Đề án Bàn về vai trò của đo lường trong một số hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam

Để quản lý một cách có hiệu quả và tốt nhất đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp không phân biệt doanh nghiệp đó thuộc thành phần, loại hình kinh tế, lĩnh vực hoạt động hay hình thức sở hữu nào đều phải sử dụng hàng loạt các công cụ quản lý khác nhau, trong đó không thể không nhắc tới tầm quan trọng của công tác đo lường và quản lý đo lường. Với phương trâm chất lượng là trung tâm, đo lường là cơ sở, ngày nay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đã rất quan tâm tới công tác đo lường, đây là một tín hiệu đáng mừng cho công tác quản lý đo lường của nhà nước và cũng là tín hiệu đáng mừng cho người tiêu dùng vì từ nay họ sẽ được tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng, có độ tin cậy. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm tới công tác đo lường, đo lường ở những doanh nghiệp này vẫn còn yếu. Hy vọng rằng trước sức ép cạnh tranh của thị trường ngày càng cao trong quá trình toàn cầu hoá, các doanh nghiệp đó sẽ nhận ra được yếu kém của mình và có sự sửa đổi thích hợp để tồn tại và phát triển.

doc40 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1726 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bàn về vai trò của đo lường trong một số hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hực hiện kiểm định và hiệu chuẩn, sửa chữa các phương tiện đo. Tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu, những thử nghiệm, cải tiến kỹ thuật đo lường mặt khác đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác đo lường, cán bộ làm thông tin về đo lường. 4. Mối quan hệ giữa đo lường và chất lượng với quản lý chất lượng trong doanh nghiệp. Trước hết ta thấy rằng quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp là doanh nghiệp tự vận dụng các tiêu chuẩn có trong các hệ thống quản lý chất lượng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Xét ở tầm vĩ mô thì giữa tiêu chuẩn, hoạt động đo lường và hoạt động quản lý Nhà nước về chất lượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng thúc đẩy nhau cùng phát triển và nếu thiếu một trong các yếu tố đó thì không thể thực hiện được quản lý Nhà nước về chất lượng. Đo lường có tác động tích cực đối với tiêu chuẩn hoá, đo lường là công cụ để tiến hành nghiên cứu thử nghiệm lựa chọn các yêu cầu, định mức hợp lý đối với các chỉ tiêu của tiêu chuẩn, nó là công cụ để điều khiển các quá trình sản xuất theo tiêu chuẩn. Đo lường là công cụ để tiến hành kiểm tra các chỉ tiêu, thuộc tính của sản phẩm xem có đạt các yêu cầu quy định trong tiêu chuẩn đã lựa chọn hay không. Tiêu chuẩn thể hiện rõ những điểm trọng yếu của từng hoạt động trong công việc, xác định các công việc trên cơ sở các phương pháp thao tác và kết quả nhờ đó mà làm cho sản phẩm hay chi tiết được sản xuất ra có chất lượng đồng đều và ổn định. Đánh giá chất lượng bao giờ cũng căn cứ vào các tiêu chuẩn, không dựa vào tiêu chuẩn thì không thể khẳng định được sản phẩm này hay sản phẩm kia có chất lượng, trong khi đó đo lường tạo điều kiện mô tả chính xác tình trạng của sản phẩm và còn gián tiếp là cơ sở khoa học cho việc xây dựng những tiêu chuẩn mới sau này. Tiêu chuẩn hoá chỉ có thể phát huy được tác dụng của mình khi có một hệ thống đo lường chính xác, ngược lại đo lường lại sử dụng tiêu chuẩn hoá như một công cụ để phát triển thông qua việc quy định các phương pháp đo và phương tiện đo thống nhất. Tiêu chuẩn hoá là biện pháp quan trọng để đo lường có hiệu quả cao góp phần đảm bảo độ chính xác cần thiết của các phép đo, phương tiện đo. 5)Yêu cầu và vị trí của đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng ISO:9000 Nhận thức rõ tầm quan trọng của đo lường trong sản xuất, trong quản lý chất lượng nên đo lường đã trở thành yếu tố không thể thiếu được trong bất kỳ một hệ thống quản lý chất lượng nào trong đó có hệ thống quản lý chất lượng ISO:9000. Mục đích là đảm bảo sử dụng đúng thiết bị để tra công việc, chứng tỏ sự phù hợp của sản phẩm, đảm bảo sự phù hợp của hệ thống quản lý chất lượng và thường xuyên nâng cao tính hiệu lực của hệ thống quản lý chất lượng. Sự xuất hiện đo lường trong hệ thống này được áp dụng trong ngành công nghiệp có sử dụng thiết bị kiểm tra và đo lường để kiểm chứng sản phẩm sản xuất có đúng các thông số kỹ thuật không.Nếu việc kiểm tra chỉ là thị sát thì chúng ta không cần thiết bị đo lường. Tuy nhiên, nếu sử dụng thiết bị đo lường và thử nghiệm thì phải kiểm soát, bảo quản và sử dụng chúng hoàn hảo, duy trì độ chính xác ở mức cần thiết. Theo hệ thống quản lý chất lượng ISO:9000 thì tổ chức phải xác định việc theo dõi và đo lường cần thực hiện và các phương tiện theo dõi và đo lường cần thiết để cung cấp bằng chứng về sự phù hợp của sản phẩm với các yêu cầu xác định. Tổ chức phải thiết lập các quá trình để đảm bảo rằng việc theo dõi và đo lường cần tiến hành và được tiến hành một cách nhất quán với các yêu cầu theo dõi và đo lường. Ngoài ra, tổ chức phải đánh giá và lưu hồ sơ về giá trị hiệu lực của các kết quả đo lường trước đó khi thiết bị được phát hiện không phù hợp với các yêu cầu. Tổ chức phải tiến hành các hành động thích hợp đối với thiết bị và bất kỳ sản phẩm nào bị ảnh hưởng. Phải duy trì hồ sơ các kết quả hiệu chuẩn và kiểm tra xác nhận. Khi sử dụng phần nềm máy tính để theo dõi và đo lường các yêu cầu đã quy định, phải xác nhận khả năng thoả mãn việc áp dụng dự kiến. Việc này phải được tiến hành trước lần sử dụng đầu tiên và được xác nhận lại khi cần thiết. Trong phiên bản mới ISO 9000:2000 đã đưa ra các yêu cầu cho hệ thống quản lý chất lượng nhằm tiến tới sự thoả mãn khách hàng thông qua việc đáp ứng các yêu cầu của họ và của luật định. Cũng như phiên bản ISO 9000 trước đây, phiên bản mới này khuyến khích việc quản lý chất lượng theo phương pháp quá trình. Đó chính là việc nhận biết và quản lý có hệ thống các quá trình hoạt động và sự tương tác giữa các quá trình họat động này. Vậy đo lường được hiện diện và được quy định trong ISO 9000:2000 như thế nào ? Có thể nói, cũng như trong ISO 9000 cũ đo lường chiếm một vị trí nổi bật trong ISO 9000:2000. Tất cả các yêu cầu có liên quan đến đo lường đã được quy định trước đây đều được giữ lại với sự bổ sung và hệ thống hoá cao hơn. Các yêu cầu về đo lường trong ISO 9000:2000 đều cho ta thấy rõ vai trò xuyên suốt của đo lường trong tất cả các quá trình hình thành nên một sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi để người sử dụng thấy được cụ thể những công việc về đo lường cần thực hiện để đáp ứng yêu cầu này. Những yêu cầu này được thể hiện trong ISO 9000:2000 như sau: +Mục 4. Các yêu cầu của hệ thống chất lượng: phần các yêu cầu chung quy định tổ chức phải đo lường, kiểm soát và phân tích các quá trình cần thiết cho một hệ thống quản lý chất lượng. +Mục 5. Trách nhiệm của lãnh đạo, phần lập kế hoạch quy định các mục tiêu chất lượng phải là các mục tiêu đo lường được. +Mục 6. Quản lý nguồn lực, tổ chức phải xác định cung cấp và duy trì cơ sở vật chất cần thiết để đạt được sự phù hợp của sản phẩm, trong đó có trang thiết bị, phần cứng và phần mềm. +Mục 7. Việc thực hiện sản phẩm, phần lập kế hoạch thực hiện các sản phẩm được quy định phải xác định các hoạt động kiểm tra và xác nhận giá trị và các tiêu chuẩn chấp nhận. Phần các hoạt động sản xuất và dịch vụ theo quy định thì tổ chức phải sẵn có và sử dụng các thiêts bị đo lường giám sát.Đặc biệt phần 7.6 Kiểm soát các thiết bị đo lường và giám sát đã đưa ra yêu cầu: Tổ chức phải xác định các phép đo và các thiết bị giám sát và đo lường cần thiết để đảm bảo sự phù hợp của sản phẩm theo yêu cầu quy định. Các thiết bị đo lường và giám sát phải được sử dụng và kiểm soát để đảm bảo rằng năng lực của phép đo đồng nhất với các yêu cầu của phép đo. Để chắc chắn thiết bị đo lường hoạt động có hiệu quả và cho kết quả đáng tin cậy thì thiết bị đo lường phải: - Được hiệu chuẩn hoặc kiểm tra xác nhận định kỳ, hoặc trước khi sử dụng, dựa trên các chuẩn đo lường có liên kết với chuẩn đo lường quốc gia hay quốc tế, khi không có các chuẩn này thì căn cứ được sử dụng để hiệu chuẩn hoặc xác nhận phải được lưu hồ sơ. -Được hiệu chỉnh hay hiệu chỉnh lại khi cần thiết. -Được nhận biết để giúp xác định trạng thái hiệu chuẩn. -Được gìn giữ tránh bị hiệu chỉnh làm mất tính đúng đắn của các kết quả đo -Được bảo vệ để tránh hư hỏng hoặc suy giảm chất lượng trong di chuyển, bảo dưỡng và lưu giữ. +Mục 8.Đo lường, phân tích và cải tiến, phần lập kế hoạch quy định: Tổ phải xác định, lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động đo lường và giám sát cần thiết để đảm bảo sự phù hợp và đạt được các kết quả cải tiến...Đồng thời tổ chức phải giám sát các thông tin về sự thoả mãn hoặc sự không thoả mãn của khách hàng như là một phép đo về hoạt động của hệ thống chất lượng. Mặt khác đo lường và giám sát các quá trình quy định: Tổ chức phải áp dụng các phương pháp thích hợp để đo lường và giám sát các quá trình sản xuất để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng.Các phương pháp này chứng tỏ khả năng của mỗi quá trình nhằm thoả mãn các mục đích đã định. Hơn nữa đo lường và giám sát sản phẩm quy định tổ chức phải đo lường và giám sát các đặc tính của sản phẩm để xác nhận rằng sản phẩm đã thoả mãn các yêu cầu quy định. Như vậy, trong ISO 9000:2000 đo lường đã hiện diện trực tiếp hoặc gián tiếp hầu như ở tất cả các yếu tố tạo thành hệ thốn quản lý chất lượng. Tổ chức phải tiến hành các phương pháp thích hợp để đo lường các quá trình của hệ thống quản lý chất lượng.Các phương pháp này phải chứng tỏ khả năng của các quá trình đạt được các kết quả đã hoạch định. Khi không đạt được kết quả dự kiến, phải tiến hành khắc phục và hành động phòng ngừa một các thích hợp để đảm bảo sự phù hợp của sản phẩm.Các thiết bị đo lường đo các đặc tính của sản phẩm để kiểm tra xác nhận rằng các yêu cầu về sản phẩm đã được đáp ứng.Việc này phải được tiến hành tại những giai đoạn thích hợp của quá trình tạo sản phẩm theo các bố trí đã lập kế hoạch. 6. Yêu cầu và vị trí của đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng toàn diện TQM Bất kỳ một hệ thống kiểm tra nào dựa vào việc thanh tra sản xuất để phát hiện chất lượng tồi đều không đáng tin cậy, tôn kém, lãng phí và không kinh tế. Hệ thống đó phải được thay thế bằng chiến lược phòng ngừa và phải sử dụng thanh tra để xem xét lại hệ thống chuyển đổi chứ không phải xem lại sản phẩm.Với nhận thức đó hệ thống quản lý chất lượng toàn diện đã coi đo lường là một bộ phận quan trọng của quá trình kiểm tra TQM, nó được sử dụng để vạch kế hoạch, đánh giá và sửa sai, tuy nhiên nó chỉ là một bộ phận và không được trở thành một mục đích tự nó. Bản thân việc thực hiện sự đo lường sai sót với độ chính xác vô hạn không giúp gì để tránh được sai sót đó, do đó trong quản lý chất lượng toàn diện nhiều khi cần phải kiềm chế sự hăng hái của những nhà hoá học phân tích, những kỹ sư thí nghiệm chính xác và thậm chí cả những kỹ sư công nghiệp nữa. Thông thường người ta tiến hành đo lường kiểm tra sự phù hợp theo tiêu chuẩn vào cuối quá trình sản xuất, ngay trước khi giao thành phẩm cho các đại lý hoặc người tiêu dùng. Nhưng trong tiếp cận TQM việc đo lường kiểm tra được tiến hành trong suốt quá trình sản xuất. Tiến hành đo lường kiểm tra ở đầu vào quá trình sản xuất bao gồm việc kiểm tra nguyên vật liệu hoặc các bộ phận từ các nhà cung cấp, qua đó để thấy được các yếu tố đầu vào có đạt sự phù hợp theo quy định hay không. Đo lường kiểm tra được tiến hành ngay trong quá trình sản xuất khi sản phẩm đi qua từng công đoạn một trong quá trình. Một mục tiêu của kiểm tra tại nơi làm việc là để xác định coi quá trình có hoạt động thích đáng không, nằm trong tầm kiểm soát hay vượt ra ngoài. Trong TQM việc sửa chữa những sai sót về chất lượng trong quá trình sản xuất là mục tiêu hàng đầu và đó là cách lý tưởng để giảm khả năng có phế phẩm. Trong môi trường TQM lý tưởng thì người sản xuất trực tiếp phải đồng thời là người đo lường kiểm tra các chi tiết đi qua chỗ làm việc của mình và tìm ngay biện pháp khắc phục, tuy nhiên không phải lúc nào cũng làm được điều đó vì việc tiến hành kiểm tra đo lường chi tiết tốn mất nhiều thời gian và khiến tốc độ sản xuất bị trì trệ.Đo lường kiểm tra lý tưởng là tiến hành kiểm tra trước tất cả các nguyên công, tuy nhiên điều này rất gây tốn kém nên theo TQM thì các trạm đo lường kiểm tra thường được đặt ở những chỗ mang lại hiệu quả nhất.Vấn đề quan trọng đặt ra là khi nào, ở giai đoạn nào trong quá trình sản xuất cần được kiểm tra thông qua đo lường.Phát hiện ra sai sót càng sớm trong quá trình sản xuất thì càng ít lãng phí tài nguyên trong các nguyên công tiếp theo, nhờ đó phế phẩm được loại ra ngay từ đầu. IV. một vài kinh nghiệm về quản lý đo lường ở các nước phát triển trên thế giới. Với nền tảng cơ sở hạ tầng phát triển ở trình độ cao, nên các nước phát triển có hệ thống đo lường và quản lý đo lường hiện đại và hiệu quả, qua đó đã có những đóng góp to lớn trong công tác đo lường trên toàn thế giới mà biểu hiện đỉnh cao là hình thành những khu vực liên kết hợp tác trong lĩnh vực đo lường tiêu chuẩn hoá. ở cộng đồng châu Âu, hoạt động đo lường tiêu chuẩn hoá mang tính khu vực bắt đầu được đẩy mạnh từ những năm 1985 kể từ khi cộng đồng này đưa vào áp dụng khái niệm “phương pháp tiếp cận mới”trong lĩnh vực đo lường tiêu chuẩn hoá. Cộng đồng châu Âu theo đuổi “phương pháp tiếp cận mới” gần 30 năm nay và tiếp tục khẳng định sự kiên trì đường lối này trong thiên niên kỷ mới. “Phương pháp tiếp cận mới” của cộng đồng châu Âu nhằm mục tiêu giảm bớt càng nhiều càng tốt các trở ngại do các quy định của mỗi nước trong cộng đồng gây ra, làm ảnh hưởng tới tự do hoá thương mại trong cộng đồng. Và vì vậy, cho phép giảm sự tập trung hoá và tăng mức độ linh hoạt trong hoạt động thương mại. Nội dung của phương pháp tiếp cận mới này là chỉ có các yêu cầu cơ bản về an toàn và công dụng của sản phẩm mới được đưa vào trong các nghị quyết của cộng đồng và đòi hỏi sự tuân thủ của các nhà sản xuất, kinh doanh sản phẩm đó ở các nước thành viên. Còn các tiêu chuẩn chi tiết khác không liên quan đến an toàn và công dụng cơ bản nói trên sẽ được các công ty đưa ra và áp dụng tự nguyện. Các tiêu chuẩn này là tự nguyện song bản thân chúng đã tạo ra tiền đề cho sự phù hợp với các yêu cầu cơ bản quy định trong các nghị quyết của cộng đồng châu Âu. Ngày nay nhu cầu về một “phương pháp tiếp cận mới” là tất yếu khi liên kết chính trị, kinh tế và xã hội ngày càng trở nên chặt chẽ trong phạm vi cộng đồng và cũng không phải là ngẫu nhiên cộng đồng châu Âu đưa ra “phương pháp tiếp cận mới” này. “Phương pháp tiếp cận mới” được dựa trên cái gọi là phương pháp tiếp cận toàn cầu về thử nghiệm và chứng nhận. Sản phẩm của thế giới mà theo đó việc toàn cầu hoá và hội nhập của các thị trường khác nhau đã trở thành xu thế tất yếu. Phương pháp tiếp cận toàn cầu về thử nghiệm và chứng nhận cho phép doanh nghiệp có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu quy định. Nói cụ thể hơn là doanh nghiệp có thể dùng bên thứ ba thực hiện việc thử nghiệm hoặc tự mình thử nghiệm hoặc chứng nhận cho sản phẩm của chính mình, tuỳ thuộc vào khả năng đảm bảo chất lượng trong thực tiễn sản xuất kinh doanh của mình. Cả “ phương pháp tiếp cận mới” của cộng đồng châu Âu và phương pháp tiếp cận toàn cầu về thử nghiệm và chứng nhận đều hướng tới sự giảm bớt sự can thiệp của pháp luật và nhà nước vào hoạt động sản xuât kinh doanh của doanh nghiệp, tạo nên chỗ đứng cho cái gọi là sự tự điều chỉnh của thị trường, qua đó thúc đẩy tự do hoá thương mại trong phạm vi khu vực và toàn cầu. ở châu á hoạt động đo lường tiêu chuẩn hoá cũng mang tính khu vực nhưng kém phát triển hơn ở cộng đồng châu Âu do mối liên kết về chính trị và về kinh tế lỏng lẻo hơn. Trong khuôn khổ tổ chức hợp tác kinh tế châu á - thái bình dương (APEC) các hoạt động về đo lường, tiêu chuẩn và chứng nhận bao gồm: -Hài hoà với tiêu chuẩn quốc tế. -Thừa nhận lẫn nhau về kết quả thử nghiệm và chứng nhận. -Hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng. -Tăng cường trao đổi thông tin nhằm minh bạch hoá chính sách quản lý tiêu chuẩn chất lượng. Việc triển khai các hoạt động nói trên là nhiệm vụ chủ yếu của tiểu ban Tiêu chuẩn và Sự phù hợp của APEC.Với sự điều hành của tiểu ban này, một số lĩnh vực ưu tiên đối với hài hoà tiêu chuẩn và thừa nhận lẫn nhau đã được xác định, một số hiệp định khung của APEC về thừa nhận lẫn nhau đã được soạn thảo. Là một nước đang phát triển, Việt nam đã và đang thừa hưởng những thành tựu về đo lường và tiêu chuẩn hoá tiên tiến trên thế giới mà cụ thể là Việt nam đã và đang nhận được sự hỗ trợ của các nước thuộc cộng đồng châu Âu, thông qua các dự án song phương. Dự án hiện đang trong quá trình triển khai là chương trình hỗ trợ kỹ thuật của EU tại Việt nam trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng. Các yếu tố của phương pháp tiếp cận mới của cộng đồng châu Âu cũng đã được thể hiện trong các văn bản pháp lệnh năm 1999.Việt nam đã và đang tham gia tích cực vào các dự án liên kết trong lĩnh vực đo lường ở phạm vi khu vực và thế giới, đây là những thuận lợi to lớn cho sự nghiệp đo lường việt nam phát triển, đồng thời tạo ra những thời cơ và thách thức đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng hàng hoá. Phần II: Thực trạng đo lường trong một số hệ thống quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp công nghiệp việt nam. I. tình trạng đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp việt nam nói chung. 1. Đo lường công nghiệp là gì? Đo lường công nghiệp là lĩnh vực đo lường gắn liền với sản xuất của các doanh nghiệp, phục vụ cho việc duy trì và cải tiến công nghệ nhằm đảm bảo chất lượng của sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể tiếp cận đo lường công nghiệp theo hai hướng: Một là, hình thành một mạng lưới dẫn xuất chuẩn (các phòng hiệu chuẩn được công nhận) để các chuẩn và phương tiện đo dùng trong công nghiệp được liên kết với chuẩn quốc gia trực tiếp hoặc gián tiếp. Hai là, tổ chức quản lý, phát triển đo lường tại chính doanh nghiệp với ý nghĩa đo lường là một trong các yếu tố quan trọng không thể thiếu trong cấu thành hệ thống đảm bảo chất lượng của doanh nghiệp. Đo lường công nghiệp là lĩnh vực các doanh nghiệp và các nghành công nghiệp phải tự lo liệu vì lơị ích sản xuất kinh doanh của mình.Vai trò của nhà nước chỉ là định hướng, giúp đỡ, hỗ trợ trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện. 2. Đo lường công nghiệp trong pháp lệnh đo lường 1999. Pháp lệnh đo lường 1999 đã dành toàn bộ chương IV để quy định về vấn đề hiệu chuẩn phương tiện đo. Những quy định này thể hiện quan điểm và cơ chế quản lý của nhà nước ta đối với đo lường công nghiệp. Cơ chế này dựa trên nguyên tắc tự nguyện, thoả thuận và tự phát triển của các ngành, các doanh nghiệp với sự giúp đỡ và định hướng của nhà nước. Nội dung cơ bản của những quy định này là: + Hiệu chuẩn là việc so sánh giá trị của đại lượng thể hiện bằng phưong tiện đo với giá trị tương ứng thể hiện bằng chuẩn đo lường. Hiệu chuẩn được áp dụng đối với các phương tiện đo dùng làm chuẩn và các phương tiện đo ngoài danh mục phải kiểm định. Đó chính là những phương tiện đo dùng trong nghiên cứu khoa học, công nghệ,những phương tiện đo dùng làm chuẩn để hiệu chuẩn phương tiện đo khác, để khắc độ phương tiện đo, để điều khiển, điều chỉnh các quá trình công nghệ sản xuất,vật liệu, thiết bị nhằm phục vụ việc kiểm tra chất lượng, việc nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới,việc bảo hành sửa chữa, phục hồi sản phẩm. Việc hiệu chuẩn được thực hiện tại các phòng hiệu chuẩn và chính các phòng hiệu chuẩn này chịu trách nhiệm về kết quả hiệu chuẩn của mình. +Phòng hiệu chuẩn được một tổ chức công nhận có thẩm quyền đánh giá và công nhận là có đủ điều kiện theo quy định để tiến hành các hoạt động hiệu chuẩn đối với từng lĩnh vực đo cụ thể, gọi là phòng hiệu chuẩn được công nhận.Pháp lệnh đo lường 1999 giao trách nhiệm cho cơ quan quản lý nhà nước về đo lường phải quy định cụ thể nội dung, điều kiện, thủ tục công nhận phòng hiệu chuẩn và tổ chức công nhận có thẩm quyền. +Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở nghiên cứu khoa học, công nghệ sản xuất, kinh doanh phát triển hoạt động hiệu chuẩn, xây dựng các phòng hiệu chuẩn được công nhận nhằm boả đảm tính thống nhất và độ chính xác cần thiết của phương tiện đo, đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh và nghiên cứu của cơ sở. Như vậy, với những quy định như trên thì tình trạng đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam nói chung ra sao. 3. Tình trạng đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam nói chung. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta thật to lớn và cấp bách đòi hỏi sự nỗ lực của toàn đảng, toàn dân. Để có được một nền công nghiệp hiện đại và phát triển, một trong những vần đề phải quan tâm hàng đầu là công tác đo lường, kiểm tra chất lượng. Nghị quyết Hội nghị trung ương 2( khoá VIII) đã khẳng định công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học là quốc sách hàng đầu, là khâu then chốt để đẩy mạnh công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. Từ trước cho tới nay trong công cuộc xây dựng đất nước chúng ta thấy có hai vấn đề lớn chưa được quan tâm một cách đầy đủ, đó là vấn đề đào tạo các chuyên gia trong lĩnh vực đo lường thử nghiệm và công tác nghiên cứu khoa học phục vụ sản xuất, xuất nhập khẩu và đời sống hàng ngày. Nhà bác học Men-đê-lê-ép đã nói “Khoa học bắt đầu từ khi ta biết đo”, vì vậy muốn nền khoa học nước nhà phát triển thì trước tiên phải có những người biết đo. Đáng tiếc là việc đào tạo các chuyên gia đo lường chưa được chú trọng đúng mức, chưa được các cấp lãnh đạo đánh giá đúng tầm quan trọng của nó. Trong thời kỳ chiến tranh rồi đến thời kỳ bao cấp, nền kinh tế của ta chủ yếu dựa vào viện trợ của nước ngoài nên công tác đầu tư cơ sở vật chất về đo lường bị buông lỏng. Do tình trạng khan hiếm nên mặc dù hàng hoá có chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu nhưng chúng vẫn được tiêu thụ hết, đó là một nghịch lý. Ngày nay khi đất nước đang thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa để hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới, trên thị trường trong nước hàng hoá nước ngoài đang tràn ngập. Nếu chúng ta không coi trọng chất lượng hàng hoá sản xuất ra thì đến một ngày nào đó nền kinh tế sẽ suy thoái vì không cạnh tranh được với hàng ngoại nhập. Để thực hiện những công việc khó khăn này,chúng ta phải có những chuyên gia am hiểu về tiêu chuẩn đo lường chất lượng, đặc biệt là nắm được và thực hiện các phương pháp kiểm tra chất lượng một cách trung thực và vô tư, đây là một mảng mà chúng ta đang thiếu. Một vấn đề thực tế hiện nay là nhiều thiết bị đo của ta chưa được thường xuyên kiểm tra và giám sát nên đã và đang gây ra những thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế, nhất là trong việc giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu.Vấn đề là ở chỗ: các thiết bị đo đang được sử dụng trong các doanh nghiệp ở nước ta được sản xuất từ nhiều nước, nhiều hãng khác nhau với độ chính xác khác nhau và chưa được kiểm tra độ chính xác trong quá trình sử dụng đã tạo ra sự không thống nhất trong các phép đo,trong kiểm tra và thử nghiệm giữa các doanh nghiệp, hơn nữa là chúng đã cũ kỹ lạc hậu chủ yếu có từ thời chiến tranh và thời bao cấp để lại. Ví dụ: Đối với cân dân dụng trên thị trường, chúng ta vẫn thường nghe nói đến loại cân chín lạng. Điều đó có nghĩa là những chiếc cân này có khả năng sai số tói 10%. Thế mà các cơ quan nhà nước về quản lý đo lường còn chưa quan tâm đến chúng, trong khi đó các nhà sản xuất cân ô tô điện tử (loại 30 tấn) thì lại đòi hỏi cấp chính xác tới 1/1000. Kết quả là, có loại cân thì còn thả nổi, có loại cân thì lại được quy định quá chặt chẽ đến mức khó mà có thể chế tạo được hoặc chỉ sử dụng được một thời gian ngắn là buộc phải kiểm định lại. Về mảng giáo dục và đào tạo về đo lường nước ta đang thiếu hụt nghiêm trọng. Hiện nay trường đại học Bách khoa Hà nội là nơi duy nhất đào tạo kỹ sư chuyên ngành đo lường. Trong 20 năm qua đại học Bách khoa Hà nội đã đào tạo được khoảng 400 kỹ sư chuyên ngành đo lường. Các kỹ sư đã ra trường đã và đang phát huy tốt trong các lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Do vậy Nhà nước cần phải định hướng mở rộng quy mô đào tạo và đầu tư cơ sở vật chất về đo lường phục vụ cho công tác giảng dạy. Ngày nay, việc ứng dụng kỹ thuật vi xử lý và vi tính ngày càng phổ biến đang tạo ra một hướng mới cho các ngành kỹ thuật đo, đó là tin học công nghiệp.Đây là một hướng hiện đại kết hợp giữa ba lĩnh vực: toán, tin học và kỹ thuật đo lường. Các thiết bị đo và hệ thống đo thông minh ra đời có thể đảm đương các nhiệm vụ như đo lường, kiểm tra tự động, chuẩn đoán kỹ thuật hay nhận dạng và phân loại sản phẩm. Có thể nói, tin học đã và đang góp phần đổi mới kỹ thuật đo lường và công tác quản lý ở các doanh nghiệp công nghiệp. Vì thế kỹ thuật đo lường đã trở thành một ngành kỹ thuật cao thực sự cần thiết cho mọi lĩnh vực kinh tế quốc dân. Nhận thức được tầm quan trọng đó, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các doanh nghiệp đã chú trọng hơn trong việc đào tạo lại đội ngũ cán bộ làm công tác đo lường, tuy nhiên sự cố gắng đó còn chưa được nhiều. Hiện nay, ở nước ta hầu như tất cả các loại thiết bị đo đều được nhập ngoại từ nhiều nước, nhiều hãng khác nhau, trong khi đó đa phần các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ nên tiềm lực về vốn không lớn, nên kinh phí đầu tư mua sắm thiết bị đo lường bị hạn chế. Đó là vấn đề bức xúc khiến chúng ta lo ngại. Nếu chúng ta không chú trọng và phát triển công tác nghiên cứu khoa học để tự sản xuất lấy thiết bị đo thì ta sẽ rơi vào tình trạng nô lệ về kỹ thuật, từ đó dẫn đến nô lệ về kinh tế. Như vậy, qua thực tế cho thấy tình trạng đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp được thể hiện qua một số nhận xét sau: -Công tác đo lường, thử nghiệm, kiểm tra chất lượng ở phần lớn các doanh nghiệp còn đang trong tình trạng vừa yếu vừa thiếu -Cơ sở vật chất thì yếu, kém, thiếu thiết bị đo lường, kiểm tra và thử nghiệm và nếu có thì phần lớn đã lạc hậu, cũ kỹ. -Nhân viên kiểm tra chất lượng sản phẩm thiếu và lâu nay chưa được đào tạo lại để nâng cao trình độ phù hợp với tình hình phát triển mới. -Chưa có sự liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp trong đo lường, kiểm tra, thử nghiệm. -Với các doanh nghiệp Việt nam kinh phí đầu tư cho trang thiết bị đo lường, kiểm nghiệm quá nhỏ bé, đối với các chỉ tiêu như: Phân tích hoá học bằng quang phổ, thử kéo, nén, uốn, va đập.... ii- đánh giá về công tác đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp việt nam có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. 1. Tình hình đo lường trong một số các doanh nghiệp Việt nam có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. Trong tiến trình phát triển của đất nước, để đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thị trường, nhằm cải tiến chất lượng sản phẩm liên tục, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá dịch vụ cũng như sự phát triển bền vững của nhiều doanh nghiệp, tổ chức nên đã có đông đảo các doanh nghiệp triển khai thực hiện một số hệ thống quản lý chất lượng. Các doanh nghiệp này rất đa dạng và phong phú, bao gồm nhiều thành phần kinh tế, quy mô, lĩnh vực hoạt động ngành nghề và trình độ quản lý khác nhau. Việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng một cách thích hợp với hiện trạng, trong đó có hiện trạng đo lường và mục tiêu phát triển của các doanh nghiệp, tổ chức là một bước đi quan trọng sẽ đem lai hiệu quả kinh tế –xã hội cho đất nước. Với sự xuất hiện của hàng loạt các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng, nên đã làm thay đổi hiện trạng đo lường nói chung của các doanh nghiệp.Nhận thức thấy chất lượng sản phẩm là sự sống còn của mọi doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm chỉ được khẳng định thông qua các kết quả kiểm tra thử nghiệm và ý kiến người tiêu dùng, không thể có khái niệm chất lượng khi không có kiểm tra đo lường. Đồng thời với phương châm chất lượng là mục tiêu, đo lường là cơ sở và để đáp ứng các yêu cầu về đo lường trong hệ thống quản lý chất lượng, các doanh nghiệp đã mạnh dạn và tích cực đầu tư nâng cao năng lực đo lường như mua sắm thiết bị đo lường hiện đại với độ chính xác cao. Các doanh nghiệp còn tổ chức đào tạo cán bộ nhân viên thực hiện công tác kiểm tra giám sát đo lường để có được trình độ tương xứng,mặt khác tích cực thu thập đầy đủ các thông tin về tiêu chuẩn đo lường chất lượng phục vụ cho sự nghiệp sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như công ty liên doanh HONDA Việt Nam, công ty TOYOTA Việt Nam đã có hệ thống đo lường kiểm tra sự phù hợp của sản phẩm với các yêu cầu quy định, theo dây chuyền bán tự động với độ chính xác cao.Công ty bánh kẹo Hải Châu đã có bước đột phá bằng việc hiện đại hoá năng lực đo lường thông qua việc đổi mới và mua sắm các phương tiện đo hiện đại, có hệ thống, chính xác cao. Hầu hết phương tiện đo ở các doanh nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đã qua kiểm định và hiệu chuẩn đạt đến sự phù hợp cần thiết, đồng thời trang bị thêm những phương tiện đo hiện đại nhằm kiểm soát quá trình sản xuất và kiểm soát chất lượng sản phẩm một cách có hiệu quả để thoả mãn khách hàng, thoả mãn những yêu cầu của hệ thống quản lý chất lượng mà doanh nghiệp áp dụng như Công ty Super phốt phát và Hoá chất Lâm Thao, công ty giấy Bãi Bằng. Qua thực tế kiểm tra cho thấy chất lương hàng hoá ở các doanh nghiệp này khá ổn định so với mức đăng ký được cấp, khối doanh nghiệp tư nhân chất lượng sản phẩm đã dần đi tới ổn định. Về ý thức hành pháp lệnh đo lường, các doanh nghiệp công nghiệp đã ý thức chấp hành việc kiểm định phương tiện đo. Hầu hết các doanh nghiệp đã thực hiện công tác thống kê lập biểu theo dõi chu kỳ kiểm định Nhà nước các phương tiện đo và báo cáo kết quả đến chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng,do vậy tỷ lệ sai hỏng của các phương tiện đo đã giảm đáng kể. 2. Đánh giá về công tác đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. Hiện nay đa số các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000.Đo lường đã đóng góp không nhỏ trong việc áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng qua đó đã đem lại những lợi ích thiết thực: -Hợp lý hoá sản xuất, ổn định và nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động. -Nâng cao uy tín đối với khách hàng, thoả mãn người tiêu dùng. -Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, tăng cường sự hội nhập với thị trường trong nước và thế giới. -Hoạt động của doanh nghiệp có hiệu quả, tăng trưởng kinh tế, tăng trưởng lợi nhuận, nề nếp quản lý tốt hơn, trách nhiệm cá nhân được thể hiện rõ rệt và cao hơn. Ta có thể thấy những ví dụ điển hình như công ty kim khí Thăng Long sau khi nhận được chứng chỉ, Nhật Bản đã ký hợp đồng mua 100% sản lượng sản phẩm hàng năm; công ty Giầy vải Thượng Đình xuất khẩu tới 60% sản lượng ; sản phẩm ống nước của công ty cơ khí Mai Động cung cấp 70% nhu cầu thị trường. Hoạt động của 6 doanh nghiệp khác như: Giầy Thuỵ Khuê, Dệt Kim Hà Nội, Khoá Việt Tiệp,Cao su Hà Nội, May 40, Dệt 19-5, sau khi nhận chứng chỉ thì hoạt động sản xuất kinh doanh đều hiệu quả hơn trước.Đa phần các doanh nghiệp đều mở rộng được thị trường, tăng thu nhập cho người lao động, tích luỹ va giao nộp ngân sách cho nhà nước đảm bảo tăng dần sau mỗi năm... Nói như vậy, không có nghĩa là tất cả các doanh nghiệp công nghiệp sau khi nhận được chứng chỉ quốc tế về quản lý chất lượng không còn những tồn tại cần khắc phục như: -Coi doanh nghiệp đã có chứng chỉ thì sản phẩm của họ đương nhiên là thoả mãn tiêu chuẩn quốc tế. -Có chứng chỉ đã là hoàn chỉnh về mọi mặt, không tiếp tục cải tiến nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, không cần đẩy mạnh hoạt động thử nghiệm, kiểm tra chất lượng sản phẩm. -Có những đơn vị coi chứng chỉ như lá bùa hộ mệnh để khoa trương, tuyên truyền quản cáo. -Không tiếp tục đầu tư kỹ thuật đo lường, cải tiến kỹ thuật, hoặc dựa vào khó khăn để chểnh mảng đầu tư. Thực chất của quá trình phấn đấu theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế là quá trình vận động liên tục ở tất cả mọi khâu, mọi cấp, xoá bỏ những tuỳ tiện trong chủ trương, đường lối trong kế hoạch, trong chỉ đạo sản xuất và sản xuất kinh doanh,thiếu cơ sở khoa học, yếu kém về kỹ thuật, trì trệ,thiếu sáng tạo, phiến diện. -Chỉ chú ý đến lợi ích doanh nghiệp, không chú ý đến lợi ích của khách hàng, không quan tâm chương trình hậu mãi.Hoặc lơi lỏng kỹ thuật chất lượng sản phẩm. -Không theo dõi thường xuyên khi xảy ra sai lỗi, không tìm được nguyên nhân đích thực. -Quản lý chất lượng nặng về hình thức, hô hào, mệnh lệnh, không tìm ra giải pháp cụ thể, thường đánh trống bỏ dùi. -Quản lý rời rạc chắp vá, chồng chéo dẫn đến tình trạng phương hại đến các bộ phận trong cùng một doanh nghiệp. -Công tác tiêu chuẩn hoá chứng nhận hợp chuẩn không được chú trọng. -Vấn đề đảm bảo đo lường, thử nghiệm, kiểm tra chất lượng sản phẩm không tiến hành đúng trình tự quy định. -Chỉ chú ý đến cải thiện điều kiện vật chất, kỹ thuật ít chú ý đến yếu tố con người, đào tạo con người. -Trong chiến lược và chính sách phát triển của doanh nghiệp thường không có chiến lược phát triển chất lượng. -Thiếu thiết bị đo lường kiểm tra, thử nghiệm và nếu có thì phần lớn đã lạc hậu,cũ kỹ,nhân viên đo lường kiểm tra chât lượng sản phẩm thiếu và lâu nay chưa được đào tạo lai để nâng cao trình độ. -Chưa có sự liên kết hợp tác giữa các doanh nghiệp trong đo lường kiển tra thử nghiệm. Các doanh nghiệp Việt nam kinh phí đầu tư cho trang thiết bị đo lường kiểm nghiệm quá nhỏ bé. Như vậy, có chứng chỉ về hệ thống quản lý chất lượnglà tiền đề, là giấy chứng nhận để đảm bảo rằng doanh nghiệp đã có một quá trình phấn đấu về mọi mặt đủ đảm bảo uy tín của mình trên thương trường.Nhưng giấy chứng nhận bao giờ cũng có thời hạn nhất định.Vấn đề là muốn có uy tín, doanh nghiệp phải không ngừng thoả mãn, phấn đấu vươn lên trước yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và người tiêu dùng. Phần III: Một số giải pháp để làm tốt công tác đo lường trong các doanh nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng I. các giải pháp ở tầm vĩ mô của nhà nước để thúc đẩy các doanh nghiệp công nghiệp thực hiện tốt công tác đo lường. 1. Tổ chức học tập quán triệt thư của tổng bí thư cùng với việc tuyên truyền phổ biến rộng rãi Pháp lệnh đo lường và các văn bản dưới pháp lệnh, tạo điều kiện cho mọi người dân thực hiện tốt Pháp lệnh đo lường. 2. Xây dựng mới rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đo lường làm cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động đo lường trong cả nước. - Soạn thảo Nghị định hướng dẫn thi hành pháp lệnh đo lường; Ban hành bảng đơn vị đo lường hợp pháp của nước CHXHCN Việt Nam. - Đổi mới soát xét các văn bản về hệ thống chuẩn đo lường quốc gia, xây dựng các phòng hiệu chuẩn được công nhận, hệ thống kiểm định phương tiện đo, công tác thanh tra chuyên ngành về đo lường. Các văn bản về nghiệp vụ và kĩ thuật đo lường, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh hoạt động đo lường trong toàn quốc. 3. Quy hoạch mạng lưới các phòng chuẩn quốc gia và các phòng hiệu chuẩn đo lường, xây dựng hệ thống thông tin tiêu chuẩn đo lường rộng khắp: - Lập các đề án kiện toàn, phát triển các phòng chuẩn quốc gia đặt tại trung tâm đo lường đối với các lĩnh vực đo sau: Độ dài, Khối lượng, Thời gian- tần số, áp suất, dung tích- lưu lượng, lực- độ cứng, hoá lý mẫu chuẩn, điện, điện tử trường nhiệt. - Bàn bạc thống nhất với các ngành để ban hành các văn bản, quy chế thoả thuận đề án phát triển các phòng chuẩn quốc gia các lĩnh vực đo sau:Quang học, Âm thanh, Bức xạ ion hoá. - Xây dựng ba phòng hiệu chuẩn phương tiện đo kiểm soát môi trường tại ba trung tâm kĩ thuật I, II, III. Thống kê, rà soát để cùng với các ngành phối hợp củng cố kiện toàn các phòng hiệu chuẩn đo lường của các ngành khí tượng thuỷ văn, bưu chính viễn thông, y tế, quốc phòng, công nghiệp 4. Nâng cao chất lượng hiệu chuẩn của các phòng chuẩn quốc gia và phòng hiệu chuẩn đo lường: - Ban hành các văn bản quy định về yêu cầu kĩ thuật đối với các phòng hiệu chuẩn áp suất, lực- độ cứng, dung tích, độ dài, khối lượng, nhiệt và điện dựa trên tiêu chuẩn quốc tế ISO: 17025. - Tập huấn cho toàn bộ cán bộ và nhân viên các phòng đo lường hiệu chuẩn các kiến thức về đo lường học quản lý phòng đo lường hiệu chuẩn phương pháp xác định độ không đảm bảo dựa trên tiêu chuẩn quốc tế ISO/ IEC 17025. - Xây dựng và kiện toàn các phòng thử nghiệm của trung tâm đo lường để chuẩn bị cho sự đánh giá của đoàn chuyên gia viện đo lường Nhật. - Xây dựng hệ thống chất lượng để VILAS công nhận bốn phòng hiệu chuản của trung tâm đo lường về độ dài, thời gian - tần số, nhiệt và điện. - Nâng cấp và chuẩn bị các thủ tục đề nghị chuẩn quốc gia về thời gian- tần số, khối lượng, dung tích, điện áp, điện trở, độ dài, độ cứng. 5. Kiện toàn tổ chức đo lường ở 61 tỉnh và thành phố: - Nâng cấp phòng kiểm định của các chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, mở rộng phạm vi kiểm định được công nhận, trang bị xe kiểm định lưu động, tổ chức tập huấn kĩ thuật nghiệp vụ. Xây dựng các điểm đo lường đối chứng tại các trung tâm thương mại, các thị xã, thị trấn, thị tứ. Hỗ trợ tích cực mỗi địa phương làm thí điểm từ một đến hai điểm, 6. Phát triển ngành công nghiệp sản xuất và kinh doanh phương tiện đo: - Thống kê tình hình sản xuất phương tiện đo trong nước, tổ chức xây dựng đề án phát triển giới thiệu đối với các cơ quan quản lý vĩ mô. Tổ chức sinh hoạt, tập hợp lực lượng sản xuất phương tiện đo trong nước, đặc biệt đối với các phương tiện đo dân dụng số lượng lớn… - Thống kê năng lực các cơ sở sản xuất kinh doanh thiết bị đo, lập đề án khai thác các tổ chức kinh doanh, đề xuất cơ chế chính sách thích hợp nhằm khuyến khích việc sản xuất và kinh doanh phương tiện đo. Thống kê năng lực đo lường, thử nghiệm trong cả nước và đề xuất các phương án, chính sách hỗ trợ phát triển. II. các biện pháp vi mô để làm tốt công tác đo lường trong các doanh nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng. 1. Thực hiện tốt công tác đo lường, kiểm tra, kiểm soát chất lượng. Xuất phát từ thực tế nhiều doanh nghiệp sau khi nhận được chứng chỉ quốc tế về quản lý chất lượng thường tự coi sản phẩm của họ đương nhiên là thoả mãn tiêu chuẩn quốc tế. Họ coi có chứng chỉ đã là hoàn chỉnh về mọi mặt, không tiếp tục cải tiến nâng cao năng suất chất lượng, không cần đẩy mạnh hoạt động đo lường, kiểm tra, thử nghiệm chất lượng sản phẩm, không theo dõi thường xuyên khi xảy ra sai lỗi, không tìm được nguyên nhân đích thực, vấn đề đảm bảo đo lường và kiểm tra chất lượng sản phẩm không được tiến hành theo đúng trình tự. Với họ chứng chỉ như là lá bùa hộ mệnh để khoa trương tuyên truyền quảng cáo sản phẩm đạt chất lượng cao. Họ đã quên rằng chất lượng đâu chỉ tồn tại gắn liền với một mốc nhất định, mà nó cần phải được duy trì và liên tục cải tiến. Vấn đề đặt ra là, muốn có uy tín doanh nghiệp phải không ngừng thoả mãn, phấn đấu vươn lên trước yêu cầu ngày càng cao của khác hàng và người tiêu dùng, bất cứ sự không thoả mãn nào đều dẫn tới hậu quả tai hại, vì vậy, song song với hàng loạt các biện pháp cải tiến các quá trình, công tác đo lường, kiểm tra, thử nghiệm chất lượng sản phẩm đều phải được coi trọng và được tiến hành nghiêm ngặt. Doanh nghiệp cần phải thiết lập thời khoá biểu, thực hiện một cách có nề nếp công tác đo lường, kiểm tra, thử nghiệm chất lượng sản phẩm. Tiến hành song song với công tác kiểm tra sự ổn định của chất lượng sản phẩm thì doanh nghiệp phải tiến hành kiểm tra định kỳ các loại phương tiện đo của doanh nghiệp, nếu phát hiện ra sự sai sót thì phải tiến hành hiệu chỉnh kịp thời để đảm bảo độ chính xác của các phép đo trong kiểm tra chất lượng sản phẩm. Làm được những điều đó doanh nghiệp sẽ vươn tới sự ổn định về chất lượng sản phẩm qua đó khẳng định được lòng tin đối với khách hàng. 2. Xây dựng tiêu chuẩn công ty và áp dụng tiêu chuẩn. Mong muốn mở rộng các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, thúc đẩy đầu tư nước ngoài trực tiếp và tham gia vào thị trường toàn cầu đã đặt các doanh nghiệp ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam vào thế phải đối đầu với hàng loạt những thời cơ và thách thức. Trong số những đòi hỏi cấp thiết và nổi bật, phải kể đến sự hài hoà, phù hợp của tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật quốc tế – một đòi hỏi được các bạn hàng và đối tác công nghiệp, các nhà đầu tư có tiềm năng lớn ngày càng quan tâm. Cần phải thấy rõ tầm quan trọng của tiêu chuẩn và các quy định kỹ thuật, chúng rất cần cho hoạt động thương mại được diễn ra thuận lợi, suôn sẻ. Bên cạnh đó đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì sự liên kết hợp tác trong công tác đo lường, kiểm tra, thử nghiệm và các thoả thuận thừa nhận tiêu chuẩn của nhau còn nhiều hạn chế. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải tự xây dựng, công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của mình để khẳng định lòng tin đối với khách hàng. Tiến hành chứng nhận sản phẩm phù hợp với tiêu chuẩn cho sản phẩm bắt buộc và tự nguyện, nghĩa là sản phẩm được sản xuất theo tiêu chuẩn quốc gia hay quốc tế hay của các nước khác. Để làm được điều đó các doanh nghiệp cần có tiêu chuẩn nội bộ cho các đối tượng tiêu chuẩn hoá của mình. Tiêu chuẩn nội bộ đó quy định các điều khoản cần áp dụng để sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp thoả mãn được nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung. ở từng thời điểm, doanh nghiệp cần xác định được đối tượng nào cần được xây dựng tiêu chuẩn, xây dựng loại tiêu chuẩn nào để có đủ tiêu chuẩn phục vụ cho sản xuất kinh doanh của mình. Trong nhiều trường hợp tồn tại những tiêu chuẩn bên ngoài cho chính đối tượng mà doanh nghiệp cần xây dựng tiêu chuẩn nội bộ, thì trước hết doanh nghiệp cần cố gắng tập trung nỗ lực chấp nhận các tiêu chuẩn đó, đặc biệt là các tiêu chuẩn quốc tế. Khi áp dụng tiêu chuẩn bên ngoài vào trong nội bộ doanh nghiệp cần chú ý: Một là, khi tiêu chuẩn bên ngoài khó hiểu thì cần chuyển đổi sang tiêu chuẩn doanh nghiệp sao cho dễ hiểu và thích hợp với doanh nghiệp. Hai là, khi tiêu chuẩn bên ngoài không hàm chứa các yêu cầu cụ thể thì cần soạn thảo tiêu chuẩn doanh nghiệp với những yêu cầu cụ thể rõ ràng. Ba là, khi tiêu chuẩn bên ngoài bao hàm quá rộng hoặc bao gồm những phương án lựa chọn khác nhau thì cần soạn thảo tiêu chuẩn doanh nghiệp cụ thể hoá và chỉ rõ những phương án sản phẩm của doanh nghiệp. Bốn là, khi tồn tại một số hoặc nhiều tiêu chuẩn bên ngoài cho cùng một đối tượng, thì tiêu chuẩn nào thấy cần áp dụng và áp dụng có hiệu quả, thì doanh nghiệp chấp nhận tiêu chuẩn đó thành tiêu chuẩn của mình. Khi không chấp nhận được thì tiêu chuẩn bên ngoài vẫn luôn phải là tài liệu tham khảo quan trọng nhất trong soạn thảo tiêu chuẩn doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần có biện pháp áp dụng có hiệu quả các tiêu chuẩn có liên quan kể cả tiêu chuẩn nội bộ và tiêu chuẩn bên ngoài. Đối với tiêu chuẩn nội bộ, việc áp dụng phải là bắt buộc trong phạm vi toàn công ty. áp dụng tiêu chuẩn bên ngoài có thể dược tiến hành theo hai cách: gián tiếp và trực tiếp, doanh nghiệp có thể sử dụng một tiêu chuẩn bên ngoài nào đó trực tiếp hoặc thông qua một tiêu chuẩn hay tài liệu nào khác của doanh nghiệp. Tiêu chuẩn có thể được áp dụng toàn bộ hoặc một phần, hoặc được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Đối với tiêu chuẩn được các cơ quan có thẩm quyền công bố bắt buộc áp dụng thì doanh nghiệp phải tuân thủ nghiêm túc trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Ngoài ra doanh nghiệp phải luôn theo dõi cập nhật các tiêu chuẩn bên ngoài có liên quan. Nhìn chung, để áp dụng một tiêu chuẩn nào đó, doanh nghiệp cần thiết lập phương án áp dụng, rà xét sửa chữa các văn bản kỹ thuật có liên quan, khi cần thiết có thể tổ chức lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị công nghệ, mua sắm thiết bị đo lường thử nghiệm. Như vậy, thông qua hoạt động tiêu chuẩn hoá mà các doanh nghiệp sẽ liên kết hợp tác với nhau trong công đo lường, thử nghiệm, kiểm tra, thừa nhận lẫn nhau về chất lượng sản phẩm, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại. 3. Đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất về đo lường. Cơ sở vật chất về đo lường quyết định đến trình độ hiện đại hoá và năng lực về đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp. Hầu hết cơ sở vật chất về đo lường của nước ta đã cũ kỹ lạc hậu do sự để lại của thời kỳ chiến tranh và thời kỳ bao cấp, do đó cơ sở vật chất về đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp cũng chịu ảnh hưởng của tàn tích đó để lại. Nhận thấy sản phẩm chỉ đạt yêu cầu về chất lượng khi các phép đo được tiến hành trên các phương tiện đo hiện đại có độ chính xác cao, nên hầu hết các doanh nghiệp công nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đã có những bước đi quan trọng trong việc hiện đại hoá năng lực đo lường. Tuy nhiên sau khi đã nhận được sự công nhận nhất định về chất lượng một số doanh nghiệp thường không tiếp tục đầu tư cải tiến kỹ thuật đo lường, hoặc dựa vào khó khăn để chểnh mảng đầu tư. Thực chất của quá trình phấn đấu theo hệ thống quản lý chất lượng quốc tế là quá trình vận động liên tục ở tất cả mọi khâu, mọi cấp, xoá bỏ những tuỳ tiện trong chủ trương, đường lối trong kế hoạch, trong chỉ đạo sản xuất và kinh doanh, thiếu cơ sở khoa học, yếu kém về kỹ thuật. Doanh nghiệp cần phải đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất về đo lường để tạo ra sự tin tưởng của các khách hàng trong nước và quốc tế vào độ tin cậy của các số liệu thử nghiệm được cung cấp để họ không cần phải thử nghiệm lặp lại. Tránh được tình trạng nhiều nhà sản xuất bị bắt buộc phải đưa sản phẩm của họ ra nước ngoài thử nghiệm để đảm bảo phù hợp với yêu cầu của khách hàng, tạo nên chi phí tốn kém và mất thời gian. Để khắc phục tình trạng trên các doanh nghiệp cần phải thường xuyên có một khoản đầu tư để mua sắm, hiện đại hoá, tin học hoá, kỹ thuật hoá trang thiết bị đo lường phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh. Kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ sự hoạt động của các thiết bị đo lường, nếu thấy sự thiếu chính xác thì cần phải có những động tác điều chỉnh kịp thời, đảm bảo khả năng, trình độ thử nghiệm,thiết bị kiểm nghiệm phải được công nhận đủ đáp ứng cho sản phẩm. Kết quả thử nghiệm các chỉ tiêu chất lượng phải đạt mức quy định trong tiêu chuẩn. Doanh nghiệp phải đủ điều kiện đảm bảo, duy trì và ổn định chất lượng sản phẩm. Có như vậy doanh nghiệp mới có thể chiếm được lòng tin của khách hàng, tăng thị phần kinh doanh, giảm được chi phí và tiết kiệm được thời gian, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4. Thực hiện công tác đào tạo trong lĩnh vực đo lường. Một thực tế còn tồn tại trong các doanh nghiệp công nghiệp đó là các doanh nghiệp chỉ chú ý đến cải thiện điều kiện vật chất, kỹ thuật ít chú ý đến yếu tố con người, đào tạo con người, trong chiến lược và chính sách phát triển doanh nghiệp thường không có chiến lược phát triển chất lượng. Đa phần các doanh nghiệp vừa yếu, vừa thiếu nhân viên đo lường kiểm tra chất lượng sản phẩm, hơn nữa số nhân viên hiện có lâu nay chưa được đào tạo lại để nâng cao trình độ phù hợp với tình hình mới. Để khắc phục được tình trạng đó các doanh nghiệp cần phối hợp với các cơ quan chức năng của nhà nước tiến hành đào tạo đội ngũ kỹ sư đo lường thông qua các hình thức như đào tạo tại doanh nghiệp hoặc tổ chức các lớp đào tạo tập chung tại các trường lớp có đào tạo chuyên môn về đo lường. Mặt khác đối với các nhân viên đo lường hiện có doanh nghiệp cần tổ chức giáo dục đào tạo ngay tại doanh nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn về đo lường cho các cán bộ công nhân viên chuyên trách công tác đo lường. Đồng thời tích cực tuyên truyền giáo dục thông qua hình thức nhóm,tổ,đội để thay đổi nhận thức của nhân viên trong doanh nghiệp về tầm quan trọng của đo lường trong hệ thống quản lý chât lượng. Đo lường không chỉ kiểm tra chất lượng của sản phẩm mà còn đo lường tính hiệu quả của cả quá trình, cả hệ thống. Đo lường không chỉ dừng lại ở chất lượng sản phẩm mà còn vươn tới đo lường sự thoả mãn của khách hàng. 5. Hợp tác với bên ngoài để xây dựng hệ thống đo lường trong doanh nghiệp. Trong 15 năm đổi mới, công tác quản lý đo lường nói chung và công tác quản lý đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp đã có nhiều tiến bộ quan trọng, song so với khu vực và thế giới trình độ quản lý đo lường của ta còn đang ở trình độ thấp. Mặc dù với sự xuất hiện của hàng loạt các doanh nghiệp liên doanh, các doanh nghiệp nước ngoài đã mang luồng khí mới tiến bộ trong quản lý đo lường, khiến cho công tác quản lý đo lường thêm đa dạng, song điều đó cũng chưa tạo ra sự đột phá trong công tác quản lý đo lường trong các doanh nghiệp công nghiệp. Để khắc phục được tình trạng trên các doanh nghiệp phải tích cực học hỏi kinh nghiệm quản lý đo lường của các nước trên thế giới, đồng thời tranh thủ thời cơ để tiến hành hiện đại hoá năng lực đo lường khi có thể. Doanh nghiệp cần tích cực tham gia vào các hoạt động đo lường, tiêu chuẩn hoá các cấp, như cấp quốc gia, cấp khu vực, cấp quốc tế… Đây thực sự là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ quyền lợi của chính doanh nghiệp. Khi tham gia vào quá trình xây dựng một hệ thống đo lường, một tiêu chuẩn nào đó, ngoài việc nắm được nội dung hệ thống đo lường, tiêu chuẩn đó, học hỏi kinh nghiệm của các bên liên quan, thì bản thân các quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp cũng được quan tâm chú ý tới, điều đó làm cho doanh nghiệp dễ dàng áp dụng và áp dụng có hiệu quả hệ thống đo lường, tiêu chuẩn đó hơn. Các hình thức tham gia của doanh nghiệp vào các hoạt động đo lường bên ngoài có thể là cử các chuyên gia đại diện của mình tham gia vào các ban chuyên ngành, ban kỹ thuật, hoặc góp ý, đề nghị các dự án xây dựng hệ thống đo lường, đóng góp kinh phí và các điều kiện khác để xây dựng hệ thống đo lường đó. Doanh nghiệp có thể cử đại diện dự các hội nghị, hội thảo trong và ngoài nước trong lĩnh vực có liên quan để học hỏi kinh nghiệm và tham gia đóng góp vào sự nghiệp đo lường nói chung. Kết luận Để quản lý một cách có hiệu quả và tốt nhất đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp không phân biệt doanh nghiệp đó thuộc thành phần, loại hình kinh tế, lĩnh vực hoạt động hay hình thức sở hữu nào đều phải sử dụng hàng loạt các công cụ quản lý khác nhau, trong đó không thể không nhắc tới tầm quan trọng của công tác đo lường và quản lý đo lường. Với phương trâm chất lượng là trung tâm, đo lường là cơ sở, ngày nay trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp có áp dụng hệ thống quản lý chất lượng đã rất quan tâm tới công tác đo lường, đây là một tín hiệu đáng mừng cho công tác quản lý đo lường của nhà nước và cũng là tín hiệu đáng mừng cho người tiêu dùng vì từ nay họ sẽ được tiêu dùng những sản phẩm có chất lượng, có độ tin cậy. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số doanh nghiệp chưa thực sự quan tâm tới công tác đo lường, đo lường ở những doanh nghiệp này vẫn còn yếu. Hy vọng rằng trước sức ép cạnh tranh của thị trường ngày càng cao trong quá trình toàn cầu hoá, các doanh nghiệp đó sẽ nhận ra được yếu kém của mình và có sự sửa đổi thích hợp để tồn tại và phát triển. Dưới sự hướng dẫn tận tình của giáo viên hướng dẫn, em đã hoàn thành đề tài này. Trong quá trình thực hiện đề tài này không thể không có những thiếu sót, em mong nhận được sự hướng dẫn, góp ý của giáo viên hướng dẫn để bài viết của em được hoàn thiện hơn nữa. Em xin cảm ơn. Tài liệu tham khảo -Tạp chí Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng số 1-5 năm 1999 ; số 2,3,5-12 năm 2000; số 1-8 năm 2001. -Sách hỏi, đáp về đo lường của trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Do PTS Trần Bảo biên soạn. -Tài liệu tham khảo ISO 9000:2000 Các thay đổi chính, của trung tâm năng suất Việt Nam. -Sách quản lý chất lượng trong doanh nghiệp theo TCVN ISO 9000, nhà xuất bản thống kê- 1998. -Sách quản lý chất lượng đồng bộ của John S. Oakland, nhà xuất bản thông kê-1994. -Sách quản lý chất lượng của Đặng Minh Trang, nhà xuất bản giáo dục. -Luận án phó tiến sĩ của PTS Trần Bảo, phó giám đốc trung tâm đo lường. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35167.doc
Tài liệu liên quan