Mặc dù còn gặp khó khăn về vốn, về công nghệ chế biến, về thị trường xuất khẩu nhưng xuất khẩu hàng mây tre đan vẫn là hoạt động mang lại lợi ích đáng kể cho đất nước vì thế trong giai đoạn từ nay đến 2010 Việt Nam phải lựa chọn cho mình chiến lược xuất khẩu đúng đắn, phát huy có hiệu quả cao nhất các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình mở cửa, hợp tác phân công lao động và phát triển thương mại quốc tế. Trong quá trình thực hiện các chiến lược xuất khẩu, cần quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng và kết hợp thực hiện các giải pháp, chính sách lớn và các biện pháp để đạt được mục tiêu đề ra.
54 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1634 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu Mây tre đan ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở rộng thị trường này nhất thiết ngành mây tre đan phải nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã, màu sắc .
2.3. Đánh giá tình hình xuất khẩu mây tre đan trong những năm vừa qua :
2 3.1 Những thành tựu đạt được :
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu tình hình hoạt động xuất khẩu mây tre đan ta thấy:
Một là :qua mấy năm gần đây,xuất khẩu mây tre đan đã dần dần lấy lại được thị trường truyền thống không những thế mà còn mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều nước khác, đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu tăng lên.
Hai là: Xuất khẩu đã hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước , thực hiện đúng chính sách pháp luật của Nhà nước và cải thiện, nâng cao đời sống của nhân dân .
Ba là: Xuất khẩu mây tre đan đã năng động, sáng tạo, đa dạng hoá các mặt hàng và phần nào đã đáp ứng được nhu cầu về hàng hoá có tiêu chuẩn cao.
Bốn là:Xuất khẩu mây tre đan đã tổ chức liên doanh xây dựng đầu tư thành công các nhà máy sản xuất tại Việt Nam .
Năm là: Xuất khẩu hàng mây tre đan, tạo được uy tín lâu dài trên thị trường thế giới, thu hút được nhiều khách hàng trong và ngoài nước đến đặt hàng tạo ra cơ sở để phát triển xuất khẩu hàng mây tre đan.
Sáu là: Khôi phục được và phát triển làng nghề truyền thống trong đất nước như làng nghề mây tre đan.
Bảy là:Đồng thời nhờ sự phát triển công tác xuất khẩu đã đem lại việc làm cho hàng nghìn lao động nhàn rỗi ở các làng nghề, tạo điều kiện phát triển kinh tế của đất nước .
Tám là:Về công tác quản lý : Ngành mây tre đan đã tiến hành cắt giảm lực lượng quản lý , tăng cường lực lượng kinh doanh xuất khẩu thông qua việc tăng thêm cán bộ nhân viên cho phòng kinh doanh xuất nhập khẩu.
2 3.2 Những vấn đề tồn tại:
Thứ nhất là: Tỷ trọng mặt hàng xuất khẩu mây tre đan còn thấp và chưa có tính chiến lược lâu dài.
Thứ hai là: Hiệu quả chưa cao, lợi nhuận còn thấp tốc độ chu chuyển vốn chưa cao.
Thứ ba là : Hoạt động marketing chưa được tiến hành tốt, còn nhiều hạn chế và lúng túng, hình thức còn manh mún nhất thời và phân bổ rải rác trong các bộ phận. Còn mang tính thụ động chờ khách hàng, chưa giải quyết được khâu trung gian trong thị trường xuất khẩu hàng hoá . Chính vì vậy, các hoạt động xuất khẩu chưa được khuyếch trương, tính hệ thống chưa được phát huy, làm mất nhiều cơ hội .
Thứ tư là : Các đơn vị sản xuất trực tiếp chưa có nhiều nên chưa tận dụng hết nguồn lao động dư thừa trong nhân dân .
Thứ năm là :Chưa phát huy hết tiềm năng sẵn có của đất nước và chưa tích cực đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu của đất nước .
2.3.3 Những nguyên nhân tồn tại :
Xuất khâu mây tre chưa có các nhà máy sản xuất hàng xuất khẩu mây tre đan để tạo ra các mặt hàng có số lượng lớn, đảm bảo chất lượng và chủ động được nguồn hàng xuất khẩu, bởi các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan quy mô nhỏ và phân tán không đồng đều. Mà xuất khẩu chủ yếu là khai thác, thu mua gom hàng hoá từ các làng nghề trong đất nước .
Các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan không được đầu tư xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu có chất lượng cao để tạo ra các sản phẩm mây tre đan đủ tiêu chuẩn xuất khẩu .
Cơ chế chính sách của Nhà nước luôn có sự thay đổi nên ảnh hưởng đến việc xuất khẩu hàng mây tre đan. Các thành phần kinh tế đều tham gia xuất khẩu trực tiếp gây lên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh.
Xuất khẩu mây tre đan cũng gặp nhiều khó khăn trong vấn đề huy động nguồn vốn kinh doanh. Đó là vấn đề muôn thủa mà ngành chưa tìm ra lối thoát. Vì vậy, mà tốc độ huy động nguồn hàng có chất lượng của ngành còn thấp.
Về lao động, lực lượng cán bộ làm công tác xuất khẩu còn nhiều hạn chế về nghiệp vụ chuyên môn và kinh nghiệm kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan.
Cơ sở vật chất chưa phát triển đồng bộ, công tác thị trường còn yếu kém, thị trường truyền thống chưa ổn định.
Công tác phát triển xúc tác tiến thương mại chưa được đầu tư đúng mức nên thị trường hàng xuất khẩu chưa thực sự được mở rộng.
Chương 3
một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu mây tre đan trong những năm sắp tới
3.1 Các quan điểm và định hướng về xuất khẩu ở việt nam từ nay đến năm 2010.
3.1.1 Những quan điểm cơ bản đổi mới chính sách ngoại thương và đẩy mạnh xuất khẩu ở Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới đang phát triển như vũ bão với tốc độ nhanh trên tất cả các lĩnh vực. Sự phát triển của khoa học - công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới. Một quốc gia không thể tách rời khỏi sự vận động của nền kinh tế thế giới mà nó ảnh hưởng và cũng đồng thời chịu ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp của nền kinh tế nước khác. Chính vì vậy, ngày nay hợp tác quốc tế đã trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển đi lên của mỗi quốc gia. Hoà nhập với xu thế này, trong công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng hoạt động kinh tế đối ngoại. Việc định ra một cách nhanh chóng chiến lược phát triển kinh tế, trong đó ngoại thương được đặc biệt coi trọng là một vấn đề thời sự cấp bách đối với Việt Nam hiện nay. Chiến lược kinh tế của Việt Nam hướng vào việc không ngừng mở rộng phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương nhằm khai thác tối đa có hiệu quả các thành tựu khoa học công nghệ và vốn trên thê giới để phát triển kinh tế trong nước thông qua con đường xuất nhập khẩu.
Việc xác lập một hệ thống quan điểm cơ bản về đổi mới và phát triển xuất khẩu theo đường lối mở cửa kinh tế do các Đại hội VI,VII, VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là rất cần thiết, nhằm làm cơ sở thống nhất cho việc hoạch định và thực thi thành công các mục tiêu, chính sách của hoạt động xuất khẩu.
Theo phương hướng chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010 đã khẳng định “phát huy lợi thế tương đối, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, đáp ứng tốt nhu cầu của sản xuất và đời sống, hướng mạnh về xuất khẩu”, “mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, các công ty và các tư nhân nước ngoài, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi” và phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu của Việt Nam đã được thể chế hoá trong pháp luật của Nhà nước. Có thể tóm tắt những điểm cơ bản sau:
Đẩy mạnh xuất khẩu, bao gồm xuất khẩu hàng hoá và xuất khẩu dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu về nhập khẩu, về ngoại tệ cần thiết cho nền kinh tế quốc dân.
Phấn đấu tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, mở rộng quy mô xuất khẩu, đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu, thu hẹp chênh lệc giữa xuất khẩu và nhập khẩu, góp phần cải thiện cán cân ngoại thương và cán cân thanh toán quốc tế.
Khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế phát triển sản xuất các sản phẩm hướng về xuất khẩu.
Đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, thị trường nhập khẩu phù hợp với cơ chế thị trường trên cơ sở gắn thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa Việt Nam và nước ngoài.
Mở rộng quyền hoạt động xuất khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, đi đôi với sự quản lý thống nhất của Nhà nước trong lĩnh vực ngoại thương bằng luật pháp và đòn bảy kinh tế.
Chính sách ngoại thương đã và đang hình thành ở nước ta hoàn toàn xuất pháp từ đường lối xây dựng và phát triển đất nước của Nhà nước Việt Nam, đồng thời có tính đến xu hướng phát triển của thị trường thế giới, khả năng phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước và tổ chức trên thế giới.
Trong những năm tới sự phát triển kinh tế ở nước ta cần hường về xuất khẩu, coi đây là nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế. Theo kinh nghiệm của nhiều nước đang phát triển đã đạt được sự phát triển kinh tế cao, đặc biệt là các nước công nghiệp mới, thì việc lựa chọn chiến lược hường về xuất khẩu là một trong những bí quyết quyết định sự thành công trong nhịp độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Để thực hiện vững chắc chiến lược “hướng về xuất khẩu” đòi hỏi chúng ta phải nhanh chóng cơ cấu lại nền kinh tế để hoà nhập và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Muốn đứng vững và thắng lợi trong cạnh tranh, cần phải biết khai thác, phát huy tối đa và có hiệu quả các nguồn lực trong nước, phát huy lợi thế so sánh của nước ta với nước khác.
Việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân được tiến hành trên cơ sở chuyển dần các sản phẩm nguyên liệu thô sang tập trung sức phát triển nhanh chóng công nghiệp chế biến để xuất khẩu. Trong tương lai, nên xuất khẩu sản phẩm tinh là chính, không nên xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu và bán thành phẩm, vì khi đó hoạt động xuất khẩu bất lợi cả về lợi thế địa vị độc quyền và giá cả, lợi nhuận. Vì vậy, cần tìm kiếm một cơ cấu ngành hàng và mặt hàng chủ lực để xuất khẩu sao cho vừa đáp ứng những yêu cầu của thị trường thế giới trước mắt cũng như lâu dài, đồng thời có thể khai thác và phát huy tối đa lợi thế so sánh của đất nước và dần dần đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất.
3.1.2Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2020.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu phải căn cứ vào lợi thế so sánh của nước ta so với các nước trên thế giới, phải mang lại hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội; nhu cầu của thế giới về loại hàng hoá đó cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu phải phù hợp với bước đi của nước ta từng giai đoạn 1996 - 2000, 2001 - 2010 và 2011 - 2020.
Chuyển đổi nhanh cơ cấu thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hoá thị trường, đa dạng hoá bạn hàng; từng bước thực hiện tự do hoá thương mại, phát triển thị trường trong nước nhiều thành phàn, thực hiện thị trường mở; khuyến khích các thành phần kinh tế và các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu. Nhu cầu của thế về loại hàng hoá Việt Nam xuất khẩu đang tăng, các nước đều có cơ hội tăng nhu cầu thông qua các giải pháp tổ chức thị trường và tiếp thị.
Chuyển đổi nhanh cơ cấu hàng xuất khẩu từ thô và sơ chế sang chế biến sâu. Trước đây ta xuất nguyên liệu thô, các nước nhập nguyên liệu thô của ta về chế biến sâu để sử dụng trong nước và tái xuất nay ta tổ chức chế biến để xuất sản phẩm chế biến.
Thực hiện nguyên tắc “có đi có lại” trong kinh doanh thương mại do tổ chức thương mại thế giới (WTO) đề ra; tạo nên mối quan hệ gắn bó giữ thị trường xuất khẩu và thị trường nhập khẩu, phấn đấu từng bước cân bằng xuất khẩu với từng nước và cân bằng tổng xuất - tổng nhập. Ta sử dụng lao động rẻ có thể sản xuất ra sản phẩm có giá cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường của nước khác.
Thực hiện chiến lược “công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu” để tạo ra nhiều hàng hoá đạt chất lượng quốc tế có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, hoạt động nhập khẩu cũng phải thực hiện tốt chiến lược này. Công nghệ nhập khẩu là công nghệ hiện đại đồng bộ của những nước kinh tế phát triển, công nghệ nguồn (Mỹ, Nhật bản, EU, Canada...) giảm đến mức tối đa nhập khẩu công nghệ trung gian và công nghệ đã qua sử dụng.
Bảng 5- Những căn cứ để định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu đến năm 2000, 2010, và 2020.
TT
Tên nhóm hàng hoá và dịch vụ
Nhu cầu trong nước
Tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu làm căn cứ đầu tư
A
B
C
D
1
Lương thực, cây công nghiệp, rau quả và thuỷ sản
Nhu cầu đến năm 2020.
- Lương thực: 30 - 35 triệu tấn.
- Rau quả: 30 - 40 triệu tấn.
- Thuỷ sản: 1,8 - 2 triệu tấn
- Xuất khẩu 3 triệu tấn gạo, nông sản chế biến và rau quả 5 - 8 tỷ USD/năm
- Có khả năng xuất khẩu thuỷ sản chế biến 2,5 - 3 tỷ USD/năm
2
Hàng công nghiệp nhẹ:
- Hàng dệt - may mặc.
- Hàng giầy dép và sản phẩm da.
- Hàng tiểu thủ công nghiệp.
Đến năm 2020 nhu cầu hàng chục triệu sản phẩm may mặc, hàng chục triệu đôi giày và hàng triệu sản phẩm tiểu thủ công nghiệp.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân hàng năm.
- Hàng dệt - may mặc 30%. 2000: 3 tỷ USD, 2010: 5 tỷ USD; 2020: 10 tỷ USD.
- Hàng giày dép và các sản phẩm da: 40% 2000: 1,5 tỷ USD, 2010: 3 tỷ USD, 2020: 5 tỷ USD.
- Hàng tiểu thủ công nghiệp: 10%
- 2000: 10 triệu USD; 2010: 30 triệu USD.
3
Các ngành dịch vụ chủ yếu:
- dịch vụ quảng cáo
- dịch vụ xuất nhập khẩu.
- dịch vụ phần mềm và sản xuất phần mềm.
- Dịch vụ du lịch
- Dịch vụ tài chính
Bình quân hàng năm có 5 - 10 triệu khách du lịch trong nước đi nghỉ mát và tham quan, có hàng chục triệu tấn hàng hoá xuất nhập khẩu.
- Có khả năng thu hút 5 - 10 triệu khách du lịch quốc tế/năm.
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta từ 20 - 30% năm.
- Làm dịch vụ xuất khẩu và dịch vụ phần mềm cho các nước.
- Làm dịch vụ cho các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
4
Nhóm hàng điện tử - tin học - bưu chính viễn thông.
- Máy tính điện tử.
- Thiết bị điện tử
- Hàng tiêu dùng điện tử.
- Đồ chơi điện tử.
- Thiết bị viễn thông.
Nhu cầu bình quân hàng năm:
- Máy tính điện tử: 100.000 chiếc.
- Ti vi: 300.000 chiếc.
Đồ chơi điện tử: 100.000 chiếc.
- Máy điện thoại: 30 - 33 chiếc/100 dân (mục tiêu năm 2010)
- Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp điện tử - tin học: 20%/năm.
- Tốc độ tăng trưởng dịch vụ 14%/năm
- Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng điện tử - tin học bình quân 50%/năm.
Nguồn: Chuyên đề nghiên cứu kinh tế - Viện kinh tế thế giới 1999.
3.1.3. Mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu trong giai đoạn 1996 - 2000 và 2000 - 2010.
Để từng bước rút ngắn khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới, Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2000 với mục tiêu tổng quát là phấn đấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) khi đó phải tăng gấp 2 lần so với năm 1990. Có nghĩa là đến năm 2000, GDP/đầu người của Việt Nam cũng phải đạt ít nhất là 400 USD, gấp 2 lần so với 200 USD của năm 1990. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và khả năng phát triển, Đại hội VIII đã xác định rằng để đạt được như vậy, trong kế hoạch 5 năm (1996 - 2000). GDP của Việt Nam phải có mức tăng bình quân hàng năm khoảng 9 - 10%. Để góp phần tích cực thực hiện mục tiêu tổng quát này, riêng trong lĩnh vực ngoại thương, kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sẽ phải đạt mức bình quân khoảng 28%, nâng mức kim ngạch xuất khẩu trên đầu người năm 2000 lên trên 200 USD. Và do đó, tổng kim ngạch xuất khẩu ở năm 2000 cũng phải tăng lên ít nhất 7 - 8 lần so với năm 1990, hoặc gấp 3,2 - 3,7 lần so với năm 1995, nghĩa là sẽ phải đạt khoảng 17 - 20 tỷ USD.
Hai phương án tăng trưởng xuất khẩu đến năm 2000 và 2010 được Bộ Thương mại và Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng nhiều nhà khoa học, quản lý, hoạch định chiến lược, chính sách kinh tế đối ngoại trình Đại hội VIII như sau:
Phương án I: Phương án có mức tăng trưởng xuất khẩu 24,5%/năm.
Năm
Dân số
(triệu người)
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu là 24,5%/năm
Kim ngạch (triệu USD)
Bình quân
(USD/người)
1998
78,8
10.200
130
1999
80,3
12.600
156
2000
81,8
15.200
186
1996-2000
57.800
2000 -2010
518.360
2010
92,4
105.533
1.142
Nguồn: Bộ Thương mại.
Phương án I là phương án xây dựng từ yêu cầu thực tiễn là phấn đấu hoàn thành và vượt mục tiêu đã được Đại hội VIII đề ra ở mức trung bình, từ nay đến năm 2010 sẽ có mức tăng GDP bình quân hàng năm khoảng 9%. Theo phương án này thì 5 năm 1996 - 2000 sẽ đạt khoảng 57,8 tỷ USD, tăng gấp 3,4 lần và kim ngạch xuất khẩu tại năm 2000 sẽ phạt đạt mức 15,2 tỷ USD, tăng gấp 3 lần so với năm 1995; và do đó tốc độ bình quân tăng xuất khẩu 5 năm 1996 - 2000 sẽ phải đạt khoảng 24,5%.
Hoàn thành phương án này, thời điểm năm 2000, Việt Nam sẽ phải đạt kinh ngạch xuất khẩu đầu người khoảng 170 - 190 USD, và như vậy, Việt Nam sẽ được xếp vào danh sách những nước có nền ngoại thương tương đối phát triển.
Phương án II - Phương án có mức tăng trưởng xuất khẩu 28 - 30%/năm
Năm
Dân số
(triệu người)
Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu
28-30%/năm
Kim ngạch (triệu USD)
Bình quân (USD/người)
1998
78,8
10.950
139
1999
80,3
13.900
173
2000
81,8
17.500
213
1996-2000
62.630
2001-2010
580.560
2010
92,4
156.402
1.607
Nguồn: Bộ Thương mại
Phương án II là phương án tăng trưởng xuất khẩu ở mức cao, nhằm vượt lên trên tránh tụt hậu về lâu dài. Theo phương án này, nếu thực hiện được, ngoại thương Việt Nam sẽ đạt được sự nhảy vọt cả về lượng và chất, vì khi đó (năm 2000), Việt Nam có thể đạt kim ngạch xuất khẩu ở mức 17 - 20 tỷ USD còn cao hơn tổng kim ngạch xuất khẩu đã đạt 5 năm (1991 - 1995), và gộp cả 5 năm kim ngạch xuất khẩu 1996 - 2000 có thể đạt tới 62,630 tỷ USD, tăng gần 3,7 lần giai đoạn 1991 - 1995 với mức tăng trưởng bình quân hàng năm khoảng 28 - 30%.
Điều cần lưu ý là việc xác định phương án II về cơ bản đã được căn cứ từ mục tiêu phấn đấu ở mức cao của dự thảo các văn kiện trình Đại hội VIII: GDP bình quân hàng năm (1996 - 2000) tăng khoảng 10%, tương ứng theo kim ngạch xuất khẩu bình quân cũng phải tăng ở mức cao 28 - 30%. So với kết quả đạt được trong thời gian 5 năm 1991 - 1995, thì đó là mức phấn đấu đề ra rất cao đã được Đại hội VIII ghi nhận là chỉ tiêu cần quyết tâm thực hiện, vì nếu đạt được, Việt Nam không chỉ thoát khỏi nguy cơ tụt hậu kéo dài mà tại thời điểm 2010 trình độ phát triển có thể tương đương với trình độ phát triển có thể tương đương với trình độ phát triển hiện nay của Thái Lan. Sở dĩ có thể dự báo như vây vì theo kết quả nghiên cứu dự báo từ phương án I là phương án mức trung bình, nếu thực hiện được thì tại năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sẽ có thể là 105,53 tỷ USD, khiến cho kim ngạch xuất khẩu đầu người có thể đạt mức 1142 USD, còn cao hơn kim ngạch xuất khẩu đầu người năm 1995 của Thái Lan (khoảng 720 USD).
Về tính khả thi của hai phương án xuất khẩu trên đây, đương nhiên với phương án I là dễ hoàn thành hơn, cho dù chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tính khả thi của phương án I là rõ ràng vì thực tế cho thấy trong các năm qua, kim ngạch xuất khẩu kể cả quy mô và tốc độ tăng trưởng đều đã liên tục năm sau cao hơn năm trước với mức khá cao và vượt dự kiến ban đầu. Đối với phương án II là phương án phấn đấu mức cao đã được Đại hội VIII ghi nhận thì để thực hiện phương án này sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn so với phương án I, do vậy đòi hỏi phải có quyết tâm rất cao và nỗ lực phấn đấu lớn. Song nó vẫn có thể thực hiện được nếu chúng ta khơi dậy hơn nữa các nguồn lực thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng xuất khẩu, biến các nguồn lực sẵn có thành các lợi thế so sánh hữu hiệu nhất. Tuy nhiên cần nhận thức một yêu cầu có tính nguyên tắc là cần tính tới khả năng các nguồn lực của đất nước luôn ở trạng thái vận động biến đổi. Do đó, việc đa dạng hoá các nguồn lợi thế so sánh, nguồn gốc của sự đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu.
3.2. Các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng mây tre đan.
Trong một môi trường cạnh tranh rất gay gắt như hiện nay, để tồn tại đã khó khăn nhưng để phát triển đựoc lại càng khó khăn hơn. Do vậy, mỗi quốc gia cần phải xác định cho mình một hướng đi phù hợp có hiệu quả. Dù theo hướng kinh doanh nào, các quốc gia vẫn có chung một mục tiêu là " đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng đi ưu tiên, trọng điểm cho mục tiêu phát triển của quốc gia ".
Đẩy mạnh xuất khẩu là các hoạt động tác động vào quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm xuất khẩu để mở rộng khả năng xuất khẩu . Hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu có thể nhằm vào các mục tiêu như mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hoá các sản phẩm xuất khẩu hay thiết lập một thị phần nhất định trong một thị trường nào đó... Thực hiện hoạt động đẩy mạnh xuất khẩu là biện pháp hữu hiệu để chúng ta khẳng định vị trí của mình trong thương mại khu vực và quốc tế. Đồng thời, nó cũng là biện pháp tự vệ trước yêu cầu mở cửa của nền kinh tế của quá trình hội nhập.
Hoạt động xuất khẩu của quốc gia nói chung chịu ảnh hưởng của thương mại quốc tế. Vì thế, khi tiến hành các hoạt động thúc đẩy xuất khẩu, quốc gia phải phân tích, dự đoán động thái các hoạt động thương mại quốc tế. Đặc điểm và xu hướng phát triển của thương mại quốc tế do đó có ý nghĩa rất quan trọng đối với các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu. Ngày nay, thương mại quốc tế có các đặc điểm và xu hướng phát triển theo hướng sau:
+ Cùng với sự phát triển của quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá đời sống kinh tế thế giới, thương mại quốc tế ngày nay phát triển với quy mô ngày càng lớn, tốc độ ngày càng nhanh theo hướng phân công lao động quốc tế ngày càng sâu rộng. Năm 1998, thương mại quốc tế đạt mức tăng trưởng 8,7% với giá trị hàng hoá và dịch vụ là 2843,1 tỷ USD, tăng 20 lần so với 141,4 tỷ USD năm 1962. Nhưng đến năm 1995, tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ lên tới 6096 tỷ USD, lớn hơn 2,1 lần so với năm 1988 và 43 lần so với năm 1962.
+ Quá trình tự do hoá thương mại ngày càng gia tăng là yêu cầu khách quan cuả thương mại quốc tế. Nội dung cơ bản của tự do hoá thương mại là sự giảm thiểu để đi đến xoá bỏ hàng rào thương mại thuế quan và phi thuế quan giữa các quốc gia. Do đó, tự do hoá thương mại đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, tạo môi trường bình đẳng cho cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là cơ hội và thách thức đối với quốc gia tự khẳng định lại mình tồn tại hay diệt vong.
+ Trong điều kiện chưa thể toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới một cách triệt để thì xu hướng bảo vệ mậu dịch vẫn tồn tại khách quan trong thương mại quốc tế. Song mỗi quốc gia áp dụng các chính sách, biện pháp khác nhau để bảo vệ thị trường trong nước trước sự xâm nhập của hàng hoá nước ngoài. Do đó dẫn đến tình trạng phát triển không đồng đều.
Dựa trên các phân tích đó có thể đưa ra một số biện pháp sau:
3.2.1 Thúc đẩy kinh doanh hàng xuất khẩu.
Một mô hình kinh tế sản xuất với khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao, giá thành sản phẩm hạ là điều kiện tiên quyết cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Để khuyến khích sản xuât hàng mây tre đan có thể áp dụng các biện pháp sau:
3.2.1.1 Xây dựng mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu.
Một mô hình kinh tế công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu thường lấy nhu cầu của thị trường của thế giới làm mục tiêu phát triển, chuyển dịch và cải tạo cơ cấu mặt hàng sao cho thích ứng với những đòi hỏi của thế giới. Mà mục tiêu hướng về xuất khẩu là mở rộng hoạt động xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Để mở rộng hoạt động xuất khẩu cần phải xây dựng cơ sở vật chất làm nền tảng cho sự phát triển.
Trước hết , cần quy hoạch và xây dựng tổng thể các phòng làm việc của các doanh nghiệp, trong đó có phòng kinh doanh mây tre đan. Trên cơ sở các dự án đã được duyệt cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện nhất là xây dựng các văn phòng thiết bị mới, nhà xưởng sản xuất, kho tàng... trang thiết bị, máy móc hiện đại tạo ra môi trường làm việc hiện đại, văn minh. Do các doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng nên cần phải tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, kinh doanh có hiệu quả nhằm thu hút khách hàng, tạo cho khách hàng niềm tin vào doanh nghiệp. Mà điều đó có thể khách hàng đánh giá một phần nhỏ ở các phòng làm việc của doanh nghiệp khang trang, sang trọng với các đồ trang thiết bị hiện đại, đẹp thể hiện đựoc tính nghệ thuật hay ý đồ kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như phòng kinh doanh mây tre đan nên được xây dựng hiện đại có điều hoà nhiệt độ để bảo vệ các đồ mây tre đan trang trí phòng như bàn, ghế, giá sách, lẵng hoa, mành khỏi ẩm mốc. Với cách trưng bày khéo léo của phong mây tre đan sẽ hấp dẫn khách hàng thúc đẩy nhu cầù được ký kết hợp đồng kinh tế nhanh hơn. Chính là biện pháp vào tâm lý của khách hàng đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hàng mây tre đan.
Sau đó các doanh nghiệp phải xây dựng hệ thống kho tàng để bảo quản, lưu chuyển hàng hoá thuận tiện, đáp ứng yêu cầu của bạn hàng. Do doanh nghiệp không tự sản xuất kinh doanh mà chuyên thu mua hàng xuất khẩu từ các đơn vị sản xuất kinh doanh, các làng nghề truyền thống nên cần có hệ thống kho để bảo quản nguồn hàng xuất khẩu mây tre đan. Bởi hàng mây tre đan rất dễ mốc do khí hậu của ta ẩm thấp nên kho hàng cần được xây dựng thông thoáng khô ráo. Hơn thế, cần phải có hệ thống lò sấy hiện đại hơn để đảm bảo hàng đạt chất lượng quốc tế.
Tiếp đến là đầu tư xây dựng hệ thống công nghệ thông tin phục vụ công tác quản lý doanh nghiệp và kinh doanh xuất nhập khẩu, bao gòm cả kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan. Hệ thống công nghệ thông tin hoạt động giúp cho đường liên lạc giữa người sản xuất - doanh nghiệp ngoại thương - người nước ngoài được thông suốt. Qua đó, tạo nên mối quan hệ tốt đẹp giữa doanh nghiệp ngoại thưong với người cung cấp nguồn hàng xuất khẩu và doanh nghiệp ngoại thương với người tiêu thụ sản phẩm của họ.
Như vậy, với các giải pháp về xây dựng vật chất trên tạo tiền đề cho việc thúc đẩy sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu mây tre đan của các doanh nghiệp.
3.2.1.2. Đầu tư phát triển các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan.
Làng nghề là làng ở các vùng nông thôn có một hoặc một số nghề thủ công mỹ nghệ tách khỏi nông nghiệp ra kinh doanh độc lập.
Làng nghề được hình thành từ rất nhiều lý do, có thể là do sức ép về kinh tế một số người trong làng đi học nghề nơi khác rồi về truyền lại, từ sự khuyến khích phát triển nghề của nhà nước... Khi làng nghề được hình thành qua nhiều năm, truyền qua nhiều thế hệ gọi là làng nghề truyền thống. Vai trò của các làng nghề này là:
+ Tạo công ăn việc làm, thu hút nguồn lao động dư thừa ở các vùng nông thôn, phân công lại lao động xã hội, tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn, góp phần tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn.
Các công việc sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ nên không có khả năng thu hút hết nguồn lao động ở nông thôn. Do vậy phát triển làng nghề không những thu hút được lực lượng lao động trong từng hộ gia đình của địa phương mà còn giải quyết được việc làm cho người lao động ở nơi khác đến. Thu nhập của các hộ trong các làng nghề cao gấp 1,8 đến 4,5 lần thu nhập của các hộ thuần nông.
+Thu hút vốn nhàn rỗi tạo ra sức mạnh tổng hợp của toàn dân. ở làng nghề mức đầu tư cho một lao động có việc làm thưòng xuyên chỉ bằng 1/10 so với lao động ở khu vực quốc doanh, song tỷ lệ vốn/ lãi đạt trung bình từ 17% đến trên 20% cao hơn nhiều so với tỷ lệ trung bình 11% ở khu vực quốc doanh. Quy mô đầu tư bình quân mỗi hộ chỉ khoảng vài ba chục triệu trong khi đó quy mô đầu tư cho mỗi doanh nghiệp lên đến hàng trăm triệu, chục tỷ đồng. Do kinh tế làng nghề là kinh tế cá thể nên có thế mạnh là thu hút được đông người đầu tư với một lượng vốn không phải là nhỏ.
Mặt khác, các làng nghề còn có thể tận dụng diện tích nhà ở, sân, vườn... của họ làm nơi sản xuất, kho,..Vì thế,các làng nghề tiết kiệm được 30-40% vốn đầu tư.
+ Hạn chế di dân tự do, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc.
Làng nghề phát triển sẽ tạo việc làm cho mọi người và các làng nghề được phân bố rộng khắp mọi vùng thì chắc chắn sẽ hạn chế di dân tự do. Hơn thế, nghề nghiệp đó trở thành gốc rễ của những giá trị văn hoá tinh thần - đó là văn hoá nghề nghiệp.
+ Đóng góp vào sự tăng trưởng, giá trị sản lượng của địa phương, tạo nguồn hàng xuất khẩu.
+ Góp phần thúc đẩy khoa học công nghệ tiến bộ, nhất là công nghệ chế biến, sản xuất máy móc thiết bị.
Để phát triển làng nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm đòi hỏi phải có máy móc chuyên dùng..., và đòi hỏi công nghệ mới. Vì vậy, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu triển khai thúc đẩy khoa học công nghệ phát triển.
Với vai trò như vậy nhưng để tồn tại, các làng nghề cần phải:
+ Có đầu ra cho sản phẩm ( có nơi tiêu thụ ) hoặc gần thị trường tiêu thụ sản phẩm. Bởi thị trường tiêu thụ là yếu tố quyết định sự tồn tại hay không của các làng nghề.
+ Có hoặc gần nguồn nguyên liệu. Nguồn vốn sản xuất ở các làng nghề thường rất nhỏ nên rất khó khăn khi mua nguyên vật liệu ở quá xa. Do đó rất khó khăn cho phát triển sản xuất trong các làng nghề. Hầu như không có một làng nghề nào lại không gắn bó chặt chẽ với một trong những nguồn nguyên liệu chủ yếu phục vụ cho sản xuất. Như các làng nghề mây tre đan có nguồn nguyên liệu là song mây, tre...
+ Gần đường giao thông, có điện nước, dụng cụ, công cụ sản xuất. Điện, nước, công cụ, dụng cụ là các yếu tố phục vụ cho sản xuất, giúp cho công việc sản xuất được dễ dàng, vận hành tốt hơn. Còn đường giao thông nhằm lưu thông hàng hoá để sản xuất được thông suốt.
+ Có vốn sản xuất: Vốn cũng là một yếu tố không thể thiếu để sản xuất. Vốn ít sẽ ảnh hưởng đến chất lượng, số lượng sản phẩm nên hạn chế khả năng cạnh tranh của sản phẩm và khả năng mở rộng sản xuất.
Chính vì vậy, để phát triển các làng nghề mây tre đan nhằm thúc đẩy sản xuất hàng chúng ta cần phải:
+ Giải quyết đầu vào sản xuất cho các làng nghề.
Xây dựng các vùng nguyên liệu cho làng nghề. Bởi các làng nghề phân tán không đồng đều nên cần xây dựng nhà máy chế biến nguyên liệu hàng mây tre đan tạo thành một hệ thống các nhà máy, xưởng sản xuất hàng xuất khẩu liên hoàn, đáp ứng yêu cầu cao nhất về chất lượng của thị trường. Các viện nghiên cứu tìm cách nghiên cứu các loại nguyên vật liệu mới kết hợp với song mây, tre, rang tạo ra các sản phẩm ưu việt hơn.
+ Giải quyết vốn cho các làng nghề.
Vốn là công cụ quan trọng góp phần chiến thắng trong cạnh tranh và đem lại lợi nhuận lớn. Trong cơ chế mới, cạnh tranh giữa các cơ sở sản xuất càng gay gắt, do vậy các làng nghề cần được các nguồn vốn tín dụng, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, quỹ quốc gia xúc tiến việc làm, ngân hàng cho người nghèo, các tổ chức tín dụng, các tổ chức xã hội và các cá nhân có vốn cho vay ưu tiên cho vay với lãi suất thấp và thời hạn hợp lý. Hoặc các tổ chức cơ quan cùng góp vốn giúp cho các làng nghề đầu tư phát triển nghề sản xuất hàng mây tre đan.
Cần cho phép làng nghề tham gia vào thị trường chứng khoán với một số quy chế nhất định nhằm thu hút vốn.
+ Lựa chọn loại hình tổ chức quản lý cho các làng nghề.
Một tổ chức giúp cho các làng nghề hiểu biết về thị trường, tiếp cận với nhu cầu thị trường. Đó có thể là cơ quan nhà nước chuyên quản các làng nghề dựa trên chiến lược, chính sách của chính phủ. Hoặc các hợp tác xã giúp các làng nghề giải quyết tranh chấp, tránh cạnh tranh nội bộ, đại diện cho các làng nghề ký kết hợp đồng giao dịch.
+ Tìm kiếm thị trường cho các làng nghề.
Vấn đề thị trường là vấn đề nan giải có khi vượt quá khả năng của làng nghề. Do vậy, nhà nước cần phát huy mạnh vai trò chủ đạo và tạo điều kiện thuận lợi cho các làng nghề tiếp cận tìm kiếm khai thác thị trường trong và ngoài nước.
Tóm lại, phát triển các làng nghề chính là biện pháp về nguồn hàng . Bởi vậy, phát triển các làng nghề là pháp quan trọng cho thúc đẩy sản xuất hàng xuất khẩu mây tre đan.
3.2.2. Các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan:
Thị trường là yếu tố quyết định cho sự phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu do đó cần phải nghiên cứu và tìm hiểu tình hình thị trường.Trên cơ sở đó định ra những kế hoạch, chiến lược về thị trường xuất khẩu mây tre đan.
3.2.2.1. Xây dựng chiến lược thị trường xuất khẩu:
Nghĩa là quy hoạch tổng thể về các thị trường mây tre đan trong tương lai. Để xây dựng chiến lược thị trường đòi hỏi phải có sự nghiên cứu phân tích đúng đắn động thái thị trường thế giới, những thay đổi có thể có... Khi xác định được thị trường xuất khẩu phù hợp sẽ giúp xuất khẩu mây tre đan có hiệu quả, tận dụng được mọi nguồn lực, đồng thời chủ động đối phó với những rủi ro của thị trường xuất khẩu.
Song trên thực tế, các quốc gia phải tự tìm kiếm thị trường, tự tìm nguồn hàng và định ra phương hướng xuất khẩu hàng mây tre đan. Vì vậy, để mở rộng thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan các quốc gia nên giải quyết vấn đề càng sớm càng tốt.
3.2.2.2. Đẩy mạnh hoạt động marketing:
Bên canh đó, các doanh nghiệp cần tăng cường hơn nữa các hoạt động Marketing xuất khẩu, tức là đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị xuất khẩu thông qua các hình thức tổ chức triển lãm, hội chợ, hội thảo thương mại, mở phòng trưng bày, tổ chức chuyến thăm quan, tham gia hội chợ triển lãm để giới thiệu sản phẩm với khách hàng nước ngoài, cung cấp thông tin về khách hàng, thị trường nước ngoài với nhà sản xuất trong nước, các làng nghề sản xuất hàng mây tre đan .
Marketing là quá trình kế hoạch hoá và thực hiện các mưu kế hay các ý định, là quá trình vận động và thực hiện các tư tưởng, là quá trình hình thành giá cả và thực hiện các hàng hoá đó cũng như các dịch vụ nhằm hướng tới thoả mãn ý đò của các cá nhân hay tổ chức nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao nhất. Chính vì thế mà không phải ngẫu nhiên các tổ chức kinh doanh sẵn sẵn sàng bỏ ra hàng triệu USD để đẩy mạnh hoạt động Marketing.
Một chiến lược Marketing tốt có thể giúp doanh nghiệp đạt được cả ba mục tiêu: lợi nhuận, uy tín và sự an toàn trong kinh doanh. Qua đó, đem lại lợi nhuận cao cho công ty cho cả hiện tại và tương lai.
Nói tóm lại, hoạt động Marketing là một hoạt động không thể thiếu được trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu .
3.2.2.3. Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu.
Đây cũng là một trong số các biện pháp nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hàng mây tre đan.
Việc áp dụng đa dạng hoá các hình htức xuất khẩu sao cho phù hợp với điều kiện của từng loại thị trường sẽ giúp cho quốc gia tìm kiếm thêm nhiều bạn hàng mới, bởi bạn hàng sẽ có quyền lựa chọn hình thức xuất khẩu cho mình sao cho nó đem lại hiệu quả tối ưu cho cả hai bên.
Hiện nay nhà nước đang sử dụng chủ yếu hình thức xuất khẩu trực tiếp hàng mây tre đan, song trong tương lai nên sử dụng các hình thức sau:
+ Buôn bán đối lưu: Là hình thức trao đổi hàng hoá sao cho cả hai bên đều phải thoả mãn với lượng hàng hoá nhận được.Nhà nước nên sử dụng hình thức này khi phía đối tác đang có nhu cầu trao đổi hàng hoá với nước ta .
+ Xuất khẩu trả chậm: Trong những trường hợp này nhà nước không thu được tiền ngay của bạn hàng thì nhà nước nên áp dụng hình thức này bằng cách gia hạn cho đối tác một thời gian nhất định để thanh toán.
Nhà nước chỉ nên áp dụng hình thức xuất khẩu này khi thực sự tin tưởng vào đối tác và đây là mối quan hệ làm ăn lâu dài.
3.2.2.4. ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan.
Trong cơ chế thị trường đầy tính cạnh tranh thì quốc gia nào nắm bắt được thông tin về nhu cầu của thị trường nhanh nhất, doanh nghiệp đó sẽ thu được nhiều lợi nhất. Điều này chỉ xảy ra khi có sự trợ giúp của công nghệ thông tin. Bởi vậy, phát triển thương mại điện tử là một xu hướng tất yếu.
Thương mại điện tử là một lĩnh vực tương đối mới ở nước ta, nó là việc sử dụng các phương tiện điện tử làm thương mại. Nói cách khác, thương mại điện tử là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử. Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử đó là: điện thoại, máy điện báo, máy fax, ti vi, thiết bị ký thuật thanh toán điện tử, internet, web... Trong số các phương tiện này, internet và web là các phương tiện mới được áp dụng trong nước ta mấy năm gần đây. Nhờ có phương tiện kỹ thuật này mà quá trình toàn cầu hoá được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ. Và thông qua chúng, người sử dụng có các loại thông tin khác nhau và lựa chọn được thông tin mình cần. Hơn thế, thương mại điện tử còn giúp các doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, giúp thiết lập và củng cố các quan hệ đối tác.
Thông qua thương mại điện tử, các quốc gia hiểu được nhu cầu thị trường thế giới và hàng mây tre đan, từ đó đưa ra chiến lược kinh doanh xuất khẩu tránh được tình trạng bán những sản phẩm mà người mua không cần. Chính vì vậy mà tạo ra nhiều mối quan hệ kinh doanh mới, tạo ra nhiều đối tác mới cho quốc gia.
Như vậy, đây cũng là biện pháp hữu hiệu cho mở rộng thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan .
Bên cạnh các biện pháp mở rộng thị trường xuất khẩu cho mặt hàng mây tre đan được trình bày ở trên, quốc gia cần có biện pháp riêng nhằm khôi phục lại thị trường truyền thống Đông Âu và Liên Xô ( cũ ), tại thị trường xuất khẩu này sản phẩm mây tre đan của nước ta đã có chỗ đứng.
Tóm lại, với các biện pháp củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu trên, thị trường xuất khẩu hàng mây tre đan của quốc gia sẽ được mở rộng sang các nước Châu Âu, Châu á, Mỹ... tạo ra một hệ thống thị trường xuất khẩu năng động và có hiệu quả.
3.2.3. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong kinh doanh.
Vốn là yếu tố quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các doanh nghiệp, nguồn vốn chủ yếu được cấp từ ngân sách nhà nước, vốn vay ngân hàng và vốn tự bổ sung. Song các doanh nghịêp không thể trông chờ vào ngân sách nhà nước, cũng không thể vay từ ngân hàng mà các doanh nghiệp phải tự thân vận động là chính. Để phát huy mọi khả năng có thể có váo việc huy động nguồn vốn kinh doanh thì yếu tố quyết định là phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả.
Muốn sử dụng vốn có hiệu quả ngoài việc tiết kiệm chi phí, tập trung vốn kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, mà còn phải giải quyết tốt các công việc: thu hồi nợ, giải phóng hàng tồn kho, hạn chế phát sinh công nợ mới và hàng tồn kho mới, khi đầu tư cần có trọng điểm và chiều sâu nhằm đem lại những sản phẩm có chất lượng cao, đẩy nhanh khâu tiêu thụ hàng tránh để hàng tồn và góp phần củng cố uy tín của công ty trên thị trường thế giới.
3.2.4. Nâng cao trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan cho cán bộ công nhân viên phòng kinh doanh mây tre đan.
Con người là chủ thể của mọi hoạt động, là yếu tố quyết định đến hiệu quả của mọi hoạt động kinh doanh. Nguồn nhân lực là nguyên nhân chính dẫn đến thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Giải quyết vấn đề con người là tạo động lực cho sự phát triển cho các doanh nghiệp. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường, công tác cán bộ tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu lại càng quan trọng bởi đối tác có trình độ nghiệp vụ và kinh nghiệm hơn hẳn ta. Chính vì vậy, công ty cần có giải pháp đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ phù hợp với công việc được giao.
Không ngừng khuyến khích nâng cao trình độ, hiểu biết về chuyên môn nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan cho cán bộ công nhân viên. Cần phải sử dụng lao động theo đúng khả năng và lĩnh vực họ đào tạo.
Các doanh nghiệp cần có chế độ ưu đãi, thưởng phạt phân minh, khuyến khích sự sáng tạo, cống hiến, đảm bảo mọi người làm việc cho năng suất cao nhất.
Trong nội bộ các doanh nghiệp cần được củng cố mối quan hệ tốt giữa các cán bộ công nhân viên, lãnh đạo với nhân viên, tạo bầu không khí gần gũi, hiểu biết quan tâm lẫn nhau cũng như tạo ra sự dung hoà giữa hai thế hệ trong một doanh nghiệp .
3.2.5. Hoàn thiện hơn công tác quản lý hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng mây tre đan.
Việc xây dựng lại hệ thống tổ chức quản lý, phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của từng bộ phận đã được các doanh nghiệp thực hiện nhưng cần phải hoàn thiện hơn nữa để khai thác triệt để năng lực của cán bộ công nhân viên nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trong thời gian tới, các doanh nghiệp cần chỉnh đốn hệ thống tổ chức quản lý:
+ Cần phân công hợp lý đúng người, đúng việc hợp với khả năng chuyên môn.
+ Cần phân bổ chức năng, nhiệm vụ cho các phòng ban một cách hợp lý hơn tránh chồng chéo không cần thiết.
+ Cần thực hiện triệt để cơ chế khoán quản để các phòng ban có mục tiêu phấn đấu rõ ràng. Đồng thời có cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của từng thành viên qua đó có chế độ thưởng phạt đảm bảo công bằng bình đẳng giữa các bộ phận, cá nhân, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ công nhân viên trong hoạt động kinh doanh.
3.2.6 Biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Để có thể sản xuất các sản phẩm chế biến chuyên sâu tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN thì bản thân nền kinh tế Việt Nam không thể một sớm một chiều có thể làm ngay được mà phải dựa vào nguồn đầu tư nước ngoài có hiệu quả trong lĩnh vực thay thế nhập khẩu và những ngành hướng mạnh xuất khẩu.
Do đó, phải tạo ra môi trường hấp dẫn đầu tư nước ngoài bằng chính các đòn bầy kinh tế nhằm khuyến khích xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể miễn giảm thuế lợi tức trong một thời gian nhất định cho các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, môi trường chế biến thuỷ sản, sử dụng công nghệ cao.
Hình thức liên doanh là hình thức thích hợp nhất cho Việt Nam trong tích luỹ vốn, chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý. Cả trong trước mắt và lâu dài, đây sẽ là một nhân tố quan trọng cho thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu của nước ta trong việc hội nhập với khu vực và thế giới.
Tuy nhiên theo đánh giá của Thái Lan, đầu tư 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam thuận lợi hơn so với thành lập các liên doanh do tính phức của các quy định liên doanh và thuế xuất nhập khẩu và thuê máy móc của Việt Nam rất phức tạp. Đánh giá này không phải không có cơ sở. Chúng ta đã và đang hoàn thiện các chính sách của mình trong đó có cả chính sách thuế và các quy định về liên doanh và điều này đòi hỏi có một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, xong không nên thay đổi Luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây ra tình trạng bất ổn định trong quy chế.
Việc thu hút vốn đầu tư nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam cần đặt trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập , đầu tư 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam thuận lợi hơn so với thành lập các liên doanh do tính phức của các quy định liên doanh và thuế xuất nhập khẩu và thuê máy móc của Việt Nam rất phức tạp. Đánh giá này không phải không có cơ sở. Chúng ta đã và đang hoàn thiện các chính sách của mình trong đó có cả chính sách thuế và các quy định về liên doanh và điều này đòi hỏi có một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, xong không nên thay đổi Luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây ra tình trạng bất ổn định trong quy chế. Biện pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Để có thể sản xuất các sản phẩm chế biến chuyên sâu tạo ra sức cạnh tranh cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vào ASEAN thì bản thân nền kinh tế Việt Nam không thể một sớm một chiều có thể làm ngay được mà phải dựa vào nguồn đầu tư nước ngoài có hiệu quả trong lĩnh vực thay thế nhập khẩu và những ngành hướng mạnh xuất khẩu.
Do đó, phải tạo ra môi trường hấp dẫn đầu tư nước ngoài bằng chính các đòn bầy kinh tế nhằm khuyến khích xuất khẩu dành cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cụ thể miễn giảm thuế lợi tức trong một thời gian nhất định cho các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, môi trường chế biến thuỷ sản, sử dụng công nghệ cao.
Hình thức liên doanh là hình thức thích hợp nhất cho Việt Nam trong tích luỹ vốn, chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý. Cả trong trước mắt và lâu dài, đây sẽ là một nhân tố quan trọng cho thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu của nước ta trong việc hội nhập với khu vực và thế giới.
Tuy nhiên theo đánh giá của Thái Lan, đầu tư 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam thuận lợi hơn so với thành lập các liên doanh do tính phức của các quy định liên doanh và thuế xuất nhập khẩu và thuê máy móc của Việt Nam rất phức tạp. Đánh giá này không phải không có cơ sở. Chúng ta đã và đang hoàn thiện các chính sách của mình trong đó có cả chính sách thuế và các quy định về liên doanh và điều này đòi hỏi có một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, xong không nên thay đổi Luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây ra tình trạng bất ổn định trong quy chế.
Việc thu hút vốn đầu tư nhằm khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam cần đặt trong tương quan so sánh với các nước trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc đẩy đầu tư trong nước với sự kiện gia nhập , đầu tư 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam thuận lợi hơn so với thành lập các liên doanh do tính phức của các quy định liên doanh và thuế xuất nhập khẩu và thuê máy móc của Việt Nam rất phức tạp. Đánh giá này không phải không có cơ sở. Chúng ta đã và đang hoàn thiện các chính sách của mình trong đó có cả chính sách thuế và các quy định về liên doanh và điều này đòi hỏi có một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, xong không nên thay đổi Luật một cách quá nhanh chóng để tránh gây ra tình trạng bất ổn định trong quy chế.
3.2.7 Tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội vừa là điều kiện, vừa là giải pháp không thể thiếu được của việc khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu của nước ta. Cơ sở hạ tầng tốt sẽ tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài mà các nhà đầu tư nước ngoài thường là các công ty lớn, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia. Họ đầu tư vào bất kỳ lĩnh vực nào cũng nhằm hướng tới việc thu được lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy, họ phải chiếm lĩnh được thị trường không những của nước nhận đầu tư mà của các nước bên ngoài khác hay họ phải cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ của mình cho thị trường toàn cầu. Do đó, làm cho ngoại thương của nước bản địa phát triển hay chính hoạt động xuất khẩu đang gia tăng thông qua hoạt động đầu tư của các công ty xuyên quốc gia. Tạo điều kiện cho nền kinh tế của các nước nhận vốn đầu tư phát triển hội nhập với nền kinh tế chung của khu vực và toàn cầu. Thực trạng kết cấu hạ tầng của nước ta bên cạnh những tiến bộ đáng kể trong một số lĩnh vực như: bưu điện, viễn thông, điện năng,... Việt Nam còn nhiều yếu kém đặc biệt, đặc biệt là giao thông vận tải (đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, hàng không, bến cảng, kho bãi). Bất cập so với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hóa nền kinh tế hiện nay. Cơ sở hạ tầng yếu kém đã phần nào làm các nhà đầu tư nước ngoài ngần ngại bỏ vốn vào Việt Nam, nhất là vùng sâu, vùng xa. Bản thân việc cải tạo cơ sở hạ tầng lại cũng không hấp dẫn các nhà đầu tư vì phải bỏ vốn nhiều, lãi ít, thu hồi vốn chậm.
Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, mặc dù Đảng và Chính phủ đã có nhiều nỗ lực, nhất là phát triển nguồn điện và mạng lưới điện, nhưng khả năng khan hiếm điện trong vài năm tới rất dễ xẩy ra, còn ngành bưu chính viễn thông tuy phát triển vượt bậc có thể theo kịp các nước trong khu vực nhưng giá cả thì quá đắt thậm chí cao gấp hai, ba lần so với các nước trong khu vực. Khu vực cơ sở hạ tầng phát triển chậm, chi phí vận chuyển hiện nay rất cao và nguy cơ tắc nghẽn giao thông là điều khó tránh khỏi. Với cơ sở hạ tầng như vậy sẽ làm cho môi trường kinh doanh kém hấp dẫn, hạn chế sức cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta. Chính vì vậy, với điều kiện nguồn vốn trong nước còn có hạn thì cần phải sử dụng sức mạnh tổng hợp trong nước và quốc tế thông qua hình thức liên doanh, liên kết khácn hau để nâng cấp, mở rộng xây dựng kết cấu hạ tầng.
Tuy nhiên, thành công của các biện pháp này có đạt được hay không còn tuỳ thuộc vào việc thực hiện một loạt các chính sách kinh tế vĩ mô khác như: chính sách thương mại; chính sách đầu tư phát triển với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, chính sách tài chính tín dụng,... các chính sách này phải được nghiên cứu và được thực hiện một cách đồng bộ.
kết luận
Như vậy với những nghiên cứu trên đây cho phép chúng ta kết luận rằng con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên tăng trưởng xuất khẩu là con đường đúng đắn đưa nền kinh tế Việt Nam “cất cánh” và thực hiện được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí MInh là một Việt Nam phát triển cùng sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Nhưng trên thực tế con đường chúng ta đi không phải là một con đường dễ dàng. Cùng với những thành tích mà chúng ta đã đạt được, với kinh nghiệm thực tiễn của đất nước và các nước trên thế giới sẽ giúp cho Việt Nam vững bước đi lên. Thực tế trong những năm qua đã cho chúng ta thấy rõ sự chuyển đổi của nền ngoại thương Việt Nam nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng sang cơ chế thị trường, mở cửa đa phương, đa chiều các quan hệ thị trường, bạn hàng theo thông lệ quốc tế, từng bước xoá bỏ nguyên tắc “Nhà nước độc quyền quản lý ngoại thương” bằng các chính sách, biện pháp khuyến khích phát triển một nền ngoại thương nhiều thành phần và thực hiện tự do hoá thương mại. Chính vì thế xuất khẩu Việt Nam đã có những tiến triển vượt bậc, góp phần tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, thời gian qua hoạt động xuất khẩu của Việt Nam cũng đã không tránh khỏi những khó khăn vướng mắc đòi hỏi phải có biện pháp tháo gỡ trong trước mắt và lâu dài.Hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động xuất khẩu hàng mây tre đan đã và đang là hoạt động có đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Mặc dù còn gặp khó khăn về vốn, về công nghệ chế biến, về thị trường xuất khẩu nhưng xuất khẩu hàng mây tre đan vẫn là hoạt động mang lại lợi ích đáng kể cho đất nước vì thế trong giai đoạn từ nay đến 2010 Việt Nam phải lựa chọn cho mình chiến lược xuất khẩu đúng đắn, phát huy có hiệu quả cao nhất các lợi thế so sánh của đất nước trong quá trình mở cửa, hợp tác phân công lao động và phát triển thương mại quốc tế. Trong quá trình thực hiện các chiến lược xuất khẩu, cần quán triệt các quan điểm cơ bản của Đảng và kết hợp thực hiện các giải pháp, chính sách lớn và các biện pháp để đạt được mục tiêu đề ra.
Tài liệu tham khảo
1). Giáo trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Đại học Kinh tế quốc dân - NXB Khoa học-Kỹ thuật- Năm 1997.
2).Giáo trình Thương mại quốc tế.
Đại học Kinh tế quốc dân - NXB KH_KT - Năm 1997.
3). Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương.
Đại học Ngoại thương - NXB Giáo dục - Năm 1996.
4). Kinh tế và kinh doanh thương mại dịch vụ trong nền KTTT.
Đại học Kinh tế quốc dân - NXB KH_KT - Năm 1998.
5). Thương mại quốc tế, lý thuyết và chính sách.
Đại học Kinh tế quốc dân - NXB Thống kê - Năm 1998.
6). Thương mại điện tử.
Bộ Thương mại - NXB Thống kê - Năm 1999.
7). Giáo trình Quản lý xã hội .
Đại học Kinh tế quốc dân - Năm 1999.
8). Niên giám thống kê
9). Các tạp chí Kinh tế thế giới.
10). Các tạp chí Kinh tế phát triển.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35212.doc