BHNT tuy mới được triển khai ở nước ta chỉ hơn 3 năm nhưng với thời gian ít ỏi đó BHNT đã khẳng định được cho mình một chỗ đứng vững chắc trong thị trường BH Việt nam. Với những tác dụng mà nó mang lại cũng như những ưu điểm mà nó có chắc trong thời gian tốt BHNT sẽ phát triển rất mạnh mẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Mặc dù vậy, để có thể cạnh tranh được với các công ty BH nước ngoài và có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa công ty BHNT phải khắc phục được những vấn đề còn tồn tại trong thời gian qua và bên cạnh việc nâng cao dần chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng phục vụ thì công ty còn phải nghiên cứu và đưa ra nhiều loaị sản phẩm mới để đáp ứng được nhu cầu rất đa dạng của người dân.
34 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1455 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Bảo hiểm nhân thọ và khả năng phát triển nghiệp vụ này ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Châu á tình hình tham gia BH NT bình quân đầu người năm 1995 như sau:
Đơn vị: Dollar
Nước
Chi cho BHNT
Nước
Chi cho BHNT
Nhật
4075,8
Thái Lan
32,2
Hàn Quốc
1042,1
Philippin
7,1
Singapo
826,1
Inđônêxia
4,8
Hồng Kông
495,5
ấn Độ
4,5
Malayxia
89,3
Trung Quốc
1,9
Đài loan
459,3
Pakistan
1,6
Như vậy Nhật, Hàn Quốc, Singapo là những nước có người dân tham gia BHNT rất cao nhất là Nhật Bản. Điều này cũng dễ dàng giải thích vì thu nhập của các nước này rất cao và cũng là nước có thu nhập cao nhất của Châu á. Riêng Nhật không những là nước có người dân tham gia BH cao nhất Châu á mà còn là nước tham gia cao nhất trên thế giới. Hiện nay 5 nước đướng đầu về bình quân tham gia BHNT bao gồm: Nhật, Mỹ, Anh,Pháp,Đức.
Thứ tự
Nước
Phí trực tiếp BHNT
Thị phần
1
Nhật
477,061
42,55%
2
Mỹ
251,419
22,42%
3
Anh
74,786
6,67%
4
Pháp
69,714
6,62%
5
Đức
51,400
4,58%
.
Với xu thế toàn cầu hoá trong quan hệ buôn bán, ngày nay BHNT không chỉ bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà nó cũng đã vươn lên trên phạm vi toàn cầu. Có rất nhiều tập đoàn, nhiều công ty xuyên quốc gia với doanh thu khổng lồ hoạt động trong lĩnh vực BHNT.
Vậy điều gì đã làm cho BHNT mặc dù không phải là loại hình BH ra đời đầu tiên mà lại phát triển mạnh mẽ đến vậy. Đó phải chăng là do những tác dụng mà nó mang lại cho từng cá nhân, xã hội...
II. Tác dụng của BHNT.
BHNT có rất nhiều tác dụng trong cuộc sống KT-XH. Chính vì những tác dụng này đã giúp nó tồn tại và đạt được những thành công to lớn như ngày nay.
Đối với đời sống nhân dân:
Ngày nay khi xã hội ngày càng phát triển đặc biệt là việc áp dụng những tiến bộ của KHKT và Công nghệ vào cuộc sống thì những đe doạ đối với những con người ngày một lớn mà không may ai đó gặo phải tai nạn rủi ro thì không phải một mình anh ta gánh chịu mà đôi khi cảe người thân trong gia đình anh ta cũng phải gánh chịu, điều này gây khó khăn về mặt tài chính cho gia đình anh ta. Vì vậy BHNT ra đời nhằm hạn chế những khó khăn về tài chính cho người tham gia khi họ gặp rủi ro thiệt hại điều đó được thể hiện:
Giúp gia đình (những người phụ thuộc )vượt qua những nỗi bất hạnh do người được bảo hiểm bị chết. Nó để lại một khoản tiền cho gia đình nhằm bù đắp những khoản thu nhập thường xuyên bị mất đi - giúp gia đình tiếp tục ổn định cuộc sống trả được những khoản nợ nần góp phần giúp con em tiếp tục được học tập. Đặc biệt người bị chết là những người chủ chốt trong gia đình.
Góp phần giúp gia đình thực hiện tiết kiệm một cách có kế hoạch để đáp ứng những nhu cầu tài chính tronh tương lai (nhu cầu phụ cấp vào tiền hưu trí, nhu cầu học hành của con em, nhu cầu sắm sửa những phương tiện đắt tiền, nhu cầu về khởi nghiệp kinh doanh, nhu cầu về cưới hỏi..).
Tham gia BHNT thể hiện sự quan tâm lo lắng của người chủ gia đình đối với những người phụ thuộc, của cha mẹ đối với con cái và ngược lại. Vì vậy nó góp phần tạo lập một nếp sống tiết kiệm lành mạnh thể hiện sự quan tâm lẫn nhau giữa mọi người.
Vậy BHNT là một loại hình BH rất thiết thực và hiệu quả đối với cuộc sống hàng ngày của nhân dân vì nó vừa mang tính rủi ro vừa mang tính tiết kiệm. Điều này cho thấy rằng BHNT quả là người bạn đồng hành lớn nếu mỗi chúng ta hiểu được điều đó.
2. Đối với cơ quan doanh nghiệp:
BHNT ra đời góp phần ổn định sản xuất kinh doanh giúp hoạt động sản xuất kinh doanh tiếp diễn ổn định tránh những xáo trộn đột xuất bởi vì nếu tham gia BHNT cho những người chủ chốt trong công ty, trong doanh nghiệp, cho những nhân viên quan trọng.. sẽ giúp cho họ yên tâm công tác và nếu không may họ bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn công ty doanh nghiệp có một khoản tiền lớn đủ khả năng để đào tạo và thuê mướn một nhân viên khác tương tự đồng thời giải quyết được những hậu quả ngay sau khi người chủ chốt hoặc nhân viên quan trọng bị chết.
Đối với nền kinh tế:
Trong giai đoạn hiện nay khi mà những yêu cầu đối với các sản phẩm ngày một được nâng cao thì những yêu cầu về áp dụng các công nghệ tiên tiến vào sản xuất cũng tăng theo. Chính vì vậy, một lượng vốn lớn cần thiếtcho việc mở rộng sản xuất cũng như cần thiết cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm là điều tất yêú. Vì vậy họ cần có một lượng vốn lớn mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể tự đáp ứng được cho mình. Cho nên BHNT ra đời sẽ góp phần to lớn trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong nước cũng như nước ngoài để tập trung cho đầu tư phát triển kinh tế góp phần giải quyết được một số vấn đề xã hội, như giải quyết việc làm cho người lao động góp phần cải thiện đời sống cho người lao động, thực hiện tiết kiệm chống lạm phát.. Vậy có thể nói, BHNTra đời sẽ được coi như là những nhà tài chính tín dụng lớn góp phần quan trọng trong việc huy động vốn và đầu tư chúng cho nền kinh tế. Chẳng hạn: Tổng đầu tư của công ty nhân thọ Mỹ lên tới 1408 tỷ USD năm 1990, 1551 tỷ USD năm 1991, 1839 tỷ USD năm 1993, 1977 tỷ USD năm 1994, đứng thứ 3 sau các ngân hàng thương mại và các quỹ tương hỗ. Mỹ có 92 triệu lao động thì 1,97 triệu người làm ở các công ty BHNT. ở Hàn Quốc có 82000 người làm việc ở các công ty BHNT trong khi đó dân số Hàn Quốc là hơn 20 triệu dân. ở Nhật bản có 143000 người làm đại lý BHNT.
Đối với xã hội:
Khi BHNT chưa ra đời thì rủi ro mất mát không chỉ đối với người bị tai nạn gánh chịu mà xã hội cũng phải gánh chịu một phần. BHNT ra đời đã gánh vác phần trách nhiệm này cho xã hội, làm giảm gánh nặng cho xã hội. Giúp đỡ những người gặp khó khăn, giải quyết việc làm, từ đó làm giảm tệ nạn xã hội, góp phần phát triển xã hội phồn vinh.
phần II
khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ
I. một số khái niệm cơ bản
Khái niệm BHNT.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về BHNT:
_ Trên phương diện pháp lý: BHNT là một bản hợp đồng trong đó để nhận được phí BH của người tham gia BH (người kí kết hợp đồng) người BH cam kết sẽ trả cho một hay nhiều người thụ hưởng BH một số tiền nhất định (số tiền BH hay một khoản trợ cấp định kỳ) trong trường hợp người được BH bị tử vong hoặc người được BH sống đến một thời điểm đã được ghi rõ trong hợp đồng.
_ Trên phương diện kỹ thuật: BHNT là nghiệp vụ bao hàm những cam kết, mà sự thi hành những cam kết này phụ thuộc vào tuổi thọ của con người.
_ Tuy vậy có một khía niệm chung nhất được sử dụng khá phổ biến đó là:
BHNT là sự cam kết giữa công ty BH với người tham gia BH (người được BH) trong đó công ty BH có trách nhiệm trả cho người tham gia BH một khoản tiền ấn định khi có những sự kiện đã định trước xảy ra (người được BH bị chết, thương tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc người được BH còn sống đến một thời điểm chỉ rõ trong hợp đồng) còn người tham gia có trách nhiệm nộp phí BH đầy đủ và đúng hạn.
Một số khái niệm khác.
_ Đối tượng của BHNT: Bao gồm tất cả người từ 1 tuổi đến 60 tuổi.
_ Tai nạn: Là bất kỳ thiệt hại thân thể nào đối với hậu quả duy nhất trực tiếp của một lực mạnh bất ngờ từ bên ngoìa tác động lên thân thể của người được BH, loại trừ ốm đau hay bệnh tật hay bất cứ trạng thái nào xảy ra tự nhiên hay quá trình thoái hoá.
_ Thương tật toàn bộ hoặc vĩnh viễn: Là khi người được BH bị mất hoàn toàn hoặc không thể phục hồi được chức năng của:
+ Hai tay
+ Hoặc hai chân
+ Hoặc 1 tay và 1 chân
+ Hoặc hai mắt
+ Hoặc 1 tay và 1 mắt
+ Hoặc 1 chân và 1 mắt
_Giá trị hoàn lại: Là một số tiền mà người được BH có thể nhận lại khi có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn BH. Hợp đồng BH có giá trị hoàn lại khi đã nộp đủ phí ít nhất là 2 năm. Giá trị hoàn lại ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày kỷ niệm của hợp đồng BH được quy định tại phụ lục 2.
_ Ngày kỷ niệm của hợp đồng BH: Là ngày kỷ niệm hàng năm của ngày bắt đầu BH (như đã ghi trong hợp đồng) trong thời hạn BH.
_ Số tiền BH giảm: Khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại, người được BH có thể ngừng đóng phí nhưng hợp đồng này vẫn tiếp tục duy trì với số tiền BH mới. Số tiền BH này được gọi là số tiền BH giảm. Số tiền BH giảm ứng với mỗi năm hợp đồng vào ngày kỷ niệm của hợp đồng BH được qui định tại phụ lục 3.
II Các loại hình BHNT
Các loại hình BHNT cơ bản:
BH trong trường hợp tử vong: Có nghĩa là nếu người được BH bị chết do các nguyên nhân thuộc phạm vi BH công ty BH sẽ thanh toán số tiền BH cho người thừa kế hợp pháp.
BH trong trường hợp tử vong có 3 loại:
_ BH tử vong tạm thời: đảm bảo việc thanh toán một số tiền BH cho người thụ hưởng BH được chỉ định. Nếu người được BH chết trước một thời điểm được ấn định trên hợp đồng. Nếu người được BH sống và hết hạn hợp đồng người BH được giải phóng mọi nghĩa vụ.
Như vậy BH tử vong tạm thơì không cho phép tạo nên một khoản tiết kiệm. Nhưng các khoản phí đống góp lại rất nhỏ. BH tử vong tạm thời chỉ bảo đảm thuần tuý chống lại một rủi ro là sự tử vong.Đây là một nghiệp vụ dự phòng cho gia đình của người được BH hay đảm bảo cho những chủ nợ về những khoản vay của người được.
Trên thực tế loại BH này có thể biến thành những loại hợp đồng sau:
+ BH tử vong tạm thời có số tiền BH giảm dần.
+ BH tử vong tạm thời có số tiền BH tăng dần
+ BH tử vong tạm thời có thể tái tạo.
+ BH tử vong tạm thời có thể chuyển đổi.
+ Hợp đồng BH thu nhập gia đình.
+ Hợp đồng BH thu nhập gia đình tăng lên.
_ BH tử vong vô thời hạn: Trong loại BH này người BH cam kết thanh toán một số tiền được ấn định trên hợp đồng khi người được BH tử vong vào bất kỳ thời điểm nào kể từ ngày ký kết hợp đồng.
BH tử vong vô thời hạn không đơn thuần chống lại rủi ro tử vong mà nó tạo nên một khoản tiết kiệm cho người thụ hưởng BH bởi lẽ chắc chắn nhà BH sẽ trả số tiền BH.
BH tử vong vô thời hạn có thể có 2 loại hợp đồng sau:
+ BH tử vong vô thời hạn không chia lời.
+ BH tử vong vô thời hạn có tham gia chia lời.
_ BH tử vong có điều kiện:
BH này là loại BH tử vong tạm thời, việc thanh toán trợ cấp chỉ được thực hiện khi người được BH chết, nhưng người được thụ hưởng được chỉ định trong hợp đồng phải còn sống. Nói cách khác nghĩa vụ của nhà BH tuỳ thuộc vào 2 điều kiện: tử vong của người được BH và sự sống của người thụ hưởng được chỉ định.
BH trong trường hợp sống: Nếu người được BH còn sống đến một thời điểm được ấn định trước trên hợp đồng họ sẽ nhận một số tiền BH mà mình đăng kí tham gia.
Khi tham gia BH, người được BH không sợ rằng mình có thể chết mà có mục đích tạo ra cho mình một số tiền BH hoặc 1 khoản trợ cấp thường niên đến trọn đời khi ở một độ tuổi nào đó.
BH trong trường hợp sống có 3 dạng hợp đồng cơ bản sau:
_ BH có số tiền BH được trả sau: Theo hợp đồng nhà BH cam kết trả cho người được BH một số tiền BH được ấn định, nếu người được BH sống đén kỳ hạn đã được xác định tại ngày kí kết hợp đồng.
Phí BH có thể được trả một lần vào thời điểm kí hợp đồng hoặc có thể trả nhiều lần. Nếu phí BH được thanh toán định kỳ, về nguyên tắc những lần nộp có thể kéo dài đến ngày kết thúc hợp đồng. Trong giả thiết này nếu người được BH chết trong thời kỳ nộp phí thì việc thanh toán phí BH sẽ ngừng lại. Tuy nhiên hầu hết các hợp đồng có thêm điều khoản phí BH trong trường hợp người được BH “ nửa đường đứt gánh’’ để đảm bảo quyền lợi phí cho những người tham gia BH.
_ BH trợ cấp trả sau: Trong BH trợ cấp trả sau thay vì cam kết trả một số tiền, nhà BH có thể cam kết thanh toán trả một số tiền trợ cấp định kỳ thường niên hoặc định kỳ hàng tháng cho người được BH.
Nếu khoản trợ cấp được thanh toán cho hết đời của người được BH đó gọi là “ BH niên kim trọn đời’’. Nếu chỉ được thanh toán trong một thời kỳ nhất định, đó gọi là “BH niên kim tạm thời”.
Các khoản niên kim bắt đầu được thanh toán vào một ngày ấn định và chỉ được trả chi người được BH sống. Thông thường ngày bắt đầu thanh toán niên kim là ngày về hưu của người được BH.
Mức độ của các niên kim thông thường là không đổi. Song cũng có thể tăng hay giảm tuỳ theo sự thoả thuận của hợp đồng BH.
Các khoản trợ cấp có thể được thanh toán hàng năm, hàng quý hay nửa năm. Chúng luôn được trả cuối kỳ hạn.
_ BH trợ cấp trả ngay: Người được BH nộp một khoản phí BH duy nhất khi kí kết hợp đồng BH. Số phí BH này là một số tiền BH, nó tạo nên một khoản trợ cấp. Nhà BH thanh toán cho người được BH trong một khoản thời gian hay trọn đời trợ cấp một khoản nhất định.
Những hợp đồng BH hỗn hợp nhân thọ: Loại này kết hợp 2 loại hình nói trên. Cụ thể nếu người được BH bị chết trong thời hạn hợp đồng, người thừa kế hợp pháp được nhân số tiền BH. Nếu họ sống đến một thời hạn nhất định trong hợp đồng thì bản thân họ được nhận số tiền BH.
_ BH hỗn hợp thông thường: Đây là loại BH tử vong tạm thời có số tiền trả sau. Theo hợp đồng BH này nhà BH cam kết trả một số tiền ấn định cho người được chỉ định bởi người tham gia BH.
Nếu tại một thời điểm ấn định trong hợp đồng, người được BH còn sống sẽ được nhà BH trả tiền BH. Trường hợp này giống như trong BH có số tiền BH trả sau.
Nếu người được BH bị tử vong trước thời hạn hợp đồng, nhà BH sẽ thanh toán tiền BH cho người thụ hưởng BH. Và đây là BH tử vong tạm thời
BH hợp đồng là 1 hợp đồng mang tính lưỡng diện nó dựa trên 2 rủi ro để thiết lập hợp đồng: tử vong và sống sót đến kỳ hạn hợp đồng.
_ BH hỗn hợp có thời hạn cố định: ở loại BH này nhà BH cam kết trả một số tiền tại một ngày xác định nếu người được BH sống hay chết. Nếu người được BH sống đến thời điểm ấn định, anh ta sẽ nhận được các khoản trợ cấp.
Nếu người được BH chết trước thời điểm này, người thụ hưởng của anh ta sẽ được nhận các khoản trợ cấp, nhưng chỉ được nhận vào thời điểm ấn định mà không phải là thời điểm chết của người được BH dĩ nhiên, việc trả phí BH sẽ ngưng lại khi người được Bh bị chết.
Các loại hình bổ sung:
_ Không phải nộp phí BH nếu người được BH không thể tiếp tục công việc bình thường đối với thương tật ốm đau. Vì vậy họ không phải nộp phí nhưng vẫn được nhận số tiền BH trong thời hạn còn hiệu lực hợp đồng.
_ Trợ cấp tai nạn lao động: Nếu người được BH bị chết đối với tai nạn lao động sẽ được nhận trợ cấp gấp đôi số tiền BH.
_ Trợ cấp mất khả năng lao động nếu người được BH bị mất khả năng lao động vĩnh viễn họ sẽ được nhận số tiền BH như khi bị chết (có khả năng nhận 2 lần ).
Trong số các loại hình BH nói trên thì các loại hình BH cơ bản vẫn là trụ cột của BHNT nhưng trên thực tế thời gian tham gia khác nhau cho nên nó ảnh hưởng đến 1 loạt vấn đề trong mỗt hợp đồng BH. Chính vì vậy các công ty BHNT trên thế giới đã chia làm 2 loại:
+ BHNT có thời hạn.
+ BHNT trọn đời.
BHNT có thời hạn:
BHNT có thời hạn là loại hình cơ bản nhất của BHNT bởi vì nó đáp ứng được nhu cầu và nguyện vọng của nhiều đối tượng tham gia. Loại hình này có những đặc điểm sau:
_ Số tiền BH được trả một lần khi người được BH bị chết trong thời hạn hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời hạn BH người tham gia không được nhận lại số tiền BH.
_ Thời hạn BH xác định trước.
_ Phí BH đóng một lần hay định kỳ: Nếu số phí BH đóng định kỳ thì nó không thay đổi trong suốt thời hạn BH.
_ Phí BH thấp hơn loại hình BH hỗn hợp và trọn đời bởi vì thực chất ở đây chỉ BH cho những rủi ro chứ không mang tính tiết kiệm.
BHNT trọn đời:
Loại này thường phù hợp với những tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội. Đặc điểm của no được thể hiện:
_ Số tiền BH được trả một lần khi người được BH bị chết bất cứ lúc nào (trong thời hạn còn lại cuả cuộc đời mình ).
_ Thời hạn BH không xác định. Vì vậy đơn BH không bị giới hạn bởi ngày hết hạn.
_ Phí BH cao hơn rất nhiều so với BHNT có thời hạn bởi vì người được BH chắc chắn bị chết.
_ Đơn BH là 1 hợp đồng dài hạn cho nên số tiền nhận được thường được cộng thêm một phần lãi đối với hoatj động đầu tư của các nhà BH.
_ Người tham gia có thể được nhận 1 khoản tiền hoàn lại vì 1 lý do nào đó mà họ không thể tiếp tục tham gia nhưng muốn nhận được giá trị hoàn lại phải tham gia nộp phí ít nhất một khoản thời gian nhất định.
BHNT hỗn hợp (có thời hạn ): Loại hình này được áp dụng khá rộng rãi ở tất cả các nước trên thế giới. Nó có đặc điểm là:
_ Số tiền BH được trả trong 2 trường hợp đó là sống đến một thời hạn đã được ấn định trong hợp đồng và bị chết trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng.
_ Thời hạn xác định.
_ Phí BH đóng định kỳ và số phí phải đóng không thay đổi trong suốt thời hạn có hiệu lực hợp đồng. Loại hình BH này có mức phí cao nhất do nó vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro.
_Loại hình BH này cũng có thể được chia lãi đối với đầu tư mang lại và cùng thực hiện hoàn lại phí khi người tham gia có khả năng với điều kiện người tham gia phải nộp phí được một khoản thời gian nhất định do 2 bên cùng thoả thuận.
Các loại hình BH khác.
BH trợ cấp hưu trí: Loại này có đặc điểm:
_ Là trả trợ cấp định kỳ cho người được BH từ lúc họ về hưu đến khi chết.
_ Thời hạn không xác định bởi vì người về hưu bị chết lúc nào không biết.
_ Phí đóng một lần khi về hưu.
BH học phí: Khi cha mẹ còn khoẻ mạnh trong quá trình công tác có thu nhập cao lúc này họ phải nghĩ đến chi phí học hành cho con cái trong tương lai bởi vì biết đâu đến lúc con cái được vào ĐH cha mẹ già yếu thu nhập lại thấp. Vì vậy người ta đã tham gia BH tiền học phí cho con cái sau này. Đây thực chất là chương trình an sinh giáo dục.
Nó có đặc điểm giống đặc điểm của BHNT có thời hạn.
BHNT cho trẻ em: Nó giống BH học phí.
BH cưới xin: Loại hình BH này sẽ đóng phí định kỳ đến khi kết hôn sẽ được nhận số tiền BH.
III. Hợp đồng BHNT.
Các bên tham gia hợp đồng:
Vì đối tượng của BHNT bao gồm tất cả những người từ 1 tuổi đến 60 tuổi. Vì vậy trong hợp đồng BHNT thường có nhiều bên tham gia. Nhưng tối thiểu là 2 người và tối đa là 4 người. Đó là nhà BH, người kí kết, người được BH và người thụ hưởng BH.
Người BH: Chính là công ty BH.
Người được BH: Là người có tên trong giấy yêu cầu BH mà sinh mạng và cuộc sống của họ được BH theo các điều kiện của hợp đồng. Nghĩa là khi xảy ra tử vong của người này hoặc sự kiện của người này sống đến 1 thời hạn nào đó thì sẽ dẫn đến một khoản thanh toán tiền BH hoặc các khoản trợ cấp của nhà BH.
Người được BH có thể là những thành viên có đủ năng lực pháp lý và năng lực hành vi để tiến hành việc ký kết hợp đồng cho chính mình và thực hiện các cam kết. Những người này có thể BH vô hạn trên cuộc sống của mình, nếu có khả năng trả phí BH. Trường hợp những người chưa đủ tuổi thành niên thì phải thông qua 1 người ký kết để ký hợp đồng.
Người tham gia BH: Có thể là bản thân người được BH (với điều kiện là người đó đủ 18 tuổi trở lên) có thể là bố mẹ anh chị người đỡ đầu hay ông bà của một đứa trẻ nào đó (nếu tham gia BH cho đứa trẻ ). Người tham gia là người phải viết giấy yêu cầu BH và nộp phí BH. Đồng thời người tham gia BH cũng là người có quyền huỷ bỏ hợp đồng.
Người được thụ hưởng quyền lợi BH: (là người thừa kế hợp pháp) là một thể nhân hay pháp nhân đối với người kí kết chỉ định để nhận số tiền BH hay các khoản trợ cấp thanh toán khi có rủi ro hay hết hạn hợp đồng đã được chỉ ra trên hợp đồng BHNT.
Người thụ hưởng BH do người kí kết chỉ định với sự chấp thuận của người được BH nếu người được BH không phải là người kí kết.
Người thụ hưởng hoặc những người được thụ hưởng có thể được chỉ định:
_ Trong đơn BH.
_ Bằng tất cả những thông báo.
_ Bằng sự thay đổi.
_ Bằng chúc thư.
Thời hạn BH: Hiệu lực của hợp đồng BHNT được tính từ ngày nộp phí BH đầu tiên, nếu nộp phí theo tháng thì đó là số phí của tháng đầu tiên. Nếu nộp phí theo quý (năm )thì đó là số phí của quý hay năm đầu tiên. Đặc biệt ngày nộp phí đầu tiên phải được ghi vào trong hợp đồng BHNT.
Số tiền BH: Là số tiền mà người tham gia BH đăng kí lựa chọn và đó cũng là số tiền công ty BH thanh toán cho ngươì được hưởng quyền lợi BH khi có các sự kiện BH xảy ra đối với người được BH.
STBH có thể bị giảm đối với các trường hợp sau:
+ Kê khai tuổi tham gia BH thấp hơn so với tuổi thật.
+ Người tham gia BH không có khả năng nộp phí trong 1 thời gian nhất định vì một lý do nào đó.
+ Do mức phí quá cao người tham gia BH không thể tiếp tục được.
Phí BH: Phí BHNT được nộp theo tháng (quý, năm ). Vấn đề này đối với các bên thoả thuận tuy vậy phí tháng vẫn là phí cơ bản nhất. Phí tháng phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Số tiền BH.
+ Độ tuổi của người tham gia hay người được BH.
+ Thời hạn nộp tiền theo hợp đồng BH.
Nếu nộp phí theo quý năm sẽ được giảm một phần.
Theo quy định:
Phí tháng = 1.
Phí quý = phí tháng x 0,98 x 3.
Phí nửa năm = phí tháng x 0,96 x 6.
Phí năm = phí tháng x 0,94 x 12.
Hầu hết các công ty BH đều quy định nộp phí như sau:
+ Phí BH có thể nộp định kỳ theo tháng, quý, năm. Và số phí nộp mỗi kỳ được quy định trong hợp đồng.
+ Khi trả tiền BH hay thanh toán giá trị hoàn lại cho người được hưởng quyền lợi BH, nếu người được BH chưa nợp đủ số phí của năm hợp đồng đó thì sẽ bị trừ đi số phí chưa nộp đủ đó.
+ Trường hợp người được BH không nộp phí theo quy định trong hợp đồng.
_ Được phép gia hạn cho các lần nộp phí tiếp theo trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đến kỳ nộp phí.
_ Nếu quá thời hạn nói trên công ty BH sẽ thông báo cho người được BH biết về số phí còn nợ và số tiền giảm của hợp đồng (nếu có) tính đến ngày đến kỳ hạn nộp phí.
*Trong vòng 40 ngày kể từ ngày nhận được thông báo nợ phí của công ty BH người được BH phải thanh toán cho công ty BH tất cả các khoản nợ phí với lãi suất tiền gửi tiíet kiệm thời hạn 3 tháng do NHNN quy định.
*Nếu sau 40 ngày kể từ ngày nhận được giấy thông báo của công ty BH, người được BH vẫn không thanh toán khoản nợ phí và không yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng thì:
Nếu hợp đồng đã có giá trị hoàn lại, số tiền BH của hợp đồng BH này sẽ được tự động tính giảm như đã thông báo.
Nếu hợp đồng chưa có giá trị hoàn lại thì hợp đồng sẽ bị huỷ bỏ.
+Trường hợp người được BH khai nhầm tuổi, công ty BH sẽ tính lại phí BH đã nộp đủ như sau:
_Nếu phí BH đã nộp đủ cao hơn số phí tính theo tuổi đúng thì số tiền BH sẽ được tính lại bằng số tiền tương ứng với số tiền BH đã nộp.
_Nếu phí BH đã nộp cao hơn số phí tính theo tuổi đúng thì công ty BH sẽ hoàn lại số phí thừa đã nộp.
_Nếu tuổi thật của người được BH không phù hợp với quy định trong hợp đồng BH thì hợp đồng này sẽ được huỷ bỏ và công ty sẽ hoàn lại 80% số phí đã nộp cho người được BH.
5. Một số vấn đề có liên quan:
a.Thủ tục BH:
_ Khi yêu cầu BH, người được BH phải điền đầy đủ trung thực vào giấy yêu cầu BH và xuất trình chứng minh thư hay sổ hộ khẩu hay giấy khai sinh cho công ty BH.
_ Khi hợp đồng đã có giá trị hoàn lại nếu người được BH không muốn tiếp tục nộp phí BH, nhưng vẫn muốn duy trì hợp đồng này thì phải thông báo bằng văn bản cho công ty BH trước 15 ngày của kỳ nộp phí tiếp theo và công ty BH sẽ gửi giấy thông báo cho người được BH về số tiền BH giảm tại thời ddiểm đóng phí, trong vòng 15 ngày kể từ khi nhận được thông báo của người được BH.
_ Huỷ bỏ hay thay đổi hợp đồng.
+ Trong thời hạn BH, công ty BH có quyền huỷ bỏ hay thay đổi các điều kiện, điều khoản của hợp đồng này trừ khi đã có thoả thuận khác giữa công ty BH với người được BH.
+ Trường hợp người được BH có yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng BH.
* Khi hợp đồng này chưa có giá trị hoàn lại người được BH không được hoàn lại số phí đã nộp.
Khi hợp đồng này đã có giá trị hoàn lại công ty BH trả cho người được BH giá trị hoàn lại của hợp đồng tính tại thời điểm nhận được yêu cầu huỷ bỏ hợp đồng.
Thủ tục trả tiền BH:
Khi có sự kiện BH xảy ra theo như quy định của hợp đồng người được BH (người được thụ hưởng quyền lợi BH) phải thông báo cho công ty BH biết về tình trạng của người được BH trong vòng 15 ngày kể từ ngày xảy ra sự kiện: Sau đó hoàn tất hồ sơ để làm việc với công ty BH. Tuỳ vào từng trường hợp mà thủ tục nhận tiền BH:
_ Trường hợp hết hạn hợp đồng: Người BH chỉ cần nộp bản hợp đồng BH gốc cho công ty BH, công ty sẽ thanh toán toàn bộ số tiền BH cho họ và phần bù lãi theo quy định của công ty.
_ Trường hợp người được BH bị chết: Thủ tục nhận tiền BH bao gồm:
+ Giấy yêu cầu trả tiền BH.
+ Giấy chứng tử (bản gốc hay bản sao hợp lệ ).
+ Hợp đồng BH gốc.
+ Bằng chứng xác nhận quyền thừa kế hợp pháp.
_ Trường hợp người được thừa kế bị thương tật toàn bộ vĩnh viễn: Thủ tục nhận tiền BH bao gồm:
+ Giấy yêu cầu trả tiền BH.
+ Hợp đồng BH gốc.
+ Biên bản tai nạn có xác nhận của công an, hay cơ quan nơi người được BH làm việc hay chính quyền nơi xảy ra tai nạn.
+ Giấy xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyền về tình trạng thương tật của người được BH.
+ Chứng từ xác nhận việc nộp phí BH mới nhất.
_ Trường hợp người tham gia yều cầu huỷ bỏ hợp đồng đã có giá trị hoàn lại phải có các giấy tờ:
+ Giấy đề nghị huỷ bỏ hợp đồng.
+ Hợp đồng BH gốc.
_ Trường hợp người tham gia yêu cầu ngừng đóng phí trong một thời gian nhất định trường hợp này công ty vẫn cho phép tuy vậy người tham phải có: + Giấy yêu cầu ngừng đóng phí với thời gian nhất định.
+ Trình hợp đồng BH gốc cho đại lý hay công ty xem qua.
Giải quyết tranh chấp:
_ Nếu có sự bất đồng giữa công ty BH với người được BH khi kết luận về tình trạng thương tật của người được BH thì sẽ đưa ra hội đồng giám định y khoa nơi người được BH cư trú để giải quyết. Kết luận của hội đồng y khoa là kết luận cuối cùng mà các bên phỉa thực hiện. Mọi chi phí liên quan đến việc giải quyết tại hội đồng giám định y khoa sẽ do bên có ý kiến sai chịu trách nhiệm.
_ Mọi tranh chấp khác có liên quan đến hợp đồng BH này nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì 1 trong 2 bên sẽ đưa ra toà án nơi công ty BH có trụ sở hay nơi người được BH cư trú giải quyết. Tiền án phí đối với bên thua kiện chịu trách nhiệm.
Phần III
Khả năng phát triển BHNT ở việt nam.
Thực trạng triển khai BHNT ở việt nam .
Ngày 20/3/1996, Bộ tài chính có quyết định số 281TC/TCNH cho phép tổng công ty BHNT triển khai 2 loại hình BHNT là BHNT có thời hạn 5 năm và 10 năm; và loại hình BH trẻ em gọi tắt là chương trình an sinh giáo dục. Cho đến nay mặc dù thị trường BH đã được đa dạng hoá và mở cửa nhưng Bảo việt vẫn là đơn vị duy nhất khai thác BHNT.
Bước sang năm 1999 - là năm kinh doanh thứ 4 của công ty. Với tinh thần phấn khởi của kết quả hoạt động kinh doanh trong thời gian qua nhất là năm 1998 - năm bản lề đánh dấu một bước trưởng thành và phát triển mới của công ty. Nhìn lại tình hình kinh tế xã hội đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, ta nhận thấy một số yếu tố nổi bật có ảnh hưởnh đến hoạt động kinh doanh của công ty như sau:
Thuận lợi.
_ Theo đánh giá của các chuyên gia tình hình khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực bước vào giai đoạn cuối, kinh tế các nước có dấu hiệu phục hồi. Tuy nước ta ảnh hưởng không trầm trọng nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế bị giảm đáng kể, vấn đề quan trọng nhất để nền kinh tế ổn định là tỷ lệ lạm phát vẫn được kiềm chế ở con số dưới 10% giá trị đồng tiền VN vẫn ổn định, tỷ giá hối đoái điều chỉnh ở mức hợp lý, lãi suất tiết đang bắt đầu có xu hướng giảm đời sống nhân dân không có sự xáo trộn lớn dẫn đến nhu cầu cũng như số lượng khách hàng tham gia BHNT vẫn tăng khá.
_ Tiếp tục thực hiện phương châm “ Tăng trưởng và tăng cường quản lý’’ Tổng công ty BHVN đã xó sự điều chỉnh phương hướng triển khai BHNT trong giai đoạn mới, việc xoá bỏ cơ chế hoạch toán thu - chi hộ, coi việc triển khai BHNT là một nhiệm vụ chính của các công ty phi nhân thọ từ năm 1998 đã tạo động lực cho BHNt phát triển mạnh mẽ trên toàn quốc. Điều này đã khẳng định chủ trương đúng đắn của Tổng công ty và sự hấp dẫn của sản phẩm.
_ Sau một htời gian nghiên cứu và chuẩn bị chu đáo, BV đã được NN cho phép triển khai tiếp 2 loại hình sản phẩm BHNT mới, chiến lược đa dạng hoá sản phẩm BHNT của chúng ta bắt đầu bước sang trang mới, sự kiện này đã làm tăng cường đáng kể uy tín của BV trên thị trường BHVN.
_ Sau thời gian tuyên truyền quảng cáo về BHNT đến nay nhận thức của người dân về sản phẩm đã tăng lên đáng kể, tạo điều kiện cho công tác triển khai BHNT.
_ Mặc dù có thu nhập bình quân đầu người thấp nhưng nước ta có rất nhiều chỉ tiêu xã hội khác tương đối tốt so cới các nước trong khu vực như: tuổi thọ trung bình, dân cư trên 1 bác sĩ... điều này ảnh hưởng trực tiếp tới việc bồi thường của công ty BH.
_ Công ty BHNT là công ty thành viên của BV đầu tiên và là đơn vị duy nhất cho đến thời điểm này triển khai nghiệp vụ BHNT. Vì vậy công ty luôn nhận được sự quan tâm giúp đỡ kịp thời của Tổng công ty từ đó khẳng định lợi thế kinh doanh và khả năng tài chính cũng như uy tín của BV.
_ Mô hình tổ chức cũng như chất lượng cán bộ từ quản lý đến khai thác của công ty ngày càng được củng cố và hoàn thiện cả về số lượng và chất lượng.
_ Một thuận lợi phải kể đến nữa đó là Bộ tài chính đã ban hành các văn bản pháp quy quan trọng đó là thông tư số 26/1998/TT - BTC về việc hướng dẫn thủ tục cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện để hoạt động kinh doanh BH, thông tư số 27/1998TT - BTC về việc hướng dẫn hoạt động khai thác và quản lý BH và thông tư số 28/1998/TT - BTC vầ việc hoạt động đại lý, cộng tác viên BH.
Bên cạnh những yếu tố thuận lợi của công ty cũng gặp không ít các yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến sự phats triển của công ty.
Khó khăn.
_ Tốc độ tăng trưởng kinh tế còn chậm, chưa có dấu hiệu khởi sắc đột phá và xuất hiện tình trạng giảm phát do nhu cầu tiêu dùng bị giảm đáng kể so với năm ngoái, đầu tư nước ngoài vẫn có xu hướng giảm cả về số vốn đăng ký cũng như số lượng dự án, tình hình kinh doanh của nhiều doanh nghiệp gặp không ít khó khăn (đặc biệt là các doanh nghiệp XNK và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) đời sống người lao động hưởng lương vẫn rất khó khăn tỷ lệ thất nghiệp cao, một số doanh nghiệp không lo đủ lương tối thiểu cho CBCNV. Đồng thời, với việc ban hành nghị định 28/CP của chính phủ về việc gắn tiền lương với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh đã gián tiếp ảnh hưởng đến sức mua của BH nhân thọ.
_ Đặc điểm của các sản phẩm BHNTlà loại hình BH mang tính chất dài hạn tâm lý của nhiều người dân vẫn chưa thực sự tin tưởng vào giá trị của đồng tiền VN kèm theo đó là sự ảnh hưởng hậu quả của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở một số nước Châu á cũng đã ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của BHNT.
_ Sản phẩm BHNT đã được Tổng công ty hoàn thiện sửa đổi, nhưng người dân lại cảm thấy thiệt thòi vì phí BH cao hơn khi so sánh các sản phẩm NA 1,2,3 với NA 4, 5, 6 và một số điểm quy định trong điều khoản bảo hiểm nhân thọ còn cứng nhắc, chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng.
_ Về điều kiện pháp lý đang dần được hoàn thiện cho nên sẽ có rất nhiều thay đổi rên phương diện pháp lý quy định về hoạt động của công ty BHNT những thay đổi này sẽ gây ra không ít những lo ngại cho công ty BHNT nhất là các chính sách quan trọng như chính sách đầu tư, chính sách thuế.
_Nước ta mặc dù có dân số đông nhưng chủ yếu là nông dân chiếm khpảng 80% những người này có thu nhập rất thấp, có sự hiểu biết về hoạt động BH còn quá ít ỏi. Trong bối cảnh như vậy thì nông dân - 1 phần lớn dân số VN khó mà trở thành khách hàng của BHNT.
Chương trình phần mềm tin học quản lý nghiệp vụ BHNT còn nhiều bất cập không ổn định và đầy đủ theo yêu cầu quản lý và gây ra nhiều khó khăn cho công ty.
_ Mô hình tổ chức và quản lý hệ thống đại lý BHNT chưa được Tổng công ty quy định thống nhất. Vì vậy trong quá trình thực hiện công ty phải vừa nghĩ vừa làm.
Mặc dù có nhiều khó khăn tác động đến sự phát triển của nghành BH nói chung và BHNT nói riêng. Nhưng với sự nỗ lực cố gắg phấn đấu của tập thể cán bộ nhân viên toàn công ty trong công tác kinh doanh, công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Những kết quả đạt được.
Hoạt động BHNT tính đến hết năm 1997 mới đươcc hơn 1 năm triển khai và vẫn đang trong thời gian thí điểm. Tuy nhiên với những cố gắng năng động của toàn bộ các đơn vị thuộc hệ thống BV, năm 1997 BV đã khai thác được 37550 hợp đồng với số phí thu là 10 tỷ 978 triệu đồng, nghiệp vụ này đã thực hiện được 219,54% kế hoạch Trích báo cáo tổng kết năm 1997 và phương hướng hoạt động năm 1998.
. Sang năm 1998 công ty đã khai thác mới được 17.822 hợp đồng tăng so với năm 1997 là 2,5 lần tổng thu phí BH đạt 30,045 tỷ đồng bằng 150% kế hoạch năm Trích báo cáo tổng kết năm 1998 và phương hướng hoạt động năm 1999
.
Nếu xét theo từng loại sản phẩm có kết quả như sau:
_Loại hình NA1/96: 13,4 tỷ đồng chiếm 44,6%.
_Loại hình NA2/96: 1 tỷ đồng chiếm 3,3%.
_Loại hình NA3/96: 10,6 tỷ đồng chiếm 35,3%.
_Loại hình NA4/98: 2,5 tỷ đồng chiếm 8,3%.
_Loại hình NA5/98: 162 triệu đồng chiếm 0,5%.
_Loại hình NA6/98: 2,2 tỷ đồng chiếm 7,3%.
Như vậy qua 2 năm doanh thu phí đã tăng rất nhanh. Và nếu tính đến 6 tháng đầu năm 1999, tổng thu phí BH thực hiện đạt 23,491 tỷ đồng, bằng 46,98% kế hoạch đanưg ký đầu năm 1999. So với cùng ký năm 1998 thì tổng thu tăng 11,69 tỷ đồng (doanh thu 6 tháng đầu năm 1998 là 11,8 tỷ đồng ). Nhưng số hợp đồng khai thác được lại giảm chỉ bằng 57,3% 6 thnág đầu năm 1998 là 12,138 hợp đồng. Việc giảm số lượng hợp đồng khai thác này có thể được lý giải bằng các yếu tố khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động khai thác và cả số vấn đề còn tồn tại trong quá trình triển khai ở VN.
Một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình triển khai BHNT ở VN.
Sau 4 năm tiến hành triển khai kinh doanh loại hình BHNT, một loại hình BH còn quá mới mẻ công ty đã đạt được những kết quả đáng kể. Mặc dù vậy do là lần đầu tiên triển khai nghiệp vụ này nên công ty cũng còn nhiều hạn chế cần khắc phục điều đó được thể hiện ở những điểm sau.
Khâu khai thác:
Đây là khâu quan trọng nhất của bất kỳ một nghiệp vụ nào đặc biệt là BHNT. Khai thác tốt có nghĩa là có nhiều khách hàng đến với công ty, nhiều khách hàng đến với công ty thì công ty có được nguồn thu phí lớn và khi ấy công ty mới có thể thực hiện tốt được các khâu khác. Tuy vậy ở khâu này vẫn còn nhiều hạn chế đó là số đại lý vẫn còn quá ít ỏi so với yêu cầu của BHNT vẫn chưa triển khai được mạng lưới các công ty thành viên, chi nhánh, văn phòng đại diện và đại lý đủ mạnh để phục nhanh chóng và đầy đủ khi có tổn thất xảy ra. Do đó đã ảnh hưởng không nhỏ tới hợp đòng ký được.
Mặt khác tuy công ty đã tiến hành đào tạo được nhiều khoá cho cán bộ nhân viên nhưng kinh nghiệm mà các nhân viên khai thác có được vẫn chưa đầy đủ, vẫn chưa có được đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ BH, tái BH và quản lý rủi ro, thiếu kinh nghiệm quản trị kinh doanh BH.Vì thế có rất nhiều trường hợp do nhân viên khai thác không giải thích được cặn kẽ cho khách hàng cho nên sau khi đọc kỹ các điều khoản thì khách hàng đã không chấp nhận mua BH.
Ngoài ra còn phải kể đến phần hoa hồng dành cho các đại lý còn hạn chế nên không khuyến khích được nhân viên hăng say trong công việc. Quản lý khâu khai thác không đồng bộ cho nên việc các đại lý tranh giành nhau khách hàng. Chính điều này làm cho nội bộ công ty không ổn định mà nhiều trường hợp còn gây hiểu nhầm cho khách hàng.
Khâu giám định:Cũng còn rất nhiều vấn đề đáng nói. Có thể công ty BH hầu như không quan tâm tới tình trạng sức khoẻ cũng như mọi yếu tố khác liên quan tới xác suất rủi ro của khách hàng... Về lâu dài thì tình hình này khó có thể chấp nhận vì nó liên quan trực tiếp đến sự sống còn của công ty BH.
Một số yếu tố khác:
+ Có thể nói rằng trong giai đoạn đầu tiên triển khai nghiệp vụ BH này công ty chỉ tập trung phát triển về chiều rộng mà không chú trọng vào việc phát triển chiều sâu của nghiệp vụ tức là nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho khách hàng. Có nhiều khách hàng sau khi tham gia nói rằng họ có cảm giác như họ không có lợi ích gì khi tham gia nghiệp vụ này. Điều này phần lớn là lỗi của công ty BHNT đối với công tác thông tin tuyên truyền quảng cáo về nghiệp vụ này vẫn còn ở 1 chừng mực nhất định và không mang tính liên tục, thường xuyên điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khâu khai thác BHNT. Chính vì vậy công ty phải thường xuyên tuyên truyền quảng cáo, thường xuyên có những biện pháp thúc đẩy sự phát triển của nghiệp vụ
4. Bước sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của NN. NN phải quản lý nền kinh tế bằng pháp luật và các công cụ quản lý vĩ mô như chính sách thuế chính sách tài khoản. Hiện nay đang trong 1 giai đoạn hoàn thiện dần cơ chế quản lý đối với sự quản lý của NN còn nhiều chồng chéo cho nên trong lĩnh vực BH nói chung và BHNT nói riêng cũng không tránh khổi những điều bất cập.
Khả năng phát triển BHNT ở Việt nam.
Thị trường BHVN kể từ năm 1998 về trước có thể nói là không nhiều “ sóng gió’’ mặc dù sau khi NĐ 100/CP ngày 18/12/1993 của CP về hoạt động kinh doanh BH được ban hành, ngoài BV (công ty BH duy nhất ở VN trước nghị định 100/CP) trên thị trường đã xuất hiện một loạt các công ty BH nữa như Bảo Minh, Pjicô, Bảo long, ViA, PVIC, UIC, PTK, thêm nữa là công ty tái BH quốc gia (VINARE) và trên 30 văn phòng đại diện của các công ty BH nước ngoài. Và trước thềm của thế kỷ 21, thị trường BH chắc chắn sẽ sôi động hơn nhiều với sự có mặt của các công ty BH 100% vốn nước ngoài có công ty mẹ là những hãng BH hàng đầu thế giới đã có hàng trăm năm kinh nghiệm như hãng Manulife của Canada, AIG của Mỹ và Prudential của Anh, Allians của Đức và một số hãng khác. Chính điều này đã và đang đặt những công ty trong nước trước những cơ hội và thách thức mới.
Mặc dù vậy chúng ta có thể rút ra từ thực tế triển khai BHNT là người dân VN không hề thờ ơ với BHNT mà trái lại họ đã đánh giá rất cao tính xã hội của loại hình BH này.
Đó là điều cốt lõi để nói rằng khả năng phát triển BHNT ở VN là rất lớn.
Theo như đánh giá của các nhà chuyên môn quốc tế thì VN là 1 trong những thị trường BHNT “ đang lên’’ của Châu á và vẫn còn bị “ bỏ ngỏ’’.Thật vậy, ngày nay khả năng nhận thức và hiểu biết về BHNT cộng với nền kinh tế VN đang trên đà phát triển thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Đời sống nhân dân được cải thiện chắc chắn sẽ làm cho nhu BHNT ở VN tăng lên nhanh chóng. Mặt khác dân số VN là hơn 76 triệu người đứng thứ 2 thế giới so với các nước Đông Nam á. Với dân số trẻ 80% ở độ tuổi dưới 40 - độ tuổi lao động có hiệu quả nhất phần lớn đang trong giai đoạn tập trung cho việc học hành và xây dựng gia đình, do đó nhu cầu tiết kiệm và đầu tư rất lớn. Và đây là điều kiện lý tưởng cho nghành BHNT phát triển.
Ngoài ra, đối với BHNT không những bổ sung quỹ hưu trí của NN mà còn tạo nguồn tài chính cho các nhu cầu riêng của mỗi người tạo công ăn việc làm cho người lao động giải quyết phần nào khó khăn cho NN, ổn định nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, hiện nay NN đã quan tâm hơn nhiều đến việc xây dựng hệ thống pháp luật: Đó là nhiều bộ luật đã ra đời, luật BH đang được soạn thảo, các văn bản để dưới luật để ban hành. Đây là điều kiện thuận lợi cho nghành BH ra đời và phát triển.
BHNT với những tác dụng mà nó mang lại có thể nói rằng trong tương lai nó sẽ được nhiều người ưa thích. Thực tế đã chứng minh được rằng đây là hình thức tiết kiệm tốt nhất. Ngoài tính chất hỗ trợ rủi ro thì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ còn mang tính chất tiết kiệm, nó thực sự mang lại cho các tầng lớp dân cư sự ổn định về tài chính. bảo hiểm nhân thọ còn giúp họ tích góp được những khoản tiền lớn trong trường hợp không có rủi ro xẩy ra để họ có thể sử dụng cho nhu cầu ngày một nâng cao như: giành cho con cái một khoản tiền lớn khi chúng đến tuổi trường thành,giúp cho người già có thêm khoản tiền bổ sung vào khoản lương hưu trí... không những tiết kiệm cho mỗi gia đình mà còn đối với toàn xã hội, bảo hiểm nhân thọ cũng thực sự là một nguồn vốn khổng lồ để phát triển nền kinh tế của đất nước. Và cho đến thời điểm này ở VN mới xuất hiện 2 loại hình BH mới đó là BHNT trọn đời do Tổng công ty BHVN triển khai ngày 1/7/1999 và Niên kim nhân thọ đối với Bộ tài chính ban hành với QĐ số 563/QĐ - BTC ngày 9/4/1999. Đây là 2 loại hình tuy mới mẻ nhưng đầy tính hấp dẫn và thuyết phục. Điều đó được thấy rõ ở chỗ: Người lao động từ trước tới nay rất lo lắng cho tuổi già và các rủi ro đột xuất không ai có thể biết trước được thời gian “ ra đi’’ của mình ở đâu và tình trạng sức khoẻ thế nào. Chính vì thế, với lương hưu, mất sức hay trợ cấp ít ỏi của NN, họ cảm thấy không an tâm khi tuổi mỗi ngày một cao, nhất là đôí với những người thân, con cháu của mình, họ luôn mong muốn có “chút gì’’ để lại. Sản phẩm BHNT trọn đời xuất hiện sẽ là chỗ dựa bù đắp vào chỗ thiếu hụt đó.
Nó giảm bớt lo lắng, mang lại sự yên tâm cho những người “ biết nhìn xa trông rộng” cho con cháu và tương lai của mình sau này. Tuỳ vào khả năng tài chính và thu nhập của mình, mỗi người sẽ đóng một mức phí nhất định hàng tháng. Khi người được BH chết, người BH sẽ trả cho gia đình người thân hay người thừa kế (theo di chúc) của người được BH số tiền BH đã chọn. Dựa vào kết quả kinh doanh, và người được BH còn được công ty chia lãi hàng năm.
Còn đối với những người lao động do phải về nghỉ chế độ 1 lần theo QĐ 176 của Thủ tướng Chính phủ thì nay đã yên tâm hơn với niên kim nhân thọ. Theo đó người lao động chỉ cần bỏ ra một số tiền nho nhỏ (tuỳ ý chọn) đóng đều đặn hàng tháng đến một độ tuổi nhất định (nam 60, nữ 55 chẳng hạn) họ sẽ nhận được 1 khoản tiền hàng năm đủ để chi phí cuộc sống tuổi già, không phải nhờ vào con cháu hay người thân trong gia đình. Xét về 1 khía cạnh nào đó sản phẩm niên kim nhân thọ cũng giống như BHXH đối với người về hưu, mất sức thậm chí nó còn có tính xã hội sâu sắc và rộng rãi hơn. Vì giờ đây khái niệm người lao động không còn bó hẹp đơn thuần là người nằm trong biên chế NN mà nằm trong bất kỳ một tổ chức, xí nghiệp tập thể hay tư nhân nào, kể cả người lao động tự do cũng đều là đối tượng của niên kim nhân thọ. Như vậy niên kim nhân thọ ra đời đã đáp ứng được nguyện vọng của đông đảo nhân dân, nhất là những người nghỉ 176.
Một yếu tố để có thể khẳng định VN là 1 thị trường BHNT đầy tiềm năng đó là đất nước ta đang thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2000 là tăng trưởng kinh tế, giải quyết công ăn việc làm nâng cao đời sống, nếu cần phải mở rộng khả năng và tăng nhanh tạo vốn theo nguyên tắc nguồn vốn trong nước là chính và huy động nguồn vốn từ nước ngoài BHNT chính là hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong nhân dân một cách hiệu quả nhất và có lợi nhất kể cả cho người BH và người tham gia BH.
Như vậy có thể nói VN là mảnh đất rất màu mỡ để BHNT phát triển và phát triển mạnh mẽ. Điều này được thấy rõ hiện nay thị trường BHNT ở VN đã có các công ty nước ngoài vào hoạt động đó là. Ngày 12/8/1999 công ty BHNT Chinfon - Manullfe 100%vốn nước ngoài đầu tiên tại VN đã chính thức đi vào hoạt động. Đây là công ty liên doanh giữa Đài loan và Canada.Đối tượng khách hàng của Chinfon - Manullife là mọi công dân VN từ sơ sinh đến 65 tuổi và người nước ngoài sinh sống và làm việc tại VN, công ty sẽ cung cấp các dịch vụ BHNT thông thường, rủi ro bất chợt, giáo dục trẻ em, tai nạn cá nhân... Được biết mục tiêu trên của Chinfon - Manullife là trở thành công ty BHNT mạnh nhất tại VN .
Ngày 11/9/1999 công ty liên doanh Việt - úc đã chính thức đi vào hoạt động. Đây là công ty liên doanh giữa NH đầu tư và phát triển VN và tập đoàn BH Australia.
Tháng 10 vừa rồi Bộ kế hoạch và đầu tư vừa cấp giấy phép liên doanh cho công ty Bình Minh. Đây là liên doanh giữa tập đoàn tài chính australia CMG( the colomial Matual Life assurance Society Linited) với công ty BH Thành phố HCM.
Tương lai sẽ còn có nhiều công ty 100% vốn nước ngoài vào VN để kinh doanh loại sản phẩm đang ngày càng được ưa chuộng này.
Một số ý kiến đề xuất:
Trong thời gian qua việc triển khai BHNT ở VN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Tuy nhiên đây là nhiệm vụ BH mới nên cũng không tránh khỏi còn có nhiều thiếu sót. Để công tác triển khai BHNT đạt được kết quả như mong muốn, em xin đưa ra một số ý kiến tham khảo như sau:
1. Trước hết để thích ứng được với sự chuyển biến của thị trường và đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài, việc đầu tiên là các công ty BH trong nước phải tăng cường khả năng tài chính. Những doanh nghiệp BH vốn nhỏ cần nghiên cứu sát nhập lại để trở thành doanh nghiệp có vốn lớn hơn. Đối với doanh nghiệp NN có vốn tương đối lớn (từ 500 tỷ đồng trở lên) thì phải nghiên cứu hình thức huy động vốn để có thể gọi vốn góp của các tổng công ty NN khác nhằm tạo ra sự hợp tác toàn diện và đa dạng giữa các doanh nghiệp lớn.
2. Về khâu khai thác: Do đây là công việc đầu tiên và là quan trọng nhất quyết định đến sự thành bại của công ty BHNT mà khaau khai thác này chủ yếu lại được thực hiện ở các đại lý. Do đó các công ty BH phải có định hướng ngay từ đầu về việc xây dựng mô hình đại lý bán sản phẩm BH thống nhất trong nội bộ cả về phương pháp trả hoa hồng cũng như phải phù hợp với mô hình kinh doanh. Bên cạnh đó, các biện pháp hỗ trợ như các chiến dịch quảng cáo hội nghị khách hàng... cũng rất quan trọng. Do đó các công ty BHNT phải tăng cường hơn nữa khâu tuyên truyền quảng cáo vận động bằng nhiều biện pháp hình thức khác nhau trên các phương diện thông tin đại chúng khác nhau nhằm giới thiệu cho dân chúng biết được sự ích nước lợi dân mà BHNT mang lại.
3. Về khâu giám định và bồi thường: Nếu làm tốt khâu này thì sẽ giữ được chữ tín với khách hàng do chất lượng của sản phẩm BHNT được thể hiện ở khâu này. Vì vậy để công ty BHNT cạnh tranh được cả rong và ngoài nước và cân đối về tài chính của mình. Các công ty BHNT cần phải làm tốt một số công việc sau:
+ Phải đào tạo một đội ngũ giám định viên có đủ năng lực và trình độ chuyên môn trong lĩnh vực được giao. Đồng thời phải lập kế hoạch thuê mướn hoặc ký kết hợp đồng với các giám địnhviên bên ngoài nếu như công ty không có đủ khả năng đào tạo.
+ Phải lập quỹ bồi thường theo đúng quy định của công ty cũng như của ngành đề ra để chủ động bồi thường một cách nhanh chóng nhất góp phần giảm nhẹ khó khăn, cho người tham gia vì khoản bồi thường trong BHNT hầu như đã được xác định trước.
+ Khi nhận được thông báo tổn thất xảy ra công ty phải cử ngay nhân viên đi giám định để nhằm xác định rõ tổn thất xảy ra vào thời gian nào, ở đâu, đồng thời phải tìm ra những nguyên nhân nào không thuộc phàm vi BH. Bên cạnh đó còn phải nhanh chóng tính toán mức độ tổn thất để đảm bảo tỷ lệ tổn thất hợp lý lại tiết kiệm được chi phí hợp lý và không làm mất sự hấp dẫn của BHNT đối với người tham gia.
+ Trong quá trình giám định tổn thất cần phải phối hợp chặt chẽ với các bên có liên quan để tiến hành điều tra xác minh tổn thất.
4. Bên cạnh đó công ty BH cũng phải xem xét lại nội dung của từng sản phẩm, xem sản phẩm nào đáp ứng được nhu cầu số đông và được khách hàng quan tâm. Biểu phí quy định đã thực sự phù hợp với giá trị sản phẩm hay chưa, những quy định nào có thể tạo kẽ hở cho các hành vi trục lợi BH Những nhân tố trên sẽ góp phần tiết kiệm chi phí quản lý, hạ giá thành sản phẩm, tăng tính hấp dẫn và làm tăng sức cạnh tranh của các công ty BH trong nước.
5. Về phía NN cần sớm thông qua luật BH nhằm tạo nên môi trường pháp lý thúc đẩy hoạt động kinh doanh BH phát triển. Đồng thời thành lập hiệp hội BH nhằm đảm bảo tốt nhất quyền lợi của người bi thiệt hại theo tinh thần Nghị định 115/CP ngày 17/12/1997 của Chính phủ, mặt khác hướng đến một thị trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các công ty.Đặc biệt cần phát huy vai trò điều tiết của NN thông qua các doanh nghiệp NN bằng các chính sách thuế như ban hành biểu thuế với các thuế suất theo khu vực đối với từng nghiệp vụ BH, miễn giảm thuế, thậm chí trợ phí.
6. Ngoài ra các công ty BH còn phải thường xuyên tổ chức đào tạo và tập huấn cán bộ cho từng cơ sở, từng đại lý và bổ sung kịp thời bằng kiến thức mới, những kinh nghiệm đã được đúc kết để giúp đỡ các cán bộ, nhân viên thực hiện tốt phần việc của mình.
7. Việc đầu tư trong BHNT cũng là 1 vấn đề cần phải bàn đến. Công ty BH cần phải tổ chức thực hiện đầu tư vốn 1 cách tốt nhất đặc biệt là trong điều kiện hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính Châu á đang tác động đế nền kinh tế. Chính vì vậy cần phải tổ chức đội ngũ cán bộ đầu tư thật tốt, đồng thời phải quản lý rủi ro trong đầu tư 1 cách chặt chẽ nhất là rủi ro về tài sản, rủi ro tính phí, rủi ro về cân đối giữa tái sản có và tài sản nợ.
8. Cuối cùng công ty BH có thể liên doanh liên kết với các công ty BHNT nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm quản lý cũng như khai thác của họ đồng thời tranh thủ nguồn vốn dồi dào của họ.
Kết luận
BHNT tuy mới được triển khai ở nước ta chỉ hơn 3 năm nhưng với thời gian ít ỏi đó BHNT đã khẳng định được cho mình một chỗ đứng vững chắc trong thị trường BH Việt nam. Với những tác dụng mà nó mang lại cũng như những ưu điểm mà nó có chắc trong thời gian tốt BHNT sẽ phát triển rất mạnh mẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Mặc dù vậy, để có thể cạnh tranh được với các công ty BH nước ngoài và có thể phát triển mạnh mẽ hơn nữa công ty BHNT phải khắc phục được những vấn đề còn tồn tại trong thời gian qua và bên cạnh việc nâng cao dần chất lượng sản phẩm cũng như chất lượng phục vụ thì công ty còn phải nghiên cứu và đưa ra nhiều loaị sản phẩm mới để đáp ứng được nhu cầu rất đa dạng của người dân.
Cuối cùng em xin bầy tỏ lòng biết ơn của mình tới thầy giáo Nguyễn Văn Định đã giúp em hoàn thành bài đề án này.
Sinh viên thực hiện:
Dương Thị Thuỷ Ngân
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 1
Phần I: Lịch sử ra đời và phát triển của BHNT. 3
Quá trình ra đời và phát triển của BHNT. 3
Tác dụngcủa BHNT. 5
Đối với đời sống nhân dân. 5
Đối với cơ quan doanh nghiệp. 6
Đối với nền kinh tế. 6
Đối với xã hội. 7
Phần II: Khái quát chung về BHNT. 8
Một số khái niệm cơ bản. 8
Các loại hình BHNT. 9
Các loại hình BHNT cơ bản. 9
Các loại hình BHNT bổ sung. 12
BHNT có thời hạn và BHNT trọn đời. 12
BHNT hỗn hợp có thời hạn. 13
Các loại hình BH khác. 14
Hợp đồng BH NT. 14
Các bên tham gia hợp đồng. 14
Thời hạn BH. 15
Số tiền BH. 15
Phí BH. 16
Một số vấn đề có liên quan . 17
Thủ tục BH. 17
Thủ tục trả tiền BH. 18
Giải quyết tranh chấp. 19
Phần III. Khả năng phát triển BHNT ở Việt nam. 20
Thực trạng triển khai BHNT ở Việt nam. 20
1. Thuận lợi. 20
Khó khăn. 21
Những kết quả đạt được. 23
II - Một số vấn đề còn tồn tại trong quá trình triển khai BHNT. 23
III - Khả năng phát triển BHNT ở Việt nam. 25
IV- Một số ý kiến đề xuất. 28
Kết Luận. 31
Tài liệu tham khảo.
Bài giảng môn kinh tế BH của thầy giáo Nguyễn Văn Định.
Giáo trình kinh tế BH (Trường đại học kinh tế quốc dân ).
Giáo trình kinh tế BH (Trường đại học tài chính ).
Báo cáo tống kết năm 1997 và phương hướng hoạt động năm 1998.
Báo cáo tổng kết năm 1998 và phương hướng hoạt động năm 1999.
Báo cáo sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và phương hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 1999.
Tạp chí BH (Số năm 1997, 1998, 1999 ).
Tạp chí tài chính.
Thông tin tài chính.
Tạp chí ngân hàng tài chính.
Báo đầu tư.
Các văn bản pháp quy.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34972.doc