MỤC LỤC
GIỚI THIỆU 2 U
I. Khái niệm về các biện pháp phòng vệ chính đáng 3
1.1. Đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia . 3
1.2. Biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ . 4
II. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất
trong nước . 6
2.1. Thực tiễn áp dụng các biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hóa trên thế
giới 6
2.1.1. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ MFN và NT . 6
a. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ MFN 6
b. Thực tiễn áp dụng nghĩa vụ NT . 8
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
trong khuôn khổ WTO 9
2.2. Sự cần thiết phải áp dụng biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản
xuất trong nước . 12
2.2.1. MFN và NT 12
2.2.2. Các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ . 13
a. Chống bán phá giá 13
b. Chống trợ cấp . 14
c. Tự vệ 15
3.1. Mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế . 16
3.2. Một số nhận định về tăng trưởng nhập khẩu từ 2002 - 2005 . 18
IV. Thực tiễn triển khai pháp luật về các biện pháp phòng vệ chính đáng ở Việt Nam . 22
4.1. Pháp lệnh của về MFN và NT . 22
4.2.Các Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ 22
V. Giải pháp và tổ chức thực hiện . 23
5.1. Giải pháp 23
5.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về các biện
pháp phòng vệ chính đáng . 23
5.1.2. Cân nhắc áp dụng các ngoại lệ MFN và NT 24
5.1.3. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và
tự vệ . 24
5.1.4. Đào tạo cán bộ cho các Bộ quản lý sản xuất về các biện pháp phòng vệ
chính đáng 25
5.1.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về các biện pháp
phòng vệ chính đáng 26
5.1.6. Phối hợp của các doanh nghiệp/hiệp hội ngành hàng 26
5.2. Tổ chức thực hiện 27
PHỤ LỤC I: Các ngoại lệ áp dụng MFN và NT 31
PHỤ LỤC II: Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ 36
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại khi hàng rào thuế
quan trên thế giới đang chịu sức ép cắt giảm các nước bắt đầu chú ý nhiều tới
các biện pháp phòng vệ đối với hàng hoá sản xuất trong nước. Dù tồn tại
nhiều quan niệm khác nhau, tuy nhiên trong lĩnh vực thương mại quốc tế, biện
pháp phòng vệ có thể được gói gọn lại là tất cả các biện pháp chính phủ sử
dụng nhằm hạn chế các dòng mậu dịch giữa lãnh thổ nước này với lãnh thổ
nước khác. Mặc dù có thể khác nhau về bản chất, các biện pháp này đều được
áp dụng nhằm mục tiêu bảo vệ ngành sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh
tranh trực tiếp trên thị trường nội địa của nước nhập khẩu. Ở thời điểm hiện
tại, các biện pháp phòng vệ có thể được hiểu là các biện pháp liên quan đến
quy chế đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia, biện pháp chống bán phá giá,
chống trợ cấp và các biện pháp tự vệ.
Đối với Việt Nam, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn, trong Nghị Quyết số
01/2006/NQ-CP ngày 16/01/2006 về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều
hành thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2006,
Chính phủ đã nêu cụ thể yêu cầu phải tổ chức tốt việc thực hiện các biện pháp
phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước, phù hợp với các
quy định của WTO và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết.
Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Thương mại đã phối hợp với các
Bộ/ngành liên quan nghiên cứu và soạn thảo Đề án biện pháp phòng vệ chính
đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước phù hợp với các quy định của Tổ
chức thương mại quốc tế (WTO) và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết nhằm mục đích tìm hiểu về hệ thống luật pháp của Việt Nam trong lĩnh
vực phòng vệ chính đáng, thực trạng áp dụng, các khó khăn trong quá trình áp
dụng để từ đó đề ra các giải pháp và cách thức tổ chức thực hiện nhằm bảo vệ
lợi ích quốc gia, lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp sản xuất trong nước một
cách có hiệu quả trong khuôn khổ luật pháp và các cam kết quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia hoặc công nhận.
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp phòng vệ chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước phù hợp với các quy định của Tổ chức thương mại quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
suất 0%)
là 2007 đối với các nước ASEAN - 6 và 2010 đối với các nước thành viên
mới. Tuy nhiên, các nước vẫn được duy trì danh mục nhạy cảm. Danh mục
loại trừ của Việt Nam tập trung vào các ngành có nhu cầu bảo hộ cao như ô tô,
dệt may, sản phẩm công nghệ thông tin. Nhìn chung, danh mục loại trừ của
các nước cũng có xu hướng tập trung vào một số ngành như tương tự như của
Việt Nam. Như vậy, các ngành: nông sản (một số ít mặt hàng như ngô,
sắn,...); thủy sản và đồ gỗ là có khả năng được thực hiện đẩy nhanh tự do hóa
một cách toàn diện hơn.
Ngoài ra, chương trình thu hoạch sớm (EHP) để thực hiện KVMDTD
ASEAN - Trung Quốc, đã có hiệu lực từ 1/1/2004, theo đó kim ngạch nhập
khẩu từ Trung quốc liên tục tăng từ 2004. Từ 1/1/2005 việc cắt giảm thuế
quan để thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN- Trung quốc cũng bắt đầu
có hiệu lực. Mặc dù lộ trình cắt giảm thuế của nước ta chậm hơn và mức độ
cắt giảm ít hơn Trung Quốc nhưng với những cam kết cắt giảm thuế quan thì
khả năng hàng hoá của Trung Quốc thâm nhập thị trường Việt nam là lớn,
nhất là trong bối cảnh vốn dĩ hàng hoá Trung Quốc sẵn có lợi thế cạnh tranh
về giá cả so với mặt hàng cùng loại của Việt Nam. Một điểm hết sức lưu ý là
cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của các nước ASEAN có nhiều nét tương đồng với
các mặt hàng sản xuất trong nước của Việt Nam như mặt hàng công nghiệp
chế biến, đồ điện gia dụng và thực phẩm chế biến… Vì vậy, ngành sản xuất
hàng nhóm mặt hàng này của Việt Nam sẽ là nhóm ngành chịu nhiều sức ép
cạnh tranh từ luồng hàng hóa nhập khẩu.
Trong khuôn khổ đàm phán gia nhập WTO, Việt Nam cũng đã đạt được
những bước tiến dài đáng khích lệ. Với việc ký kết hiệp định song phương với
Hoa Kỳ, có thể nói tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam đã được rút ngắn
một cách đáng kể. Tất nhiên, việc gia nhập WTO một mặt sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để phát triển kinh tế, mặt khác sẽ gây không ít khó khăn cho nhiều
ngành sản xuất trong nước. Thị trường của Việt Nam một lần nữa sẽ được mở
rộng hơn sau khi gia nhập WTO, đặc biệt là khi vòng đàm phán DOHA kết
thúc. Vì vậy, ngành sản xuất trong nước cần chuẩn bị sẵn sàng để đối mặt với
18
sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu, nhất là từ các nước trong khối
ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Đài Loan.
3.2. Một số nhận định về tăng trưởng nhập khẩu từ 2002 - 2005
- Trong 15 mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu lớn nhất trong thời kỳ
2002-2005, hầu hết đều là các mặt hàng nguyên, phụ liệu là đầu vào phục vụ
cho sản xuất trong nước mà các mặt hàng này hầu như trong nước đều chưa
sản xuất được hoặc năng lực sản xuất chưa đủ cung cấp trên thị trường. Trong
đó, cũng có một số sản phẩm của Việt Nam là sản phẩm cuối cùng nhưng
năng lực sản xuất còn chưa đủ hoặc khả năng cạnh tranh kém, nếu xét về khía
cạnh kinh tế thì việc nhập khẩu hàng hoá tương tự sẽ đem lại hiệu quả kinh tế
cao hơn cho nhà nhập khẩu. Như vậy, đối với những mặt hàng này, có thể có
những tác động không nhỏ đối với ngành sản xuất khi phải cạnh tranh với
hàng hoá nhập khẩu cùng loại.
Kim ngạch nhập khẩu 15 mặt hàng chủ yếu trong thời kỳ 2002-2005
STT Hàng hóa 2002 2003 2004 2005
1 Máy móc thiết bị phụ tùng 38.37% 41.30% -2.06% -17.84%
2 Xăng dầu các loại 10.37% 20.63% 46.89% 16.20%
3 Chất dẻo nguyên liệu 24.64% 27.26% 51.76% 0.97%
4 Vải các loại 77.31% 36.99% 41.20% 1.04%
5 Nguyên phụ liệu dệt may da giày 7.63% 18.87% 10.77% -16.96%
6 Sắt thép các loại 38.30% 24.21% 55.24% -1.84%
7 Máy tính, sản phẩm điện tử, linh kiện -0.28% -32.46% 103.21% 51.04%
8 Linh kiện phụ tùng ô tô 24.13% 67.51% 0.78% 15.83%
9 Hóa chất 15.28% 25.63% 33.95% 4.17%
10 Các sản phẩm hóa chất 33.51% 20.70% 21.31% -3.36%
11 Thức ăn gia súc, nguyên liệu 33.41% 80.36% 28.06% -4.55%
12 Gỗ, sản phẩm gỗ -30.80% 52.82% 96.78% -0.71%
13 Xe máy -36.89% -22.24% 37.57% -0.57%
14 Kim loại thường khác 18.11% 34.84% 87.82% -5.07%
15 Phân bón 18.14% 31.62% 31.12% -39.33%
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu 15 mặt hàng chủ yếu thời kỳ 2002-2005
Tốc độ tăng trưởng kim nghạch nhập khẩu (1)
-40.00%
-20.00%
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
100.00%
2002 2003 2004 2005
Năm
G
iá
tr
ị
Máy móc thiết bị phụ tùng Xăng dầu các loại
Chất dẻo nguyên liệu Vải các loại
Nguyên phụ liệu dệt may da giày
Tốc độ tăng trưởng kim nghạch nhập khẩu (2)
-40.00%
-20.00%
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
100.00%
120.00%
2002 2003 2004 2005
Năm
G
iá
tr
ị
Sắt thép các loại Máy tính, sản phẩm điện tử, linh kiện
Linh kiện phụ tùng ô tô Hóa chất
Các sản phẩm hóa chất
19
Tốc độ tăng trưởng kim nghạch nhập khẩu (3)
-60.00%
-40.00%
-20.00%
0.00%
20.00%
40.00%
60.00%
80.00%
100.00%
120.00%
2002 2003 2004 2005
Năm
G
iá
tr
ị
Thức ăn gia súc, nguyên liệu Gỗ, sản phẩm gỗ
Xe máy Kim loại thường khác
Phân bón
Nhìn vào các bảng số liệu nhập khẩu trên, có thể thấy 06 nhóm mặt
hàng có tốc độ tăng trưởng đều đặn và cao trong thời kỳ 2002-2005, đó là
nhóm máy tính, sản phẩm điện tử, linh kiện; linh kiện phụ tùng ô tô, hóa chất,
gỗ và các sản phẩm gỗ, kim loại và mặt hàng xe máy. Đối với nhóm mặt hàng
máy tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, có thể thấy tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu là tương đối cao trong 2 năm 2004 - 2005, mặc dù trước đó năm 2002 -
2003 kim ngạch nhập khẩu đã thiên giảm một cách đáng kể. Nhóm hàng linh
kiện phụ tùng ô-tô liên tục tăng trưởng, tuy nhiên với tốc độ bắt đầu sụt giảm
trong hai năm 2004 và 2005. Nhóm ngành hoá chất tuy có xu hướng tăng kim
ngạch nhập khẩu không cao so với các ngành khác nhưng tốc độ tăng trưởng
nhập khẩu là khá đều đặn. Đối với các nhóm hàng gỗ và các sản phẩm gỗ, kim
loại và xe máy, kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh trong thời kỳ 2003-2004 sau
đó giảm đáng kể vào năm 2005. Xu hướng này thể hiện khả năng đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng trong nước của các ngành sản xuất hàng hóa tương tự liên quan.
Có thể thấy rằng, với mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp điện tử và
công nghiệp ô-tô, việc khuyến khích các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài
tăng tỷ lệ nội địa hoá, thông qua đó từng bước xây dựng các ngành công
nghiệp bổ trợ, sản xuất linh kiện. Đây là ngành công nghiệp hết sức non trẻ và
đang trong giai đoạn đầu của quá trình phát triển nên có nhiều khả năng bị
cạnh tranh mạnh mẽ với những sản phẩm cùng loại được nhập khẩu vào Việt
20
21
Nam (chủ yếu là từ thị trường các nước ASEAN và Trung quốc). Theo
CEPT/AFTA, tất cả các dòng thuế của các mặt hàng này phải cắt giảm về 0-
5% từ 1/1/2006. Tuy nhiên, do cần bảo hộ ngành công nghiệp này, Việt Nam
đã tạm thời hoãn cắt giảm 41 dòng thuế linh kiện phụ tùng xe máy, ô tô bán
tải để có thêm thời gian bảo hộ. Như vậy, khi các dòng thuế này được cắt
giảm theo cam kết của Việt Nam, ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong
nước sẽ rất có thể phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh mẽ từ luồng hàng hóa
nhập khẩu.
Bên cạnh đó, nhóm các mặt hàng quan trọng đối với nền kinh tế và
cũng là một trong 15 mặt hàng luôn có kim ngạch nhập khẩu cao và có xu
hướng tăng trưởng trong thời kỳ 2001- 2005, đó là sắt thép các loại và phân
bón. Sắt thép và phân bón đều có mức độ tăng trưởng nhập khẩu cao trong
thời kỳ 2001 - 2004. Mặt khác, theo đánh giá chung thép thuộc nhóm mặt
hàng có tính cạnh tranh thấp; phân bón thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có
điều kiện. Bản thân năng lực sản xuất của hai ngành công nghiệp này đều
chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ nội địa nên nhu cầu nhập khẩu vẫn cao. Tuy
nhiên, trong tương lai, khi quy mô, năng lực của ngành sản xuất trong nước
được được mở rộng và nâng cao thì nhu cầu bảo hộ cho ngành sản xuất non
trẻ trong nước trong giai đoạn phát triển trước sự cạnh tranh của các mặt hàng
nhập khẩu, chủ yếu là từ khối ASEAN, Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ là một
đòi hỏi cấp thiết.
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết mở cửa thị trường để thúc đẩy
tự do hoá thương mại, xu hướng gia tăng nhập khẩu các mặt hàng cùng loại
với hàng hoá sản xuất trong nước là điều tất yếu. Bức tranh nhập khẩu trên
đây cũng phần nào phản ánh xu hướng này. Hệ quả của việc tăng trưởng nhập
khẩu là sức ép cạnh tranh đối với các nhà sản xuất hàng hóa tương tự trong
nước. Kinh nghiệm của các nước cho thấy trong giai đoạn chuyển đổi, nhóm
ngành có nguy cơ nhất thường tập trung vào ngành sản xuất các mặt hàng với
hàm lượng chất xám thấp hơn. Vì vậy, các cơ quan quản lý sản xuất, các
ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nhóm ngành hàng này, đặc biệt là đối
với các ngành hàng đã đề cập trên đây cần dự trù các kế hoạch ứng phó nhằm
nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trong nước trên thị trường nội địa
và tận dụng các công cụ pháp lý để bảo vệ lợi ích hợp pháp của ngành mình
trong trường hợp cần thiết.
22
IV. Thực tiễn triển khai pháp luật về các biện pháp phòng vệ chính
đáng ở Việt Nam
4.1. Pháp lệnh của về MFN và NT
Tính đến cuối năm 2005, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với 86
nước và vùng lãnh thổ, trong đó Việt Nam dành cho 77 đối tác Đối xử tối huệ
quốc về thuế nhập khẩu (thực chất là thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi) trên cơ
sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế nhập
khẩu và có 76 đối tác dành Đối xử Tối huệ quốc cho Việt Nam (trừ Mỹ).
Hầu hết các hiệp định song phương mà Việt Nam tham gia ký kết đều
chỉ quy định chung là dành cho nhau MFN, một số hiệp định có quy định cụ
thể hơn nhưng mức độ dành cho nhau MFN lại rất khác nhau. Cho tới nay, chỉ
có Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ quy định tương đối chi tiết về MFN và NT
trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các quy định của WTO.
Ngoài ra, do đang phải nỗ lực đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại
thé giới (WTO), cho đến nay Việt Nam chưa thực hiện việc từ chối áp dụng
đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
4.2.Các Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
Công việc triển khai 03 pháp lệnh chống bán phá giá, chống trợ cấp và
tự vệ6 gồm 03 mảng việc chính: hoàn thiện thể chế; Xây dựng bộ máy và năng
lực thực hiện cho cơ quan điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
và tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ. Một số các công việc liên quan đến thể chế đã được hoàn thành, đó là:
- Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Cơ quan Quản lý cạnh
tranh, gồm cả chức năng chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ;
- Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm Thủ trưởng cơ quan điều tra;
- Chính phủ đã ban hành Nghị định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc
chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ;
- Bộ Thương mại đã có công văn đề xuất danh sách thành viên Hội
đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ;
6 Xem Phụ lục II
23
Bộ Thương mại (Cục Quản lý Cạnh tranh) đang tích cực triển khai một
số các công việc có liên quan như xây dựng hệ thống mẫu văn bản, hồ sơ như
Mẫu hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp CBPG; mẫu câu hỏi cho nhà sản
xuất/nhà xuất khẩu và các đối tương khác; Mẫu các quyết định và thông báo
liên quan;... phục vụ công việc điều tra các vụ việc chống bán phá giá, trợ cấp
và tự vệ.
Để có thể triển khai thực hiện 03 Pháp lệnh, việc xây dựng bộ máy và
năng lực thực hiện cho cơ quan điều tra chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ là
hết sức quan trọng và cần thiết. Vì vậy, Bộ Thương mại đang tạo mọi điều
kiện và tích cực kiện toàn bộ máy tổ chức cho Cục quản lý Cạnh tranh.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về chống bán phá giá, chống
trợ cấp và tự vệ là một mảng công việc không thể thiếu trong quá trình thực
thi 03 Pháp lệnh. Bộ Thương mại cũng đã xây dựng kế hoạch và từng bước
triển khai một số mảng việc như:
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền, phổ biến như các hội thảo
chuyên đề, các hoạt động có liên quan; Tăng cường công tác quan hệ công
chúng trong lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ như tổ chức
họp báo, thống cáo báo chí, viết bài, phỏng vấn, nói chuyện,...
- Xây dựng ấn phẩm định kỳ của cơ quan QLCT trong đó có nội dung
về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ;
- Biên tập các tài liệu phổ biến pháp luật chống bán phá giá... (sách
hướng dẫn, tài liệu tham khảo, giới thiệu kinh nghiệm các nước, tờ rơi,...);
- Xây dựng nội dung thông tin tư liệu, dữ liệu và các vụ việc cho trang
thông tin của cơ quan QLCT liên quan đến lĩnh vực chống bán phá giá, chống
trợ cấp và tự vệ.
V. Giải pháp và tổ chức thực hiện
5.1. Giải pháp
5.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành các quy định về
các biện pháp phòng vệ chính đáng
Đối với Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong
thương mại quốc tế, do chỉ quy định về nguyên tắc, điều kiện, trình tự thủ tục
cho hưởng hoặc không cho hưởng MFN và NT được xây dựng theo hình thức
24
một văn bản quy phạm pháp luật hình thức, việc ban hành hệ thống văn bản
hướng dẫn thi hành là không thực sự cần thiết.
Đối với các Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ,
Chính phủ đã ban hành các văn bản dưới hình thức Nghị định (Nghị định
90/2004/NĐ-CP, Nghị định 89/2004/NĐ-CP và Nghị định 150/2003/NĐ-CP,
Nghị định 06/2005/NĐ-CP) trong đó có các quy định chi tiết và các hướng
dẫn thi hành một số điều chưa được quy định cụ thể trong các Pháp lệnh liên
quan. Ngoài ra, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 106/2005/TT-BTC
ngày 05/12/2005 về việc hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp và các khoản bảo đảm thanh toán thuế chống bán phá giá,
thuế chống trợ cấp.
Như vậy, ở thời điểm hiện tại hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và
các văn bản hướng dẫn việc thực hiện áp dụng các biện pháp phòng vệ chính
đáng đã tương đối đầy đủ và đã có thể thực thi được. Tuy nhiên, để tạo điều
kiện hơn nữa cho các cơ quan thực thi cũng như cho các doanh nghiệp, một số
mẫu, ví dụ, mẫu hồ sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ cần được soạn thảo và ban hành sớm.
5.1.2. Cân nhắc áp dụng các ngoại lệ MFN và NT
Như đã đề cập ở phần trên, cả MFN và NT đều có chung bản chất là sự
không phân biệt đối xử giữa các quốc gia thành viên của các hiệp định thương
mại. Tuy nhiên, cả MFN và NT đều có thể được áp dụng một cách linh hoạt
trên cơ sở tận dụng các trường hợp ngoại lệ7. Vì vậy, cần cân nhắc và tận
dụng các ngoại lệ này để phục vụ cho mục đích bảo vệ ngành sản xuất còn sút
kém trong nước. Tất nhiên, cần cân nhắc kỹ lưỡng, kể cả các khía cạnh về
chính trị - kinh tế - xã hội để đảm bảo lợi ích chung cho toàn bộ nền kinh tế.
5.1.3. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về chống bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ
Tại thời điểm hiện nay nhân lực của cơ quan chịu trách nhiệm thực thi
pháp luật về chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ của Việt Nam - Cục Quản lý
cạnh tranh - Bộ Thương mại, mới chỉ có hơn 20 người. Tại nhiều quốc gia
trên thế giới số lượng người trong các cơ quan chịu trách nhiệm điều tra
7 Xem Phụ lục I
25
những vụ việc này lên đến con số hàng trăm người (Hoa Kỳ, Canada, Ấn
Độ...). Ngoài ra nhiều quốc gia còn chia công tác điều tra cho hai cơ quan
khác nhau, một cơ quan chuyên về tính toán biên độ phá giá còn cơ quan kia
chuyên tính thiệt hại. Như vậy sẽ góp phần chuyên môn hoá công việc của
những cán bộ điều tra. Cán bộ trong Cục Quản lý cạnh tranh đa phần còn trẻ,
chưa được đào tạo đầy đủ kỹ năng cần thiết và cũng chưa tích luỹ được nhiều
kinh nghiệm để xử lý và điều tra một vụ việc phức tạp và kéo dài như các
cuộc điều tra chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ hay trả đũa. Vì vậy, cần sớm
có chính sách nâng cao năng lực và tăng cường nguồn nhân lực cho Cục để
hình thành một đội ngũ chuyên gia về xử lý các vụ việc liên quan đến các biện
pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
Thêm vào đó, xuất phát từ thực tế là các cán bộ trong lĩnh vực chống
bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ hiện tại đang đồng thời thực hiện cả hai
nhiệm vụ, một mặt hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam kháng
kiện trong các vụ kiện liên quan đến các biện pháp chống bán phá giá, chống
trợ cấp và tự vệ do phía nước ngoài tiến hành đối với hàng hoá xuất khẩu của
Việt Nam, mặt khác triển khai ba Pháp lệnh về chống bán phá giá, chống trợ
cấp và tự vệ. Để có thể có được đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn
hoá cao, cần xem xét khả năng tách bộ phận này thành hai bộ phận riêng biệt
là bộ phận chuyên trách về hỗ trợ các doanh nghiệp kháng kiện và bộ phận
chuyên trách về triển khai ba pháp lệnh về các biện pháp chống bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ. Đồng thời cũng cân nhắc tách bộ phận chuyên trách
tính biên độ phá giá và chuyên trách đánh giá về thiệt hại do hàng hoá nhập
khẩu gây ra cho ngành sản xuất trong nước. Tất nhiên, phương án này chỉ khả
thi nếu nó được thực hiện song song với phương án tăng nguồn nhân lực
chuyên trách trong lĩnh vực chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ.
5.1.4. Đào tạo cán bộ cho các Bộ quản lý sản xuất về các biện pháp
phòng vệ chính đáng
Ngoài việc đào tạo nâng cao năng lực cho cơ quan thực thi các pháp
lệnh về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, cần tổ chức các khoá đào
tạo cho các cán bộ chuyên trách của các Bộ quản lý sản xuất. Trong quá trình
triển khai áp dụng biện pháp phòng vệ chính đáng, cơ quan chống bán phá giá,
chống trợ cấp và tự vệ cần có sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ trực tiếp quản
lý sản xuất vì hơn ai hết, các cán bộ trực tiếp quản lý sản xuất hiểu rõ về
ngành sản xuât, thực trạng cạnh tranh và các vấn đề mang tính chất chuyên
26
ômôn su cũng như thông lệ kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành.
Qua thực tế kháng kiện của các vụ kiện bán phá giá cá tra, ba tra, tôm, xe
đạp... và gần đây nhất là vụ dây cu-roa do Thổ Nhĩ Kỳ tiến hành có thể thấy
hiểu biết về các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ của các
đơn vị có liên quan vẫn chưa toàn diện. Vì vậy, việc đào tạo nâng cao năng
lực về các biện pháp chống phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cho đội ngũ cán bộ
làm công tác này là hết sức cần thiết và cấp bách, góp phần tăng cường sự hợp
tác và hỗ trợ của các cơ quan/ bộ ngành trong việc thi hành các pháp lệnh liên
quan.
5.1.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về các
biện pháp phòng vệ chính đáng
Trên thực tế, để triển khai thực thi pháp luật về các biện pháp phòng vệ
chính đáng, cần tăng cường hơn nữa công tác phổ biến, tuyên truyền, phổ biến
pháp luật về các biện pháp phòng vệ chính đáng cho cộng đồng doanh nghiệp,
các hiệp hội ngành hàng có liên quan. Cộng đồng doanh nghiệp cũng như các
hiệp hội ngành hàng cần nắm rõ các công cụ pháp lý và biết sử dụng các công
cụ này để bảo vệ lợi ích chính đáng của chính ngành sản xuất cũng như của
chính doanh nghiệp mình. Vì hệ thống pháp luật về các biện pháp phòng vệ
chính đáng là tương đối mới mẻ, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật là
hết sức cần thiết, góp phần nâng cao năng lực khởi kiện cho cộng đồng doanh
nghiệp.
5.1.6. Phối hợp của các doanh nghiệp/hiệp hội ngành hàng
Hiện nay, trong đa số ngành công nghiệp nội địa của Việt Nam, khả
năng phối hợp các doanh nghiệp là chưa cao. Hơn nữa, các hiệp hội ngành
hàng chưa thực sự phát huy được vai trò chủ đạo để dẫn dắt các doanh nghiệp
hướng tới một mục tiêu chung của cả ngành sản xuất. Điều này có ý nghĩa
quan trọng vì để có thể khởi kiện, tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cần đáp ứng yêu cầu
về tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước.
Để điều tra một vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp, theo yêu cầu
của luật định về tư cách khởi kiện, thì cần phải có sự hợp tác, thống nhất hành
động của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn kiện, sự hỗ trợ của các Bộ,
27
ngành và Hiệp hội liên quan. Đáp ứng đầy đủ, chính xác các điều kiện theo
luật định là một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Nguyên đơn phải đại diện cho ít nhất 25% khối lượng, trị giá hàng hoá sản
xuất trong nước và số nhà sản xuất ủng hộ vụ kiện phải lớn hơn số nhà sản
xuất chống lại vụ kiện. Trong khi đó số lượng các hiệp hội đủ khả năng và uy
tín để đại diện cho doanh nghiệp và điều phối các hoạt động của doanh nghiệp
trong các vụ kiện và kháng kiện chưa nhiều. Bên cạnh đó còn phải chú ý
những nhóm người có lợi ích liên quan có thể sẽ lên tiếng phản đối vụ kiện
(đại diện các nhà nhập khẩu, phân phối, và bán lẻ hàng nhập khẩu, tiếng nói
của người tiêu dùng…). Vì vậy cần tính toán kĩ để tránh tình trạng rơi vào thế
bị động, lúng túng, loay hoay giữa xung đột của chính các nhóm lợi ích khác
nhau ở trong nước.
5.2. Tổ chức thực hiện
Bộ Thương mại
- Đề xuất và trình Chính phủ việc áp dụng hoặc không áp dụng Đối xử
tối huệ quốc và Đối xử quốc gia thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình
sau khi có ý kiến bằng văn bản của bộ, ngành có liên quan.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức thực hiện các quy
định của pháp luật về các biện pháp phòng vệ chính đáng.
- Thụ lý, tổ chức điều tra việc nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt
nam để đề xuất áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự
vệ theo quy định của pháp luật;
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan hướng dẫn thực hiện, rà
soát việc chấp hành các quyết định áp dụng các biện pháp phòng vệ chính
đáng.
- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan cung cấp thông tin, tài liệu cần
thiết cho việc thực hiện việc điều tra để áp dụng các biện pháp phòng vệ chính
đáng.
- Tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật và các chính sách có liên
quan đến các biện pháp phòng vệ chính đáng.
28
- Hoàn thiện và củng cố bộ máy cũng như đào tạo nguồn nhân lực để xử
lý các vấn đề phát sinh trong quá trình áp dụng các biện pháp phòng vệ chính
đáng.
- Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cho cán bộ làm công tác triển khai áp dụng các biện pháp phòng vệ chính
đáng.
- Phối hợp đánh giá hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp phòng vệ
chính đáng sau mỗi vụ việc hoặc sau từng giai đoạn cụ thể.
Bộ tài chính
- Tổ chức bộ máy thực thi Thông tư số 106/2005/TT-BTC về việc
hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và
các khoản đảm bảo thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
- Hướng dẫn thủ tục thu, nộp các khoản thuế tự vệ và hoàn trả chênh
lệch thuế tự vệ tạm thời.
- Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ cho cán bộ làm công tác triển khai áp dụng các biện pháp phòng vệ chính
đáng.
- Nghiên cứu và chỉ đạo cơ quan hải quan về việc chi tiết hoá các mặt
hàng xuất khẩu lâu nay vẫn được để trong danh mục các mặt hàng khác (vì
các mặt hàng thuộc mục này hiện đang chiếm tỷ trọng lớn)
- Nghiên cứu và chỉ đạo cơ quan hải quan thực hiện thống kê theo mã
số HS 8 số để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất trong nước trong
việc lập hồ sơ khởi kiện, đồng thời tạo điều kiện để các cơ quan quản lý nhà
nước có liên quan trong việc theo dõi, dự báo và thi hành pháp luật về phòng
vệ chính đáng.
- Phối hợp dự báo về khả năng phải áp dụng các biện pháp phòng vệ
chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước.
- Phối hợp đánh giá hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp phòng vệ
chính đáng sau mỗi vụ việc hoặc sau từng giai đoạn cụ thể.
29
Bộ Ngoại giao
- Phối hợp dự báo về khả năng phải áp dụng các biện pháp phòng vệ
chính đáng đối với hàng hoá sản xuất trong nước.
- Nghiên cứu và đánh giá tác động của việc áp dụng các biện pháp
phòng vệ chính đáng đối với quan hệ chính trị - ngoại giao để tham vấn với
Bộ Thương mại.
- Chỉ đạo Sứ quán hỗ trợ các cơ quan chức năng trong nước trong quá
trình xử lý các vấn đề liên quan đến việc áp dụng các biện pháp phòng vệ
chính đáng.
- Theo dõi chặt chẽ, tổng hợp dư luận báo chí nước ngoài, các thông tin
thuận, nghịch trong quá trình diễn biến liên quan đến vụ kiện.
- Thực hiện các hoạt động vận động hành lang cần thiết để thay đổi các
quan điểm bất lợi phát sinh từ việc áp dụng các biện pháp phòng vệ của Việt
Nam nhằm giảm thiểu nguy cơ bị trả đũa.
- Phối hợp đánh giá hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp phòng vệ
chính đáng sau mỗi vụ việc hoặc sau từng giai đoạn cụ thể.
Các Bộ quản lý sản xuất
- Phối hợp với Bộ Thương mại và các cơ quan liên quan hướng dẫn
thực hiện, rà soát việc chấp hành các quyết định áp dụng các biện pháp phòng
vệ chính đáng.
- Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng sản xuất của ngành/lĩnh vực do mình
quản lý, tình hình nhập khẩu các mặt hàng tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp
với hàng hóa sản xuất trong nước, thông báo ý kiến và đề xuất về danh mục
hàng hóa cần thiết phải cân nhắc để áp dụng biện pháp PVCĐ.
- Đề xuất và trình Chính phủ việc áp dụng hoặc không áp dụng Đối xử
tối huệ quốc và Đối xử quốc gia thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của mình.
- Chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan tiến hành điều tra,
khảo sát tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành sản xuất do
30
mình quản lý và tình hình nhập khẩu các mặt hàng tương tự hoặc cạnh tranh
trực tiếp với hàng hóa sản xuất trong nước.
- Theo dõi chặt chẽ lộ trình giảm thuế nhập khẩu và các cam kết mở cửa
thị trường theo các hiệp định hoặc điều ước mà Việt Nam ký kết hoặc tham
gia.
- Phối hợp đánh giá tính hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp phòng
vệ chính đáng sau mỗi vụ việc hoặc sau từng giai đoạn cụ thể.
Hiệp hội ngành hàng, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam
- Tuyên truyền và phổ biến pháp luật về các biện pháp phòng vệ chính
đáng của Việt Nam và quốc tế cho các doanh nghiệp thành viên.
- Tổ chức các khóa đào tạo bồi dưỡng về việc thu thập chứng cứ, lập hồ
sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp phòng vệ chính đáng theo quy định của
pháp luật.
- Tập hợp các doanh nghiệp trong ngành sản xuất những mặt hàng có
nguy cơ chịu thiệt hại do sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu để phối hợp thu thập
chứng cứ, đóng góp tài chính để lập hồ sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp
phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật.
- Tìm hiểu và lựa chọn các công ty tư vấn luật phù hợp để trợ giúp
trong quá trình lập hồ sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp phòng vệ chính đáng
và tham gia tranh tụng.
- Xây dựng phương án thị trường cho các mặt hàng có nguy cơ bị thiệt
hại do sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu.
- Tuyên truyền và phổ biến các bài học rút ra từ kinh nghiệm đối phó
với các vụ việc nước ngoài áp dụng biện pháp phòng vệ chính đáng đối với
hàng hóa có xuất xứ từ Việt Nam.
- Phối hợp đánh giá tính hiệu quả của việc áp dụng các biện pháp phòng
vệ chính đáng sau mỗi vụ việc hoặc sau từng giai đoạn cụ thể.
31
PHỤ LỤC I
Các ngoại lệ áp dụng MFN và NT
1. Ngoại lệ MFN và NT theo GATT và các Hiệp định khác
1.1. Các ngoại lệ của nghĩa vụ MFN quy định trong Hiệp định GATT
và các Hiệp định khác
- Thoả thuận thương mại khu vực (liên minh thuế quan, khu vực thương
mại tự do): Một nhóm các nước thành viên có thể tập hợp thành một liên
minh thuế quan hoặc khu vực thương mại tự do đã miễn thuế hải quan hoàn
toàn hoặc giảm thuế và giảm các quy định hạn chế thương mại khác cho các
thành viên trong liên minh hoặc trong khu vực mà không phải áp dụng đối xử
này cho các thành viên khác ngoài liên minh hoặc ngoài khu vực thương mại
tự do đó. Các thể chế thương mại khu vực đã và đang được hình thành trên
nhiều khu vực theo Điều khoản XXIV của GATT 1994 (quy định về áp dụng
theo lãnh thổ, vận chuyển biên giới, liên minh quan thuế và các khu vực
thương mại tự do).
- Thương mại biên giới: Thương mại biên giới được xem là một thực
tế thương mại quốc tế đặc biệt mà cư dân hai bên biên giới của các nước láng
giềng được phép buôn bán không theo những quy định xuất nhập khẩu thông
thường. Các nước láng giềng thường có những chính sách riêng để tạo điều
kiện cho quan hệ thương mại cho cư dân hai bên biên giới và những chính
sách này không phải áp dụng đối với những nước không có cùng biên giới.
Trước đây, Hoa Kỳ đề nghị khu vực được điều chỉnh là khoảng cách 15 km từ
đường biên giới nhưng các thành viên của GATT không cho rằng cần phải
quy định chặt chẽ như vậy và đã quyết định rằng khu vực này là “các khu vực
được xác định trong các hiệp định giữa các nước liền kề nhau, được xây dựng
chỉ nhằm tạo thuận lợi cho thông quan tại biên giới”.
- Mua sắm của Chính phủ: Nghĩa vụ MFN của Điều I, GATT không áp
dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu vì mục đích tiêu dùng tức thời hoặc tiêu
dùng cuối cùng của Chính phủ và không nhằm mục đích bán lại hoặc sử dụng
cho sản xuất hàng hoá để bán.
- Ngoại lệ chung theo Điều XX của GATT 1994: Điều khoản XX của
GATT 1994 cho phép các thành viên được hạn chế nhập khẩu từ hoặc xuất
32
khẩu đến những nguồn cụ thể. Những biện pháp này được áp dụng vì những
mục đích cụ thể, gồm:
+ bảo vệ đạo đức công cộng;
+ bảo vệ cuộc sống của con người, động vật hay thực vật và bảo vệ sức
khoẻ;
+ bảo đảm sự tôn trọng pháp luật và các quy tắc không bất tương thích
với các quy định của Hiệp định này;
+ liên quan tới các sản phẩm sử dụng lao động của tù nhân;
+ bảo vệ di sản quốc gia có giá trị nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ;
+ liên quan tới việc gìn giữ nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt, nếu các
biện pháp đó cũng được áp dụng hạn chế cả với sản xuất và tiêu dùng trong
nước;
+ thi hành nghĩa vụ của một hiệp định liên chính phủ về một hàng hoá
cơ sở ký kết phù hợp với các tiêu thức đã được đệ trình và không bị phản đối;
+ hạn chế với xuất khẩu nguyên liệu do trong nước sản xuất và cần
thiết có đủ số lượng thiết yếu nguyên liệu đó để đảm bảo hoạt động chế tác
trong thời kỳ giá nội được duy trì dưới giá ngoại nhằm thực hiện một kế
hoạch ổn định kinh tế của chính phủ, với điều kiện các hạn chế đó không dẫn
tới tăng xuất khẩu hay tăng cường mức bảo hộ với ngành công nghiệp trong
nước và không vi phạm các quy định của GATT về không phân biệt đối xử;
+ nhằm có được hay phân phối một sản phẩm thuộc diện khan hiếm
chung trong nước hay tại một địa phương.
- Ngoại lệ về an ninh theo Điều XXI của GATT 1994: Điều XXI của
GATT cho phép các thành viên được hạn chế nhập khẩu từ và xuất khẩu đến
những nước cụ thể vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia.
- Ngoại lệ liên quan đến việc thực hiện nguyên tắc đối xử khác biệt và
thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển: Ngoại lệ này cho phép các nước
dành các đối xử khác biệt và thuận lợi hơn cho các nước đang phát triển mà
không đòi hỏi có sự đối đẳng từ các nước đang phát triển và không phải áp
dụng cho các nước phát triển khác. Ngoại lệ này được áp dụng trong các
trường hợp sau:
+ Hệ thống ưu đãi phổ cập (GSP): đây là hệ thống thuế quan ưu đãi mà
các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển;
33
+ Đối xử khác biệt và thuận lợi hơn đối với các biện pháp phi thuế
quan dành cho các nước đang phát triển;
+ Các thoả thuận giữa các nước đang phát triển với nhau không phải
áp dụng cho các nước phát triển;
+ Đối xử đặc biệt dành cho các nước kém phát triển.
- Các ngoại lệ khác được GATT công nhận (thuế chống phá giá, thuế
chống trợ cấp, trả đũa theo quy định về giải quyết tranh chấp): Các hiệp định
WTO cho phép áp dụng những biện pháp cụ thể sau khi đã áp dụng các thủ
tục cụ thể dưới hình thức thuế đối kháng, thuế chống phá giá, các biện pháp
trả đũa theo quy trình giải quyết tranh chấp. Các biện pháp này được áp dụng
dưới hình thức sản phẩm bắt nguồn từ các nước thành viên cụ thể của WTO.
- Các hiệp định nhiều bên: Các Hiệp định của WTO bao gồm 4 hiệp
định được gọi là các Hiệp định nhiều bên. Đó là: Hiệp định Thương mại về
Máy bay Dân dụng, Hiệp định về Mua sắm Chính phủ, Hiệp định Quốc tế về
Sữa và Hiệp định Quốc tế về Sản phẩm Thịt bò8. Các Hiệp định này chỉ áp
dụng cho các thành viên thoả thuận chấp nhận chúng, nên những quyền lợi
dành cho các thành viên của các hiệp định này chỉ giới hạn cho những thành
viên nào đã chấp nhận từng hiệp định đó. Trường hợp này gọi là MFN có điều
kiện9: là việc dành MFN căn cứ vào một số điều kiện mà nước được hưởng
phải đáp ứng. Do đó quy chế thành viên của một hiệp định có thể là một điều
kiện. Điều này đôi khi được gọi là MFN với điều kiện cùng tham gia một hiệp
định.
1.2. Các ngoại lệ của nghĩa vụ NT quy định trong Hiệp định GATT
và các Hiệp định khác
Các quy định về ngoại lệ chung và ngoại lệ liên quan đến an ninh quốc
gia được quy định tại Điều XX và XXI của GATT không chỉ được áp dụng
cho MFN mà cũng được áp dụng cho NT.
Bên cạnh đó, nghĩa vụ NT cũng sẽ không áp dụng đối với các luật lệ,
quy định hay yêu cầu quản lý vấn đề mua sắm chính phủ mà trong đó sản
phẩm được mua nhằm phục vụ mục đích sử dụng của chính phủ chứ không
nhằm bán lại vì mục đích thương mại hay sử dụng để sản xuất hàng hoá nhằm
bán lại vì mục đích thương mại.
8 Hai Hiệp định này đã hết hiệu lực và trở thành một bộ phận của Hiệp định nông nghiệp trong khuôn khổ của
WTO.
9 Conditional most-favoured-nation treatment.
34
Ngoài ra, có một số trường hợp ngoại lệ đặc thù như sau:
- Chi trả các khoản trợ cấp dành riêng cho các nhà sản xuất nội địa:
Điều III GATT 1994 quy định: Nghĩa vụ NT sẽ không ngăn cản việc chi trả
các khoản trợ cấp dành riêng cho các nhà sản xuất nội địa. Tuy nhiên, việc chi
trả các khoản trợ cấp này chỉ đề cập tới các khoản trợ cấp trực tiếp được thanh
toán chứ không đề cập đến các biện pháp khác, ví dụ như tín dụng thuế hoặc
giảm thuế.
- Hạn ngạch về thời gian công chiếu phim ảnh nước ngoài: Điều III của
GATT có một quy định đặc biệt dành cho lĩnh vực phim ảnh, theo đó, thành
viên của GATT được quyền định ra hoặc duy trì các quy tắc hạn chế số lượng
phim nước ngoài trình chiếu theo đúng các quy định của Điều IV tiếp theo -
quy định đặc biệt về phim - điện ảnh.
- Ngoại lệ khác từ Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp Đối kháng
của Vòng đàm phán Uruguay: Các nước đang phát triển được phép áp dụng
trợ cấp đối với việc sử dụng hàng nội địa và không áp dụng cho hàng nhập
khẩu trong năm năm kể từ Hiệp định này có hiệu lực. Đối với các nước kém
phát triển nhất, thời hạn cho phép là tám năm. Tuy nhiên, thời hạn hiệu lực
của ngoại lệ này đến nay đã hết đối với các nước đang phát triển.
- Hàm lượng nội địa: mặc dù yêu cầu về hàm lượng nội địa và việc giới
hạn sử dụng sản phẩm nhập khẩu được coi là không phù hợp với các nghĩa vụ
của Điều III của GATT nhưng các thành viên phát triển của GATT có thời
gian hai năm kể từ Hiệp định này có hiệu lực để loại bỏ các biện pháp nêu
trên. Các nước đang phát triển được cho phép 5 năm và các nước kém phát
triển nhất có tám năm để loại bỏ các biện pháp mà họ đang áp dụng. Tuy
nhiên, thời hạn hiệu lực của ngoại lệ này đến nay cũng đã hết đối với các nước
đang phát triển.
- Ngoài ra, Hiệp định cũng cho phép các thành viên đang phát triển
được tạm thời không tuân thủ nghĩa vụ về việc không áp đặt các biện pháp
trên trong giới hạn cho phép của Điều XII về cán cân thanh toán.
2. Ngoại lệ MFN và NT theo Pháp lệnh về MFN và NT trong
thương mại quốc tế của Việt Nam
2.1. Các ngoại lệ chung
- Không áp dụng MFN và NT trong trường hợp cần thiết để bảo đảm lợi
ích quốc phòng, an ninh quốc gia, bảo vệ các giá trị văn hoá, tinh thần của dân
35
tộc, bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ động vật, thực vật và môi trường, ngăn
chặn các hành vi gian lận thương mại.
- Không áp dụng MFN và NT đối với những nước tiến hành hoặc tham
gia tiến hành các hoạt động chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn
vẹn lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.2. Các ngoại lệ áp dụng MFN trong thương mại hàng hóa
- Ưu đãi dành cho các thành viên của thoả thuận về liên kết kinh tế mà
Việt nam ký kết hoặc gia nhập.
- Ưu đãi dành cho nước có chung biên giới với Việt Nam nhằm tạo
thuận lợi cho việc giao lưu hàng hoá biên giới trên cơ sở hiệp định song
phương.
- Ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước kém phát triển.
- Các ưu đãi theo các hiệp định quá cảnh hàng hoá mà Việt Nam ký kết
hoặc gia nhập.
- Đấu thầu mua sắm hàng hoá đối với các dự án sử dụng nguồn vốn tài
trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài và các dự án khác theo quy
định của Chính phủ.
2.3. Các ngoại lệ áp dụng NT trong thương mại hàng hóa
- Việc mua sắm của Chính phủ Việt Nam nhằm mục đích tiêu dùng của
Chính phủ;
- Các khoản trợ cấp dành cho nhà sản xuất trong nước, các chương trình
trợ cấp thực hiện dưới hình thức Chính phủ Việt Nam mua lại hàng hoá sản
xuất trong nước;
- Các quy định hạn chế thời lượng phim ảnh trình chiếu;
- Các khoản phí vận tải trong nước được tính trên cơ sở các hoạt động
mang tính kinh tế của phương tiện vận tải.
36
PHỤ LỤC II
Pháp luật Việt Nam về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ
1. Pháp luật của Việt Nam về chống bán phá giá
1.1. Hệ thống văn bản pháp quy
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 20/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 29 tháng 4 năm 2004 về việc chống bán phá giá hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam.
- Nghị định của Chính phủ số 90/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm
2005 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá
hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.
- Thông tư số 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
1.2. Một số quy định cơ bản của Pháp lệnh chống bán phá giá
Phạm vi điều chỉnh
Văn bản quy phạm pháp luật về chống bán phá giá quy định cụ thể hình
thức áp dụng các biện pháp chống bán phá giá; thủ tục, nội dung điều tra để
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá và việc áp dụng các biện pháp chống
bán phá giá đối với hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam.
Các biện pháp chống bán phá giá
- Áp dụng thuế chống bán phá giá
- Cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức, cá nhân sản
xuất, xuất khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá với
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
của Việt Nam hoặc với các nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan có
thẩm quyền áp dụng các biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam đồng ý.
Điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hóa bán
phá giá vào Việt Nam khi có hai điều kiện sau:
37
- Hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ phá giá phải được
xác định cụ thể;
- Việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu đó là nguyên nhân gây ra hoặc
đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất hàng hoá tương tự trong
nước.
Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá có thể được tiến
hành dựa trên một trong hai cơ sở sau đây:
- Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá của tổ chức, cá
nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước.
- Bộ trưởng Bộ Thương mại có thể yêu cầu điều tra khi có bằng chứng
rõ ràng về việc bán phá giá hàng hoá gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước.
Áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng sau khi cơ quan chức
năng của Chính phủ đã hoàn thành điều tra để áp dụng biện pháp chống bán
phá giá theo trình tự, thủ tục quy định trong Pháp lệnh chống bán phá giá và
các văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh.
- Áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời: trong trường hợp cần thiết,
sau 60 ngày kể từ ngày có quyết định điều tra, trên cơ sở kết luận sơ bộ, Cơ
quan điều tra có thể kiến nghị Bộ trưởng Bộ Thương mại áp dụng thuế chống
bán phá giá tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối cùng nhằm ngăn chặn
các hậu quả xấu gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước. Tuy
nhiên, thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời không được vượt quá
một trăm hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định áp dụng.
- Áp dụng biện pháp cam kết: Sau khi có kết luận sơ bộ và trước khi kết
thúc giai đoạn điều tra, tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hoá
thuộc đối tượng điều tra có thể đưa ra cam kết với Bộ Thương mại hoặc với
các nhà sản xuất trong nước nếu được Cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Bộ
trưởng Bộ Thương mại có thể chấp nhận, không chấp nhận hoặc đề nghị điều
chỉnh nội dung cam kết trên cơ sở tự nguyện. Các bên có cam kết được chấp
nhận phải định kỳ cung cấp cho cơ quan điều tra thông tin, tài liệu liên quan
đến việc thực hiện cam kết và chứng minh tính chính xác của các thông tin đó
38
theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trường hợp các bên liên quan
không thực hiện đúng theo cam kết, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước, Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định
tiếp tục tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc ra
quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá theo quy định của Pháp lệnh
chống bán phá giá.
- Áp dụng thuế chống bán phá giá: Trường hợp không đạt được cam
kết, căn cứ vào kết luận cuối cùng và kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc
chống bán phá giá, Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định về việc áp dụng
thuế chống bán phá giá. Theo quy định tại Điều 22, Pháp lệnh chống bán phá
giá, thuế suất thuế chống bán phá giá không được vượt quá biên độ bán phá
giá trong kết luận cuối cùng và chỉ được áp dụng trong thời hạn không quá 05
năm, kể từ ngày có quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá.Tuy
nhiên, thời hạn này có thể được gia hạn trong trường hợp Bộ trưởng Bộ
Thương mại ra quyết định rà soát việc áp dụng thuế chống phá giá theo trình
tự, thủ tục quy định tại Pháp lệnh chống bán phá giá.
2. Pháp luật của Việt Nam về chống trợ cấp
2.1. Hệ thống văn bản pháp quy về chống trợ cấp
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 22/2004/PL-
UBTVQH11 ngày 20 tháng 8 năm 2004 về việc chống trợ cấp hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam.
- Nghị định của Chính phủ số 89/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm
2005 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống trợ cấp
hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.
- Thông tư số 106/2005/TT-BTC về việc hướng dẫn thu, nộp, hoàn trả
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp và các khoản đảm bảo thanh toán
thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
2.2. Một số quy định cơ bản của Pháp lệnh chống trợ cấp
Phạm vi điều chỉnh
Văn bản quy phạm pháp luật về chống trợ cấp quy định cụ thể các biện
pháp chống trợ cấp; thủ tục, nội dung điều tra để áp dụng các biện pháp
chống trợ cấp và việc áp dụng biện pháp chống trợ cấp đối với hàng hoá được
trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam.
39
Các biện pháp chống trợ cấp
- Áp dụng thuế chống trợ cấp.
- Chấp nhận cam kết của tổ chức, cá nhân hoặc của Chính phủ nước
hoặc vùng lãnh thổ sản xuất, xuất khẩu với cơ quan nhà nước có thẩm quyền
của Việt Nam về việc tự nguyện chấm dứt trợ cấp, giảm mức trợ cấp, cam kết
điều chỉnh giá xuất khẩu hoặc áp dụng các biện pháp thích hợp khác.Điều kiện
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá
Điều kiện áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng đối với hàng hoá được trợ
cấp nhập khẩu vào Việt Nam khi có đủ các điều kiện sau đây:
- Hàng hóa nhập khẩu được xác định có trợ cấp theo quy định tại Điều 3
của Pháp lệnh này;
- Hàng hoá nhập khẩu quy định tại khoản 1 Điều này là nguyên nhân
gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Việc điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp có thể được tiến hành
dựa trên một trong hai cơ sở sau đây:
- Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp chống trợ cấp của tổ chức, cá nhân
đại diện cho ngành sản xuất trong nước.
- Bộ trưởng Bộ Thương mại có thể ra quyết định điều tra khi có bằng
chứng rõ ràng về việc hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào Việt Nam gây ra
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
Áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp chỉ được áp dụng sau khi cơ quan chức năng
của Chính phủ đã hoàn thành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp theo
trình tự, thủ tục quy định trong Pháp lệnh chống trợ cấp và các văn bản hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh.
- Áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời: trong trường hợp cần thiết, sau
60 ngày kể từ ngày có quyết định điều tra, trên cơ sở kết luận sơ bộ, Cơ quan
điều tra có thể kiến nghị Bộ trưởng Bộ Thương mại áp dụng thuế chống trợ
40
cấp tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối cùng nhằm ngăn chặn các hậu
quả xấu gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự trong nước. Tuy nhiên,
thời hạn áp dụng thuế chống trợ cấp tạm thời không được vượt quá một trăm
hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định áp dụng.
- Áp dụng biện pháp cam kết: Sau khi có kết luận sơ bộ và trước khi kết
thúc giai đoạn điều tra, tổ chức, cá nhân sản xuất hoặc xuất khẩu hàng hoá
thuộc đối tượng điều tra có thể đưa ra cam kết với Bộ Thương mại hoặc với
các nhà sản xuất trong nước nếu được Cơ quan có thẩm quyền đồng ý. Bộ
trưởng Bộ Thương mại có thể chấp nhận, không chấp nhận hoặc đề nghị điều
chỉnh nội dung cam kết trên cơ sở tự nguyện. Các bên có cam kết được chấp
nhận phải định kỳ cung cấp cho cơ quan điều tra thông tin, tài liệu liên quan
đến việc thực hiện cam kết và chứng minh tính chính xác của các thông tin đó
theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trường hợp các bên liên quan
không thực hiện đúng theo cam kết, gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng
kể cho ngành sản xuất trong nước, Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định
tiếp tục tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp chống trợ cấp hoặc ra quyết
định áp dụng biện pháp chống trợ cấp theo quy định của Pháp lệnh chống trợ
cấp.
- Áp dụng thuế chống trợ cấp: Trường hợp không đạt được cam kết, căn
cứ vào kết luận cuối cùng và kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc chống trợ
cấp, Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định về việc áp dụng thuế chống trợ
cấp. Theo quy định tại Điều 24, Pháp lệnh chống trợ cấp, thuế suất thuế chống
trợ cấp không được vượt quá mức trợ cấp được xác định trong kết luận cuối
cùng và chỉ được áp dụng trong thời hạn không quá 05 năm, kể từ ngày có
quyết định áp dụng.Tuy nhiên, thời hạn này có thể được gia hạn trong trường
hợp Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định rà soát việc áp dụng thuế chống
trợ cấp theo trình tự, thủ tục quy định tại Pháp lệnh chống trợ cấp.
3. Pháp luật của Việt Nam về các biện pháp tự vệ
3.1. Hệ thống văn bản pháp quy về tự vệ
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 42/2002/PL-
UBTVQH10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá
nước ngoài vào Việt Nam.
41
- Nghị định của Chính phủ số 150/2003/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm
2003 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá
nước ngoài vào Việt Nam.
2.2. Một số quy định cơ bản của Pháp lệnh tự vệ
Phạm vi điều chỉnh
Văn bản quy phạm pháp luật về tự vệ quy định cụ thể các biện pháp tự
vệ; điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp nhập khẩu
hàng hoá quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất
trong nước.
Các biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt
Nam gồm:
- Tăng mức thuế nhập khẩu so với mức thuế nhập khẩu hiện hành;
- Áp dụng hạn ngạch nhập khẩu;
- Áp dụng hạn ngạch thuế quan;
- Áp dụng thuế tuyệt đối;
- Cấp phép nhập khẩu để kiểm soát nhập khẩu;
- Phụ thu đối với hàng hoá nhập khẩu;
- Các biện pháp khác.
Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng đối với hàng hoá nhập khẩu khi
có đủ các điều kiện sau đây:
- Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu gia tăng đột
biến một cách tuyệt đối hoặc tương đối so với khối lượng, số lượng hoặc trị
giá của hàng hoá tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp được sản xuất
trong nước;
42
- Việc gia tăng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá nhập khẩu đó
gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất hàng hoá
tương tự hoặc hàng hoá cạnh tranh trực tiếp trong nước.
Cơ sở tiến hành điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ
- Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ của tổ chức, cá nhân đại diện
cho ngành sản xuất trong nước.
- Bộ Thương mại chủ động tiến hành điều tra trong trường hợp có bằng
chứng chứng minh sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp tự vệ.
Áp dụng biện pháp tự vệ
- Áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời: Bộ Thương mại có thể ra quyết
định áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời trước khi kết thúc điều tra, nếu xét thấy
việc chậm thi hành các biện pháp tự vệ gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước và thiệt hại đó khó có thể khắc
phục về sau. Biện pháp tự vệ tạm thời chỉ được áp dụng dưới hình thức thuế
nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thời hạn
áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời kết thúc khi có quyết định của Bộ Thương
mại về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ, nhưng trong mọi
trường hợp không được vượt quá 200 ngày, kể từ ngày bắt đầu áp dụng biện
pháp tự vệ tạm thời.
- Áp dụng các biện pháp tự vệ: việc áp dụng các biện pháp tự vệ được
tiến hành trên cơ sở quyết định của Bộ trưởng Bộ Thương mại. Theo quy định
tại Điều 21, Pháp lệnh tự vệ, các biện pháp tự vệ có thể không được áp dụng
đối với hàng hoá có xuất xứ từ các nước kém phát triển. Thời hạn áp dụng các
biện pháp tự vệ, bao gồm cả thời gian áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời, là
không quá 4 năm. Tuy nhiên, thời hạn này có thể được gia hạn một lần không
quá 6 năm tiếp theo, với điều kiện vẫn còn thiệt hại nghiêm trọng hoặc nguy
cơ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước và có các
bằng chứng chứng minh rằng ngành sản xuất hàng hóa tương tự đang thực
hiện điều chỉnh nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất
trong nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- De an phong ve thuong mai.pdf