Đề án Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay

Các DNNN có tăng thêm nguồn vốn của mình bằng cách kêu gọi đầu tư liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác trong ngành, trong nước, ngoài nước. Liên doanh hợp tác với các nhà cung cấp giúp doanh nghiệp giảm được chi phí lưu kho hàng hoá vật tư, chi phí bảo quản, tránh được tình trạng ép giá do độc quyền cung cấp từ đó doanh nghiệp có thể tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của doanh nghiệp, đơn vị mình. Ngoài ra, DNNN cũng có thể tiến hành phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn nhàn dỗi trong nhân dân. Tính đến nay một số DNNN đã phát hành trái phiếu ra công chúng với tổng khối lượng vốn khoảng vài trăm tỷ đồng để đầu tư cho một số dự án của doanh nghiệp được sự bảo lãnh của Bộ tài chính. Trên đây là một số phương thức huy động vốn mà các DNNN thường hay sử dụng. Ở mỗi một hình thức huy động đều có những thế mạnh riêng và cũng còn nhiều vấn đề còn phải nghiên cứu để hạn chế tính “bất cập” và với mỗi một DNNN khác nhau do điều kiện kinh doanh khác nhau mà sử dụng các phương thức huy động vốn cũng không giống nhau, nhưng phải đảm bảo cho nguồn vốn huy động vào phát huy được hiệu quả cao nhất. Thêm vào đó, khi đã có đủ vốn thì các DNNN phải có nghĩa vụ tổ chức quản lý và sử dụng nó có hiệu quả nhất. Để DNNN thực sự trở thành một thành phần kinh tế tiêu biểu đi đầu trong các thành phần kinh tế góp phần đưa đất nước ngày càng đi lên.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp tăng cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp nhà nước của nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn của doạnh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp, mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay nộp thuế và nhiều khoản khác đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục. Ngoài ra còn phải kể đến chi phí mua công nghệ và máy móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy, vốn đưa vào sản xuất kinh doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hoá, dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống các hàng hoá khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, nhưng nó lại có đặc điểm khác vì người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Cái giá của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và có thể sinh lời. Với doanh nghiệp, vốn là một trong nhứng điều kiện vật chất cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất tiêu thụ, suốt cả thời gian tồn tại của doanh nghiệp Quan niệm về vốn trong nền kinh tế thị trường đã được đúc kết lại như sau : “ vốn là toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình sản xuất tiếp theo của doanh nghiệp tạo ra giá trị thặng dư”. 1.1.2 Các nguồn vốn của doanh nghiệp và phương thức huy động Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác .Trong điều kiện kinh tế thị trường , các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp đượng đa dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nên kinh tế . Tuy nhiên , cần lưu ý rằng, trong hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam do thi trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có nhiều nét đặc trưng nhất định . Sự phát triển nhanh chóng và thị trường tài chính sẽ sớm tạo điều kiện để các doanh nghiệp mở rộng khả năng thu hút vốn vào kinh doanh. 1.1.2.1 Nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp Đối với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận. *Vốn góp ban đầu. Khi doanh nghiệp được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông –chủ sở hữu góp.Khi nói đến nguồi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bao giờ cũng phải xem xết hình thức sở hữu của doanh nghiệp đó ,vì hình thức sở hữu sẽ quyết định tính chất và hình thức tạo vốn của bản thân doanh nghiệp. Đối với DNNN,vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của Nhà nước . Chủ sở hữu của các DNNN là Nhà nước. Hiện nay cơ chế quản lý tài chính nói chung và quản lý vốn của doanh nghiệp Nhà nước nói riêng đang có những thay đổi để phù hợp với tình hình thực tế. *Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia Quy mô vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng, tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động sản xuất - kinh doanh nếu doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thì doanh nghiệp sẽ có những điều kiện thuận lợi để tăng trưởng nguồn vốn. Nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận không chia là bộ phận lợi nhuận được sử dụng để tái đầu tư, mở rộng sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia, nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn rất quan trọng và khá hấp dẫn của các doanh nghiệp, vì doanh nghiệp giảm được chi phí, giảm bớt sự phụ thuộc vào bên ngoài. Rất nhiều doanh nghiệp coi trọng lợi nhuận từ tái đầu tư để lại, họ đặt ra mục tiêu phải có khối lượng lợi nhuận để lại đủ lớn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng tăng. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận để lại chỉ có thể thực hiện được nếu doanh nghiệp đã và đang hoạt động có hiệu quả, được phép tiếp tục đầu tư. Đối với các DNNN thì việc tái đầu tư phụ thuộc không chỉ vào khả năng sinh lời của bản thân doanh nghiệp mà còn phụ thuộc vào chính sách khuyến khích tái đầu tư của Nhà nước. Tuy nhiên đối với các công ty cổ phần thì việc để lại lợi nhuận liên quan đến một số yếu tố rất nhạy cảm. Khi công ty để lại một phần lợi nhuận trong năm cho tái đầu tư, tức là không dùng số lợi nhuận đó để chia lãi cổ phần, các cổ đông không được nhận tiền lãi cổ phần (cổ tức) nhưng bù lại, họ có quyền sở hữu số vốn cổ phần tăng lên của công ty. Như vậy, giá trị ghi sổ của các cổ phiếu sẽ tăng lên cùng với việc tự tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ. Điều này một mặt, khuyến khích cổ đông giữ cổ phiếu lâu dài, nhưng mặt khác, dễ làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu trong thời kỳ trước mắt (ngắn hạn) do cổ đông chỉ nhận được một phần cổ tức nhỏ hơn. Nếu tỷ lệ chi trả cổ tức thấp, hoặc số lãi ròng không đủ hấp dẫn thì giá cổ phiếu có thể giảm sút. *Phát hành cổ phiếu Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới Một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng là phát hành cổ phiếu để huy động vốn cho doanh nghiệp. Phát hành cổ phiếu được gọi là hoạt động tài trợ dài hạn của doanh nghiệp. Chúng ta sẽ xem xét một số yếu tố cơ bản liên quan đến phát hành các loại cổ phiếu khác nhau. Có hai loại cổ phiếu được phát hành ** Cổ phiếu thường Là loại cổ phiếu thông dụng nhất vì nó có những ưu thế trong việc phát hành ra công chúng và trong quá trình lưu hành trên thị trường chứng khoán. cổ phiếu thường là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán, điều đó cũng đủ để chứng minh tầm quan trọng của nó so với các công cụ tài chính khác **Cổ phiếu ưu tiên Cổ phiếu ưu tiên chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số cổ phiếu được phát hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp, việc dùng cổ phiếu ưu tiên là cách thích hợp. Cổ phiếu ưu tiên có đặc điểm là nó có cổ tức cố định. Người chủ cổ phiếu này có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông thường. Nếu lãi chỉ đủ trả cổ tức cho các cổ đông ưu tiên thì các cổ đông thương sẽ không được nhận cổ tức của kỳ đó. 1.1.2.2 Nợ và các phương thức huy động nợ của doanh nghiệp Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất – kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ các nguồn : tín dụng ngân hàng, tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu. * Nguồn vốn tín dụng ngân hàng và tín dụng thương mại Có thể nói rằng vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân mỗi doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của mỗi doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào không vay vốn ngân hàng hoặc không sử dụng tín dụng thương mại nếu doanh nghiệp đó muốn tồn tại vững chắc trên thương trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là có đủ vốn đảm bảo cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Về mặt thời hạn vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay, bao gồm: vay dài hạn (thường tính từ 3 năm trở lên ), vay trung hạn ( từ 1 năm đến 3 năm) và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời hạn để phân loại trong thực tế không giống nhau giữa các nước và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại cho vay thành các loại như: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng có nhiều ưu điểm nhưng nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn Đối với doanh nghiệp tài trợ bằng nguồn vốn tín dụng thương mại là nguồn tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh, hơn nữa nó còn tạo khả năng mở rộng quan hệ hợp tác trong kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký kết hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Chi phí cho sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại thể hiện qua lãi suất của khoản vay, đó là chi phí lãi vay, sẽ được tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm, chi phí này có thể “ẩn” đưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc vào quan hệ thoả thuận cụ thể giữa các bên. trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới các hình thức tín dụng ngày càng được đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó, các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. *Phát hành trái phiếu công ty trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn, bao gồm: trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Trái phiếu còn được gọi là trái khoán. Việc lựa chọn trái phiếu thích hợp là rất quan trọng vì nó liên quan đến chi phí trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trước khi quyết định phát hành cần hiểu rõ đặc điểm ưu và nhược điểm của mỗi loại trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu doanh nghiệp như sau: - Trái phiếu có lãi suất cố định - Trái phiếu có lãi suất thay đổi - Trái phiếu có thể thu hồi - Chứng khoán có thể chuyển đổi 1.2 Tầm quan trọng của vốn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với mọi doanh nghiệp, dù thuộc bất kỳ thành phần nào, với bất kỳ quy mô nào thì vốn vẫn là điều kiên tiên quyết không thể thiếu được. Để doanh nghiệp tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vốn chính là tiền đề là cơ sở cho sự mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Vốn quyết định mức độ trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng các thành tựu khoa học vào sản xuất kinh doanh, quyết định khả năng đổi mới máy móc thiết bị, quy trình công nghệ, phương pháp quản lý mới trong doanh nghiệp. Theo đó doanh nghiệp có thể liên tục đổi mới, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm, tăng năng suất lao động. Việc đảm bảo đủ nguồn vốn sẽ giúp doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất một cách thường xuyên và liên tục, doanh nghiệp có thể chớp được thời cơ kinh doanh và lợi thế trong cạnh tranh. Vốn được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn phải có sẵn trước khi hoạt động này phát sinh. Đó chính là khoản vốn mà doanh nghiệp phải ứng trước cho quá trình sản xuất kinh doanh. Về nguyên tắc: sau một chu kỳ kinh doanh, vốn phải được thu hồi để tiếp tục chu kỳ sản xuất kinh doanh khác, nếu không doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn có khi dẫn tới phá sản… vì vậy, doanh nghiệp phải có biện pháp quản lý vốn sao cho hiệu quả cao đảm bảo luôn đủ vốn đầu tư đúng lúc, đúng chỗ cho sản xuất kinh doanh. Tóm lại, doanh nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp của mình. Chương II Biện pháp tăng, cường khai thác các nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh của các Doanh nghiệp Nhà nước 2.1 Thực trạng vốn tại các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với bất kỳ loại doanh nghiệp nào, dù là DNNN hay doanh nghiệp tư nhân, sự tồn tại và phát triển của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động tài chính của bản thân chúng, hay nói cách khác, sự sống còn của mỗi doanh nghiệp đều phụ thuộc vào hiệu quả của việc huy động và sử dụng vốn. Hiện nay, DNNN năng lực quá yếu, quy mô vốn còn rất nhỏ bé. Điều này làm doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, khả năng thanh toán kém, dễ gặp rủi ro. Tính đến tháng 5 năm 2001 vốn chủ sở hữu bình quân mỗi DNNN ước khoảng 22 tỷ đồng. Trong đó, số DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm 59.8% ( số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18.2%); số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng chiếm 15.2% ; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm 25% . Các tổng công ty 90, 91 là những DNNN có mức vốn cao nhất hiện nay, nhưng vẫn là thấp so với các doanh nghiệp trên thế giới. Năm 2000 vốn bình quân của một công ty 91 khoảng 3885 tỷ đồng, nếu tính theo tỷ giá 15000 đ/USD thì nó vào khoảng 259 triệu USD ( trong đó có 5 tổng công ty có mức vốn dưới 1000 tỷ đồng là Công nghiệp tàu thuỷ; cà phê; Lương thực miền Nam; Lương thực miên Bắc; Thuốc lá). Vốn bình quân của một tổng công ty 90 khoảng 284 tỷ đồng, nếu tính theo tỷ gía 15000đ/USD thì vốn bình quân đó khoảng 18.9 triệu USD. Trong khi đó nếu so với các công ty nhỏ ( 6 đến 50 lao động) ở các nước công nghiệp phát triển hiện nay đang có số vốn từ 3 đến 50 triệu USD ( nếu tính theo tỷ giá 15000đ/USD thì số vốn đó là 45 tỷ đồng đến 750 tỷ đồng), còn công ty có từ 200-500 lao động của họ có vốn hàng trăm triệu USD, các tập đoàn xuyên quốc gia và các công ty lớn trên thế giới thì có số vốn lên tới hàng chục, trăm tỷ USD . Như vậy, trong thời gian tới khi Việt Nam hội nhập sâu vào kinh tế khu vực và thế giới thì doanh nghiệp Việt Nam sẽ bị bất lợi so với các doanh nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển về mặt tài chính. Đây là mối đe doạ đối với các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam. 2.2 Các phương thức huy động vốn của DNNN Trên cơ sở phân tích thực trạng về tình hình vốn trong các DNNN hiện nay, vấn đề đặt ra cần phải giải quyết là các DNNN cần phải bổ sung và huy động vốn để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp mình như thế nào? Dưới đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để huy động vốn trong các DNNN ở nước ta hiện nay. 2.2.1 Nguồn vốn huy động từ ngân sách Nhà nước Bất cứ doanh nghiệp nào khi thành lập phải có vốn điều lệ. Về nguyên tắc, số vốn theo điều lệ phải lớn hơn hoặc bằng tổng mức vốn pháp định mà Nhà nước dã quy định cho các ngành nghề. Vì thế, ngay từ khi có quyết định thành lập, DNNN phải được Nhà nước cấp vốn điều lệ theo đúng điều lệ thành lập DNNN ( không trễ hơn 30 ngày kể từ ngày có quyết định thành lập) Vốn cấp có thể bằng tiền hoặc bằng quyền sử dụng đất, bằng các tài sản hữu hình, vô hình khác được đánh giá theo thời giá nhằm đảm bảo cho DNNN có thể sản xuất kinh doanh bình thường và phải cạnh tranh được trên thị trường. Trong quá trình kinh doanh, nếu thiếu vốn, doanh nghiệp nhà nước phải tự xoay sở trên thị trường vốn, nhà nước không cấp thêm. Tuy nhiên, việc cấp phát vốn của nhà nước cho các DNNN đã phạm phải một số hạn chế nhất định Thứ nhất là cơ chế cấp vốn từ ngân sách nhà nước cho DNNN trong thời gian qua ở Việt Nam, cơ chế này có nhiều nhược điểm. Đó là cấp theo lối bình quân, chia đều cho mọi doanh nghiệp trong đó có nhiều doanh nghiệp không đáng được cấp. Mặt khác, do vốn ngân sách có hạn và không phải lúc nào cũng có sẵn, nên việc cấp cho doanh nghiệp nào trước, doanh nghiệp nào sau và cấp cho doanh nghiệp nào đủ mức quy định, doanh nghiệp nào không đủ mức quy định là vấn đề nan giải, vừa tạo khe hở lớn cho các hành vi tiêu cực cho cả hai phía cán bộ cấp phát và doanh nghiệp. Nhược điểm khác nữa, đó là Nhà nước chưa xác định đúng đội tượng các doanh nghiệp cần được ngân sách cấp. Thực tế, cơ chế cấp vốn của ngân sách cho các doanh nghiệp rất lỏng lẻo nhiều khi còn đồng nghĩa với “cho không”. điều này thể hiện ở cơ chế “cho vốn, xin vốn”. Vốn đầu tư đi từ ngân sách nhà nước và trở về nơi xuất phát với khối lượng ít hơn, thậm chí như không trở về đối với các doanh nghiệp thuộc các ngành kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội. Trong suốt thời kỳ bao cấp tình trạng “lãi giả, lỗ thật” của các doanh nghiệp là phổ biến. Thứ hai là thực chất từ nhu cầu vốn của DNNN hiện nay. DNNN có thiếu vốn không? Đây là vấn đề rất phức tạp cần được xem xét thận trọng để phân biệt doanh nghiệp nào thiếu vốn thực sự, doanh nghiệp nào “cố tình” thiếu vốn? Từ thực tế trên, đòi hỏi cần đưa ra một cơ chế cấp vốn cho DNNN một cách hợp lý hơn. Em xin nêu ra đề xuất của kỹ sư Phạm Tuân – Tổng giám đốc tổng công ty xây dựng công trình giao thông 5 về giải pháp cải tiến cơ chế cấp vốn cho DNNN đã được đánh giá là có tính khả thi. Theo đề xuất, Chính phủ không cấp vốn tản mạn cho DNNN mà khẩn trương dồn vốn cho bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh. Sau đó, các ngân hàng này cấp cho các DNNN với lãi xuất bằng tỷ lệ thu sư dụng vốn ngân sách trước đây cộng với phí ngân hàng. Số vốn ngân hàng cho DNNN vay ưu đãi cũng bằng cấp vốn của bộ tài chính và các bộ liên quan cho DNNN. Điều này sẽ buộc các DNNN phải tính toán, quản lý và sử dụng đồng vốn vay có hiệu quả nhất. Vốn Nhà nước không những có điều kiện được bảo toàn mà hiệu quả kinh doanh của DNNN sẽ được nâng lên. Đồng thời, khi ngân hàng có vốn chủ sở hữu lớn, các Ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ có khả năng bảo lãnh hoặc cho các DNNN vay các hợp đồng kinh tế, mọi dự án khả thi được các cấp có thẩm quyền phê duyệt không làm lỡ cơ hội kinh doanh của các DNNN như trước đây Bên cạnh đó, thực hiện phương thức đầu tư và quản lý vốn tại doanh nghiệp thông qua Công ty đầu tư tài chính Nhà nước cũng là một giải pháp hay. Công ty đầu tư tài chính nhà nước là một tổ chức tài chính của Nhà nước có chức năng kinh doanh vốn của Nhà nước qua phương thức đầu tư vốn vào doanh nghiệp, nhằm mục đích: chuyển từ cơ chế nhà nước cấp vốn sang cơ chế Nhà nước đầu tư vốn vào doanh nghiệp ; xác lập rõ quyền sở hữu về vốn của nhà nước và quyền sử dụng vốn của DNNN; chuyển phương thức quản lý tài chính mang tính chất hành chính đối với doanh nghiệp có vốn Nhà nước sang phương thức kinh doanh vốn theo cơ chế thị trường góp phần thực hiện nhanh quá trình công ty hoá DNNN và xoá bỏ cơ chế chủ quan, cơ quan hành chính cấp trên trực tiếp. Công ty đầu tư tài chính nhà nước có nhiệm vụ thực hiện quyền chủ sở hữu về vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, thông qua đó điều chỉnh cơ cấu vốn nhà nước theo mục tiêu quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kin doanh và sử dụng vốn của khu vực DNNN. 2.2.2 Huy động vốn thông qua hệ thống ngân hàng Sau khi sử dụng hết nguốn chủ sở hữu, khi nhu cầu vốn tăng, DNNN được phép huy động tận dụng các nguồn vốn bên ngoài theo nguyên tắc có hoàn trả dưới hình thức tín dụng hoặc chiếm dụng hợp pháp. Tuyệt đối không phát hành cổ phiếu ra đại chúng. Điều đó có nghĩa là khi DNNN thiếu vốn thì có thể vay ở ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Thực hiện nghị định số 49/CP ngày 6 tháng 5 năm 1997 của Chính phủ, các Ngân hàng thương mại quốc doanh đã cho DNNN vay vốn mà không phải thế chấp tài sản. sau một thời gian dài ( từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 4 năm 2000) được vay vốn tại các ngân hàng thương mại quốc doanh với những điều kiện ưu đãi, các DNNN vẫn không sử dụng vốn có hiệu quả và không phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhiều DNNN hoạt động kinh doanh không có hiệu quả (hoà vốn hoặc thua lỗ), nên khi nợ đến hạn, doanh nghiệp đã không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Sự ưu đãi về vay vốn của DNNN tại các ngân hàng thương mại quốc doanh còn thể hiện ở chỗ: trong trường hợp DNNN còn nợ quá hạn và hoạt động kinh doanh thua lỗ những khoản nợ quá hạn chưa được xử lý, thì ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn cho doanh nghiệp vay vốn tiếp, nếu doanh nghiệp có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ (đối với doanh nghiệp Trung ương) hoăc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ( đối với doanh nghiệp địa phương ) chấp thuận. Lợi dụng quy định trên một số DNNN đã “tô màu” phương án kinh doanh để được tiếp tục vay vốn, cho dù nợ cũ chưa trả hết và hoạt động kinh doanh không có lãi. Hậu quả là sự thua lỗ của một số DNNN trong những năm trước đây không những dẫn đến phải giải thể, pha sản hoặc chuyển đổi sang các hình thức kinh doanh khác ( khoán, cho thuê, cổ phần hoá) mà còn ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của các ngân hàng thương mại quốc doanh do không thu hồi được vốn cho vay. Rút kinh nghiệm từ thực tiễn và để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong quan hệ vay vốn với ngân hàng, ngày 29 tháng 12 năm 1999 Chính phủ đã ban hành nghị định số 178/1999/NĐ-CP về đảm bảo tiền vay cho các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng có quyền lựa chọn, quyết định cho vay đảm bảo bằng tài sản và chịu trách nhiệm trước quyết định của mình. Vì vậy, việc vay vốn không phải thế chấp tài sản là một quyết định chủ quan của ngành ngân hàng nữa mà là quy định của luật các tổ chức tín dụng và nghị định số 178 nói trên của Chinh phủ. Do đó, các DNNN cũng như các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác phải có đủ những điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mới được vay vốn ngân hàng chứ không được vay vốn theo điều kiện ưu đãi (không phải thế chấp tài sản) như trước đây. Quy định mới của Chính phủ đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp nhà nước tiếp cận vay vốn ngân hàng. Khó khăn thứ nhất là : DNNN không đủ điều kiện để vay thế chấp Đối với doanh nghiệp được vay vốn không có đảm bảo bằng tài sản thì doanh nghiệp phải đáp ứng được điều kiện sau : có tín nhiệm với tổ chưc tín dụng cho vay trong việc sử dụng vốn vay và trả nợ đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi; có kết quả sản xuất kinh doanh có lãi trong hai năm liền kề. Nếu xét theo những điều kiện này thì phần lớn các DNNN không được vay vốn ngân hàng bằng tín chấp, vì trong thời gian qua đa số các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động kinh doanh không có lãi và thường có dư nợ quá hạn tại các NHTM nhà nước. Bên cạnh những khó khăn về việc vay vốn không có bảo đảm bằng tài sản thì các quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp thường bị các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự hoá nếu khách hàng vay không trả được nợ đến hạn và những người đứng đầu doanh nghiệp ( giám đốc, phó giám đốc và kế toán trưởng..) bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, mặc dù nhiều Doanh nghiệp Nhà nước vẫn đang thiếu vốn để phát triển sản xuất kinh doanh và ngân hàng đang tồn đọng vốn huy động nhưng các lãnh đạo ngân hàng không dám mạo hiểm giải quyết cho DNNN vay vốn. Khi các doanh nghiệp này không đủ điều kiện được vay vốn bằng tín chấp và không có tài sản bảo đảm. Trong khí số lượng các DNNN có đủ điều kiện được vay vốn ngân hàng không có bảo đảm là rất ít. Chính vì vậy mà tài sản bảo đảm được coi như một điều kiện tiên quyết để ngân hàng xem xét, quyết định cho vay vốn đối với các DNNN. Thứ hai là thiếu cơ sở pháp lý về việc xác nhận tài sản của DNNN được thế chấp cầm cố. Trước đây, việc thế chấp cầm cố tài sản của DNNN để vay vốn ngân hàng được thực hiện theo thông tư liên bộ số 01/TT-LB ngày 3 tháng 7 năm 1996 của NHNN, Bộ tư pháp, Bộ tài chính. Theo thông tư này, thì khi thế chấp, cầm cố tài sản để vay vốn ngân hàng, DNNN lập danh mục các tài sản để thế chấp cầm cố theo mẫu quy định để được cơ quan có thẩm quyền xác nhận. Trên cơ sở xác nhận của cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, doanh nghiệp nhà nước mới được dùng một và / hoặc nhiều tài sản trong số danh mục tài sản đã được xác nhận để thế chấp, cầm cố vay vốn ngân hàng và cơ quan công chứng mới có cơ sở xem xét, chứng nhận hợp đồng thế chấp. Nhưng kể từ ngày 19 tháng 4 năm 2000 , thông tư số 26/2000/TT/NHNN1 ngày 4/4/2000 của NHNN có hiệu lực thi hành và thay thế Thông tư liên bộ số 01 nói trên, nên DNNN thiếu những cơ sở pháp lý cần thiết để làm thủ tục thế chấp tài sản vây vốn ngân hàng. Thực tế, khi ngân hàng và DNNN yêu cầu cơ quan công chứng nhận hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản thì không cơ quan công chứng nào công chứng hợp đồng thế chấp theo yêu cầu của các bên vì tài sản Nhà nước được dùng để thế chấp cầm cố chưa có sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan ra quyết định thành lấp doanh nghiệp. Hiện nay, mặc dù nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8 tháng 12 năm 2000 của Chính phủ đã cho phép các bên được thoả thuận việc công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản chứ không quy định bắt buộc như trước đây nữa, nhưng các ngân hàng vẫn đề nghị khách hàng vay phối hợp với mình để làm thủ tục công chứng, chứng thực hợp đồng thế chấp, cầm cố tài sản. Trước những bức xúc về vốn vay của các DNNN và vốn còn tồn đọng tại các NHTM , ngày 20/9/2001 vừa qua, Bộ tư pháp dă chủ trì một cuộc họp có sự tham dự của các cơ quan liên quan để bàn bạc, tháo gỡ những vướng mắc về thế chấp, cầm cố tài sản của DNNN nói trên. Sau khi trao đổi và lắng nghe ý kiến đề xuất giải quyết của từng người, ông Hà Hùng Cường thứ trưởng bộ tư pháp đã thống nhất ý kiến với đại diện các Bộ, cơ quan ngang Bộ như sau : kiến nghị lên Chính phủ sửa đổi bổ sung Nghị đinh số 59 và Nghị định số 27 nói trên cho phù hợp với quy định của Luật doanh nghiệp Nhà nước. Trên cơ sở đó, đề nghị chính phủ giao cho các cơ quan quản lý ngành kinh tế- kỹ thuật ban hành các văn bản hướng dẫn về cách xác định thiết bị, nhà xưởng quan trọng; đồng thời phân cấp cho các cơ quan có thẩm quyền của Chính phủ hoặc của Bộ quản lý chuyên ngành, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố xem xét, giải quyết khi DNNN xin thuê, thế chấp, cầm cố tài sản để vay vốn ngân hàng. Thứ ba: Không công chứng hợp đồng thế chấp tài sản gắn liền với đất và quyền sủ dụng đất. Hiện nay, trong số tài sản thế chấp, cầm cố còn tồn đọng chưa được xử lý tại các NHTM thì có đến 70 đến 85% tổng số giá trị tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và gắn liền với đất. Do đó, nếu giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của DNNN hội đủ các điều kiện về tài sản thế chấp để đảm bảo vay vốn ngân hàng thì các DNNN sẽ không còn lo thiếu vốn để sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, ngoài những khó khăn chung nói trên thì việc DNNN dùng tài sản gắn liền với đất và quyền sử dụng đất để vay vốn ngân hàng gặp không ít vướng mắc, đặc biệt là sự bất cập của các văn bản pháp luật liên quan so với thực tế. Một là không có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và quyền sử dụng đất. Trong những năm trước đây khi thành lập DNNN, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chỉ ra một văn bản, trong đó nêu rõ số vốn và các loại tài sản giao doanh nghiệp quản lý, sư dụng để hoạt động kinh doanh. Nhưng tài sản được giao có giá trị lớn là nhà xưởng, máy móc thiết bị và giá trị quyền sử dụng đất. Tuy được quản lý và sử dụng các loại tài sản này nhưng DNNN lại không được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Chỉ có những DNNN được thành lập trong những năm gần đây mới được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi được giao vốn và tài sản. Do đó, số DNNN có đủ giấy tờ về sở hữu tài sản và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không nhiều. Cho nên, ngân hàng cũng chỉ xem xét và giải quyết cho vay đối với một số ít DNNN có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy chững nhận quyền sở hữu tài sản thế chấp. Đối với DNNN chưa có giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì doanh nghiệp không thể thế chấp những tài sản này để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ đối với ngân hàng. Để tháo gỡ những vướng mắc trên ngày 22 tháng 11 năm 2000 liên Bộ NHNN, Bộ tư pháp , Bộ Tài Chính, Tổng cục địa chính đã ban hành thông tư liên tịch số 12/2000/TTLT-NHNN-BTP-BTC- TCĐC hướng dẫn thực hiện một số giải pháp về đảm bảo tiền vay nhằm giải quyết cho DNNN cầm cố tài sản vay vốn ngân hàng. Căn cứ vào thông tư liên tịch số 12 này, nếu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cùng với hợp đồng cho thuê đất và chứng từ nộp tiền thuê đất thì DNNN vẫn được thế chấp quyền sử dụng đất của mình. Sau khi hoàn thành thủ tục thế chấp quyền sử dụng đất doanh nghiệp phải gửi hồ sơ cho Sở địa chinh hoặc sở địa chính- nhà đất nơi có thể cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hai là không công chứng được hợp đồng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Nghị định 178 nói trên của chính phủ quy định khi thế chấp tài sản gắn liền với đất, khách hàng vay phải thế chấp quyền sử dụng đất cùng với tài sản đó. Do vậy, DNNN không thể thế chấp quyền sử dụng đất tách rời với tài sản gắn liền với đất để đảm bảo vốn vay ngân hàng. Tuy nhiên, khi các bên yêu cầu cơ quan công chứng chứng nhận hợp đồng thế chấp, thì công chứng viên không chứng nhận hợp đồng thế chấp tài sản bao gồm cả giá trị quyến sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, mà chỉ chứng nhận hợp đồng thế chấp không phải là giá trị quyền sử dụng đất. Bởi vì theo quy định của nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 1999 của chính phủ thì cơ quan có thẩm quyền chứng nhận hợp đồng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế là Sở địa chính hoặc Sở địa chính- nhà đất. Sau khi có xác nhận thì bên nhận thế chấp và bên thế chấp mới được ký hợp đồng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất. Do vậy, nếu công chứng viên chứng nhận hợp đồng thế chấp thì công chứng viên đã hoạt động sang sân của Sở địa chính hoặc Sở địa chính nhà đất vi phạm quy định của Nghị định số 17 nói trên. Từ những vướng mắc thực tiễn đó, các chuyên gia ngân hàng cho rằng Tổng cục địa chính cần sớm lấy ý kiến của các Bộ và cơ quan hưũ quan để kiến nghị chính phủ sửa đổi Nghị định số 17/1999/NĐ-CP ngày 29 tháng 3 năm 1999 theo hướng cơ quan địa chính không xác nhận hợp đồng thế chấp giá trị quyền sử dụng đất nữa mà giao cho các phòng công chứng Nhà nước chứng nhận như các giao dịch khác. 2.2.3 Phát hành cổ phiếu Một doanh nghiệp Nhà nước đơn thuần thì tuyệt đối không được phát hành cổ phiếu ra đại chúng. Muốn được phát hành cổ phiếu DNNN phải tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp của mình. Từ khi bắt đầu triển khai chủ trương cổ phần hoá vào năm 1992 cho đến 31/12/2001 cả nước đã có 773 DNNN và bộ phận DNNN được cổ phần. Nếu như trong 7 năm ( từ 1992 đến tháng 6 năm 1998) cả nước mới cổ phần hoá được 30 doanh nghiệp thì chỉ riêng tháng 6 cuối năm 1998 đã cổ phần hoá thành công 87 doanh nghiệp, năm 1999 hoàn thành cổ hoá294 doanh nghiệp, năm 2000 hoàn thành cổ phần hoá 212 doanh nghiệp và trong năm 2001 sẽ có 195 DNNN chuyển thành công ty cổ phần giảm so với các năm 1999 và 2000. Trong số 733 công ty hiện có 100 đáp ứng tiêu chí về vốn và chỉ có hơn 40 công ty đáp ứng tiêu chí niêm yết trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và trong số này có 15 công ty đã đăng ký niêm yết. Có thể nói cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước và Thị trường chứng khoán là hai yếu tố quan trọng của việc hình thành và phát triển thị trường vốn dài hạn Tuy nhiên, nếu xem xét kết quả huy động của Thị trường chứng khoán ở hai khía cạnh huy động vốn và đầu tư, sử dụng vốn của các doanh nghiệp thì còn rất nhiều hạn chế. - Về huy động vốn : thị trường chứng khoán chủ yếu mới thực hiện được chức năng thanh khoản cho các chứng khoán của các DNNN đã cổ phần hoá mà chưa thực sự trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Mặc dù đến nay đã có gần 1000 DNNN được cổ phần hoá hoặc chuyển đổi sở hữu song mới có 19 công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết trên thị trường với tổng giá trị vốn điều lệ là 1016 tỷ đồng. Đáng lưu ý là đến nay mới có 2 công ty cổ phần giấy Hải Phòng và Cơ điện lạnh phát hành thêm cổ phiếu mới để huy động vốn cho các dự án đầu tư hoặc bổ sung vốn điều lệ với số vốn là 107 tỷ đồng. Mặt khác, quy mô giao dịch của thị trường còn nhỏ bé, tổng giá trị thị trường bình quân một phiên giao dịch chỉ 5.2 tỷ đồng; hàng hoá trên thị trường cũng chưa phong phú, đa dạng ( mới chỉ có 2 loại là cổ phiếu và trái phiếu, trong đó cổ phiếu chiếm tới 94.9 % ). _ Về đầu tư tài chính: hoạt động đầu tư chứng khoán của các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cũng rất hạn chế. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đều có quy mô nhỏ, thiếu vốn kinh doanh nên không có khả năng tham gia thị trường. Theo số liệu kiểm kê ở thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2000 thì có đến 78% DNNN là doanh nghiệp vay vốn ( có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người), trong số đó DNNN có số vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 63.15%. Các doanh nghiệp quốc doanh hầu hết có quy mô nhỏ, theo số liệu của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thì số doanh nghiệp sử dụng dưới 200 lao động chiếm đến 97.77 %, số doanh nghiệp có vốn thực tế dưới 1 tỷ đồng chiếm 94.93 %, bình quân vốn thực tế sử dụng của một doanh nghiệp chỉ là 3.7 tỷ đồng. Một số ít doanh nghiệp ( khoảng 20 % DNNN) kinh doanh có hiệu quả, có vốn nhàn rỗi có thể sử dụng để đầu tư kiếm lời song do đầu tư chứng khoàn là một lĩnh vực đầu tư mạo hiểm , độ rủi ro lớn và còn mới mẻ nên nhiều doanh nghiệp cũng không mạnh dạn tham gia thị trường. Điều này lý giải vì sao trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện tại chủ yếu là các nhà đẩu tư cá nhân, còn rất ít các nhà đầu tư chuyên nghiệp có tổ chức, đầu tư với quy mô lớn và dài hạn ( trong số gần 12 nghìn tài khoản giao dịch của khách hàng được mở tại công ty chứng khoán tính đến tháng 7 năm 2002, chỉ có 91 nhà đầu tư có tổ chức và 33 nhà đầu tư nước ngoài) Việc các doanh nghiệp trong thời gian qua chưa mạnh dạn tham gia TTCK để huy động vốn hoặc đầu tư vốn có nhiều nguyên nhân. có thể nêu ra những nguyên nhân chủ yếu như : sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán ở Việt Nam vẫn là vấn đề mới mẻ đối với nhiều doanh nghiệp khi chuyển từ mô hình kinh tê kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường; môi trường pháp lý cho hoạt động cuả thị trường chứng khoán còn chưa đầy đủ, đồng bộ ; khả năng hấp thụ vốn của các doanh nghiệp cũng còn rất hạn chế, nhiều doanh nghiệp chưa có chiên lược đầu tư hoặc huy động vốn đầu tư dài hạn thông qua TTCK ; mặt khác, các yếu tố để đảm bảo cho sự vận hành an toàn,công bằng, minh bạch và có hiệu quả của thị trường như quy chế về công khai thông tin, cơ chế quản lý, giám sát hoạt động của thị trường còn nhiều bất cập… nên chưa tạo được lòng tin cho giới đầu tư chứng khoán. Cơ cấu tổ chức của TTCK cũng chưa được hình thành đồng bộ : giao dịch chứng khoán chủ yếu là trên thị trường thứ cấp ( thị trường mua đi bán lại các chứng khoán), thị trường sơ cấp ( thị trường phát hành) còn kém phát triển nên đã hạn chế khả năng huy động vốn đầu tư của các doanh nghiệp ; thị trường phi tập trung cũng chưa có để giao dịch, mua bán các chứng khoán của các doanh nghiệp chưa đủ các điều kiện được niêm yết trên thị trường… những điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tham gia TTCK của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vay vốn trên cả hai khía cạnh huy động vốn và đầu tư vốn. * Giải pháp khuyến kích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn tham gia TTCK Mục tiêu tổng quát cho sự phát triển của TTCK Việt Nam từ nay đến năm 2010 là : Tiếp tục ổn định và phát triển TTCK, góp phần phát triển thị trường tài chính Việt Nam; tiếp tục đẩy mạnh việc huy động vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế, đồng thời thúc đẩy quá trình cổ phần hoá DNNN ; nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của thị trường, hạn chế tối đa các ảnh hưởng tiêu cực, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, thúc đẩy qua trình tự do hoá tài chính và hội nhập thị trường tài chính quốc tế. Để thực hiện được mục tiêu trên, việc khuyến khích và tạo điều kiên thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vay vốn nói riêng tham gia hoạt động trên TTCK có ý nghĩa quan trọng đặc biệt quan trọng, bởi vì nó tác động đồng thời đến việc tăng cung và kích cầu chứng khoán trên thị trường. Từ góc độ tài chính, có thể nêu ra các giải pháp chủ yếu sau đây: ** Tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai các giải pháp tài chính thúc đẩy quá trình cổ phần hoá và chuyển đổi sở hữu các DNNN. Tính đến ngày 31/7/2002 đã có gần 1000 DNNN được cổ phần hoá và chuyển đổi hình thức sở hữu. Tuy nhiên, tình hình cổ phần hoá từ năm 2000 trở lại đây có xu hướng chậm lại ( năm 2001 chỉ bằng 93% so vơí năm 2000 và bằng 80% so với năm 1999). Vì vậy để thúc đẩy cổ phần hoá và chuỷên đổ sở hưu DNNN, mới đây Chính phủ đã ban hành nghị định 64/CP ( thay thế nghị định 44/CP) về cổ phần hoá DNNN ; Nghị định 49/CP về bổ sung sửa đổi Nghị định 103/CP về giao bán, khoán kinh doanh và cho thuê DNNN ; Nghị định 41/CP về chính sách đối với lao động dôi dư sắp xếp lại các DNNN… nhằm tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá hay sắp xếp lại các DNNN. Với các nghị định này, Nhà nước đã tạo cơ sở pháp lý mới theo hướng nới rộng chính sách ưu đãi, đơn giản các thủ tục để các DNNN giải quyết khó khăn, vướng mắc trong cổ phần hoá và giao bán khoán kinh doanh và cho thuê doanh nghiệp : bổ sung các quy định để xử các tồn tại về mặt tài chính trước khi cổ phần hoá; không bắt buộc doanh nghiệp cổ phần hoá phải sử dụng hết số lao động hiện có, số lao động dôi dư sẽ được hưởng chính sách đãi ngộ từ quỹ hỗ trợ lao động dôi dư của Chính phủ; mở rộng quyền mua cổ phần lần đầu của các nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư nước ngoài và bỏ mức khống chế về tổng giá trị cổ phần giành bán ưu đãi cho ngươì lao động theo tỷ lệ phần trăm vốn Nhà nước tại doanh nghiệp; quy định bắt buộc các doanh nghiệp cổ phần hoá phải giành 30% số cổ phiếu còn lại sau khi giành bán ưu đãi để bán ra ngoài doanh nghiệp; sửa đổi bổ sung phương pháp định giá doanh nghiệp; điều chỉnh và bổ sung một số quy định ưu đãi về thuế theo quy định của luật khuyến khích đầu tư trong nước, về quyến sử dụng đất theo quy định của luật đất đai… Vì vậy, trước mắt các doanh nghiệp cần đẩy mạnh việc triển khai thực hiện các chính sách mới vừa được ban hành. Trong quá trình thực hiện những điểm nào chưa phù hợp Nhà nước sẽ tiếp tục xem xét sửa đổi. ** Tiếp tục hoàn thiện các chính sách, cơ chế tài chính hỗ trợ và tạo điều kiện cho các trung gian tài chính, cá nhân khi tham gia TTCK. Theo quyết đinh số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27 tháng 3 năm 2000 của TTg về quy định tạm thời đối với các hoạt động kinh doanh chứng khoán của các công ty chứng khoán, Nhà nước tạm thời thu thuế giá tri gia tăng đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong thời hạn 3 năm (đến hết ngày 31/12/2002). Về thuế thu nhập doanh nghiệp, thì đối với các công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ, ngoài việc được hưởng các ưu đãi về thuế phù hợp với quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp hiên hành còn được miễm thuế thu nhập thêm 1 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ nộp trong 2 năm tiếp theo kể từ khi niêm yết chứng khoán lần đậu. Nếu năm miễn thuế theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp trùng với năm miễn thuế theo quyết định trên của Chính phủ thì được kéo dài thêm 1 năm. Nếu trong năm vừa được giảm 50% theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp vừa được giảm 50% thuế thu nhập theo quyết định 39/2000/TTg thì được xác định là một năm tính thuế. Ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp được tính từ khi có thu nhập chịu thuế. Các cá nhân đầu tư chứng khóan được miễn thuế thu nhập cá nhân đối với cổ tức, lãi và chênh lệch mua bán chứng khoán. ** Thực hiện các chính sách tài chính hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn khi tham gia TTCK Các chính sách, biện pháp tài chính thực hiện theo hướng này có thể là: - Nới lỏng các điều kiện tham gia TTCK đối với các doanh nghiệp vay vốn. Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK quy định các doanh nghiệp muốn đựoc niêm yết hoặc phát hành chứng khoán trên thị trường phải đủ các điều kiện như: Có vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng; hoạt động kinh doanh có lãi tối thiểu là trong 2 năm gần nhất; có tối thiểu là 20%vốn cổ phần được bán cho trên 100 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành (nếu phát hành trên 100 tỷ thì tỷ lệ này là 15%); các cổ đông sáng lập phải nắm giữ tối thiểu 20% vón cổ phần trông thời gian tối thiểu 3 năm; nếu phát hành trên 10 tỷ đồng phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. Hiện tại số DNNN cổ phần hoá có vốn Nhà nước dưới 10 tỷ đồng chiếm 94.3%, còn chiếm trên 10 tỷ chỉ chiếm 5.7%. nếu các tiêu chí trên thì các doanh nghiệp vay vốn đều không đủ điều kiện để được niêm yết cổ phiếu trên thị trường. Vì vậy để khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn tham gia TTCK, trong trường hợp hình thành thị trương chứng khoán bảng II, cần nới lỏng các điều kiện tham gia thj trường với các điều kiện đối với các doanh nghiệp này. các điều kiện cơ bản có thể là: có vốn điều lệ tối thiểu từ 10-15 tỷ đồng (hiện tại có khoảng 130 doanh nghiệp loại này); hoạt động kinh doanh có lãi tối thiểu từ 1-2 năm;có 10% vốn cổ phần phát hành ra công chúng. Về lâu dài, cần hình thành thị trường chứng khoán phi tập trung(OTC) để đáp ứng nhu cầu giao dịch đối với cổ phiếu chưa niêm yết của các doanh nghiệp nằm tạo ra sự sôi động của thị trường. - Giảm cả chi phí giao dịch, đa dạng hoá các phương thức giao dịch trên thị trên thị trường để các nhà đầu tư có thể tiếp cận thị trường nhanh chóng, dễ dàng. Quyết dịnh 127/1999/ QĐ-BTC của Bộ tài chính ngày 22/10/1999 đã quy định mức thu phí, lệ phí đối với các hoạt động của TTCK. để phù hợp với việc cải cách thể chế hành chính và phù hợp với các quy định của Luật doanh nghiệp cần rà soát lại các loại phí, lệ phí áp dụng đối với các hoạt động kinh doanh và hành nghề chứng khoán. do số lượng giao dịch trên TTCK hiện tại còn ít, cần xem xét xoá bỏ hoặc điều chỉnh lại các quy định về phí, lệ phí để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia TTCK. Đối với các loại phí nên quyđịnh mức trần đối với từng loại dịch vụ để các chủ thể cung cấp dịch vụ cạnh tranh với nhau về chất lượng dịch vụ cung cấp với giá cả hợp lý. - Có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình doanh nghiệp tham gia vào TTCK Khuyến kích cổ phần hoá một số doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và đưa cổ phiếu ra niêm yết để tăng số lượng và tính hấp dẫn của hàng hoá chứng khoán trên thị trường; hỗ trợ DNNN cổ phần hoá thông qua quỹ hỗ trợ cổ phần hoá DNNN, Quỹ hỗ trợ lao động dôi dư, thành lập công ty mua bán nợ và tài sản của doanh nghiệp để giải quyết công nợ tại các DNNN. Khuyến khích các Công ty bảo hiểm tham gia TTCK để tăng cường yếu tố đầu tư dài hạn nhằm mục đích đầu cơ. Khuyến khích sự ra đời của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp như các quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ tín thác đầu tư, quỹ hưu trí… nhằm đa dạng hoá đầu tư chứng khoán và giảm thiểu rủi ro cho các cá nhân đầu tư - Khuyến khích việc thành lập các doanh nghiệp mới các doanh nghiệp theo hình thức Công ty cổ phần. Về lâu dài chứng khoán thuộc Công ty cổ phần thuộc thành phần kinh tế tư nhân sẽ đóng vai trò chủ yếu trên thị trường. Hiện tại phần lớn doanh nghiệp vay vốn thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam đều được tổ chức theo hình thức Công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc doanh nghiệp tư nhân. Theo pháp luật hiện hành, các doanh nghiệp này không được phép phát hành chứng khoán để huy động vốn mà chỉ có công ty cổ phần mới đủ các điều kiện pháp lý để phát hành. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành lập các Công ty cổ phần như : doanh nghiệp cổ phần được coi như hình thức đầu tư mới và được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước; thực hiện miễn nhiên, giảm thuế thu nhập Công ty đối với các Công ty cổ phần mới thành lập như đối với các tổ chức phát hành có chứng khoán niêm yết; miễn thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ lợi tức cổ phần. - Cuối cùng cũng cần nhấn mạnh rằng khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vay vốn nói riêng tham gia TTCK, ngoài các giải pháp tài chính trên đây, cần thực hiện tổng hợp các giải pháp kinh tế vĩ mô khác như: Hoàn thiện khung pháp lý vững chắc cho hoạt động của TTCK; củng cố và tăng cường bộ máy tổ chức quản lý, giám sát và vận hành thị trường; thực hiện các giải pháp “ tăng cung, kích cầu”, tạo hàng hoá có chất lượng của các tổ chức tài chính trung gian; xúc tiến việc thành lập hiệp hội kinh doanh chứng khoán, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo, phổ cập và nâng cao kiến thức công chúng và các đối tượng tham giaTTCK. 2.2.4 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài Trong giai đoạn khởi động nền kinh tế hiện nay, độ tích tụ và tập trung tư bản còn chưa cao. Vốn nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng. Vốn nước ngoài bao gồm vốn hỗ trợ chính thức (ODA) và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Đối với vốn ODA, để huy động tốt thì chúng ta phải sớm xây dựng thông qua và điều phối chặt chẽ theo quy hoạch huy động và sử dụng vốn OAD gắn với quy hoạch đầu tư nói chung và quy hoạch đầu tư công cộng PIP nói riêng. Điều này là đặc biệt quan trọng khi mà trên thực tế hiện nay, việc phân công phân nhiệm giữa các bên tham gia quản lý chưa rõ ràng, còn nhiều ách tắc và chồng chéo. Xây dựng được danh mục các dự án ưu tiên gọi vốn, trong đó có vốn ODA, bao gồm cả vốn cho các dự án đầu tư và vốn hỗ trợ kỹ thuật. Nghiên cứu chính sách vay vốn với quy mô hợp lý, cân đối khả năng vay trả để đảm bảo đủ nguồn vốn đầu tư phát triển và phù hợp với khả năng trả đủ cả gốc lẫn lãi. Theo tính toán trong những năm trước mắt chỉ nên lập kế hoạch vay trả trong phạm vi chi tiêu trả nợ ( gốc + lãi) so với giá trị xuất khẩu ( gọi là chỉ tiêu Detb service Ratio) khoảng 10% đối với Nhà nước và không quá 15% đối với toàn xã hội. Mức vay trả này là vừa phải (các nước khác có thể chấp nhận lên tới 20%), bởi lẽ trong cơ chế hiện nay, khả năng trả nợ gốc của các quốc gia được tách riêng khả năng trả nợ của doanh nghiệp, nhất là một doanh nghiệp Nhà nước. Đối với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thì phải tiếp tục hoàn thiện chiến lược thu hút đầu tư. Mục tiêu thu hút đầu tư trực tiếp là nhằm tranh thủ nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển kinh tế. Song cần đặc biệt chú ý đến vấn đề cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy sau một thời gian thu hút đầu tư nước ngoài, cơ cấu kinh tế đã trở thành vấn đề cần giải quyết. Nền kinh tế vốn đã phát triển cân đối ( hiểu theo nghĩa rộng) lại mất cân đối thêm. Đây là vấn đề tất yếu xảy ra nếu Nhà nước không có sự điều chỉnh vì mỗi nhà đầu tư đều có mục tiêu riêng cũng như thế mạnh riêng của mình nên đương nhiên họ muốn phát huy tiềm năng vốn để khai thác triệt để tiềm năng của nước chủ nhà. Do vậy, cần có sự điều chỉnh của Nhà nước. Sự điều chỉnh này trước hết phải căn cứ vào mục tiêu chiến lược của đất nước và sử dụng các biện pháp kinh tế để định hướng các nhà đầu tư theo mục tiêu đã đề ra. Đây là cách làm có hiệu quả song thường khó khăn bởi vì muốn làm như vậy các đòn bẩy kinh tế phải đủ mạnh mà nhiều khi nước chủ nhà trước mắt không có lợi gì, thậm chí bị thiệt thòi. Nhưng ngay cả làm như vậy cũng chưa chắc kêu gọi được đầu tư . Mặt khác ta cần chấp nhận ý muốn của các nhà đầu tư trong khuôn khổ luật định, miễn là thu hút được nhiều dự án và vốn còn lại tìm cách huy động nguồn vốn ODA nguồn ngân sách thu được, chủ động đầu tư điều chỉnh cơ cấu. 2.2.5 Huy động qua liên doanh liên kết, qua vay vốn nhân dân. Các DNNN có tăng thêm nguồn vốn của mình bằng cách kêu gọi đầu tư liên doanh liên kết với các doanh nghiệp khác trong ngành, trong nước, ngoài nước. Liên doanh hợp tác với các nhà cung cấp giúp doanh nghiệp giảm được chi phí lưu kho hàng hoá vật tư, chi phí bảo quản, tránh được tình trạng ép giá do độc quyền cung cấp từ đó doanh nghiệp có thể tận dụng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có của doanh nghiệp, đơn vị mình. Ngoài ra, DNNN cũng có thể tiến hành phát hành trái phiếu để thu hút nguồn vốn nhàn dỗi trong nhân dân. Tính đến nay một số DNNN đã phát hành trái phiếu ra công chúng với tổng khối lượng vốn khoảng vài trăm tỷ đồng để đầu tư cho một số dự án của doanh nghiệp được sự bảo lãnh của Bộ tài chính. Trên đây là một số phương thức huy động vốn mà các DNNN thường hay sử dụng. ở mỗi một hình thức huy động đều có những thế mạnh riêng và cũng còn nhiều vấn đề còn phải nghiên cứu để hạn chế tính “bất cập” và với mỗi một DNNN khác nhau do điều kiện kinh doanh khác nhau mà sử dụng các phương thức huy động vốn cũng không giống nhau, nhưng phải đảm bảo cho nguồn vốn huy động vào phát huy được hiệu quả cao nhất. Thêm vào đó, khi đã có đủ vốn thì các DNNN phải có nghĩa vụ tổ chức quản lý và sử dụng nó có hiệu quả nhất. Để DNNN thực sự trở thành một thành phần kinh tế tiêu biểu đi đầu trong các thành phần kinh tế góp phần đưa đất nước ngày càng đi lên. Kết luận . Trong nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp luôn phải vận dộng để đối phó với sự sống còn của mình. Có lúc chỉ cần một lượng vốn ít cũng có thể cứu sống được doanh nghiệp .Vốn là điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, tức là nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp huy động được vốn khi cần thiết sẽ góp phần thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của mình. Trong đề án này đã nêu nên được một số biện pháp huy động vốn trong dài hạn và ngắn hạn của các DNNN. Các doanh nghiệp phải nắm rõ và sử dụng một cách có linh hoạt các phương thức tài trợ này. Bên cạnh đó, các DNNN luôn phải đối mặt với các rủi ro có thể gặp khi tiến hành các phương thức tài trợ. Các DNNN không nên lạm dụng quá nhiều một phương thức mà phải cân đối giữa các phương thức cho phù hợp với hoàn cảnh và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp mình. Đồng thời muốn thị trường vốn phát triển, Nhà nước phải có những quan điểm đúng đắn cùng với các chính sách khuyến khích phù hợp. Để các DNNN thuận lợi hơn và linh hoạt hơn trong khâu huy động vốn cho sự tồn tại và phát triển của toàn doanh nghiệp ./. Danh mục tài liệu tham khảo T.s Nguyễn Hữu Tài, 2002, Giáo trình Lý thuyết tài chính – Tiền Tệ, NXB Thống Kê. PTS Nguyễn Đình Tài, 1997, Giáo trình Sử dụng công cụ tài chính tiền tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển, NXB Tài chính ngân hàng Ts Lưu Thị Hương, 2002, Giáo trình Tài Chính Doanh Nghiệp, NXB Giáo dục Th.s Bùi Hữu Phước- Phan Thị Hiếu Nhi,2000, “Cơ chế quản lý vốn kinh doanh phù hợp với các DNNN ở Việt Nam”, Tạp chí Tài Chính tháng 10/2000 Nguyễn Văn Phương, 2001, “Một số vướng mắc trong quan hệ vay vốn của DNNN với ngân hàng”, Tạp chí Ngân Hàng số 11/2001 Tr 29-33. Th.s Nguyễn Hoàng Anh, 2002, “Thúc đẩy cổ phần hoá gắn với thị trường vốn dài hạn ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân Hàng số tháng 12/2002. tr 56-58. T.s Nguyễn Đăng Nam,2002, “Khuyến khích và tạo điều kiện cho các DNNN ở Việt Nam tham gia TTCK”, Tạp chí Tài Chính, tháng 9/2002. tr 37 – 39 Th.s Trần Thị Mộng Tuyết, 2003, “Một số giải pháp huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu và trái phiếu ở nước ta”, Tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 2/2003. Ths Trần Tiến Hưng – Thái Dũng, 2002, “Bàn về cấp vốn bổ sung kinh doanh cho DNNN trong điều kiện hội nhập”, Tạp chí Tài chính, tháng 9/2002. tr 25-26.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28882.doc
Tài liệu liên quan