đề là NHNN phải qui định lãi suất như thế nào để các TCTD dễ dàng ấn định lãi suất kinh doanh. Thành thử loại lãi suất nào mà NHTƯ đưa ra đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cũng đã là mang dáng dấp hay tính chất như lãi suất cơ bản. ở đâycó thể nhấn mạnh là hoàn thiện lãi suất “trần” hiện nay và nâng cấp lãi suất tái cấp vốn theo sát hơn lãi suất thị trường và tạo điều kiện cho nó được sử dụng thường xuyên hơn phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN mới là thiết thực.
KẾT LUẬN
Như đã nói, lãi suất là giá mua bán vốn trên thị trường. Cơ sở kinh tế của lãi suất là do các hiện tượng tạm thời “ thừa “ và tạm thời “thiếu “ vốn tiền tệ trong nền kinh tế hàng hoá và gắn với nó là vai trò trung gian của ngân hàng trong việc tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. Lãi suất cao hay thấp do quan hệ cung - cầu về vốn quyết định, khi cung lớn hơn cầuvề vốn thì lãi suất giảm, khi cầu lớn hơn cung thì lãi suất tăng.
Lãi suất rất nhạy cảm trong nền kinh tế thị trường, đó là một trong những công cụ quan trọng của nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ để quản ký và điều tiết nền kinh tế. Đối với Việt nam, đổi mới nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc nghiên cứu để luôn có một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện nước ta hiện nay là hết sức cần thiết. Lãi suất đã trở thành một công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta.
Trên thực tế, từ năm 1990 chúng ta đã từng bước chuyển từ cơ chế lãi suất âm sang lãi suất dương, và từ tháng 06/ 1991, đã thực hiện triệt để chính sách lãi suất dương trong hoạt động tín dụng. Lãi suất vượt trên chỉ số lạm phát và được điều chỉnh theo sự biến động của thị trường, có tham khảo lãi suất trên các thị trường khu vực và quốc tế. Chính sách lãi suất đẫ từng bước xử lý hài hoà lợi ích người gửi tiền, các TCTD và người vay tiền, cũng tức là giữa yêu cầu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và tiền vay từ 1986 đến 1995 như sau:
1986 - 1990
1991
1992
1993
1994
1995
Lãi suất tiền gửi
BQ tháng (%)
6, 0
2, 9
1, 9
1, 4
1, 3
1, 4
Lãi suất tiền vay
BQ tháng (%)
4, 3
3, 5
2, 5
1, 8
1, 5
1, 7
(Nguồn: NH Việt Nam 45 năm xây dựng và trưởng thành)
Từ đầu năm 1996, chính sách lãi suất của NHNN có sự thay đổi theo hướng tự do hoá, hủy bỏ các quy định về lãi suất tiền gửi, điều chỉnh giảm mức lãi suất trần cho vay, chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0, 35%/tháng. Để ấn định mức lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn trên thị trường và từ tháng 11 năm 1997 Nghị quyết của Quốc hội đẫ không quy định về mức chênh lệch lãi suất là 0, 35% đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Chính sách lãi suất đã đảm bảo được yêu cầu của lãi suất vay trung và dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, rút ngắn khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi dân cư và tiền gửi doanh nghiệp. Mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn không còn bị khống chế mà phụ thuộcvào thị trường và hiệu quả kinh doanh của từng TCTD. Những giải pháp đó đã được thị trưòng chấp nhận và góp phần rất lớn vào việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0690.doc