Hàng tồn kho là một phần quan trọng trong tài sản lưu động của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, việc tính đúng giá trị hàng tồn kho, không chỉ giúp cho doanh nghiệp chỉ đạo kịp thời các nghiệp vụ kinh tế diễn ra hàng ngày, mà còn giúp doanh nghiệp có một lượng vật tư, hàng hoá dự trữ đúng định mức, không dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn, mặt khác không dự trữ quá ít để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, không bị gián đoạn. Việc tính đúng giá trị hàng tồn kho còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi lập báo cáo tài chính, vì nếu tính sai lệch giá trị hàng tồn kho sẽ làm sai lệch các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, cụ thể giá trị tài sản lưu động và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp thiếu chính xác, giá vốn hàng bán tính sai sẽ làm cho chỉ tiêu lãi gộp và lãi ròng của doanh nghiệp không còn chính xác.
Hiện nay, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng như chuẩn mực kế toán quốc tế thì có bốn phương pháp để xác định giá trị hàng xuất kho bao gồm: Phương pháp giá thực tế đích danh, phương pháp bình quân gia quyền, phương pháp nhập trước, xuất trước và phương pháp nhập sau, xuất trước. Nhưng tuỳ vào tình hình sản xuất và quản lý của doanh nghiệp mà lựa chọn các phương pháp khác nhau.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1495 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về hệ thống nguyên tắc và phương pháp tính giá hàng tồn kho trong các doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách cộng phát sinh bên Nợ TK “Giá vốn hàng bán”.
Để theo dõi chi tiết từng loại hàng tồn kho, kế toán sử dụng các tài khoản chi tiết cho hàng tồn kho. Trên các tài khoản chi tiết các đối tượng không chỉ được ghi chép bằng thước đo giá trị mà còn bằng cả thước đo hiện vật.
Phương pháp kê khai thường xuyên có ưu điểm là nó theo dõi, phản ánh một cách liên tục, thường xuyên các thông tin về hàng tồn kho một cách kịp thời và cập nhật.
1.2.2. Phương pháp kiểm kê định kỳ
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách thường xuyên, liên tục tình hình biến động của hàng tồn kho trên các tài khoản hàng tồn kho, mà chỉ theo dõi giá trị hàng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ.
Theo phương pháp kiểm kê đinh kỳ, giá trị hàng mua vào trong kỳ được kế toàn ghi Nợ TK “Mua hàng”. Tổng giá trị hàng mua trong kỳ được cộng vào giá trị hàng mua tồn đầu kỳ để có được chỉ tiêu hàng tồn kho cả tồn và nhập. Cuối kỳ, căn cứ vào kết quả kiểm kê cuối kỳ, kế toán xác định được tổng giá trị hàng tồn kho xuất trong kỳ để bán hoặc dùng cho sản xuất sản phẩm bằng cách lấy số tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ trừ đi số tồn cuối kỳ.
Phương pháp này có ưu điểm là tiết kiệm được công sức ghi chép, tuy nhiên độ chính xác không cao.
Không kể doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay phương pháp kiểm kê định kỳ, việc kiểm kê cuối kỳ được thực hiện vào cuối năm, mỗi năm tiến hàn một lần. Tuy nhiên, hầu hết các công ty cần các thông tin cập nhật về hàng tồn kho nhằm tránh được sự thiếu hụt, mất mát, tồn đọng quá nhiều về hàng tồn kho, hơn nữa có kế hoạch tài chính cho việc mua sắm, cung cấp hàng tồn kho.
2. Các phương pháp tính giá hàng tồn kho
Tính giá hàng tồn kho là xác định giá trị ghi sổ của hàng tồn kho. Về nguyên tắc, hàng tồn kho phải được ghi sổ theo giá gốc (giá thực tế), giá gốc được qui định cụ thể cho từng loại hàng.
2.1.Tính giá hàng nhập kho
2.1.1. Nội dung và trình tự tính giá hàng mua vào
Để tiến hành hoạt động sản xuất – kinh doanh, các doanh nghiệp cần phải có 3 yếu tố cơ bản là lao động ( sức lao động ), tư liệu lao động và đối tượng lao động. Các yếu tố này được hình thành chủ yếu do doanh nghiệp mua sắm ( mua sắm nguyên vật liệu, hàng hoá, ... ). Bởi vậy, việc tính giá các yếu tố chi phí đầu vào về thực chất là tính giá hàng tồn kho mua vào.
Hàng tồn kho mua vào bao gồm nhiều loại, với tính chất và mục đích sử dụng khác nhau, do đó việc tính giá của chúng cũng có những khác biệt nhất định. Các loại nguyên, vật liệu được mua với mục đích sử dụng cho sản xuất, chế tạo sản phẩm; hàng hoá được mua với mục đích để bán, ... Tuy khác nhau về tính chất và mục đích sử dụng nhưng việc tính giá hàng tồn kho mua vào phải phản ánh được giá ban đầu của hàng tồn kho, nghĩa là tất cả các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc hình thành hàng tồn kho. Có thể khái quát trình tự tính giá hàng tồn kho mua vào qua các bước sau:
Bước 1: Xác định giá mua ghi trên hoá đơn của người bán ( Giá mua hàng tồn kho ).
Giá mua ghi trên hoá đơn của người bán là giá để người bán ghi nhận doanh thu. Giá đó có thể là tổng giá thanh toán, bao gồm cả thuế giá trị gia tăng ( với doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp trực tiếp ) hay giá không có thuế giá trị gia tăng ( với doanh nghiệp tính thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ ). Ngoài ra, trong một số trường hợp nhất định, được tính vào giá của hàng tồn kho còn bao gồm cả số thuế nhập khẩu phải nộp ( nếu là hàng nhập khẩu ). Cần lưu ý rằng, trong trường hợp được hưởng chiết khấu thương mại hay được hưởng giảm giá hàng mua ( do hàng mua không đúng qui cách, phẩm chất ) thì số chiết khấu và số giảm giá mà doanh nghiệp được hưởng được loại khỏi giá mua hàng tồn kho.
Bước 2: Tập hợp toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến quá trình thu mua hàng tồn kho.
Chi phí thu mua hàng tồn kho bao gồm nhiều loại chi phí như chi phí vận chuyển, bốc dỡ, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên quan trực tiếp đến việc mua hàng tồn kho. Nếu những chi phí này có liên quan đến việc thu mua một loại vật tư, hàng hoá thì tập hợp trực tiếp cho loại vật tư, hàng hoá đó. Còn nếu những chi phí này có liên quan đến việc thu mua nhiều loại vật tư, hàng hoá thì phân bổ riêng cho từng loại vật tư, hàng hoá theo tiêu thức phù hợp ( trọng lượng, số lượng, thể tích, ... ).
Bước 3: Tổng hợp chi phí và tính ra giá gốc ( giá thực tế ) của hàng tồn kho.
Giá gốc = Gía mua ghi trên + Chi phí + Chi phí thương mại
hàng tồn kho hoá đơn của người bán thu mua giảm giá hàng mua
Có thể khái quát việc tính giá vật liệu, công cụ, hàng hoá mua vào theo mô hình sau:
Giá mua
Chi phí thu mua
Giá hoá đơn trừ các khoản chiết khấu thương mại,giảm giá được hưởng (nếu có)
Thuế nhập khẩu phải nộp (nếu có)
Chi phí vận chuyển, bốc dỡ
Chi phí kho hàng, bến bãi
Chi phí bộ phận thu mua
v.v.v
Giá thực tế vật liệu, công cụ, hàng hoá
2.1.2. Nội dung và trình tự tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất
Bên cạnh các hàng tồn kho được hình thành do mua sắm, do nhận cấp phát, nhận liên doanh, ... một bộ phận lớn hàng tồn kho trong các doanh nghiệp sản xuất được hình thành thông qua quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất chính là quá trình kết hợp ba yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động để cho ra sản phẩm. Đồng thời, quá trình sản xuất cũng chính là quá trình tiêu hao bản thân các yếu tố cơ bản đó. Do quá trình sản xuất được tiến hành liên tục nên tại bất kỳ thời điểm nào trong quá trình sản xuất, bên cạnh bộ phận sản phẩm, dịch vụ đã hoàn thành cũng tồn tại lượng sản phẩm, dịch vụ dở dang. Vì thế, để tính giá sản phẩm, dịch vụ hoàn thành, cần xác định giá trị sản phẩm dở dang.
Việc tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất ra có thể tiến hành theo trình tự sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí trực tiếp ( vật liệu trực tiếp, nhân công trực tiếp ) có liên quan đến từng đối tượng tính giá ( sản phẩm, dịch vụ ).
Bước 2: Tập hợp và phân bổ chi phí sản xuất chung cho các đối tượng tính giá có liên quan.
Bước 3: Xác định giá trị sản phẩm dở dang.
Bước 4: Tính ra tổng giá thành sản phẩm và giá thành đơn vị sản phẩm.
Tổng giá thành Giá trị sản phẩm Chi phí sản xuất Giá trị sản phẩm
sản phẩm, dịch = dịch vụ dở dang + thực tế phát sinh – dịch vụ dở dang
vụ hoàn thành đầu kỳ trong kỳ cuối kỳ
Giá thành Tổng giá thành sản phẩm dịch vụ hoàn thành
đơn vị = ----------------------------------------------------------
sản phẩm dịch vụ Số lượng sản phẩm dịch vụ hoàn thành
Trong công thức trên, chi phí sản xuất thực tế phát sinh trong kỳ bao gồm chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Đối với sản phẩm dở dang, cuối kỳ đơn vị cần tiến hành kiểm kê lượng sản phẩm dịch vụ dở dang tại các bộ phận sản xuất rồi có thể áp dụng một trong các phương pháp tính giá sản phẩm dở dang sau đây:
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo sản lượng ước tính tương đương: Dựa theo mức độ hoàn thành và số lượng sản phẩm dở dang để qui sản phẩm dở dang thành sản phẩm hoàn thành. Tiêu chuẩn qui đổi thường dựa vào giờ công hoặc tiền lương định mức. Để đảm bảo tính chính xác của việc đánh giá, phương pháp này chỉ nên áp dụng để tính các chi phí chế biến, còn các chi phi nguyên vật liệu trực tiếp phải xác định theo số thực tế đã dùng.
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo 50% chi phí chế biến: Để dơn giản cho việc tính toán, đối với những sản phẩm mà chi phí chế biến chiếm tỷ trọng thấp trong tổng chi phí, kế toán thường sử dụng phương pháp này. Thực chất đây là một dạng của phương pháp ước tính theo sản lượng tương đương, trong đó giả định sản phẩm dở dang đã hoàn thành ở mức độ 50% so với thành phẩm. Cụ thể:
Giá trị Giá nguyên vật liệu 50% chi phí
sản phẩm = chính nằm trong sản + chế biến so với
dở dang phẩm dở dang (theo định mức) thành phẩm
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chí phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc theo chi phí trực tiếp: Theo phương pháp này, trong giá trị sản phẩm dở dang chỉ bao gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp hoặc chi phí trực tiếp ( nguyên liệu và nhân công trực tiếp ) mà không tính đến các chi phí khác.
Xác định giá trị sản phẩm dở dang theo chi phí định mức hoặc kế hoạch: Căn cứ vào các định mức tiêu hao ( hoặc chi phí kế hoạch ) cho các khâu, các bước, các công việc trong quá trình chế tạo sản phẩm để các định giá trị sản phẩm dở dang.
Ngoài ra, trên thực tế, người ta còn áp dụng các phương pháp khác để cá định giá trị sản phẩm dở dang như: phương pháp thống kê kinh nghiệm, phương pháp tính theo chi phí vật liệu chính và vật liệu phụ nằm trong sản phẩm dở dang, ...
Có thể khái quát việc tính giá sản phẩm, dịch vụ sản xuất qua mô hình sau:
Giá trị sản phẩm dở dang đầu kỳ
Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ:
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Tổng giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành
Giá trị sản phẩm dở dang cuối kỳ
2.2. Tính giá hàng xuất kho
2.2.1. Nội dung và trình tự tính giá hàng tồn kho xuất cho sản xuất – kinh doanh
Để xác định được kết quả tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, bên cạnh các yếu tố như doanh thu thuần, chi phí quản lý, chi phí bán hàng, kế toán cấn thiết phải xác định được trị giá vốn của hàng tiêu thụ. Trị giá vốn của hàng tiêu thụ được tính theo giá thực tế, nhập kho giá nào thì xuất bán được tính theo giá đó. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh doanh trong từng lĩnh vực ( sản xuất, thương mại ) mà trị giá vốn của hàng tiêu thụ được xác định như nhau. Với doanh nghiệp sản xuất, trị giá vốn của hàng xuất bán được tính theo giá thành sản xuất thực tế ( giá thành công xưởng thực tế ); còn với doanh nghiệp thương mại, trị giá vốn của hàng xuất bán bao gồm hai bộ phận: trị giá mua của hàng tiêu thụ và phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, trị giá vốn của hàng tiêu thụ chính là giá thành thực tế của dịch vụ đã thực hiện với khách hàng. Còn đối với các doanh nghiệp sản xuất, để tính được giá thành sản phẩm, cần phải xác định được giá của vật tư xuất dùng. Giá của vật tư xuất dùng cho sản xuất được tính theo giá thực tế vật tư mua vào, bao gồm cả phí mua và chi phí thu mua.
Có thể khái quát trình tự tính giá sản phẩm, dịch vụ hàng hoá tiêu thụ và giá vật tư xuất dùng cho sản xuất kinh doanh qua các bước sau:
Bước 1: Xác định số lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ theo từng loại và theo từng khách hàng cùng với số lượng vật liệu, công cụ xuất dùng cho sản xuất kinh doanh.
Bước 2: Xác định giá đơn vị của từng loại hàng xuất dùng ( với sản phẩm, dịch vụ: giá thành sản xuất; với hàng hoá: đơn giá mua; với vật tư xuất dùng: giá thực tế xuất kho ).
Bước 3: Phân bổ phí thu mua cho hàng tiêu thụ ( với kinh doanh thương mại ) theo tiêu thức phù hợp ( số lượng, trọng lượng, doanh thu, rị giá mua, ... ).
Mô hình tính giá sản phẩm, dịch vụ tiêu thụ và giá vật tư xuất dùng cho sản xuất – kinh doanh:
Giá vốn sản phẩm, dịch vụ đã bán, đã cung cấp cho khách hàng
Giá thành thực tế vật tư xuất dùng và xuất khác cho kinh doanh
Giá thành sản xuất sản phẩm, dịch vụ
-Giá mua vào thực tế
-Giá chế biến nhập kho
-Thuế nhập khẩu (nếu có)
Phí tổn mua vật tư
Chi phí nguyên liệu trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí sản xuất chung
Mô hình tính giá hàng hoá tiêu thụ:
Trị giá mua của hàng tiêu thụ
Phí thu mua phân bổ cho hàng tiêu thụ
Trị giá vốn của hàng hoá tiêu thụ
2.2.2. Các phương pháp tính giá hàng xuất kho
Việc lựa chọn phương pháp tính giá thực tế háng xuất kho phải căn cứ vào đặc điểm của từng doanh nghiệp về số lượng danh điểm, số lần nhập – xuất hàng tồn kho, trình độ của nhân viên kế toán, thủ kho, điều kiện kho tàng của doanh nghiệp. Việc tính giá thực tế hàng xuất kho, kế toán có thể đáp dụng một trong các phương pháp sau với nguyên tắc nhất quán trong kỳ. Trường hợp có sự thay đổi về phương pháp tính cần phải có sự giải trình và nêu những tác động của sự thay đổi với các báo cáo kế toán.
Phương pháp giá đơn vị bình quân:
Theo phương pháp này, giá thực tế hàng xuất kho ( xuất dùng, xuất bán, xuất góp vốn liên doanh, ... ) trong kỳ được tính theo công thức sau:
Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị
hàng xuất kho hàng xuất kho bình quân
Khi sử dụng giá đơn vị bình quân, có thể sử dụng dưới ba phương pháp:
+ Phương pháp giá thực tế bình quân cả kỳ dự trữ.
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp ít có danh điểm hàng tồn kho nhưng số lượng lần nhập, xuất của mỗi danh điểm nhiều. Theo phương pháp này, căm cứ vào giá trị thực tế của hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ, kế toán xác định được giá bình quân của một đơn vị hàng tồn kho ( giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ ). Và căn cứ vào lượng hàng xuất trong kỳ và giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ để xác định giá thực tế hàng xuất trong kỳ.
Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
bình quân = -------------------------------------------------------------
cả kỳ dự trữ Số lượng hàng thực tế tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị bình quân
hàng xuất kho hàng xuất kho cả kỳ dự trữ
Phương pháp giá đơn vị bình quân cả kỳ dự trữ cơ ưu điểm là cách tính đơn giản, ít tốn công sức, giảm nhẹ được việc hạch toán chi tiết hàng tồn kho, không phụ thuộc vào số lần nhập, xuất của từng danh điểm hàng tồn kho. Nhược điểm của phương pháp này là dồn đọng công việc tính giá hàng xuất kho vào cuối kỳ hạch toán nên ảnh hưởng đến tiến độ của các khâu kế toán khác, đồng thời sử dụng phương pháp này cũng phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm hàng tồn kho.
+ Phương pháp giá thực tế bình quân sau mỗi lần nhập:
Theo phương pháp này, cứ sau mỗi lần nhập hàng, kế toán lại phải xác định lại giá trị đơn vị bình quân. Căn cứ vào giá đơn vị bình quân và lượng hàng xuất kho giữa hai lần nhập kế tiếp để kế toán xác định giá thực tế hàng xuất kho.
Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn kho sau mỗi lần nhập
bình quân = -------------------------------------------------------------
sau mỗi lần nhập Số lượng hàng thực tế tồn kho sau mỗi lần nhập
Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị bình quân
hàng xuất kho hàng xuất kho sau mỗi lần nhập
Phương pháp này có độ chính xác cao, vừa cho phép kế toán tính giá hàng xuất kho kịp thời, vừa phản ánh được tình hình biến động của giá cả. Tuy nhiên khối lượng công việc tính toán lớn, tốn kém nhiều công sức tính toán bởi vì cứ sau mỗi lần nhập kho, kế toán lại phải tiến hành tính lại giá đơn vị bình quân. Và theo phương pháp này phải tiến hành tính giá theo từng danh điểm hàng tồn kho.
Phương pháp này chỉ sử đụng được ở những doanh nghiệp ít danh điểm hàng tồn kho và số lần nhập của mỗi loại không nhiều.
+ Phương pháp giá đơn vị bình quân cuối kỳ trước:
Theo phương pháp này,kế toán xác định giá đơn vị bình quân dựa trên giá thực tế và lượng hàng tồn kho cuối kỳ trước.Dựa vào giá đơn vị bình quân nói trên và lượng hàng xuất kho trong kỳ để kế toán xác định giá thực tế hàng xuất kho theo từng danh điểm.
Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn kho cuối kỳ trước(hoặc đầu kỳ này)
bình quân = --------------------------------------------------------------------------
cuối kỳ trước Số lượng hàng thực tế tồn kho cuối kỳ trước(hoặc đầu kỳ này)
Giá thực tế = Số lượng x Giá đơn vị bình quân
hàng xuất kho hàng xuất kho cuối kỳ trước
Phương pháp này đơn giản, dễ làm, bảo đảm tính kịp thời của số liệu kế toán, nhưng độ chính xác của công việc tính toán phụ thuộc vào tình hình biến động giá cả hàng tồn kho. Trường hợp giá cả thị trường hàng tồn kho có sự biến động lớn thì việc tính giá hàng xuất kho theo phương pháp này trở nên thiếu chính xác và có trường hợp trở nên bất hợp lý ( tồn kho âm ).
+ Phương pháp giá thực tế đích danh:
Phương pháp giá thực tế đích danh ( còn gọi là phương pháp đặc điểm riêng hay phương pháp trực tiếp ) được sử dụng với những loại hàng tồn kho giá trị cao, chủng loại mặt hàng ít, dễ phân biệt giữa các mặt hàng. Trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại như doanh nghiệp kinh doanh vàng, bạc, đá quí, đồ lông thú, kinh doanh ôtô hoặc một số mặt hàng đồ gỗ. Trong doanh nghiệp sản xuất, các loại hàng tồn kho có thể áp dụng phương pháp này bao gồm các vật liệu dùng để sản xuất theo đơn hàng đặc biệt.
Theo phương pháp này hàng tồn kho được xác định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô hàng và được giữ nguyên từ lúc mua vào cho tới lúc xuất kho. Khi xuất loại hàng tồn kho này ( hay lô hàng tồn kho nào ) sẽ tính theo giá thực tế đích danh của số hàng ( hay lô hàng ) đó.
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có điều kiện bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho. Phương pháp này có ưu điểm là công tác tính giá hàng tồn kho được thực hiện kịp thời và thông qua việc tính giá hàng xuất kho, kế toán có thể theo dõi được thời hạn bảo quản của từng lô hàng tồn kho. Tuy nhiên, để áp dụng được phương pháp này, thì điều kiện cốt yếu là hệ thống kho tàng của doanh nghiệp cho phép bảo quản riêng từng lô hàng nhập kho.
+ Phương pháp trị giá hàng tồn cuối kỳ:
Với các phương pháp trên, để tính được giá thực tế hàng xuất kho đòi hỏi kế toán phải xác định được lượng hàng xuất kho căn cứ vào các chứng từ xuất. Tuy nhiên, trong thực tế có những doanh nghiệp có nhiều loại chủng loại hàng tồn kho với những mẫu mã khác nhau, giá trị thấp, lại được xuất dùng, xuất bán thường xuyên thì sẽ không có điều kiện để kiểm kê từng nghiệp vụ xuất kho. Trong điều kiện đó, doanh nghiệp phải tính giá cho số lượng hàng tồn kho cuối kỳ trước, sau đó mới xác định được giá thực tế của hàng xuất kho trong kỳ.
Giá thực tế = Giá thực tế + Giá thực tế - Giá thực tế
hàng xuất kho hàng tồn đầu kỳ hàng nhập trong kỳ hàng tồn cuối kỳ
Trong đó:
Giá thực tế = Số lượng x Đơn giá mua
hàng tồn cuối kỳ hàng tồn cuối kỳ lần cuối cùng trong kỳ
Phương pháp này đơn giản, nhanh chóng nhưng độ chính xác không cao, không phản ánh được sự biến động của giá cả.
+ Phương pháp nhập trước, xuất trước ( FIFO ):
Theo phương pháp này, giả thiết hàng tồn kho nào nhập vào kho trước sẽ được xuất ra khỏi kho trước, xuất hết số nhập trước mới xuất đến số nhập sau theo giá thực tế của từng số hàng xuất. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế của số hàng nhập trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế của hàng xuất trước và do vậy giá thực tế của số hàng tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số hàng mua vào sau cùng trong kỳ.
Nếu doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên thì giá thực tế hàng xuất kho được xác định theo từng lần xuất kho, từ đó tính ra giá trị hàng tồn cuối kỳ. Nếu doanh nghiệp hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kiểm kê định kỳ thì kế toán xác định giá trị hàng tồn kho cuối kỳ bằng cách tính ngược lại các loại hàng tồn kho theo từng lô hàng. Như vậy, về mặt lý thuyết, cho dù doanh nghiệp áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên hay kiểm kê định kỳ thì giá trị hàng tồn kho và tổng giá thực tế xuất kho là như nhau.
Phương pháp FIFO có ưu điểm là cho phép kế toán có thể tính giá hàng xuất kho kịp thời. Phương pháp này thích hợp với điều kiện hàng tồn kho luân chuyển nhanh. Phương pháp này nói chung cung cấp một sự ước tính hợp lý về giá trị hàng tồn kho cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán, đặc biệt trong điều kiện có những lần mua hàng nhưng chưa có giá trị đơn vị.
Nhược điểm của phương pháp FIFO là phải tính giá theo từng danh điểm hàng tồn kho và phải hạch toán chi tiết hàng tồn kho theo từng loại giá nên tốn nhiều công sức. Ngoài ra, phương pháp này chi phí phát sinh hiện hành không phù hợp với doanh thu phát sinh hiện hành. Doanh thu hiện hành có được là do các chi phí hàng tồn kho vào kho từ trước, điều này có thể dẫn tới việc thiếu chính xác của lãi gộp và thu nhập thuần.
Phương pháp FIFO chỉ thích hợp với những doanh nghiệp có ít danh điểm hàng tồn kho, số lần nhập kho của mỗi danh điểm không nhiều.
+ Phương pháp nhập sau, xuất trước ( LIFO ):
Theo phương pháp này, hàng tồn kho được tính giá thực tế xuất kho trên cơ sở giả định là lô hàng nào nhập vào kho sau sẽ được xuất kho trước. Tổng trị giá hàng xuất kho chính là giá trị của số hàng mua vào sau cùng. Nói cách khác, việc tính giá xuất của hàng tồn kho theo phương pháp này được làm ngược lại với phương pháp nhập trước, xuất trước.
Theo phương pháp nhập sau xuất trước, việc hạch toán hàng tồn kho theo hai phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ sẽ cho các kết quả khác nhau về giá trị thực tế của hàng xuất trong kỳ và giá trị của hàng tồn kho cuối kỳ bởi vì nếu doanh nghiệp sử dụng phương pháp nhập sau xuất trước theo phương pháp hạch toán kê khai thường xuyên thì sẽ xoá bỏ dần các đợt tồn kho.
Các ưu, nhược điểm của phương pháp LIFO:
Về cơ bản, ưu nhược điểm và điều kiện vận dụng của phương pháp LIFO cũng giống như phương pháp FIFO. Ngoài ra còn một số ưu, nhược điểm khác, phương pháp này khắc phục được nhược điểm của phương pháp FIFO. Phương pháp này bảo đảm được nguyên tắc doanh thu và chi phí, cụ thể là các chi phí mới phát sinh sẽ phù hợp với doanh thu cũng vừa được chính các hàng tồn kho này tạo ra. Điều này dẫn đến việc kế toán sẽ cung cấp những thông tin đầy đủ và chính xác hơn về thu nhập của doanh nghiệp trong kỳ. Phương pháp này đặc biệt đúng trong điều kiện lạm phát.
Thuế là nguyên nhân làm cho phương pháp LIFO được áp dụng phổ biến. Khi mức giá của hàng tồn kho tăng và số lượng hàng tồn kho không đổi thì dẫn đến giá vốn hàng bán tăng. Điều này đồng nghĩa với lãi dòng giảm đi và cuối cùng là thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp giảm xuống. Mặc dù trong tương lai, giá cả của hàng tồn kho có giảm đi thì doanh nghiệp đã giảm được một phần nào thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp ( trong một hoặc nhiều kỳ nào đó ). Và hơn nữa đây cũng là lý do doanh nghiệp có thể trì hoãn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
Một ưu điểm nữa của phương pháp LIFO là nó cải thiện dòng tiền luân chuyển. Do số thuế phải nộp ít hơn và thời hạn nộp có thể trì hoãn nên doanh nghiệp có thể sử dụng khoản tiền dùng để nộp thuế cho các mục tiêu đầu tư khác.
Ngoài ra, phương pháp LIFO có thể hạn chế được tối đa sự tác động của việc hàng tồn kho giảm giá trong tương lai đối với thu nhập. Phương pháp này hạn chế tới mức thấp nhất việc phải ghi điều chỉnh giảm lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện giá của hàng tồn kho giảm đi. Lý do xuất phát giống như tên gọi của phương pháp này, tức là nhập vào kho sau khi đã được xuất ra khỏi kho.
Bên cạnh những ưu điểm trên, phương pháp LIFO có một số nhược điểm sau đây:
Thứ nhất, phương pháp này dẫn đến thu nhập thuần của doanh nghiệp giảm trong điều kiện lạm phát. Các nhà quản lý trong doanh nghiệp dường như thích việc báo cáo lãi thuần tăng hơn là thấy việc phải nộp thuế giảm đi. Lý do của điều này chính bởi vì các nhà quản lý trong doanh nghiệp sợ rằng các nhà đầu tư sẽ hiểu nhầm về khả năng sinh lãi, khả năng thu hồi vốn đầu tư của họ. Điều này có thể dẫn đến giá cổ phiếu của công ty trên thị trường có thể bị sụt giảm.
Thứ hai, theo phương pháp này hàng tồn kho có thể bị đánh giá giảm trên bảng cân đối kế toán. Việc đánh giá hàng tồn kho để lập báo cáo kế toán thông thường không được cập nhật bởi hàng tồn kho vào trước vẫn cón nằm tron kho. Việc đánh giá giảm này làm cho vốn lưu động của doanh nghiệp giảm thấp hơn so với thực tế hàng tồn kho.
+ Phương pháp giá hạch toán:
Đối với các doanh nghiệp có nhiều loại hàng tồn kho, giá cả thường xuyên biến động, nghiệp vụ nhập – xuất hàng tồn kho diễn ra thường xuyên thì việc hạch toán theo giá thực tế trở nên phức tạp, tốn nhiều công sức và nhiều khi không thực hiện được. Do đó việc hạch toán hàng này nên sử dụng giá hạch toán.
Giá hạch toàn là loại giá ổn định, doanh nghiệp có thể sử dụng trong thời gian dài để hạch toán nhập, xuất, tồn hàng tồn kho trong khi chưa tính được giá thực tế của nó. Doanh nghiệp có thể sử dụng giá kế hoạch hoặc giá mua hàng tồn kho ở một thời điểm nào đó hay giá hàng tồn kho bình quân tháng trước để làm giá hạch toán. Sử dụng giá hạch toán để giảm bớt khối lượng cho công tác nhập, xuất hàng tồn kho hàng ngày nhưng cuối tháng phải điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá thực tế. Việc điều chỉnh dựa trên cơ sở hệ số giữa giá thực tế và giá hạch toán.
Hệ số giá = Giá thực tế hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá hạch toán hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá thực tế của hàng xuất kho = Giá hạch toán của hàng xuất kho x Hệ số giá
Hệ số giá có thể tính cho từng loại, từng nhóm hoặc từng thứ hàng chủ yếu tuỳ thuộc vào nhu cầu và trình độ quản lý của đơn vị hạch toán.
Phương pháp giá hạch toán cho phép kết hợp chặt chẽ hạch toán chi tiết và hạch toán tổng hợp về hàng tồn kho trong công tác tính giá nên công việc tính giá được tiến hành nhanh chóng và không bị phụ thuộc vào số lượng danh điểm hàng tồn kho, số lần nhập, xuất của mỗi loại nhiều hay ít.
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có nhiều chủng loại hàng tồn kho đội ngũ kế toán có trình độ chuyên môn cao.
III. Đặc điểm tính giá hàng tồn kho theo chuẩn mực kế toán quốc tế và ở một số nước
1. Chuẩn mực kế toán quốc tế với việc tính giá hàng tồn kho
Chuẩn mực này qui định cho tất cả hàng tồn kho là tài sản bao gồm:
Giữ để bán trong quá trình hoạt động kinh doanh thông thường, hoặc trong quá trình sản xuất để bán; hoặc
Dưới dạng nguyên liệu hoặc vật liệu, công cụ, dụng cụ, được tiêu dùng trong quá trình sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ.
Hàng tồn kho được tính theo giá gốc, bao gồm tất cả chi phí thu mua ( giá mua và chi phí nhập khẩu ... ); chi phí chế biến ( chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung ) và các chi phí khác ( thiết kế, đi vay, ... ) để có được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
Những phương pháp dưới đây có thể được sử dụng để tính giá hàng tồn kho:
Chi phí thực tế
Chi phí chuẩn:
+ Tính theo mức chi phí thông thường của nguyên vật liệu, nhân công và công suất.
+ Xem xét lại thường xuyên để bảo đảm xấp xỉ chi phí thực tế.
Phương pháp bán lẻ:
+ áp dụng khi sử dụng phương pháp chi phí thực tế là không thực tế.
+ Giảm giá trị doanh thu bằng mức lợi nhuận gộp để tính chi phí.
+ Phần trăm trung bình được sử dụng cho từng nhóm các khoản được mục tương đồng.
+ Tính đến các giá trị bị giảm đáng kể.
Giá trị hàng tồn kho có thể áp dụng theo các công thức tính giá sau: Giá trị đích danh; Bình quân gia quyền; Nhập trước, xuất trước (FIFO);Nhập sau, xuất trước (LIFO, là phương pháp thay thế khác được cho phép sử dụng ).
SIC-1 cho phép áp dụng các công thức tính giá khác nhau cho các nhóm khoản mục có bản chất khác nhau.
Khi sử dụng phương pháp LIFO, trình bày sự khác biệt giữa số trên sổ cân đối kế toán và:
Số thấp hơn giữa giá trị tính theo FIFO hoặc bình quân gia quyền và giá trị thuần có thể thực hiện được, hoặc
Số thấp hơn giữa giá trị hiện hành vào cuối năm và giá trị thuần có thể thực hiện được.
2. Đặc điểm tính giá hàng tồn kho ở một số nước
2.1. Đặc điểm tính giá hàng tồn kho ở Pháp
Tính giá hàng tồn kho là xác định giá trị ghi sổ của hàng tồn kho. Về nguyên tắc, hàng tồn kho phải được ghi sổ theo giá thực tế, giá thực tế được qui định cụ thể theo từng loại hàng.
2.1.1. Giá nhập kho
Đối với vật tư, hàng hoá mua ngoài: giá nhập kho là giá mua thực tế.
Giá mua thực tế bao gồm: Giá thoả thuận và phụ phí mua ( không kể thuế di chuyển tài sản, thù lao hay tiền hoa hồng, chi phí chứng thư ) mà phụ phí mua chỉ bao gồm: chi phí chuyên chở, chi phí bảo hiểm, tiền thuê kho bãi để hàng, lương nhân viên mua hàng, ...
- Đối với sản phẩm doanh nghiệp sản xuất: Giá nhập kho là giá thành sản xuất thực tế.
Giá thành sản xuất thực tế bao gồm: Giá mua các loại nguyên, vật liệu tiêu hao, chi phí trực tiếp sản xuất, chi phí gián tiếp có thể phân bổ hợp lý vào giá thành sản xuất ( Không được tính vào giá thành sản xuất: chi phí tài chính, chi phí sưu tầm và phát triển, chi phí quản lý chung ).
2.1.2. Giá xuất kho và giá tồn kho cuối kỳ
Theo tổng hoạch đồ kế toán năm 1982, để tính giá xuất kho và giá tồn kho cuối kỳ của vật tư, hàng hoá, doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong ba phương pháp sau:
* Phương pháp 1: Tính giá bình quân căn cứ vào hàng tồn kho đầu kỳ và tất cả các lần nhập trong kỳ ( tháng, quí, năm ) ( hay còn gọi là giá thực tế bình quân cả kỳ dự trữ ). Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có ít chủng loại vật tư, hàng hoá, số lần nhập, xuất nhiều. Theo phương pháp này, căn cứ vào giá thực tế của hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ để xác định đơn giá bình quân; Căn cứ vào đơn giá bình quân và số lượng hàng xuất tron kỳ và hàng tồn kho cuối kỳ để xác định giá trị hàng xuất trong kỳ và hàng tồn cuối kỳ. Phương pháp này tương đối chính xác, nhưng công việc dồn vào cuối kỳ, nên việc cung cấp thông tin chậm trễ.
Đơn giá bình quân = Tổng giá thực tế của hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Tổng số lượng hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá thực tế = Số lượng x Đơn giá
hàng xuất trong kỳ hàng xuất trong kỳ bình quân
Giá thực tế hàng tồn cuối kỳ = Số lượng hàng tồn cuối kỳ * Đơn giá bình quân
* Phương pháp 2: Tính giá bình quân sau môi lần nhập.
Theo phương pháp này, sau mỗi lần nhập, kế toán phải tính lại đơn giá bình quân của từng chủng loại vật tư, hàng hoá để làm căn cứ lập chứng từ và ghi sổ kế toán ngay tại lúc xuất kho. Phương pháp này chính xác, nhưng phức tạp vì phải tính toán nhiều, nên chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp có ít chủng loại vật tư, hàng hoá, số lần nhập ít nhưng khối lượng nhập một lần nhiều hoặc các doanh nghiệp đã sử dụng máy vi tính.
Đơn giá Giá thực tế hàng tồn trước lần nhập n + Giá thực tế lần nhập n
bình quân = ----------------------------------------------------------------------------
sau lần nhập n Số lượng hàng tồn trước lần nhập n + Số lượng hàng nhập lần n
Giá thực tế hàng xuất kho = Số lượng hàng xuất kho x Đơn giá bình quân
Giá thực tế = Số lượng hàng x Đơn giá bình quân của lần nhập
hàng tồn kho cuối kỳ tồn kho cuối kỳ cuối cùng trong kỳ
* Phương pháp 3: Phương pháp giá nhập trước xuất trước
Theo phương pháp này, tính giá hàng xuất kho trên cơ sở giả định là hàng nào nhập trước sẽ được xuất dùng trước. Xuất hết lô hàng nhập trước, mới đến lô hàng nhập sau.
2.2. Đặc điểm tính giá hàng tồn kho ở Mỹ
Hàng tồn kho nhập, xuất, tồn kho được phản ánh theo giá thực tế (giá vốn). Cụ thể:
2.2.1. Trường hợp hàng tồn kho tăng
a. Với doanh nghiệp kinh doanh thương mại
Tại doanh nghiệp kinh doanh thương mại, hàng tồn kho là hàng hoá đang trong kho, đã mua nhưng đang đi đường, hoặc hàng hoá đang gửi bán tại doanh nghiệp khác. Giá thực tế của hàng hoá bao gồm giá mua ghi trên hoá đơn của người bán cộng với các chi phí thu mua phát sinh trừ đi các khoản chiết khấu, giảm giá được hưởng ( nếu có ).
b. Với doanh nghiệp sản xuất
Với các doanh nghiệp này, hàng tồn kho của doanh nghiệp bao gồm nguyên, vật liệu, sản phẩm dở dang trên dây truyền và thành phẩm trong kho chuẩn bị bán ra bên ngoài. Giá thực tế của loại hàng tồn kho này được xác định cụ thể như sau:
Với nguyên vật liệu mua về chuẩn bị cho sản xuất sản phẩm, giá thực tế được xác định tương tự như xác định giá thực tế của hàng mua.
Với thành phẩm nhập kho, giá thực tế được xác định theo giá thành thực tế, tức là bao gồm ba khoản mục chi phí là chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Cụ thể:
Tổng giá thành = Giá trị sản phẩm + Chi phí sản xuất - Chi phí sản xuất
sản phẩm hoàn thành dở dang đầu kỳ phát sinh trong kỳ dở dang cuối kỳ
2.2.2. Trường hợp hàng tồn kho giảm
Hàng tồn kho giảm trong kỳ có thể có nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do xuất dùng, xuất bán. Việc tính giá thực tế hàng xuất kho, kế toán có thể áp dụng một trong các phương pháp sau với nguyên tắc nhất quán trong kỳ. Trường hợp có sự thay đổi về phương pháp tính cần phải có sự giải trình và nêu những tác động của sự thay đổi tới các báo cáo kế toán.
a. Phương pháp thực tế đích danh
Theo phương pháp này, hàng tồn kho được xác định theo đơn chiếc hay từng lô hàng được giữ nguyên từ lúc mua vào cho tới lúc xuất kho. Khi xuất loại hàng tồn kho nào sẽ tính giá theo giá thực tế của số hàng đó. Phương pháp này có thể áp dụng với những loại hàng tồn kho có giá trị cao, chủng loại mặt hàng ít, dễ phân biệt giữa các mặt hàng. Trong doanh nghiệp kinh doanh thương mại như doanh nghiệp kinh doanh vàng, bạc, đá quí, đồ lông thú, kinh doanh ôtô hoặc một số mặt hàng đồ gỗ. Trong doanh nghiệp sản xuất, các loại hàng tồn kho có thể áp dụng phương pháp này gồm các vật liệu dùng để sản xuất theo đơn đặt hàng đặc biệt.
b. Phương pháp giá đơn vị bình quân
Theo phương pháp này, giá thực tế của hàng tồn kho được tính theo giá đơn vị bình quân. Đối với kế toán Mỹ, hai phương pháp giá đơn vị bình quân có thể áp dụng là phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ và phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập.
Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
bình quân = -----------------------------------------------------------
cả kỳ dự trữ Số lượng hàng tồn đầu kỳ và nhập trong kỳ
Giá thực tế hàng xuất kho = Số lượng hàng xuất x Giá đơn vị bình quân
(hoặc tồn cuối kỳ) (hoặc tồn cuối kỳ) cả kỳ dự trữ
Một dạng khác của phương pháp bình quân là phương pháp bình quân sau mỗi lần nhập. Theo phương pháp này, cứ sau mỗi lần nhập hàng, kế toán phải xác định lại giá đơn vị bình quân. Phương pháp này có độ chính xác cao, tuy nhiên tốn kém nhiều công sức tính toán.
Giá đơn vị Giá thực tế hàng tồn trước lần nhập n và nhập lần n
bình quân = --------------------------------------------------------------------
sau mỗi lần nhập Số lượng hàng tồn trước lần nhập n và nhập lần n
Phương pháp giá bình quân đơn giản, dễ làm, không mang tính áp đặt chi phí cho từng đối tượng cụ thể như một số phương pháp hạch toán hàng tồn kho khác.
c. Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO)
Phương pháp này giả thiết rằng hàng tồn kho nào nhập vào kho trước sẽ được xuất ra khỏi kho trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế của từng lô hàng xuất. Nói cách khác, giá thực tế của số hàng nhập trước sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế của số hàng xuất trước, và do vậy giá thực tế của số hàng tồn cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số hàng mua vào sau cùng.
d. Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO)
Đối ngược với phương pháp FIFO, phương pháp này giả thiết hàng tồn kho nào nhập vào sau cùng sẽ được xuất ra khỏi kho trước. Nói cách khác, giá thực tế của số hàng nhập sau sẽ được dùng làm giá để tính giá thực tế của số hàng xuất trước, và do vậy giá thực tế của số hàng tồn cuối kỳ sẽ là giá thực tế của số hàng tồn được nhập trước đó.
Phần II
Thực trạng tính giá hàng tồn kho trong
doanh nghiệp việt nam
I. các phương pháp tính giá hàng tồn kho hiện nay đang áp dụng
Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam ban hành theo quyết định 149/2001/BTC ngày 31/12/2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, để tính giá hàng tồn kho, các doanh nghiệp có thể áp dụng một trong các phương pháp sau: Phương pháp tính theo giá đích danh; Phương pháp bình quân gia quyền; Phương pháp nhập trước, xuất trước; Phương pháp nhập sau, xuất trước.
1. Phương pháp tính theo giá đích danh
Phương pháp này được áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được.
2. Phương pháp bình quân gia quyền
Theo phương pháp bình quân gia quyền, giá trị của từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị trung bình của từng loại hàng tồn kho tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ hoặc vào mỗi khi nhập một lô hàng về, phụ thuộc vào tình hình của doanh nghiệp.
3. Phương pháp nhập trước, xuất trước
Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua trước hoặc sản xuất trước thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất gần thời điểm cuối kỳ. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, giá trị của hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn kho.
4. Phương pháp nhập sau, xuất trước
Phương pháp này áp dụng dựa trên giả định là hàng tồn kho được mua sau hoặc sản xuất sau thì được xuất trước, và hàng tồn kho còn lại cuối kỳ là hàng tồn kho được mua hoặc sản xuất trước đó. Theo phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo giá của lô hàng nhập sau hoặc gần sau cùng, giá trị của hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo giá của hàng nhập kho đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ còn tồn kho.
II. Nhận xét khái quát về các phương pháp tính giá hàng tồn kho hiện hành
1. Phương pháp giá đơn vị bình quân
Phương pháp giá đơn vị bình quân đơn giản, dễ làm, không mang tính áp đặt chi phí cho từng đối tượng cụ thể như một số phương pháp tính giá hàng tồn kho khác. Ví dụ: Phương pháp FIFO bắt buộc hàng xuất kho phải tính theo giá của hàng mua vào trước. Như vậy hàng tồn kho đã áp đặt chi phí. Hơn nữa những người áp dụng phương pháp này đều cho rằng thực tế các doanh nghiệp thường không thể đo lường một cách chính xác về quá trình lưu chuyển nhập, xuất trong doanh nghiệp và do vậy nên xác định giá trị thực tế hàng xuất kho theo phương pháp bình quân. Điều này càng mang tính chất thuyết phục hơn với hàng tồn kho có tính chất đồng đều và không khác nhau về bản chất.
Vậy phương pháp bình quân có ý nghĩa lớn về mặt thực tiễn, nó phản ánh đúng và chính xác giá trị hàng xuất kho và hàng tồn kho, ngoài ra nó còn là phương pháp khách quan và dễ áp dụng nhất trong thực tiễn.
2. Phương pháp giá thực tế đích danh
Theo phương pháp này, giá trị xuất kho của thứ hàng nào được xác định đúng giá nhập kho của nó.
Như vậy, phương pháp giá thực tế đích danh là phương pháp lý tưởng nhất, nó tuân thủ theo nguyên tắc phù hợp của hạch toán kế toán chi phí thực tế phù hợp với doanh thu thực tế. Giá trị của hàng xuất dùng cho sản xuất phù hợp với thành phẩm mà nó tạo ra, và giá trị của hàng xuất kho đem bán phù hợp với doanh thu mà nó tạo ra. Như vậy, nó phản ánh đúng nhất chi phí, giá vốn và lãi trong kỳ của doanh nghiệp. Hơn nữa, theo phương pháp này, giá trị hàng tồn kho được phản ánh đúng theo giá trị thực tế của nó.
Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này chỉ được áp dụng khi hàng tồn kho có thể được phân biệt, chia tách ra thành từng loại, từng thứ riêng rẽ. Hơn nữa, việc phân biệt phải được thực hiện dễ dàng, tốn ít chi phí. Đối với những doanh nghiệp có nhiều loại hàng tồn kho, với số lượng lớn thì không thể áp dụng được phương pháp này.
3. Phương pháp FIFO
Phương pháp này giả định rằng hàng tồn kho nào được nhập kho trước sẽ được xuất kho trước.
Phương pháp này có ưu điểm là giá trị hàng tồn kho cuối kỳ này chính là giá trị hàng tồn kho mua vào sau cùng. Phương pháp này thích hợp với điều kiện hàng tồn kho luân chuyển nhanh và nó gần đúng với lượng nhập – xuất hàng trong thực tế. Không kể những trường hợp đặc biệt, việc nhập – xuất hàng tồn kho trong thực tế gần như là nhập trước – xuất trước, có nghĩa là đúng là hàng tồn kho được nhập trước thì sẽ được xuất trước chứ không chỉ đúng về mặt giá trị. Hơn nữa, trong trường hợp hàng tồn kho được quản lý theo đúng hình thức nhập trước – xuất trước, phương pháp này sẽ gần giống với phương pháp giá thực tế đích danh và do đó sẽ phản ánh tương đối chính xác giá trị hàng xuất kho và tồn kho.
Một ưu điểm khác của phương pháp FIFO là giá trị hàng tồn kho cuối kỳ sẽ được phản ánh gần sát với giá thị trường của nó, bởi vì theo phương pháp này, giá trị hàng tồn kho sẽ bao gồm giá trị hàng được mua ở lần sau cùng.
Đặc biệt, khi giá có xu hướng tăng lên thì việc áp dụng phương pháp FIFO sẽ làm cho doanh nghiệp có số lãi nhiều hơn so với khi sử dụng phương pháp khác, do khi áp dụng phương pháp này, giá vốn của hàng hoá bao gồm giá trị hàng tồn kho mua vào từ trước với giá thấp.
Tuy nhiên, nhược điểm của phương pháp này là các chi phí phát sinh hiện hành. Doanh thu hiện hành có được là do các chi phí hàng mua vào kho từ trước cách đó rất lâu. Điều này có thể dẫn tới việc thiếu chính xác của lãi gộp và thu nhập thuần.
4. Phương pháp LIFO
Phương pháp này giả định rằng những loại hàng nào được nhập vào kho sau cùng sẽ được xuất ra trước tiên.
Phương pháp này trước hết khắc phục được nhược điểm của phương pháp FIFO. Phương pháp này đảm bảo được sự phù hợp giữa doanh thu và chi phí. Vì theo phương pháp này, doanh thu hiện tại lại được tạo ra bởi giá trị của hàng tồn kho vừa mới được mua vào ngay gần đó. Điều này sẽ dẫn đến việc kế toán sẽ cung cấp và thông tin chính xác và đồng đều về thu nhập trong kỳ.
Phương pháp này đặc biệt đúng trong điều kiện lạm phát, có nghĩa là khi giá cả thị trường có xu hướng tăng lên, phương pháp này sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm được số thuế thu nhập phải nộp cho Nhà nước.
Ngoài những ưu điểm trên, phương pháp LIFO còn có nhược điểm sau:
Phương pháp LIFO bỏ qua việc nhập – xuất hàng tồn kho trong thực tế. Như đã đề cập ở trên, hàng tồn kho thông thường được quản lý theo kiểu nhập trước xuất trước. Nhưng phương pháp LIFO lại giả định rằng hàng tồn kho được quản lý theo kiểu nhập sau xuất trước.
Hơn nữa, phương pháp LIFO có thể làm cho chi phí quản lý hàng tồn kho của doanh nghiệp cao hơn vì doanh nghiệp phải thường xuyên mua thêm hàng tồn kho nhằm tính vào giá vốn hàng bán những chi phí mới nhất với giá cao. Điều này trái ngược với xu hướng quản lý hàng tồn kho một cách hiệu quả, giảm thiểu lượng hàng tòn kho cuối kỳ nhàm cắt giảm chi phí quản lý hàng tồn kho.
Một nhược điểm khác của phương pháp LIFO là giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được phản ánh thấp hơn giá trị thực tế của nó. Bởi vì, theo phương pháp LIFO giá trị hàng tồn kho cuối kỳ sẽ bao gồm giá trị của những hàng tồn kho được nhập vào đầu tiên với giá thấp hơn so với giá hiện thời. Do giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được phản ánh thấp hơn so với giá thực tế, vốn lưu động của doanh nghiệp cũng sẽ được phản ánh thấp hơn so với thực tế. Điều này làm cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp bị nhìn nhận là kém hơn so với khả năng thanh toán thực tế của nó.
Qua các nhận xét về các phương pháp tính giá hàng tồn kho hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam đang áp dụng, ta thấy mỗi phương pháp có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Việc doanh nghiệp lựa chọn phương pháp nào là tuỳ thuộc vào điều kiện của từng doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào đặc điểm của hàng luân chuyển, yêu cầu, trình độ quản lý và trình độc của kế toán. Nhưng việc lựa chọn phương pháp nào phải đảm bảo nguyên tắc nhất quán ( liên tục ). Vì cách chọn lựa phương pháp tính giá hàng tồn kho có thể có ảnh hưởng cụ thể đến các báo cáo tài chính, một số công ty có thể có khuynh hướng mỗi năm lựa chọn lại một lần. Mục đích của các công ty này là làm sao chọn được phương pháp nào có thể lập được các báo cáo tài chính thuận lợi nhất. Tuy nhiên, nếu điều này được cho phép, các nhà đọc báo cáo tài chính sẽ thấy thật khó mà so sánh các báo cáo của một công ty qua các năm. Nếu lãi tăng lên, người xem báo cáo sẽ khó mà xác định được là sự tăng lên này có phải từ hoạt động hiệu quả hơn của doanh nghiệp hay là từ việc thay đổi phương pháp kế toán. Nguyên tắc nhất quán đã giúp cho điều này không thể xảy ra.
Nguyên tắc nhất quán đòi hỏi một công ty phải sử dụng các phương pháp kế toán giống nhau từ kỳ này sang kỳ khác, có như vậy các báo cáo tài chính của các kỳ liên tiếp nhau mới có thể so sánh được. Nguyên tắc nhất quán không chỉ giới hạn trong trường hợp các phương pháp tính giá hàng tồn kho, mà bất cứ lúc nào công ty cũng phải có sự lựa chọn giữa các phương pháp đã được thừa nhận.
Tuy nhiên, nguyên tắc nhất quán không có nghĩa là một công ty không bao giờ có thể thay đổi phương pháp kế toán. Đúng hơn, nếu công ty kiểm nghiệm một phương pháp hoặc một thủ tục kế toán khác đã được chấp nhận như một sự cải tiến trong quá trình lập báo cáo tài chính thì sự thay đổi có thể được thực hiện. Tuy vậy, khi có sự thay đổi này, nguyên tắc công khai toàn bộ đòi hỏi bản chất của sự thay đổi, kiểm nghiệm đối với sự thay đổi và ảnh hưởng của sự thay đổi đó đến lãi ròng, tất cả phải được công khai trong phần ghi chú của các báo cáo tài chính.
Phần III
Một số ý kiến đề xuất
Trong bốn phương pháp cơ bản để xác định giá trị hàng xuất kho, phương pháp giá thực tế đích danh tuy phản ánh đúng đắn nhất giá trị hàng xuất dùng và xuất bán, phản ánh đúng được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của những doanh nghiệp nhưng nó lại khó áp dụng trong thực tiễn, nó chỉ có thể áp dụng được với một số ít loại hình kinh doanh, một số loại hàng tồn kho có giá trị lớn và dễ phân biệt như vàng, bạc, đá quí, đồ trang sức, đồ gỗ nội thất, hàng hoá theo đơn đặt hàng đặc biệt.
Khi không thể áp dụng được phương pháp giá thực tế đích danh, dựa trên những giả định cơ bản về luồng chi phí của vật tư, hàng hoá xuất kho, kế toán áp dụng phương pháp nhập sau, xuất trước; nhập trước, xuất trước và giá bình quân gia quyền.
Việc áp dụng các phương pháp tính giá hàng xuất dùng cũng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các khoản mục trên báo cáo tài chính và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp cho Nhà nước. Phương pháp nhập trước, xuất trước và phương pháp nhập sau, xuất trước có những tác động trái ngược nhau tới kết quả tài chính của doanh nghiệp. Phương pháp nhập trước, xuất trước cung cấp những thông tin hợp lý, đúng đắn về giá trị hàng tồn kho trên báo cáo kết quả kinh doanh. Ngược lại, phương pháp nhập sau, xuất trước làm cho doanh thu và chi phí phù hợp với nhau trên báo cáo kết quả kinh doanh nhưng lại phản ánh giá trị hàng tồn kho ở mức lạc hậu so với giá thị trường của nó trên bảng cân đối kế toán. Trong khi đó, phương pháp giá bình quân gia quyền là phương pháp trung hoà giữa phương pháp nhập trước, xuất trước và phương pháp nhập sau, xuất trước.
Trong thực tế môi trường kinh doanh hiện nay, khi giá cả luôn có xu hướng tăng lên theo thời gian, phương pháp nhập sau, xuất trước dường như sẽ được các đơn vị kinh doanh ưa thích hơn vì phương pháp này giúp cho họ có được một lượng tiền nhiều hơn do phải nộp thuế ít hơn cho Nhà nước so với khi sử dụng phương pháp khác.
Tuy nhiên, theo chuẩn mực quốc tế 2, do nhược điểm của phương pháp nhập sau, xuất trước là cung cấp những thông tin không hợp lý, rời rạc và lạc hậu về giá trị hàng tồn kho của doanh nghiệp cho nên nó không được khuyến khích áp dụng ( Phương pháp này bị cấm sử dụng ở một số nước như Anh, úc, Pháp, Hồng Kông, ... nhưng lại được sử dụng khá phổ biến ở Mỹ ).
Xuất phát từ yêu cầu của quản lý và yêu cầu của công tác kế toán là cần phải phản ánh đúng đắn các chỉ tiêu trên các báo cáo tài chính, qua đó phản ánh được đúng đắn tình hình hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp; từ việc phân tích các ưu nhược điểm của từng phương pháp tính giá hàng tồn kho và ảnh hưởng của nó đến chi phí, giá vốn và lợi nhuận trong kỳ của doanh nghiệp; dựa trên các qui định của chuẩn mực kế toán hàng tồn kho của quốc tế và chuẩn mực kế toán hàng tồn kho của Việt Nam nên qui định việc lựa chọn phương pháp tính giá xuất hàng tồn kho ở các doanh nghiệp như sau:
Thứ nhất, trong bất kỳ trường hợp nào, phương pháp giá thực tế đích danh phải được ưu tiên nếu doanh nghiệp có thể áp dụng được, bởi vì phương pháp giá thực tế đích danh là phương pháp phản ánh đúng đắn nhất giá trị hàng xuất dùng, xuất bán và nó tuân thủ nguyên tắc phù hợp của hạch toán kế toán.
Thứ hai, nếu có bằng chứng xác nhận thực tế luồng nhập, luồng xuất vật tư, hàng hoá của doanh nghiệp là nhập sau, xuất trước thì doanh nghiệp được phép áp dụng phương pháp nhập sau, xuất trước để xác định giá trị vật tư, hàng hoá xuất kho.
Thứ ba, khi doanh nghiệp không thể áp dụng được phương pháp giá thực tế đích danh và khi thực tế luồng nhập, luồng xuất vật tư, hàng hoá của doanh nghiệp không phải là nhập sau, xuất trước thì doanh nghiệp có thể lựa chọn giữa phương pháp nhập trước, xuất trước và phương pháp giá bình quân.
Những qui định trên vừa phù hợp với chuẩn mực kế toán quốc tế, vừa phản ánh được đúng hoạt động kinh doanh và tình hình tài chính của các doanh nghiệp.
Kết luận
Hàng tồn kho là một phần quan trọng trong tài sản lưu động của nhiều doanh nghiệp. Vì vậy, việc tính đúng giá trị hàng tồn kho, không chỉ giúp cho doanh nghiệp chỉ đạo kịp thời các nghiệp vụ kinh tế diễn ra hàng ngày, mà còn giúp doanh nghiệp có một lượng vật tư, hàng hoá dự trữ đúng định mức, không dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn, mặt khác không dự trữ quá ít để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục, không bị gián đoạn. Việc tính đúng giá trị hàng tồn kho còn có ý nghĩa vô cùng quan trọng khi lập báo cáo tài chính, vì nếu tính sai lệch giá trị hàng tồn kho sẽ làm sai lệch các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính, cụ thể giá trị tài sản lưu động và tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp thiếu chính xác, giá vốn hàng bán tính sai sẽ làm cho chỉ tiêu lãi gộp và lãi ròng của doanh nghiệp không còn chính xác.
Hiện nay, theo chuẩn mực kế toán Việt Nam cũng như chuẩn mực kế toán quốc tế thì có bốn phương pháp để xác định giá trị hàng xuất kho bao gồm: Phương pháp giá thực tế đích danh, phương pháp bình quân gia quyền, phương pháp nhập trước, xuất trước và phương pháp nhập sau, xuất trước. Nhưng tuỳ vào tình hình sản xuất và quản lý của doanh nghiệp mà lựa chọn các phương pháp khác nhau.
Qua qúa trình nghiên cứu đề tài, em rút ra được những vấn đề sau: Thấy được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của việc tính giá hàng tồn kho, chỉ ra được những ưu nhược điểm của từng phương pháp, từ đó đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện vấn đề sao cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay của nước ta và đảm bảo thực hiện đúng theo chế độ kế toán của Việt Nam và quốc tế.
Tài liệu tham khảo
Giáo trình Kế toán tài chính, Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Kế toán quản trị, Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Kế toán quốc tế, Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Giáo trình Lý thuyết hạch toán kế toán, Trường đại học Kinh tế quốc dân.
Kế toán Mỹ.
Kế toán chi phí, Nathan Slavin .
Kế toán quản trị tài chính, (theo hệ thống Kế toán Mỹ), Trần Hoài Nam.
Kế toán quản lý, Hùng Mạnh.
Chuẩn mực Kế toán Việt Nam.
Chuẩn mực kế toán quốc tế.
Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002
12. Các tạp chí Kế toán.
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35460.doc