Thuế GTGT là loại thuế tiêu biểu đại diện cho thuế gián thu từ khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng hàng hóa, nó được coi là một sắc thuế khoa học, tiến bộ, khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu và được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Qua 5 năm thực hiện thuế GTGT bên cạnh những thành công của thuế GTGT đã tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, vẫn còn hiện tượng thất thoát lớn trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, gian lận thuế không chỉ gây thiệt hại về mặt vật chất mà hao mòn lòng tin của dân chúng với Nhà nước và tạo những tiền lệ xấu khiến nhiều kẻ bắt chước. Càng ngày, các vụ gian lận thuế GTGT càng gia tăng cả về số vụ lẫn quy mô, cần phải tổ chức công tác tuyên truyền, giải thích chính sách, chế độ thuế GTGT một cách triệt để và phải làm ngay để phòng chống gian lận thuế trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng, hạn chế đến tối đa gây ra thất thoát cho Nhà nước đưa nước ta sánh ngang với các nước phát triển trên thế giới.
Để nước ta đạt được mục tiêu phat triển trong những năm tới: gia nhập vào tổ chức WTO vào năm 2005, và hội nhập vào AFTA vào 1/1/2006. Vấn đề phòng chống thuế GTGT là công việc lớn không chỉ với ngành thuế mà còn là trách nhiệm cụ thể và trực tiếp của các ngành hải quan, công an và các ngành có trách nhiệm duy trì hiệu lực phấp luật.
49 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1795 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp phòng chống gian lận thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp sản xuất ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác hạch toán quản lý thuế. Nếu như thuế doanh thu gây ra những khó khăn, bất hợp lý vì bị đánh thuế nhiều lần đối với các doanh nghiệp dẫn đến hầu hết các doanh nghiệp đều tìm cách trốn thuế mà cơ quan thuế không thể kiểm soát được vì chỉ có hoá đơn đầu ra mà không xét đến hoá đơn đầu vào. Doanh số thu về của thuế cho ngân sách nhà nước từ năm 1999 đến tháng 10/2002 từ khi ra đời thuế GTGT tăng gấp 5 lần so với số thu từ năm 1995 đến 1998.
Qua đó có thể thấy rằng luật thuế GTGT ở nước ta đã từng bước dần đi vào cuộc sống, đáp ứng được các mục tiêu yêu cầu của nền kinh tế, xã hội, khẳng định tính đúng đắn của việc ban hành và áp dụng loại thuế này của nước ta trong thời gian qua.
2. Những hạn chế còn vướng mắc
Trước sự phát triển về kinh tế, xã hội và yêu cầu hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, luật thuế GTGT đã phát sinh nhưng hạn chế còn vướng mắc về vấn đề như phương pháp tính thuế, thuế suất, đối tượng chịu thuế, vấn đề hoàn thuế, vấn đề chứng từ, hóa đơn... và một trong những hậu quả lớn nhất phát sinh từ những tồn tại trên là việc làm thất thoát hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách Nhà nước do việc khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT gây ra. Công ty Đông Nam có thể coi là một trong những “điển hình” trốn thuế GTGT, buôn lậu. Vấn đề nghiêm trọng đến mức có ý kiến tỏ dấu hiệu hoài nghi về tính khả thi của luật thuế GTGT ở nước ta, yêu cầu đặt vấn đề ngừng thực hiện việc hoàn thuế GTGT và câu hỏi đặt ra “Liệu luật thuế GTGT đã đi vào cuộc sống?”gây không ít băn khoăn cho nhiều người.
Thực ra theo kinh nghiệm ở nhiều nước đã áp dụng thuế GTGT cho thấy việc gặp phải những khó khăn, vướng mắc trong bước đầu áp dụng luật thuế GTGT không phải là không xẩy ra, có nhiều nước khi mới áp dụng luật thuế này đã gây tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế - xã hội, gây tăng lạm phát, đình trệ sản xuất kinh doanh như ở Thụy Điển, Philipin, Thái Lan... có trường hợp phải hoãn việc áp dụng nhiều lần như ở Nhật Bản, có nhiều trường hợp phải mất một thời gian dài thuế GTGT mới phát huy được tác dụng của nó như ở Trung Quốc cần đến 10 năm (từ năm 1985 đến năm 1995) Hungari cần đến 7 năm ... với nước ta thời gian áp dụng mới chỉ 4 năm nên chưa phải là thời gian quá dài để thuế GTGT phát huy hết tác dụng vốn có.
Thực tế vận hành thuế GTGT cho thấy công tác kiểm soát sau thành lập doanh nghiệp còn bị buông lỏng , đã xuất hiện những doanh nghiệp “ma” để trốn thuế. Việc doanh nghiệp khấu trừ thuế GTGT đầu vào, vừa được chấp nhận chi phí hợp lý nên đã làm giảm thu NSNN (năm 2002: tốc độ tăng thu ngân sách khu vực là 14.1% chưa tương xứng với tiềm năng và tốc đọ tăng giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực này là 19.4%), số thu từ thuế GTGT không phản ánh đúng thực chất kết quả hoạt động kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tình trạng gian lận thuế càng nghiêm trọng hơn khi việc quản lý hoá đơn chứng từ bị buông lỏng. Đã xuất hiện nhiều loại hoá đơn giả, hoá đơn khống bất hợp pháp đang lưu hành và trở thành hàng hóa được mua công khai. Tình trạng khai tăng số lượng, giá và giá trị hàng hoá để lấy tiền hoàn thuế bất hợp pháp ( chủ yếu là hàng hóa nông lâm thuỷ sản xuất khẩu qua biên giới đường bộ) chưa được ngăn chặn và sử lý kiên quyết. Trật tự kỷ cương tuân thủ pháp luật thuế bị vi phạm. Môi trường bình đẳng giữa doanh nghiệp làm ăn đúng pháp luật với doanh nghiệp gian lận bị xói mòn.
II. Gian lận thuế GTGT của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong thời gian qua
1. Nhận thức về gian lận thuế GTGT
Các luật thuế đều quy định xử lý vi phạm gian lận thuế, với xử phạt hành chính cao nhất là 100 triệu đồng.
Tại mục II thông tư số 30/2001/TT-BTC của Bộ tài chính sửa đổi, bổ sung thông tư số 128/1999/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định số 22/CP ngày 17/4/1996 của Chính phủ quy định: “Khai man, trốn thuế là hành vi của đối tượng nộp thuế vi phạm của pháp luật dẫn đến làm giảm một phần hay toàn bộ số thuế theo quy định của pháp luật hoặc để hưởng lợi không đúng từ việc miễn giảm thuế, hoàn thuế “Theo khoản 1, điều 62 pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính số 44/2002 –PL-UBTVQH 10 ngày 2/7/2002 quy định: “Nghiêm cấm giữ lại các vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để xử phạt hành chính...” Về tội gian lận thuế, khoản 1 điều115 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào trốn thuế với số tiền từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng thì bị phạt tiền từ một đến năm lần số tiền thuế hoặc phạt cải tạo không giam giữ từ 1 năm đến 2 năm”. Theo hệ thống hóa các văn bản pháp luật về thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung thì gian lận thuế GTGT có các hình thức sau:
- Thứ nhất, không thực hiện đúng những quy định về thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, kê khai, lập sổ kế toán và giữ chứng từ, hóa đơn liên quan đến việc tính thuế, nộp thuế thì tùy theo mức độ nặng, nhẹ mà bị cảnh cáo hoặc phạt tiền.
- Thứ hai, nộp chậm tiền thuế hoặc tiền phạt ghi trong thông báo thuế, lệnh thu thuế hoặc quyết định xử phạt thì ngoài việc phải nộp đủ số tiền thuế hoặc tiền phạt theo luật định.
- Thứ ba, khai man, trốn thuế. Nếu trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn có hành vi tiếp tục vi phạm nghiêm trọng khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Trường hợp qua kiểm tra, thanh tra phát hiện cơ sở kinh doanh có hành vi gian lận trogn kê khai nộp thuế, hoàn thuế với số tiền thuế GTGT gian lận từ 5 triệu đồng trở lên thì cơ sở kinh doanh bị xử lý như sau:
+ Không được khấu trừ, hoàn thuế với số thuế GTGT kê khai gian lận.
+ Bị xử lý vi phạm về hành vi gian lận thuế theo quy định hiện hành.
+ Không được cơ quan thuế giải quyết hoàn thuế đối với số thuế đề nghị hoàn ghi trong hồ sơ xin hoàn thuế của cơ sở, trường hợp đã được cơ quan thuế giải quyết hoàn thuế thì cơ quan thuế phải thu hồi số thuế GTGT đã hoàn.
+ Số thuế GTGT của hồ sơ đề nghị hoàn thuế sau khi đã loại trừ số thuế GTGT kê khai gian lận, cơ sở kinh doanh phải kết chuyển sang kỳ kê khai nộp thuế sau để bù trừ vào số thuế GTGT phải nộp.
+ Không được xem xét hoàn thuế trong thời gian 12 tháng kể từ khi cơ quan thuế phát hiện có hành vi gian lận thuế. Hết hạn 12 tháng nếu cơ sở kinh doanh đã khắc phục hậu quả, có ý thức chấp hành tốt các quy định của luật thuế thì cơ quan thuế sẽ xem xét giải quyết hoàn thuế cho số thuế GTGT đầu vào chưa được bù trừ hết.
Trường hợp cơ quan thuế kiểm tra, thanh tra định kỳ tại cơ sở kinh doanh phát hiện cơ sở kinh doanh có hành vi gian lận thuế về thuế nêu trên cũng bị xử lý theo quy định tại điểm này.
Các hành vi sau đây được coi là hành vi gian lận trong kê khai, nộp thuế, hoàn thuế:
+ Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp, bao gồm hóa đơn in giả, hóa đơn khống (không bán hàng hóa, dịch vụ), hóa đơn giao cho người mua (liên 2) ghi khác với hóa đơn lưu tại cơ sở kinh doanh (liên1), hóa đơn ghi giá trị cao hơn giá trị thực tế của hàng hóa, dịch vụ bán ra, hóa đơn đã tẩy xóa, lập khống bảng kê khai hàng hóa mua vào thuộc đối tượng khấu trừ thuế GTGT theo tỷ lệ %, lập giả chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu để gian lận trong kê khai nộp thuế, hoàn thuế GTGT.
+ Bán hàng hóa, dịch vụ không lập hóa đơn mua vào thuộc đối tượng được khấu trừ thuế GTGT theo tỷ lệ %, lập giả chứng từ thuế GTGT.
+ Sử dụng hóa đơn của cơ sở kinh doanh khác để bán hàng hóa, dịch vụ nhưng không kê khai thuế GTGT.
+ Kê khai thuế GTGT đầu vào của hàng hóa, dịch vụ không dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT để khấu trừ thuế.
+ Các hành vi gian lận khác nhằm chiếm đoạt tiền thuế của NSNN.
Thứ tư, không nộp thuế, nộp phạt sẽ bị xử lý:
+ Trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế để nộp thuế tại ngân hàng, kho bạc, tổ chức tín dụng có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gửi của đối tượng nộp thuế để nộp thuế, nộp phạt vào NSNN theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan thuế hoặc cơ quan có thẩm quyền trước khi mua nợ.
+ Giữ hàng hóa, tang vật để đảm bảo thu đủ số thuế, số tiền nộp phạt.
+ Kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để đảm bảo thu đủ số thuế, số tiền phạt còn thiếu.
Việc xử lý các vi phạm về thuế GTGT nói trên được thực hiện theo các thủ tục, trình tự quy định tại các văn bản pháp luật về xử lý vi phạm về thuế.
2. Gian lận thuế GTGT của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh qua 5 năm
Sau gần 5 năm thực hiện luật thuế GTGT, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh với nhiều thủ đoạn tinh vi, móc nối, đã qua mắt nhiều cán bộ thuế để thực hiện hành vi gian lận thuế GTGT trong việc trốn thuế, khai man tiền để được hoàn thuế ....
- Trên địa bàn Hà Nội phát hiện 19 doanh nghiệp bằng nhiều thủ đoạn đã chiếm đoạt 43 tỷ đồng tiền thuế GTGT, và đã thu hồi được hơn 33 tỷ đồng tiền hoàn thuế. Từ năm 2002 đến năm 2004 đã có hơn 100 văn bản trao đổi giữa 2 cơ quan về doanh nghiệp có vi phạm, các doanh nghiệp khác theo công văn đề nghị đã cơ bản được xem xét, giải quyết theo thẩm quyền. Đặc biệt thời gian qua có một số doanh nghiệp không kinh doanh mà dùng hóa đơn GTGT để bán cho các doanh nghiệp khác sử dụng vào nhiều mục đích gian lận, sau đó bỏ kinh doanh gây ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp chân chính. Cục thuế thành phố đã phát hiện 6 doanh nghiệp vi phạm chuyển sang công an thành phố khởi tố và thu hồi hơn 600 triệu đồng. Hai cơ quan chức năng: Cục thuế thành phố và công an thành phố vẫn đang tiếp tục kiểm tra các đối tượng vi phạm các luật thuế, phòng ngừa các hành vi trốn lậu thuế và thu hồi tiền hoàn thuế GTGT. Tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2001 đã hình thành một số tụ điểm bán hóa đơn công khai đã gây ra những tổn thất khó lường khi thực hiện khấu trừ thuế, giảm thuế, hoàn thuế. Theo số liệu thống kê (thời báo kinh tế số 93 – tháng 5/2002) thì hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh có 800 doanh nghiệp, riêng ở quận Hai Bà Trưng – Hà Nội có 300 doanh nghiệp đăng ký hoạt động mà không tồn tại.
Ông Nguyễn Văn Ninh, tổng cục trưởng Tổng cục thuế cho biết, đã thu hồi được 235 tỷ đồng tiền thuế GTGT bị gian lận. Trong đó, riêng nghành thuế đã tiến hành thu được 140 tỷ đồng. Để chống thất thu và gian lận thuế, năm 2004 cơ quan thuế sẽ không tiến hành thanh tra tràn lan như trước mà chỉ tập trung vào khu vực có rủi ro cao, dựa trên các kết quả phân tích. Cũng theo ông Ninh, 2 năm trở lại đây, cơ quan thuế chưa phát hiện có doanh nghiệp “ma” nào được thành lập nhằm lợi dụng hóa đơn để chiếm đoạt thuế GTGT.
- Sử dụng hóa đơn khống: hàng hóa mua ít nhưng hóa đơn ghi nhiều để hoàn thuế GTGT. Tại Gia Lai ngày 21/07/2003, công an tỉnh đã điều tra phát hiện hóa đơn số 68359 (do Trạm thu mua nông sản – Công ty Nông sản thành phố phát hành), thực tế không có hóa đơn này với số tiền đã hoàn 3.522.000VNĐ, theo quyết định số 1118 ngày 28/06/2000 với số tiên hoàn thuế 1.123.143.957 đồng, trong đó có 3.522.000 đồng khống trên.
Có trường hợp liên 1 và 2 ghi lệch nhau, số tiền ghi trên liên 2 ghi lớn hơn liên 1 gấp nhiều lần. Thí dụ, qua điều tra xác minh tại cục thuế Bắc Ninh phát hiện 37 hóa đơn của 4 hộ kinh doanh nộp thuế khoán thì thấy:
Tổng giá trị trên liên 1: 11.138.000 đồng
Tổng giá trị trên liên 2: 48.161.339.675 đồng
Tại Quảng Ninh phát hiện một doanh nghiệp kê khai số tiền trên liên 1 và liên 2 chênh lệch 43,4 triệu đồng. Thanh Hóa phát hiện 2 hóa đơn có số tiền chênh lệch giữa 2 liên là 94,5 triệu đồng.
- Nhiều đơn vị doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hành vi in và sử dụng hóa đơn giả vẫn có xu hướng tăng. Thói quen, gian dối trong toán, quyết toán tài chính hầu như đang là chất xúc tác khuyến khích sự vụ lợi để rồi một số người hoặc vô tình hoặc cố ý trong việc mua bán, sử dụng hóa đơn giả, hóa đơn không hợp pháp. Chỉ tính tại thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2000, các cơ quan chức năng đã phát hiện 196 vụ vi phạm hóa đơn giả bất hợp pháp trong các doanh nghiệp với tổng số hơn 500 tờ hóa đơn truy thu và phạt 443 triệu đồng, trong đó có nhiều đơn vị kinh doanh vi phạm với số lượng lớn.
Năm 2003 vừa qua, nghành thuế Tuyên Quang đã thực hiện thanh tra, kiểm tra 196 đơn vị kinh doanh. Năm 1999, hoàn thuế cho một số doanh nghiệp với số tiền là 49 triệu đồng, kiểm tra không có hồ sơ nào vi phạm. Năm 2000, hoàn thuế cho 5 hồ sơ, tiền hoàn thuế 430 triệu đồng, 5 hồ sơ không vi phạm. Năm 2001, hoàn thuế cho 17 hồ sơ , tiền hoàn gần 28 tỷ đồng, không có hồ sơ nào vi phạm. Nhưng năm 2002, hoàn thuế cho 18 hồ sơ là 1,8 tỷ đồng, có 4 hồ sơ vi phạm, thu 3,2 triệu đồng, phạt vi phạm là 2,5 triệu đồng.
- Gian lận về việc chuyển đổi mục đích của tài sản cố định. Quy định thuế GTGT đối với tài sản cố định có số thuế GTGT được khấu trừ hơn 200 triệu đồng có ưu điểm đã khuyến khích được các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn có hiệu quả hơn trong thời gian đầu mới thành lập. Nhưng vấn đề đặt ra, nếu trong một vài năm đầu thuế GTGT đối với TSCĐ đầu tư đó dùng vào sản xuất mặt hàng chịu thuế GTGT thì hoàn thuế là đúng và chính xác. Nhưng thời gian sau, doanh nghiệp lại dùng tài sản đó để sản xuất ra hàng hóa không chịu thuế GTGT thì theo nguyên tắc không được hoàn thuế trong khi đó toàn bộ số thuế đầu vào đã hoàn rồi. Như vậy, rõ ràng doanh nghiệp đã gian lận tiền hoàn thuế GTGT thông qua việc kê khai sai mục đích sử dụng của TSCĐ.
- Kê khai hóa đơn, chứng từ thiếu trung thực: Đây là vấn đề thực tế mà cơ quan thuế khó có thể bắt bẻ được. Thường thì các doanh nghiệp không vào sổ sách kế toán khi phát sinh các nghiệp vụ kinh tế, bán hết hàng không viết hóa đơn nhưng vẫn kê khai, lượng tồn kho lớn để được hoàn thuế. Nếu sau khi hoàn thuế không tổ chức kiểm tra ngay, cơ quan thuế khó có số liệu đối chứng,phát hiện ra 1318 trường hợp vi phạm, phải xử lý hành chính thu về cho NSNN 113 tỷ đồng.
Từ năm 1999 đến 2002 thực hiện thuế GTGT nói chung và công tác quản lý hoàn thuế nói riêng, cơ quan thuế đã loại trừ được 3150 trường hợp không đủ điều kiện hoàn thuế với số tiền là 3148 tỷ đồng, bằng 15,815% tổng số thuế đề nghị hoàn. Về công tác hậu kiểm, cơ quan thuế đã kiểm tra 3600 lượt doanh nghiệp , với số tiền 3685,15 tỷ đồng. Đối tượng mang tính chất hình sự có 378 đối tượng , cơ quan thuế đã lập biên bản , chuyển sang cơ quan pháp luật điều tra , khởi tố. Hiện nay, hàng năm chúng ta có 16 000 đơn vị có nghiệp vụ suất khẩu và được hoàn thuế. Trong đó đã xác định được khoảng 300 doanh nghiệp có vi phạm mang tính chất chiếm đoạt tiền thuế, chiếm khoảng 23 % số đơn vị được hoàn thuế. Xét về số tiền, các đơn vị này gian lận tổng cộng 493 tỷ đồng, chiếm khoảng 2,8366 % trên số thuế thực hoàn. Số tiền này so với số tiền thuế GTGT thu được trong những năm qua chiếm khoảng 0,6287 %. Tuy nhiên theo tổng cục trưởng Nguyễn Văn Ninh, số tiền bị chiếm đoạt chưa phải là lớn, thậm chí chiếm tỷ lệ % nhỏ nhưng tính chất lại rất nghiêm trọng. Thể hiện điều này ở quy mô của mỗi vụ lên tới hàng tỷ đồng như vụ gian lận ở Nha Trang là 26 tỷ đồng, vụ tinh dầu ở Hà Nội là 7,2 tỷ đồng, vụ trốn thuế GTGT của công ty điện thoại di động Đông Nam ở thành phố HCM là hơn 112 tỷ đồng… Các vụ việc đã hình thành một hệ thống tổ chức móc nối giữa nhiều doanh nghiệp khác nhau: Công ty TNHH Tam Nguyên, công ty Trần Hưng Đạo, công ty Thiên Anh… Là hệ thống chân dết cho Đông Nam, cùng với một số cán bộ công chức nhà nước và Hải quan tiếp tay
Nếu như ở Hà Nội và thành phố HCM, Hải Phòng và Đà Nẵng số doanh nghiệp lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế với số tiền hơn 200 tỷ đồng theo số liệu thống kê của Tổng cục thuế tháng 11/2002 riêng 23 doanh nghiệp Đồng Nai đã chiếm đoạt của nhà nước 93 tỷ đồng tiền hoàn thuế GTGT.
Vấn đề quan trọng đặt ra là chúng ta phải biết được bằng cách nào doanh nghiệp có thể thực hiện được các hành vi gian lận một cách trót lọt với số tiền nhiều đến thế. Để từ đó rút ra những nguyên nhân cơ bản và tìm cách khắc phục để ngăn chặn kịp thời các hành vi gian lận thuế GTGT này.
III. Nguyên nhân của gian lận thuế GTGT
1. Công tác quản lý đối với nộp thuế GTGT
Thứ nhất, tính mới của thuế GTGT :
Tính mới của thuế GTGT thể hiện ở điểm: Cơ sở tính thuế là GTGT chứ không phải doanh thu hay lợi nhuận, hai phương pháp áp dụng riêng cho hai đối tượng nộp, quy trình thu và quản lý thuế mang tính công nghệ, diện chịu thuế 0% khác cơ bản với diện không chịu thuế, giá tính thuế khác nhau giữa các mặt hàng chịu thuế GTGT và mặt hàng không chịu thuế GTGT, hóa đơn GTGT và hóa đơn thường. Khái niệm thuế GTGT tăng đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh doanh và cả với cơ quan thu thuế. Tất nhiên, điều gì mới thoạt đầu sẽ được hiểu một cách lệch lạc, thậm chí bị một số cá nhân xấu lợi dụng.
Thứ hai, cơ sở kế toán quốc dân chưa hình thành hoặc chưa được chuẩn bị.
Đại bộ phận kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh theo lôgic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh 1 cách có hệ thống để đánh giá, đo lường, phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt Nam, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là USD). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống, đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
Thức ba, sự lúng túng của cơ quan chức năng:
Thể hiện rõ nét là quá nhiều văn bản được ban hành. Chỉ trong một thời gian ngắn năm 1999, Chính phủ và Bộ tài chính cho ra hàng trăm văn bản liên quan đến thuế GTGT. Hay là quý VI năm 2002, Chính phủ và Bộ tài chính liên tiếp ban hành nhiều Nghị định, thông tư liên quan đến khấu trừ thuế. Điều này gây ra những mâu thuẫn trong điều hành và thực hiện.
Bên cạnh đó là cơ chế mà công luận gọi là “xin-cho”: xin được hưởng thuế xuất thấp hơn, xin được nộp thuế 0%, xin được mở rộng khấu trừ thuế theo tỷ lệ tính trên giá mua không có hóa đơn GTGT...
Ngoài ra, việc áp dụng đồng thời hai phương pháp tính cho hai loại đối tượng nộp thuế gây nhiều tốn kém và cản trở sự vận hành của thuế GTGT trên phạm vi toàn nền kinh tế xã hội.
Sự lúng túng lên đến đỉnh điểm khi hiện tượng gian lận thuế xuất hiện nhưng cơ quan thuế, hải quan, công an (bộ phận điều tra) và Viện kiểm sát chưa chọn được cách thức phối hợp để chống hoặc xử phạt một cách hữu hiệu.
Thứ tư, sự yếu kém trong dự báo và thiếu trách nhiệm đánh giá tác động của chính sách.
Điển hình là quy định cho phép các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ thuế đầu vào không căn cứ vào hóa đơn GTGT cho một số trường hợp. Tỷ lệ khấu trừ tính trên giá mua ban đầu là 5% và 3%, tiếp theo là 5%, 4% và 3% rồi giảm còn 3% và 2%, đến tháng 10 năm 2002 là 1%. Diện được hưởng khấu trừ thoạt tiên không áp dụng cho xuất khẩu, sau đó mở rộng cho xuất khẩu... Quy định trên nhằm khuyết khích doanh nghiệp tiêu thụ hàng của nông dân, góp phần thúc đẩy khu vực nông nghiệp phát triển. Đó là một chủ trương đúng. Nhưng khi thi hành thì không dự báo được tác động ngoại ý của nó. Vì vậy làm nảy sinh hiện tượng lập chứng từ không trung thực để chiếm đoạt tiền hoàn thuế GTGT. Đến khi tình hình chiếm đoạt tiền thuế bùng phát thành phong trào và gây ra những hậu quả nặng nề thì Chính phủ và Bộ tài chính cắt ngay điều khoản này mà không để ý rằng có không ít doanh nghiệp chân chính bị “vạ lây” cách hành xử đó khiến dân chúng mất niềm tin vào chính sách thuế mới và doanh nghiệp lương thiện nghi ngờ cách thức và năng lực điều hành nền kinh tế của Chính phủ.
Thứ năm, thiếu quyết liệt trong xử phạt.
Theo Bộ trưởng tài chính Nguyễn Sinh Hùng, ở Trung Quốc đã xử 60 phạm nhân liên quan đến hoàn thuế. Thế nhưng, ở nước ta chưa tử hình tội phạm nào cả, thậm chí xử 20 năm tù cũng chưa có. Theo thời báo tài chính Việt Nam, dẫn nguồn tin từ tổng cục thuế, mức phạt cao nhất là 100 triệu đồng, đối với các hành vi vi phạm chế độ sử dụng hóa đơn. Trên thực tế, thiệt hại do sử dụng hóa đơn không trung thực khiến Nhà nước thất thoát hàng trăm tỷ đồng. Có vụ, một cá nhân chiếm đoạt nhiều tỷ đồng tiền thuế. Nừu không trị quyết liệt thì luật pháp không khiến người ta sợ, vẫn tiến triển nhan, đa dạng, tinh vi và ngày càng lớn về số tiền thuế chiếm đoạt.
Thứ sáu, sự thoái hóa của một số cán bộ thuế và hải quan.
Không hiếm trường hợp chính công chức thu ngân sách gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn tiền thuế. Điển hình là vụ Công ty TNHH Thương mại Việt Hùng trốn hơn 40 tỷ đồng tiền thuế có sự tiếp tay của hải quan Thành phố Hồ Chí Minh, vụ án công ty Đông Nam có sự tiếp tay của phi công, tiếp viên hàng không. Ngoài ra chủ trương xuất khẩu tiểu nghạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của 1 vài nhân viên thuế biến chất. Để thu 1 tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ, nhân viên phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba phần tử thoái hóa cũng gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
Thứ bảy, thiếu phương tiện kỹ thuật hỗ trợ.
Do không gian của hoạt động kinh tế thường rộng lớn, một doanh nghiệp ở Cà Mau có thể mua bán với các doanh nghiệp ở Lạng Sơn, Gia Lai hoặc Bình Phước và cũng có thể xuất khẩu ra nhiều cửa khẩu. Vì vậy, thông tin về lô hàng của từng đợt xuất nhập khẩu phải được phối hợp kiểm tra trên toàn phạm vi cả nước chứ không chỉ gói gọn tại một địa phương. Trong khi đó, thời gian xét hoàn thuế ngắn, nên cơ quan thuế không đủ sức thẩm tra toàn bộ chứng từ cũng như lai lịch của các bên có liên quan. Theo thông tin từ Tổng cục Thuế, tính đến năm 1999 cơ quan thuế nắm được 1.082.565 đối tượng nộp thuế, năm 2000 là 1.212.139 đối tượng, năm 2001 là 1.337.291 đối tượng và đến năm 2002 đã có 1.781.827 đối tượng. Như vậy, trung bình hàng năm có thêm 160.000 đối tượng nộp thuế. Trong khi số lượng đối tượng nộp thuế nhiều đến như vậy thì cán bộ nghành thuế, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ rất hạn chế. Điều này, dễ gây ra những sai sót không chủ ý xảy ra những sai lệch khi hoàn thuế. Ngay công tác kiểm tra sau thông quan cũng khó mang lại kết quả tốt vì thiếu hệ thống điện toán toàn diện, thiếu máy kiểm tra chuyên dùng, camera, cân điện tử...
2. ý thức của các doanh nghiệp trong việc nộp thuế GTGT
Sự yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hóa đơn chưa hình thành. Có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu biết không đúng các quy định của thuế xét dưới khía cạnh người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hóa đơn. Hơn nữa, họ không có động cơ giữ hóa đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hóa đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thuế thì họ đồng ý ngay. ý niệm trọng thuế chưa thể hiện trong nhận thức của công chúng. Họ chưa nghĩ rằng trốn thuế là ăn cắp một phần của cải của chính mình nên không xem chống trốn thuế là một trong các quyền và nghĩa vụ công dân.
Chương III
Một số biện pháp chống gian lận
thuế GTGT
I. Quan điểm và mục tiêu về phòng chống gian lận thuế GTGT
1.Quan điểm:
Phòng chống gian lận thuế GTGT là hoạt động của không chỉ các cơ quan chức năng mà còn là của từng cá nhân, nó ảnh hưởng rất lớn đến mục tiêu kinh tế – xã hội và nguồn thu ngân sách nhà nước. Các cơ quan cần thay đổi quan điểm trước đây họ coi các đối tượng nộp thuế như những người có tiềm năng vi phạm trốn lậu thuế. Vì thế một trong các chức năng cơ bản của hệ thống thuế là giám sát sự tuân thủ và áp dụng hình phạt đã được đặt ra trong luật đối với những người vi phạm. Trên tinh thần đó, các cơ quan thuế triển khai rất nhiều biện pháp để ngày càng có thể kiểm soát chặt chẽ hơn các đối tượng nộp thuế. Nhưng thực tế cho thấy rằng trong nhiều trường hợp, người kinh doanh thường rất khôn ngoan hơn cơ quan chức năng, vì vậy sẽ rất khó để có thể bịt hết các kẽ hở trong quá trình thực thi luật thuế GTGT. Qua nhiều công trình nghiên cứu, tốt hơn là coi các đối tượng nộp thuế như những khách hàng và quản lý chính là cung cấp phương tiện cho người dân thực hiện nghĩa vụ của mình.
Về phía người nộp thuế GTGT, nhiều người coi nộp thuế là cách tự tước đi những lợi ích trực tiếp của mình mà chưa thấy được lợi ích mà họ được hưởng từ việc đóng nộp thuế. Vì vậy, họ chỉ tự nguyện tuân thủ khi bị phát hiện sẽ cao hơn số tiền đáng lẽ phải nộp. ở đây, người nộp thuế mới tính đến các khoản chi phí trực tiếp của hành vi trốn thuế mà chưa tính đến các chi phí cơ hội mà họ phải gánh chịu, đó là sự hao tổn về tinh thần khi ở trong trạng thái mình là kẻ phạm tội và có thể bị phát giác bất cứ lúc nào và lớn hơn là uy tín của công ty cũng như uy tín của cá nhân sẽ mất đi khi hành vi trốn thuế bị phát hiện .... Vì vậy, đối với người nộp thuế tốt hơn hết là nên hình thành thái độ đúng đắn đối với việc chấp hành luật thuế GTGT, coi thuế GTGT là giá các hàng hóa công cộng mà họ được hưởng từ đó tự nguyện nộp thuế GTGT.
Quan trọng nhất là đối tượng nộp thuế và cơ quan nộp thuế phải kiên định thực thi thuế GTGT. Đây là một loại thuế tiên tiến và có độ khó, nên không thể hoàn thiện một sớm một chiều. Mọi ý niệm bàn lùi phải được dập tắt ngay từ trong suy nghĩ. Ngay một số nước có trình độ phát triển hơn Việt Nam cũng phải trải qua 3 đến 5 năm để hoàn thiện. Theo thời gian, những khó khăn không thuộc bản chấ sẽ được sửa chữa.
2. Mục tiêu
Việc phòng chống gian lận thuế GTGT ở các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhằm những mục tiêu sau:
- Thực hiện công bằng về việc nộp thuế GTGT giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, không thể để doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế lại kém phát triển hơn doanh nghiệp không thực hiện tốt.
- Tăng cường việc thực hiện chế độ hóa đơn, sổ kế toán và hạch toán kinh tế đối với các nhà sản xuất kinh doanh, bảo đảm thuế thu ngày càng sát hơn với thực tế hoạt động của từng doanh nghiệp, tập trung nguồn thu thuế GTGT vào ngân sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất, hạn chế thất thu về thuế...
- Phòng chống gian lận thuế GTGT nhằm đưa nước ta thu hút vốn đầu tư của nước ngoài và hội nhập khu vực và thế giới phù hợp với cơ chế thị trường (điều tiết giá cả và lạm phát). Nhằm thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát triển, ổn định.
- Thực hiện công bằng, hợp lý nộp thuế GTGT giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp sản xuất kinh doanh mặt hàng nào thì phải áp dụng với mức thuế suất theo đúng luật thuế GTGT đã quy định, tiến tới một nước công bằng, văn minh, dân chủ.
II. Một số biện pháp về phòng chống gian lận thuế GTGT
Đầu tháng 12 năm 2003, Bộ tài chính thành lập Ban chỉ đạo thu hồi tiền hoàn thuế GTGT bị gian lận gồm 10 thành viên do Tổng cục trưởng tổng cục thuế làm trưởng ban. Ông Nguyễn Hồng Thắng nhận định: “Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng gian lận thuế GTGT nối riêng và các sắc thuế khác nói chung là sự không biết hoặc biết nhưng không sợ pháp luật. Vì vậy, biện pháp cơ bản là xây dựng pháp luật thuế nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung mạnh đủ trừng trị nghiêm khắc mọi vi phạm.
1. Về vấn đề chính sách, chế độ
Để phòng chống gian lận thuế GTGT đòi hỏi có nhiều điều kiện đồng thời từ phía Nhà nước, phía đối tượng nộp thuế, người chịu thuế... trong đó điều kiện có tính tiên quyết và quan trọng nhất chính là những nội dung cơ bản được quy định trong các quy định pháp luật thuế GTGT phải phản ánh đúng nhu cầu xã hội, đáp ứng sự điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ xã hội dựa trên những cơ sở khoa học nhất định. Về vấn đề này, các nội dung cơ bản của luật thuế GTGT đã được kiến nghị sửa đổi, bổ sung trong Dự thảo luật sửa đổi, ở đây chỉ xin có vài ý kiến nhỏ về nội dung vấn đề thuế GTGT. Việc kiến nghị loại bỏ mức thuế suất 20% theo dự thảo luật sửa đổi để giảm từ 4 mức thuế suất như hiện nay xuống còn 3 mức 0%, 5% và 10% là cần thiết. Nhưng xét về lâu dài, để đảm bảo tính đơn giản, dễ hiểu, rõ ràng, dễ thực hiện, tạo sự công bằng bình đẳng giữa các nghành sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ khác nhau, thiết nghĩ ngoài mức thuế suất 0% áp dụng cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, nên chăng chỉ áp dụng một mức thuế suất đơn nhất cho tất cả hàng hóa, dịch vụ dùng cho sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong nước, thuế suất là linh hồn của thuế, là yếu tố quan trọng nhất của một chính sách thuế bởi nó biểu hiện tập trung nhất của các chính sách của Nhà nước phản ánh quan hệ giữa Nhà nước với chủ thể kinh tế trong xã hội. Quy định mức thuế suất hợp lý sẽ kích thích sản xuất phát triển, tăng nguồn thu cho NSNN tác dụng tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế – xã hội. Việc quy định số lượng các mức thuế suất nhiều hay ít, cao hay thấp có tính quyết định đến sự áp dụng thành công hay thất bại của một chính sách thuế. Luận giải điều này dựa trên những cơ sở sau đây: Một là, thuế GTGT với đặc tính là một loại thuế thực, là loại thuế không dựa vào sự thay đổi khả năng của người nộp thuế, nghĩa là không đặt ra khoản miễn trừ của người nộp thuế khi khả năng người nộp có sự thay đổi, hoàn cảnh của người nộp thuế ,nghĩa là có đặt vấn đề miễn trừ, khi khả năng, hoàn cảnh của người của người nộp thuế có sự thay đổi. Do vậy, việc đặt ra nhiều loại thuế suất khác nhau trong thuế GTGT, nhằm điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư là không cần thiết, bởi mục tiêu này nên thực hiện bằng các loạt thuế khác sẽ hợp lý hơn, như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế tiêu thụ đặc biệt... Hai là, xét về đại lượng giá trị tăng thêm cấu thành trong giá trị sản phẩm hàng hóa, dịch vụ của một ngành nghề nào đó ứng với một mức chi phí được xã hội chấp nhận trong mối quan hệ cân đối giữa các nghành sản xuất kinh doanh nhưng lại phải chịu thuế GTGT với các mức thuế suất khác nhau là không công bằng, hợp lý. Ba là, theo đặc điểm của thuế GTGT là loạt thuế đánh vào mức tỉêu dùng, tức là căn cứ vào “giá trị” của hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng, chứ không căn cứ vào “loại” hàng hóa, dịch vụ được tiêu dùng để phân chia theo các mức thuế suất khác nhau. Bốn là, trong điều kiện nước ta chưa có kinh nghiệm nhiều về việc áp dụng thuế GTGT nên cơ cấu thuế suất cần phải đơn giản để công tác quản lý thu nộp thuế GTGT đỡ phức tạp và có hiệu quản hơn, nhưng mức thuế suất là bao nhiêu thì cần phải nghiên cứu xem xét để không làm ảnh hưởng tiêu cực đến nguồn thu NSNN, đồng thời không ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sản xuất, kinh doanh. Năm là, theo xu hướng chung của các nước trong việc xây dựng thuế GTGT hiện nay là đơn giản hóa thuế suất thuế GTGT để đảm bảo tính trung lập và tính hiệu quả của thuế GTGT có đến 70 nước chỉ áp dụng 1 mức thuế suất đơn nhất (ngoài thuế suất 0%) như Indonexia là 10%, Nhật bản là 5%, Philipin là 10%, Singgapo là 7%, Thái lan 10%, Chilê 18%, Thụy sĩ 10%, Nauy 23% trong thuế GTGT ở nước ta cũng hoàn toàn phù hợp với xu hướng của các nước trên thê giới hiện nay.
Về phương pháp tính thuế. Theo quy định của chính sách thuế GTGT ở nước ta hiện nay có 2 phương pháp tính thuế GTGT là phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trên GTGT. Phương pháp khấu trừ được áp dụng cho các đối tượng thường có quy mô sản xuất kinh doanh vừa và lớn, có doanh số bán hành lớn và có đủ điều kiện tổ chức hạch toán kế toán như lưu giữ chứng từ hóa đơn một cách đầy đủ hơn. Còn phương pháp tính trực tiếp trên thuế GTGT được quy địn áp dụng có cá nhân kinh doanh, hộ gia đình kinh doanh và những tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn, chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ và các cơ sở kinh doanh mua bán vàng bạc đá quý. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay, khi nền kinh tế phát triển chưa cao, số lượng các cơ sở sản xuất kinh doanh có quy mô vừa và nhỏ chưa thực hiện tốt chế độ “sổ kế toán”, chứng từ hóa đơn còn nhiều, không đáp ứng được yêu cầu tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ của việc đồng thời áp dụng 2 phương pháp tính thuế GTGT nêu trên là cần thiết. Song trên thực tế khi triển khai thực hiện luật thuế GTGT cho thấy sự tồn tại 2 phương pháp tính thuế trên là bất cập, không hợp lý bởi vì:
Do xuất hiện hóa đơn giả, khống, hóa đơn thiếu độ tin cậy nên các đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT phần lớn khi xác định GTGT tính thuế đều dựa trên doanh tru tính thuế ấn định, sau đó nhân với tỷ lệ GTGT trên doanh thu tính thuế quy định do Tổng cục thuế quy định, chi cục thuế cụ thể hóa. Điều này không khác gì thuế doanh thu trước đây, hay nói cách khác là “bình mới rượu cũ”.
Tạo khe hở cho sự xuất hiện cơ chế chuyển giao sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ trốn thuế giữa các đối tượng nộp thuế thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp thông qua việc hợp thức hóa bằng các hóa đơn giả, hoặc khống, không khớp giữa số liệu giữa các liên...
Xuất phát từ các cứ luận nêu trên kết hợp với kinh nghiệm các nước và những nguyên tắc cơ bản xây dựng chính sách thuế hữu hiệu chính sách thuế GTGT ở nước ta chỉ nên quy định một phương pháp tính thuế, đó là phương pháp khấu trừ thuế.
- Mở rộng các đối tượng chịu thuế GTGT, giảm bớt đến tối đa hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế, áp dụng thuế GTGT đến với cả hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt cho phù hợp với nguyên tắc chung của thuế GTGT đánh trên tất cả các loại hàng hóa, dịch vụ.
- Cố gắng giảm bớt, tiến tới xóa bỏ việc ưu đãi miễn giảm thuế cho tất cả các đối tượng, đảm bảo tính công bằng và bình đẳng cho các đối tượng nộp thuế.
- Cần đẩy nhanh hơn nữa tốc độ hoàn thuế cho các doanh nghiệp, góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh.
2. Về cải cách hành chính
a. Cần chú trọng hơn nữa công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật thuế GTGT. Luật thuế GTGT có hoàn chỉnh đến đâu nhưng nếu các chủ thể của các quan hệ pháp luật chịu sự điều chỉnh thuế GTGT không nắm bắt được những quy định trong quy phạm pháp luật thì cũng khó phòng chống được gian lận thuế GTGT. Chính vì vậy vấn đề tuyên truyền, phổ biến giáo dục có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự vận dụng thành công hay không của luật thuế GTGT, trong thời gian qua chúng ta chỉ dừng lại ở khâu tuyên truyền là chính mà chưa đi sâu vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Mặc dù việc tuyên truyền pháp luật ở một mức độ nào đó nó đồng nghĩa với việc phổ biến pháp luật nhưng về cơ bản là không đồng nhất với nhau. Nừu như việc tuyên truyền luật thuế GTGT chỉ mang tính tuyên truyền luật thuế GTGT chỉ mang tính chất truyền tải một cách rộng rãi, bao quát nhất về pháp luật thực định của chính sách thuế này tới mọi công dân thì việc phổ biến, giáo dục pháp luật thuế GTGT là sự truyền tải thông tin pháp luật một cách cụ thể hơn, sâu hơn, có định hướng mục đích và đối tượng xác định hơn với cả với đối tượng nộp thuế, cán bộ thuế và người chịu thuế để các chủ thể quan hệ pháp luật một cách cụ thể hơn, có định hướng mục đích và đối tượng xác định hơn với cả đối tượng nộp thuế để cho các chủ thể quan hệ pháp luật thuế GTGT biết rõ, cặn kẽ hơn về quyền và nghĩa vụ của mình quy định trong các quy phạm pháp luật của luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn áp dụng luật thuế này. Tùy thuộc từng nhóm đối tượng cụ thể, căn cứ vào nhu cầu thiết thực, đòi hỏi bức xúc và sự cần thiết trước mắt của các nhóm đối tượng để có những biện pháp phổ biến giáo dục phù hợp, hiệu quả từ những nội dung cơ bản nhất của luật thuế GTGT cho đến những quy định cụ thể nhất của luật, giúp cho mọi đối tượng thấy được tính ưu việt hơn hẳn của thuế GTGT, tạo sự tin tưởng và tự nguyện chấp hành của mọi người, mọi tầng lớp xã hội: (i) Phải có kế hoạch chuẩn bị tâm lý cho công chúng khi thực thi một chính sách thuế mới, thời gian để ổn định tư tưởng công chúng càng dài càng tốt. (ii) Các thông tin về thuế phải được cập nhật một cách nhanh chóng trên mạng và thông tin đại chúng. Những thông tư cơ bản phải được chuyển đến mọi đối tượng nộp thuế theo mức giá chỉ bao gồm chi phí in và lưu thông. (iii) Gắn thuế với phúc lợi cộng đồng để người dân thấy được chính số tiền mà mình nộp cho Nhà nước sẽ quay lại một cách gián tiếp thông qua những công trình như: cơ sở hạ tầng, môi trường, khu giải trí, trường học, dịch vụ công...
b. Cần tuân thủ triệt để nguyên tắc pháp chế XHCN trong việc ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng luật thuế GTGT của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đảm bảo thực hiện nghiêm đúng theo quy định của luật, đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN, đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và luật do Quốc hội ban hành. Thiết nghĩ trong thời gian tới các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành pháp luật về thuế nói chung cũng như luật thuế GTGT nói riêng, phải đảm bảo tuân thủ triệt để tinh thần nội dung của luật, hướng dẫn chính xác nội dung của điều luật, để áp dụng thống nhất, đồng bộ, đảm bảo tính nhất quán trong việc áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả của luật thuế GTGT, không vì bất cứ một lý do nào mà làm phá vỡ tính thống nhất của các văn bản pháp luật, phá vỡ nguyên tắc pháp chế XHCN trong quá trình phòng chống gian lận thuế GTGT.
c. Phải dự báo được những tác động ở mọi khía cạnh có thế có của việc thay đổi chính sách và phải công bố những tác động này. Ví dụ, Bộ tài chính và Tổng cục thuế phải dự báo bằng những số liệu cụ thể khi nâng thuế suất của thuế nhập khẩu đối với linh kiện ô tô: Giá thành và giá bán sản phẩm sẽ tăng bao nhiêu? Sản lượng cung cấp ra thị trường thay đổi như thế nào? Thế nhập khẩu tăng bao nhiêu phần trăm, theo đó thuế GTGT tăng bao nhiêu phần trăm. Đặc biệt hơn cả là phản ứng của các doanh nhân như thê nào trước thay đổi chín sách? Chính phủ và Bộ tài chính cần hạn chế tối đa tình trạng văn bản sau phủ định văn bản trước chỉ trong thời gian ngắn. Như: quyết định của Chính phủ không cho phép nhập linh kiện sản xuất xe gắn máy chỉ tồn tại không quá hai tháng, từ tháng 9 năm 2002 đến tháng 10 năm 2002, hoặc như: quyết định 146 ngày 14 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ tài chính về điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong đó chủ yếu là linh kiện sản xuất ôtô chưa được một tháng đã bị ngừng thực hiện.
d. Nâng cao tính hiệu quả trong công tác quản lý sử dụng hóa đơn, chứng từ, không có hóa đơn chứng từ đầy đủ doanh nghiệp sẽ không được hoàn thuế GTGT. Hóa đơn chứng từ và sổ sách kế toán là phương tiện để nghành thuế quản lý đối tượng kinh doanh và thu thuế đúng luật. Để phòng chống gian lận thuế GTGT cần có các biện pháp.
Thứ nhất, Đưa ứng dụng tin học vào trong công tác quản lý hóa đơn: Sau gần 5 năm thực hiện hoàn thuế GTGT, tuy đã có rất nhiều cố gắng trong việc áp dụng tin học và công tác quản lý hóa đơn nhưng do nhiều yếu tố khách quan (điều kiện kinh tế, tính dụng, cơ sở hạ tầng tin học...) và nhiều yếu tố chủ quan (cán bộ thuế chưa có trình độ quản lý bằng tin học, sự rủi ro khi áp dụng công nghệ mới...) nên công tác này cho đến nay vẫn còn nằm trong dự kiến, chính vì vậy việc quản lý hóa đơn chứng từ còn lộ ra nhiều kẽ hở lớn làm thất thoát NSNN. Mặt khác trên thị trường hiện nay tồn tại nhiều loại hóa đơn “giả”, “thật” lẫn lộn gây khó khăn cho cán bộ nghành thuế. Chính vì vậy, để quản lý chứng từ hóa đơn có hiệu quả nhất thì chỉ có cách nối mạng tin học liên ngành thuế trong phạm vi cả nước. Đồng thời các hóa đơn đầu ra, đầu vào thuế GTGT của các cơ sở phải được lưu trữ dưới dạng phần mềm tin học để tiện cho việc quản lý. Với cách quản lý hóa đơn như hiện nay thì việc quản lý, lưu trữ đã gặp nhiều khó khăn chứ chưa nói gì đến việc điều tra đối chiếu. Công việc đưa ứng dụng tin học vào quản lý hóa đơn chứng từ cần phải nhanh chóng triển khai để điều tra, đối chiếu. Công việc đưa ứng dụng tin học vào quản lý hóa đơn chứng từ cần phải nhanh chóng triển khai để đưa vào áp dụng trong thời gian sớm nhất. Nhưng trước mắt cần thí điểm tại một số trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng... nhằm giảm bớt thất thoát tiền hoàn thuế.
Thứ hai, khuyến khích sử dụng hóa đơn tự in và tự chịu trách nhiệm về hóa đơn của mình cũng là một trong những hướng đi mới trong giai đoạn thử nghiệm ở một số doanh nghiệp nhưng bước đầu đã có kế quả khả quan vì hầu như cơ quan thuế chưa phát hiện ra hành vi gian lận nào của doanh nghiệp. Hóa đơn tự in ra đời rất thuận lợi cho công tác quản lý. Vì rõ ràng ở đây nhiệm vụ quản lý các hóa đơn không chỉ có sự tham gia của nghành thuế mà còn chính doanh nghiệp. Các doanh nghiệp tự quản lý được những hóa đơn mà doanh nghiệp phát hành bên cạnh sự hỗ trợ của nghành thuế. Khi được tự in hóa đơn, doanh nghiệp có thể tự giới thiệu, quảng cáo cho sản phẩm do đó hóa đơn có thể thiế kế phù hợp với nhu cầu, mục đích kinh doanh của mình. Có thể nói, thông qua các hóa đơn theo hình thức này đã giúp cho doanh nghiệp tự khẳng định và tự chịu trách nhiệm trước khách hàng và trước pháp luật. Ưu điểm của hóa đơn đặc thù là thuận lợi cho công tác quản lý và kiểm tra, kiểm soát về thuế của doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý Nhà nước về thuế. Hơn nữa, phạm vi lợi dụng hóa đơn của các đơn vị khác không nhiều, hạn chế được tình trạng lẫn lộn hóa đơn giả hoặc trường hợp số tiền liên 2 không bằng liên 1. Ngoài ra còn hạn chế được trường hợp nhân viên xé hóa đơn trắng để bán khống hóa đơn ra ngoài. Khi cần kiểm tra đối chiếu hóa đơn đó thật hay giả, kể cả khi cần xác định nội dung hóa đơn thì có thể liên hệ trực tiếp với doanh nghiệp theo địa chỉ đã in sẵn trên hóa đơn đó. Với những tác dụng tích cực kể trên, thời gian tới nghành thuế chủ trương đẩy mạnh khuyến khích các doanh nghiệp tự in hóa đơn. Điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp tăng cường nội bộ quản lý, sử dụng hóa đơn và ngăn ngừa sử dụng bất hợp pháp của các đơn vị khác nhằm trốn thuế. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần kiểm tra tuân thủ chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời chuẩn hoá kế toán tại cơ sở sản xuất kinh doanh bất kể quy mô nào.
Thứ ba, buộc các đơn vị kinh doanh nếu không sử dụng hóa đơn tự in, khi mua hóa đơn do Bộ tài chính phát hành để sử dụng, phải ghi (đóng dấu) đầy đủ tên, địa chỉ, mã số thuế trên liên 2 (liên giao cho khách hàng) của từng số hóa đơn trước khi mang ra khỏi cơ quan thuế. Đây là một biện pháp rất tốt để hạn chế trường hợp vi phạm chế độ quản lý, sử dụng hóa đơn chứng từ, việc ghi các chỉ tiêu trên hóa đơn là công việc mà người kinh doanh chỉ trước hoặc sau khi mua hàng đều phải thực hiện. Nhưng với quy định này, giúp cho cơ quan thuế cũng như đối tượng mua hóa đơn kiểm tra kịp thời số lượng hóa đơn cấp có đầy đủ trong việc bảo quản hư hỏng hay không, đề cao trách nhiệm của đối tượng sử dụng hóa đơn trong việc bảo quản, sử dụng tốt hóa đơn, đồng thời hạn chế được tình trạng kinh doanh hóa đơn gây thất thu cho ngân sách NN trong nộp thuế và gây thất thoát trong hoàn thuế GTGT.
Thứ tư, khuyến khích cá nhân lấy hóa đơn khi mua hàng. Hiện nay, có nhiều ý kiến quay xổ số thưởng hóa đơn. Đó là ý kiến rất hay, cần có phải phổ biến, tuyên truyền rộng rãi chủ trương này trên phạm vi cả nước và đề nghị phải tiến hành quay thưởng với một tần suất tương đối dày ở những năm đầu tiên. Bên cạnh đó, lồng ghép chế độ hóa đơn với việc khấu trừ chi phí cá nhân trong quá trình thực thi thuế thu nhập cá nhân. Chỉ như thế, người tiêu dùng mới có động cơ đòi và giữ hóa đơn khi mua hàng.
3.Về củng cố tổ chức bộ máy nghành thuế
a. Tăng cường công tác thanh tta, thanh tra, phòng chống gian lận thuế GTGT
Kiểm tra sau khi thông quan nên được tiến hành theo kiểu chọn mẫu va ngay khi có dấu hiệu vi phạm. Theo quy định hiện hành, cơ quan hải quan thông báo quyết định kiểm tra sau thông quan bằng văn bản trước 5 ngày cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh. Thời gian này tạo nhiều cơ hội cho doanh nghiệp “thu xếp và tang chứng sẽ bị mờ nhiều”. Nừu việc kiểm tra càng gay gắt, sát sao thì công tác thanh tra nội bộ lại càng phải được tiến hành gay gắt và sát sao hơn thế. Trong trường hợp cần thiết nên thành lập một bộ phận thanh tra riêng của Chính phủ để kiểm tra lại các hồ sơ hoàn thuế cũng như để thẩm định lại tư cách của cán bộ thuế, cán bộ hải quan. Nhà nước cần nhanh chóng đưa ra các quy định đối với cơ quan thuế, cơ quan hải quan khi xét duyệt hóa đơn GTGT, xét hoàn thuế GTGT, chống trốn thuế... song hành với nó là chế tài với khung hình phạt thích đáng đối với những cán bộ thuế, cán bộ hải quan khi có sự “tiếp tay” cho các đối tượng gian lận thuế GTGT.
Cơ quan thuế cần duy trì các biện pháp cưỡng chế đủ mạnh trong quá trình nộp thuế. Trong khi áp dụng các hình phạt điều quan trọng nhất không phải là hình phạt đó nặng đến mức nào mà là tính nghiêm minh của pháp luật. Những người vi phạm gian lận thuế nhất định phải bị trừng phạt thích đáng, có tính chất nêu gương cho người khác, đồng thời tránh tình trạng nhờn pháp luật. Đầu năm 2003, cơ quan công an phát hiện một vụ trốn thuế GTGT lớn tại thành phố Hồ Chí Minh của công ty TNHH thương mại – dịch vụ viễn thông Đông Nam. Riêng số tiền bị chiếm đoạt một quý (gian lận quý I năm 2001 lớn đến 20 tỷ đồng) có thể xây dựng được 4 trường tiểu học hoặc có thể xây 1000 cây cầu ở vùng sâu, vùng xa hoặc có thể cho 4000 hộ vay 5 triệu đồng/hộ để tạo công ăn việc làm hoặc nhiều công trình có giá trị khác. Thuế là tiền của dân, của Nhà nước, chiếm đoạt tiền thuế là ăn cắp của cải của xã hội. Vậy phải xử phạt nghiêm minh những trường hợp gian lận thuế GTGT.
b. Không ngừng nâng cao trình độ và phẩm chất đội ngũ cán bộ thuế, hải quan.
Trong hành xử công việc hàng ngày, phẩm chất tốt sẽ tạo nên sự vững vàng, kiên quyết và nghiệp vụ tinh thông sẽ tạo ra sự khéo léo, tế nhị. Chính con người chứ không phải điều gì khác làm nên cơ chế. Do đó, bên cạnh công tác bồi dưỡng, cần chú ý đến việc nâng cao thu nhập và điều kiện làm việc cho cán bộ, nhân viên trong nghành nói riêng và toàn thể công chức nói chung, cũng cần nâng cao lý luận chính trị tư tưởng cho cán bộ thuế sẽ giúp cho cán bộ thuế phát hiện ra những kẽ hở lợi dụng để gian lận thuế GTGT.
c. Kết hợp chặt chẽ giữa các nghành, các khu vực để quản lý hóa đơn GTGT
Nâng cao sự kết hợp đồng bộ và chặt chẽ giữa các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan thuế, hải quan, công an, cơ quan quản lý thành lập doanh nghiệp. Trong thời gian tới, phải có sự phối hợp giữa các cơ quan này trong trao đổi thông tin, thanh tra, kiểm tra và xử lý một số doanh nghiệp trọng điểm về hoàn thuế GTGT. Nhất là những doanh nghiệp có đột biến tỷ trọng xuất nhập khẩu, những doanh nghiệp có mâu thuẫn trong nghành nghề được phép liên doanh. Tránh tình trạng “đùn đẩy”, khiến doanh nhân nghĩ rằng nộp thuế thì dễ mà nhận lại một đồng thuế hoàn thi quá khó. Tức là nảy sinh hiện tượng không công bằng trong quan hệ thu nộp. Mặt khác, tình trạng thiếu phối hợp làm tăng cao nguy cơ để lọt hành vi gian lận. Ngay cả giai đoạn thành lập doanh nghiệp cũng phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý như Sở kế hoạch đầu tư, UBND tỉnh, thành phố, các cấp và cơ quan thuế trong việc xác minh, kiểm tra xem người nào có thể được phép thành lập doanh nghiệp, doanh nghiệp nào có thể được hoàn thuế.
Ngoài ra, phải bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi khối lượng lớn phải thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay. Thông qua các tài khoản tại hệ thống ngân hàng, cơ quan quản lý thuế sẽ nắm bắt được hầu hết các hoạt động kinh tế phát sinh của cơ sở, có như vậy nạn tham nhũng, trốn lậu thuế sẽ không còn cơ hội để phát triển. Đặc biệt, đối tượng được xem xét hoàn thuế dứt khoát phải áp dụng thanh toán tiền qua tài khoản ngân hàng.
III. Kiến nghị của bản thân:
Gian lận thuế GTGT ở các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều nguyên nhân từ khía cạnh đạo đức, trình độ dân trí, trình độ và nghiệp vụ của cán bộ thuế, phương tiện kỹ thuật và một phần không nhỏ xuất phát từ sự buông lỏng pháp luật. Do đó, theo tôi chống gian lận thuế GTGT và chiếm đoạt thuế là một quá trình đòi hỏi tổng hợp của nhiều yếu tố: ý chí kiên quyết, nghiệp vụ tinh thông, lòng kiên nhẫn, sự khôn khéo, tế nhị và công tác quần chúng thích hợp. Hỗ trợ cho những yếu tố này là hành lang pháp lý rõ ràng, kịp thời và cứng rắn.
Kết luận
Thuế GTGT là loại thuế tiêu biểu đại diện cho thuế gián thu từ khâu sản xuất, lưu thông đến khâu tiêu dùng hàng hóa, nó được coi là một sắc thuế khoa học, tiến bộ, khắc phục được những nhược điểm của thuế doanh thu và được hầu hết các nước trên thế giới áp dụng. Qua 5 năm thực hiện thuế GTGT bên cạnh những thành công của thuế GTGT đã tạo được nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, vẫn còn hiện tượng thất thoát lớn trong các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, gian lận thuế không chỉ gây thiệt hại về mặt vật chất mà hao mòn lòng tin của dân chúng với Nhà nước và tạo những tiền lệ xấu khiến nhiều kẻ bắt chước. Càng ngày, các vụ gian lận thuế GTGT càng gia tăng cả về số vụ lẫn quy mô, cần phải tổ chức công tác tuyên truyền, giải thích chính sách, chế độ thuế GTGT một cách triệt để và phải làm ngay để phòng chống gian lận thuế trong các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói riêng, hạn chế đến tối đa gây ra thất thoát cho Nhà nước đưa nước ta sánh ngang với các nước phát triển trên thế giới.
Để nước ta đạt được mục tiêu phat triển trong những năm tới: gia nhập vào tổ chức WTO vào năm 2005, và hội nhập vào AFTA vào 1/1/2006. Vấn đề phòng chống thuế GTGT là công việc lớn không chỉ với ngành thuế mà còn là trách nhiệm cụ thể và trực tiếp của các ngành hải quan, công an và các ngành có trách nhiệm duy trì hiệu lực phấp luật.
Danh mục tài liệu tham khảo
Hệ thống các văn bản pháp luật về thuế GTGT
Các nguồn tài liệu tham khảo khác:
1. Trang web:
2.Trang: http//www.mof.gov.vn/ Tongcucthue/BanthueGTGTvaTTDB
3. Các tạp chí thuế và bài báo.
+ Báo phát triển kinh tế.
+ Báo kinh tế và đô thị.
+ Thời báo tài chínhVN.
+ Thời báo kinh tế VN.
+ Báo pháp luật.
+ Báo an ninh.
+ Tạp chí thuế nhà nước.
4. Sách tham khảo:
+ Cơ sở pháp lý trong kinh doanh thương mại dịch vụ – PGS.TS Đặng Đình Đào – NXB Thống kê năm 2001.
+ Giáo trình Tài chính doanh nghiệp – Trường Đại học KTQD - năm 2002.
+ Thuế GTGT và mô hình áp dụng tại Việt Nam – PTS Nguyễn Xuân Nhạt – NXB Tài chính, Hà Nội năm 2001.
+ Giáo trình quản lý thuế – TS Nguyễn Thị Bất, TS Vũ Duy Hào – NXB Thống Kê, Hà nội năm 2002.
+ Thuế – Nguyễn Hồng Thắng – NXB Thống kê, TP Hồ Chí Minh năm 1998.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35539.doc