Với việc hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ được được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 2001, chúng ta phần nào thấy được tương lai tốt đẹp cho quan hệ thương mại hai nước hai nước. Tuy nhiên cùng với những thuận lợi mới chúng ta sẽ phải đối mặt với nhưng thách thức trong một mội trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Trong điều kiên đó để chuẩn bị cho mình một hành trang nhất định, mọi ngành, mọi cấp, các cơ quan quản lý, các cơ quan hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu các quy định của pháp luật Hoa Kỳ, các chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ cũng như các quy định điều tiết thương mại hàng hoá trong Hiệp định một cách kỹ càng. Bên cạnh đó bản thân Nhà nước Việt Nam phải tạo dựng các hành lang pháp lý, xây dựng các chính sách, chiến lược hợp lý, cũng như có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể đứng vững trong một môI đầy tính cạnh tranh cạnh tranh . Tuy nhiên với những gì mà Việt Nam đã đạt được trong những năm qua chúng ta hi vọng rằng Việt Nam sẽ đứng vững và phát triển mạnh mẽ trong thế kỉ mới với xu thế hội nhập toàn cầu và trong mối quan hệ mới với Hoa Kỳ.
47 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1598 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n của nhân dân, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu cụ thể của Chiến lược là:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của sản phẩm , của doanh nghiệp và của nền kinh tế. Tích luỹ nội bộ nền kinh tế đạt trên 30% GDP.
- Nhịp độ tăng xuất khẩu gấp trên hai lần nhịp độ tăng GDP. Tỷ trọng trong GDP của nông nghiệp 16-17%, công nghiệp 40-41%, dịch vụ 42-43%.
- Nhịp độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp (kể cả xây dựng) bình quân trong 10 năm tới đạt khoảng 10-10,5%/năm. Đến năm 2010, công nghiệp và xây dựng chiếm 40-41% GDP và sử dụng 23-24% lao động.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát và cụ thể của Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội của Việt Nam, trong giai đoạn từ 2001 đến 2010, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX cũng đã nêu rõ Định hướng phát triển kinh tế đối ngoại trong đó có định hướng phát triển hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam mà cụ thể là:
Về xuất khẩu
- Tăng tổng kim ngạch xuất khẩu. Tạo thị trường ổn định cho một số mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới, nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu.
- Phấn đấu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm tới đạt khoảng 114 tỷ USD, tăng 16%/năm, trong đó nhóm hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm là 15,9%; nhóm hàng công nghiệp tiêu dùng và tiểu thủ công nghiệp chiếm 43% kim ngạch xuất khẩu công nghiệp, tăng bình quân hàng năm 22%; nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng bình quân hàng năm 16,2%.
Về nhập khẩu
- Bảo đảm nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh trong nước.
- Phấn đấu đạt tổng kim ngạch nhập khẩu 5 năm khoảng 118 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm 15%, trong đó, nhóm hàng máy móc, thiết bị và phụ tùng chiếm 32,6% tổng kim ngạch nhập khẩu; tăng bình quân 17,2%/năm; nhóm hàng nguyên nhiên vật liệu chiếm 63,5% tăng bình quân 13,9%/năm; nhóm hàng tiêu dùng chiếm khoảng 3,9% bằng 5 năm trước.
Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu thời kỳ 2001-2010:
Để thực hiện Chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và định hướng phát triển kinh tế đối ngoại nói riêng của Đại hội Đảng IX, ngày 27 tháng 10 năm 2000, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg về Chiến lược phát triển xuất - nhập hàng hóa và dịch vụ thời kỳ 2001-2010. Chỉ thị khẳng định “Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010, nhất là xuất khẩu phải là chiến lược tăng tốc toàn diện, phải có những khâu đột phá với bước đi vững chắc tiếp tục chủ trương dành ưu tiên cao nhất cho xuất khẩu”. Chỉ thị nêu rõ:
- Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010 phải đạt mức tăng trưởng bình quân từ 15%/năm trở lên phấn đấu cân bằng cán cân thương mại vào những năm 2009-2010 và xuất siêu vào thời kỳ sau 2010.
- Giảm xuất khẩu hàng chế biến thô; tăng tỷ trọng hàng chế biến sâu bằng công nghệ mới.
- Đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu trực tiếp vào các thị trường có sức mua lớn như Hoa Kỳ, Tây Âu.
- Nhập khẩu tăng trưởng bình quân 14%/năm cho cả giai đoạn 2001-2010; chú trọng nhập khẩu công nghệ cao; tăng cường tiếp cận các thị trường cung ứng nguồn như Hoa Kỳ, Tây Âu, Nhật Bản,v.v
Cùng với định hướng chiến lược tổng quát và cụ thể trong thời kỳ 2001-2010, với việc Quốc hội Hoa Kỳ thông qua Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ vào ngày 10 thang 12 năm 2001, và với những tài liệu thu thập được về phương pháp cũng như những con số dự báo về tương lai xuất nhập khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ, em xin được tổng hợp lại tiềm năng hai bên có thể đạt được sau khi hiệp định có hiệu lực.
Phương pháp dự báo được đưa ra theo hai cách tiếp cận. Cách thứ nhất là dự báo về thị trường Hoa Kỳ nói chung với ý nghĩa là một trong những thị trường nhập khẩu mới, đầy tiềm năng đối với hàng hoá của Việt Nam. Cách thứ hai là dự báo tiềm năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ theo nhóm mặt hàng.
2.1. Dự báo tiềm năng xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ
2.2.1 Hoa Kỳ - Thị trường xuất khẩu mới đầy tiềm năng đối với hàng hoá của Việt Nam sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, qua đó Chính phủ Hoa Kỳ sẽ phải ngay lập tức và vô điều kiện dành cho hàng hoá của Việt Nam hưởng Quy chế Tối huệ quốc (tức là được đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử mà Hoa Kỳ đã dành cho hàng hoá tương tự của bất kỳ nước thứ ba nào khác), Quy chế Đối xử Quốc gia và loại bỏ tất cả các hạn chế, hạn ngạch, yêu cầu giấy phép và kiểm soát nhập khẩu đối với hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang thị Hoa Kỳ. Ngoài ra Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ còn quy định rằng: Chính phủ Hoa Kỳ sẽ xem xét khả năng dành cho Việt Nam Chế độ Ưu đãi Thuế quan Phổ cập. Như vậy là căn cứ vào thực trạng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang Hoa Kỳ trong thời gian qua; căn cứ vào định hướng chiến lược phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001-2010 trình bày ở trên, đặc biệt, căn cứ vào chính sách, chế độ, qui chế điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước đã được thoả thuận trong Hiệp định song phương Việt Nam-Hoa Kỳ, có thể dự đoán rằng, riêng đối với thị trường Hoa Kỳ, kim ngạch hàng hoá Việt Nam xuất sang thị trường này sẽ tăng 15% hàng năm trong 3 năm đầu (sau khi Hiệp định có hiệu lực) và 18% cho 3 năm tiếp theo và vẫn giữ ở vị trí tăng lên 15% cho đến hết năm 2010.
2.2.2. Dự báo tiềm năng xuất khẩu theo nhóm mặt hàng
Nhóm mặt hàng hải sản
Hoa Kỳ là nước xuất khẩu hải sản lớn nhất thế giới và cũng là nước nhập khẩu hải sản lớn thứ 2 thế giới, sau Nhật Bản. Hàng năm, Hoa Kỳ phải nhập khẩu trung bình một lượng hải sản giá trị khoảng 2,5 tỷ USD từ các nước châu á và cho đến năm 1996 thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1,14% giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Hoa Kỳ từ các nước châu á và 0,42% giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Hoa Kỳ từ các nước trên thế giới. Vì thế, có thể khẳng định rằng đây là thị trường vô cùng rộng lớn và đầy triển vọng đối với ngành nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản Việt Nam.
Mặt hàng nhập khẩu chính của Hoa Kỳ là tôm các loại trong khi đây cũng là mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam. Dự báo, Việt Nam có thể xuất khẩu 600 triệu USD hải sản vào Hoa Kỳ năm 2010, tăng 7 lần so với năm 1998, 6 lần so với năm 2000 và gần bằng mức xuất khẩu của Thái Lan hiện nay.
Nhóm hàng nông sản
Nhóm hàng này do thị trường Hoa Kỳ có nhu cầu cao và mức thuế nhập khẩu bằng 0 hoặc rất thấp, nên hàng Việt Nam đã vào gần đúng vị trí so với khả năng của mình, nên trong thời kỳ 2001-2010 sẽ tiếp tục tăng vọt như mấy năm vừa qua. Ngoài ra, các mặt hàng này còn phụ thuộc nhiều vào sản lượng, thời tiết và giá ở Việt Nam và trên thế giới. Tuy nhiên, định hướng xuất khẩu của nhóm các mặt hàng này bình quân có thể tăng 15%/năm và tới năm 2010 dự kiến tăng hơn gấp đôi năm 2000, đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng hơn 350 triệu USD.
- Cà phê: Tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa Kỳ đối với các loại cà phê năm 1992 là 1.612 tỷ USD; năm 1997 là 3,726 tỷ USD và năm 1998 giảm xuống 3.237 USD. Dự kiến trong 10 năm tới, nhu cầu nhập khẩu của Hoa Kỳ sẽ tăng khoảng 10%/năm (Báo cáo của Thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ).
Trong 10 năm tới (đến 2010) xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ có những tăng giảm bất thường do thị trường cà phê thế giới thường có những biến động. Nếu giá cả, chất lượng cạnh tranh tốt thì ta có thể tăng được xuất khẩu vào Hoa Kỳ tương ứng với mức tăng nhu cầu thị trường, ít nhất với mức tăng bình quân (10-15%/năm), đạt khoảng 350 triệu USD vào năm 2010. Tuy nhiên, do thị trường Hoa Kỳ chủ yếu tiêu thụ cà phê ARABICA nên nếu chương trình trồng cà phê ở miền Bắc thành công thì xuất khẩu cà phê Việt Nam cũng sẽ tăng nhiều hơn nhờ loại cà phê này.
- Hạt tiêu: Hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu số lượng lớn hạt tiêu chưa xay và đã xay (năm 1992 nhập trên 112 triệu USD, năm 1998 nhập trên 302 triệu USD, tăng 170 lần so với năm 1992 và 17% so với năm 1997). Mặt hàng này Việt Nam thâm nhập vào Hoa Kỳ chậm hơn cà phê, nhưng từ những năm tới, khả năng tăng xuát khẩu mặt hàng này sẽ cao vì Trung Quốc, Tây Ban Nha, những nước hiện đang đứng trên Việt Nam về xuất khẩu mặt hàng này, lại không có nhiều hạt tiêu như Việt Nam.
- Chè các loại: Hàng năm Hoa Kỳ nhập khẩu các loại chè xanh và đen, trung bình 130 triệu USD/năm (từ 1992-1997), riêng 1998 nhập 170 triệu USD. Giai đoạn 2000-2010, Việt Nam có thể tăng đều đặn 20%/năm nếu tăng được xuất khẩu trực tiếp và có thể đạt 3 triệu USD vào năm 2010. Nếu như có sự đầu tư bao tiêu sản phẩm của các công ty Hoa Kỳ, có thể đạt 6 triệu USD.
- Gạo: Nhiều khách hàng Hoa Kỳ mua gạo Việt Nam để xuất khẩu sang châu Phi theo các chương trình viện trợ của Chính phủ Hoa Kỳ. Trước khi có NTR, thuế nhập khẩu đối với gạo là 0,055 USD sau khi có NTR là 0,021 USD/kg. Mức thuế như vậy là thấp và thị trường nhập khẩu gạo của Hoa Kỳ là rộng mở đối với Việt Nam.
Nhóm mặt hàng khoáng sản
- Dầu mỏ: Hoa Kỳ là nước có kỹ thuật về khai thác cũng như lọc dầu tiên tiến nhất trên thế giới nhưng cũng là nước nhập khẩu dầu khí lớn nhất thế giới. Việt Nam bắt đầu xuất khẩu dầu thô vào thị trường Hoa Kỳ từ năm 1998 và giá trị xuất khẩu năm 1999 là 83,8 triệu USD. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là việc chưa có khách hàng truyền thống là các nhà máy lọc dầu lớn của Hoa Kỳ cũng là một nguyên nhân làm cho trong 6 tháng đầu năm 1999, Việt Nam không bán được một tấn dầu thô nào cho thị trường này.
Năm tập đoàn công nghiệp dầu mỏ hàng đầu thế giới hiện nay là SHELL và BP (Anh), ESSON và MOBIL (Hoa Kỳ), ELT-EQUITANIE (Pháp) đều đang có mặt tại Việt Nam và làm ăn rất thành công chứng tỏ sức mạnh về tiềm năng sản xuất và xuất khẩu dầu thô của Việt Nam rất lớn nên đã thu hút được các công ty hàng đầu thế giới. Chắc chắn rằng, trong một vài năm tới Hoa Kỳ sẽ nằm trong số bạn hàng lớn về dầu thô, bởi vì, đó là một trong số những dự án nghiên cứu của công ty Hoa Kỳ tại Việt Nam khi thị trường nội địa không tiêu dùng hết. Dự báo đến năm 2010, xuất khẩu dầu thô và khí tự nhiên Việt Nam vào Hoa Kỳ đạt 200 triệu USD.
- Khí đốt: Nói chung, xuất khẩu khí đốt của Việt Nam còn nhỏ bé so với khả năng nhập khẩu khí đốt của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, với khả năng khai thác khí đốt trong việc phát triển các dự án nhiệt điện, Việt Nam rất có khả năng tăng xuất khẩu mặt hàng khí đốt vào Hoa Kỳ lên tới 100 triệu USD vào năm 2010.
- Than đá: Là nước xuất khẩu lớn về than đá nhưng Hoa Kỳ cũng nhập khẩu một lượng lớn than đá do hàng nhập khẩu có thể rẻ hơn hàng nội địa. Tuy nhiên có một lợi thế là than đá Việt Nam rất phù hợp hơn cho ngành công nghiệp luyện thép mà ngành luyện thép Hoa Kỳ đang phải giảm sản xuất do giá thành cao, cộng với các vấn đề về môi trường nên xuất khẩu than của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ bị hạn chế trong thời gian tới.
Một số nhóm mặt hàng khác
Là nước có nền công nghiệp lớn nhất thế giới và có nhiều loại rau quả với số lượng lớn, nhưng Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu rau quả lớn nhất thế giới. Đề án phát triển rau quả của Việt Nam ở các vùng trong cả nước nhằm thoả mãn nhu cầu về rau quả trong cả nước, cũng như những cố gắng tăng kim ngạch xuất khẩu rau quả tươi và chế biến lên 1 tỷ USD năm 2010 sẽ tạo ra khả năng lớn trong việc xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Hoa Kỳ.
- Nhóm thực phẩm chế biến từ thịt và tôm, cá: Hoa Kỳ là một nước nhập khẩu nhiều các sản phẩm chế biến từ thịt, cá, tôm. Trong nhóm hàng này, Việt Nam có thế mạnh về xuất khẩu tôm chế biến. Những năm gần đây, thị trường Hoa Kỳ có mức tăng nhập khẩu đối với mặt hàng này từ khoảng 20-30%/năm, do đó nếu Việt Nam đầu tư để sản xuất với chất lượng tốt thì có thể đạt được mức tăng 30%/năm và tới năm 2010 có thể đạt 50 triệu USD và có thể vươn lên đứng thứ hai (sau Thái Lan) trong số các nước xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Hoa Kỳ.
- Hàng gốm sứ: Việt Nam có lợi thế là ngành nghề thủ công truyền thống, có mẫu, mã đẹp và giá nhân công rẻ. Sau khi Hiệp định Thương mại song phương có hiệu lực thì một số mặt hàng gốm sứ như chậu cảnh, voi gốm, v.v có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ tới hàng chục triệu USD/năm, dự báo sẽ khoảngđạt 300 triệu USD vào năm 2010.
- Cao su và sản phẩm cao su: Đây là nhóm mặt hàng có nhu cầu rất lớn ở Hoa Kỳ, do các ngành công nghiệp, nhất là công nghiệp ô tô phát triển mạnh. Trong khi đó, Việt Nam là nước Đông Nam A có thể mạnh về trồng cao su thiên nhiên. Trong tương lai, nếu Nhà nước có chương trình đầu tư hoặc thu hút đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực phát triển công nghiệp sản xuất các sản phẩm cao su, thì đến năm 2010, việc xuất khẩu vào thị trưòng này dự báo mỗi năm đạt khoảng từ 150-200 triệu USD giá trị sản phẩm cao su các loại, là điều một dự báo có cơ sở.
- Hàng dệt may: Theo thống kê, hàng năm Hoa Kỳ đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Theo tình hình hiện tại, dự đoán sau khi có NTR Việt Nam có thể xuất khẩu ngay vào Hoa Kỳ và kim ngạch có thể đạt 1 tỷ USD ngay từ năm đầu nếu chúng ta chuẩn bị tốt. Nếu giữ được thị trường này cho hàng dệt may thì khả năng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ từ nay đến năm 2010 sẽ là một điều thuận lợi cho ngành may mặc Việt Nam đạt tới con số 1,5 tỷ USD.
Kết luận: Như đã phân tích ở trên, dự báo về xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào Hoa Kỳ trong thời kỳ 2000-2010 được đưa ra trên cơ sở là hàng hoá Việt Nam được hưởng NTR từ cuối năm 2001 và quan hệ hai nước sẽ được tăng cường hơn sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Các dự đoán trên còn dựa trên cơ sở sau đây:
- Những năm 2000-2005 là thời kỳ chuyển hướng thị trường và thay đổi cơ cấu kinh tế, nên sẽ có tăng trưởng đột biến trong tổng giá trị xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ, đặc biệt là các mặt hàng giày, dép, may mặc, máy móc, điện tử, đồ chơi, nông sản chế biến. Thời kỳ này, chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu các mặt hàng mà ta đang có ưu thế về thủ công và lao đông rẻ như: giày, dép, may mặc, thủ công mỹ nghệ truyền thống và bước đầu phát triển máy móc và hàng chế biến cao chuẩn bị cho thời kỳ tiếp theo.
- Thời kỳ 2005-2010 xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ tăng chậm nhưng phải tăng gấp đôi trong 5 năm. Hàng nguyên liệu thô và nông sản thô tăng chậm hơn hay giữ nguyên thị phần. Đến năm 2010 thị phần của Việt Nam trong nhập khẩu của Hoa Kỳ cố gắng chiếm 0,96%, đây là một chỉ tiêu tương đối cao. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ có thể đạt được quy mô trên khi đẩy mạnh được quá trình công nghiệp hoá, thu hút đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
- Nhập khẩu của Hoa Kỳ trong thập kỷ qua đã đạt tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 10%/năm và dự kiến trong thập kỷ tới sẽ vẫn đạt được nhịp độ như thế. Các nền kinh tế khác, kể cả Việt Nam cũng được hưởng chung thành quả này. Vì vậy chúng ta hy vọng Hoa Kỳ trong thời gian tới vẫn giữ được mức độ tăng trưởng.
2.2. Dự báo hàng hoá cần nhập khẩu từ Hoa Kỳ vào Việt Nam
Sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, dự báo chung là nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam từ Hoa Kỳ sẽ tăng liên tục ở mức 14%/năm cho cả thời kỳ 2001-2010, cùng với sự tăng trưởng nền kinh tế. Tuy nhiên, định hướng nhập khẩu của Việt Nam là chỉ chú trọng nhập khẩu công nghệ cao để đáp ứng yêu cầu của các ngành chế biến nông, lâm, thuỷ, hải sản đồng thời hạn chế việc nhập khẩu các sản phẩm trong nước đã sản xuất được. Ngoài ra, tăng cường nhập khẩu các thiết bị kỹ thuật nhằm đáp ứng mục tiêu: đổi mới, hiện đại hoá thiết bị, công nghệ và đảm bảo nguồn vật tư, nguyên liệu cho các ngành kinh tế chủ chốt, góp phần ổn định thị trường, ổn định nền kinh tế và đời sống xã hội.
Với tầm nhìn chiến lược đó, có thể dự báo một số nhóm mặt hàng chủ yếu nhập khẩu từ Hoa Kỳ.
2.2.1. Dự báo một số nhóm mặt hàng nhập khẩu
Hàng máy móc thiết bị, phương tiên vận tải, thiết bị y tế và các loại máy móc chuyên dụng khác
Đây vẫn là mặt hàng ưu tiên nhập khẩu của Việt Nam, hàng năm chiếm khoảng 30% tổng kim ngạch nhập khẩu. Căn cứ vào nhu cầu trong nước và chủ trương đổi mới công nghệ, có thể thấy kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này từ Hoa Kỳ sẽ rất cao, đặc biệt là các loại máy phục vụ sản xuất, các thiết bị vô tuyến điện, viễn thông trong thời gian tới. Kim ngạch nhập khẩu nhóm máy móc phương tiện vận tải sẽ tăng vọt nếu ta tiếp tục ký các hợp đồng nhập khẩu máy bay với Hoa Kỳ. Ngoài ra, việc tăng cường đầu tư và thực hiện các cam kết đầu tư đã có thể tạo điều kiện hơn nữa cho việc nhập khẩu nhóm mặt hàng này từ Hoa Kỳ.
Hàng tiêu dùng
Hàng tiêu dùng Hoa Kỳ vào Việt Nam thời gian qua chủ yếu là của các công ty Hoa Kỳ ở Châu á sản xuất, chứ không phải là hàng hoá được sản xuất trên đát Mỹ. Vì thế, một trong các xu hướng trong những năm tới sẽ là nhập khẩu hàng tiêu dùng Mỹ từ Mỹ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có chủ trương hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng (dưới 20% tổng kim ngạch hàng nhập khẩu) nên thời gian tới, xuất khẩu tại chỗ của các công ty Hoa Kỳ tại Việt Nam sẽ là xu hướng chính trong việc nhập khẩu hàng tiêu dùng của Hoa Kỳ vào Việt Nam.
Phân bón
Đây là một mặt hàng nhập khẩu quan trọng đối với một nền kinh tế nông nghiệp như nước ta, khi mà hầu hết toàn bộ lượng phân đạm tiêu thụ trong nước (92%) phải nhập khẩu. Trong những năm tới, nhập khẩu phân bón vẫn là nguồn cung cấp chính. Các doanh nghiệp Việt Nam đã tìm được nguồn cung cấp khá ốn định từ thị trường Hoa Kỳ, vì thế mặt hàng này sẽ giữ vững và tăng mạnh kim ngạch nhập khẩu trong thời gian tới.
Bông sợi
Hoa Kỳ là nước có sản lượng bông lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 23% tổng sản lượng thế giới. Hoa Kỳ cũng là nước xuất khẩu bông lớn nhất thế giới, còn Việt Nam thì nhu cầu bông ngày càng tăng do sự tăng trưởng mạnh của nganh dệt may. Vì vậy, trong thời gian tới, Hoa Kỳ là một thị trường cung cấp bông đầy triển vọng đối với Việt Nam. Trong những năm tới khi hưởng NTR và GSP của Hoa Kỳ, hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ thoả mãn các điều kiện về xuất xứ nguyên liệu do Luật pháp Hoa Kỳ quy định, chắc chắn sẽ thúc đẩy nguồn hàng bông sợi nhập từ Hoa Kỳ.
2.2.2. Kết luận
Cùng với thực trạng và triển vọng hoạt động nhập khẩu giữa hai nước như đã phân tích ở trên, nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ sẽ tăng nhanh chóng, dự đoán trong thời gian tới có thể đạt 400-600 triệu USD mỗi năm trong các năm trước mắt. Với việc Việt Nam được hưởng NTR và EXIMBANK khai thông tài trợ cho các công ty Hoa Kỳ kinh doanh với Việt Nam ... thì nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ chắc chắn sẽ chiếm phần lớn hơn nhiều trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, cụ thể lấy mốc năm 2000 (khi mà nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ chỉ chiếm 2,4% tổng trị giá kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam) cứ tăng đầu bình quân là 14% một năm thì rõ ràng Hoa Kỳ sẽ là thị trường nhập khẩu đầy tiềm năng của Việt Nam.
III. các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá việt nam sang Hoa Kỳ
3.1. Nhóm giải pháp mang tính vĩ mô
3.1.1. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm tạo ra sự phù hợp với những quy định của luật pháp Hoa Kỳ và Hiệp định Thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ
Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có rất nhiều quy định đặc thù và cùng với tính hiệu lực pháp lý, Hiệp định sẽ tạo nên rất nhiều điểm khác biệt so với những quy định của luật pháp trong nước. Đó là, những khác biệt nằm trong các quy định của Hiệp định về chính sách thuế, về các khoản lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu, về cạnh tranh, về thương mại nhà nước, về giải quyết tranh chấp, v.v. Bên cạnh đó, thị trường Hoa Kỳ là thị trường đòi hỏi phải có sự tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về chất lượng hàng hoá, xuất xứ, về giá cả và về thị hiếu khách hàng. Để thực hiện những qui định trong hiệp định cũng như khai thác thuận lợi sau khi Hiệp định Thương mại có hiệu lực nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ, trước mắt, cần tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Để làm được điều này, cần thực hiện ngay các công việc sau đây:
-Tiếp tục rà soát lại hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng của Việt Nam nhằm loại bỏ những văn bản (luật hoặc dưới luật) đã lỗi thời, bất cập và không mang lại hiệu quả.
Đây là công việc phức tạp, tốn kém, đòi hỏi phải có sự đầu tư của Nhà nước về kinh phí cũng như về nguồn nhân lực. Cùng với việc đầu tư, việc phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành hữu quan cũng là công việc đặc biệt quan trọng. Hiện nay, Bộ Tư Pháp được giao nhiệm vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan hữu quan để rà soát, đối chiếu, so sánh các cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Mỹ với các văn bản hiện hành. Tuy nhiên, công việc này không phải chỉ làm trong một vài tháng mà phải làm trong một vài năm, trước mắt là làm ngay trong 2 năm đầu, kể từ khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Làm được điều này cũng chính là đẩy nhanh tiến trình Việt Nam gia nhập WTO.
- Sửa đổi Luật Thương mại Việt Nam năm 1997 cho phù hợp với tình hình mới, hoàn thiện Quy chế thương nhân và bổ sung các quy định về chính sách quản lý xuất khẩu rõ ràng, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển xuất khẩu của Đảng, cũng như phù hợp với Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ.
- Khẩn trương soạn thảo và ban hành luật cạnh tranh và chống độc quyền nhằm tạo sự cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong việc xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài nói chung và thị trường Hoa Kỳ nói riêng
- Ban hành mới và sửa đổi các luật thuế xuất khẩu, phù hợp với lịch trình cắt giảm thuế đối với hàng hoá theo quy định của Hiệp định Thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ.
Một trong những biện pháp tích cực nhất để thực hiện nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định là Chính phủ Việt Nam phải bảo đảm cho hàng hoá của Hoa Kỳ xuất sang Việt Nam, được hưởng MFN và NT. Để thực thi nghĩa vụ này, Dự thảo Pháp lệnh về Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử Quốc gia đã được soạn thảo. Tuy nhiên, thời gian qua, các công việc liên quan nhằm sớm ban hành pháp lệnh này còn được triển khai chậm, ở phạm vi hẹp. Vì vậy cần phải tích cực hơn nữa trong việc xây dựng, thảo luận và thông qua Pháp lệnh về Đối xử Tối huệ quốc và Đối xử Quốc gia vì đây là những nghĩa vụ cơ bản mà phía Việt Nam phải thực hiện khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực.
3.1.2. Tích cực chuẩn bị thực hiện những nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định
Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, Chính phủ Việt Nam sẽ phải thực hiện mọi cam kết như: Cho Hoa Kỳ hưởng MFN, NT mở cửa thị trường dịch vụ, v.v. Đây là những nghĩa vụ rất nặng nề. Do đó, Chính phủ Việt Nam cần khẩn trương chỉ đạo mọi ngành, mọi cấp, từ Trung ương đến địa phương, phối hợp chặt chẽ để thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
3.1.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phổ biến về thị trường Hoa Kỳ, về chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ và Hiệp định Thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ.
Chúng ta biết rằng thị trường Mỹ là một thị trường khó tính và mức độ cạnh tranh rất cao do đó để xâm nhập vào thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tìm hiểu rất nhiều luật và quy định về thương mại của Mỹ. Các doanh nghiệp phải nắm được những quy định điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán giữa mình và các thương nhân Mỹ trong Luật Thương mại của Mỹ cùng những điểm khác biệt so với Luật Thương mại Việt Nam. Mặt khác, luật và các quy định về thuế và hải quan của Mỹ như Danh bạ thuế thống nhất, Chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, cơ sở tính thuế hải quan hay những quy định về xuất xứ hàng hóa có tác động trực tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp khi xuất khẩu sang Mỹ. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không thể thành công trên thị trường nếu không nghiên cứu hệ thống hàng rào phi thuế quan với những quy định chi tiết về danh mục hàng hóa hạn chế nhập khẩu, cấm nhập khẩu, những quy định về vệ sinh dịch tễ đối với hàng hóa nhập khẩu hay Luật chống phá giá, Luật thuế bù trừ của Mỹ.
Với một hệ thống luật và quy định phức tạp như vậy và một thực tế rằng ngoài luật toàn liên bang thì đối với các bang khác nhau ở Mỹ lại có hệ thống luật hay quy định khác nhau, do đó các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc nghiên cứu do đó rất cần sự giúp đỡ từ phía Nhà nước. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực này, Nhà nước cần tổ chức các khóa đào tạo, các lớp tập huấn hay hội nghị, hội thảo về hệ thống pháp luật thương mại của Mỹ nhằm nâng cao hiểu biết của các doanh nghiệp về khía cạnh pháp lý trong kinh doanh với Mỹ. Đồng thời, Nhà nước cần khuyến khích các cơ quan, các Bộ, ngành liên quan và các cá nhân xuất bản và lưu hành những ấn phẩm hay băng, đĩa về vấn đề này dưới dạng sách hay những bài viết trên báo, tạp chí hay đĩa hình nhằm tạo nguồn thông tin phong phú và chính xác cho các doanh nghiệp Viẹt Nam tham khảo. Mặt khác, Nhà nước cũng có thể hỗ trợ các doanh nghiệp thông qua việc cung cấp một số địa chỉ tư vấn pháp luật đáng tin cậy cho các doanh nghiệp.
Để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng và các cơ quan quản lý nói chung phải có sự hiểu biết nhất định về thị trường Hoa Kỳ, về đặc điểm của pháp luật cũng như chính sách của Hoa Kỳ đối với việc quản lý nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào Hoa Kỳ. Việc này không còn là công việc của doanh nghiệp nữa, mà hiện nay nó đã là công việc quan trọng của Nhà nước, có ý nghĩa quyết định để giúp doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập thị trường Hoa Kỳ. Trên cơ sở đó Nhà nước nên:
- Cho tuyên truyền, bằng nhiều kênh thông tin đại chúng, bằng nhiều hình thức về thị trường Hoa Kỳ, về pháp luật, về chính sách nhập khẩu của Hoa Kỳ cũng như về tiêu chuẩn chất lượng và thị hiếu người tiêu dùng Hoa Kỳ.
- Thành lập Quỹ hỗ trợ xúc tiến để tìm hiểu thị trường Hoa Kỳ và cử các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng thâm nhập thị trường Hoa Kỳ đi khảo sát bằng nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước.
- Khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam tự bỏ kinh phí để tiếp cận, khảo sát thực tế thị trường Hoa Kỳ, xây dựng các văn phòng chi nhánh tji Hoa Kỳ để thường xuyên có những thông tin cập nhật về những biến động trên thị trường.
3.1.4. Tiếp tục có chính sách hỗ trợ thương mại mạnh mẽ hơn nữa đối với việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ
Trong 5 năm đầu, kể từ sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ có hiệu lực, cần có một số chính sách đặc biệt để hỗ trợ xuất khẩu hàng hoá sang Hoa Kỳ, như:
- Hỗ trợ và bảo vệ thu nhập ổn định cho người nông dân để họ yên tâm sản xuất hàng nông nghiệp và các sản phẩm nông nghiệp.
- Đầu tư công nghệ cho việc sản xuất và chế biến sản phẩm nông nghiệp, hải sản, v.v
Đây là những hàng hoá thuộc thế mạnh của Việt Nam mà những người Mỹ rất ưa chuộng. Để có chính sách hợp lý, Chính phủ cần cho thành lập các quỹ như Quỹ hỗ trợ xuất khẩu nông sản, Quỹ tín dụng hàng hoá nông nghiệp, đồng thời xây dựng các chương trình hỗ trợ và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu mặt hàng thuộc hải sản và sản phẩm nông nghiệp, xây dựng chương trình hỗ trợ đặc biệt đối với một số mặt hàng nông nghiệp như ngô, sắn, v.v để qua đó có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng này về vốn cũng như bảo đảm cho các hoạt động xuất khẩu.
3.1.5. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng hiệu quả hơn
- Từng bước hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
- Điều hành linh hoạt lãi suất, tỷ giá hối đoái theo hướng vừa có lợi cho xuất khẩu, vừa bảo đảm ổn định kinh tế.
- Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế không trái với Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ như các hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, môi trường, v.v
- Cần có sự phân bổ rõ giữa vai trò của Nhà nước, chức năng của các cơ quan quản lý với nhiệm vụ của các doanh nghiệp trong công tác quản lý xuất khẩu.
- Tăng cường hoạt động của Quỹ Hỗ trợ Xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu nên tránh hoạt động theo phương thức trợ cấp, mà nên nên hoạt động theo hướng hỗ trợ các doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu hàng hóa nhưng không có điều kiện tiếp cận vốn ngân hàng do không có tài sản thế chấp. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu có thể đứng ra bảo lãnh các khoản vay hoặc cung cấp các khoản tín dụng để doanh nghiệp có thể bán hàng trả chậm cho nước ngoài. Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. Ngoài Quỹ Hỗ trợ xuất khẩu ra các hiệp hội ngành hàng nên tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro riêng cho ngành hàng của mình, nhất là trong những ngành quan trọng, có khối lượng xuất khẩu lớn.
- Cần có chính sách đề bạt, chính sách lương thoả đáng đối với những cán bộ có năng lực về nghiệp vụ, chuyên môn, cũng như về ngoại ngữ trong quá trình thực hiện chức trách quản lý hoạt động xuất khẩu.
3.1.6. Tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp hơn nữa về thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại
Hoa Kỳ là thị trường hoàn toàn mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Các doanh nghiệp hiện đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường Mỹ cũng như thực hiện các hoạt động xúc tiến bán sản phẩm. Vì vậy, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vấn đề này.
Thông qua thương vụ của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ Thương mại phải thu thập và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp. Đồng thời, với những thông tin về thị trường như nhu cầu, đặc điểm, tính chất của hàng hóa, Bộ Thương mại và thương vụ Việt Nam tại Hoa Kỳ cần xây dựng một chiến lược tổng thể về thị trường để giúp các doanh nghiệp trong việc định hướng sản xuất và xây chiến lược xuất khẩu cho riêng mình. Các doanh nghiệp sẽ biết được mặt hàng nào nên sản xuất và với chất lượng ra sao, với mức giá là bao nhiêu, đối thủ cạnh tranh trên thị trường cũng như phương thức cạnh tranh của các đối thủ.
Về công tác xúc tiến bán sản phẩm, Nhà nước cần nhanh chóng thành lập Cục Xúc tiến thương mại để hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực thông tin và tiếp thị. Chức năng của Cục Xúc tiến thương mại là phổ biến thông tin và tổ chức, xúc tiến các hoạt động thương mại. Trên cơ sở chiến lược thâm nhập thị trường đã được hoạch định, Cục Xúc tiến có nhiệm vụ xây dựng lộ trình hành động cụ thể để giúp các doanh nghiệp đưa hàng hóa Việt Nam ra thị trường nước ngoài.
3.2. Nhóm giải pháp mang tính vi mô
3.2.1. Tích cực hơn, chủ động hơn, sáng tạo hơn trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam so với các doanh nghiệp của nước khác ở thị trường Hoa Kỳ
Để làm được điều này, bản thân các doanh nghiệp cần nhận thức rằng: chưa bao giờ doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội như sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ được phê chuẩn. Và do đó, các doanh nghiệp Việt Nam phải ngay lập tức chuẩn bị cho mình một loạt các điều kiện cần thiết để có thể thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Trước hết, mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải:
- Nâng cao hơn nữa trình độ quản lý doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp xuất khẩu), nâng cao chất lượng sản phẩm hàng xuất khẩu (đối với doanh nghiệp sản xuất) bằng cách xây dựng các kế hoạch hành động của mình như đào tạo tích cực hơn nữa trình độ hiểu biết về chuyên môn về nghiệp vụ và ngoại ngữ của các công nhân cũng như cán bộ quản lý...
- Khảo sát, nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ từ nhiều góc độ, bằng nhiều phương pháp để xây dựng chiến lược sản xuất và chiến lược xuất khẩu.
- Có chính sách đối với việc tìm kiếm nguồn hàng có thể chiếm lĩnh thị trường Hoa Kỳ.
- Xây dựng và giữ vững thị trường mục tiêu nhằm từng bước giữ được sự tín nhiệm của khách hàng, củng cố và tiến tới chiếm lĩnh thị phần nhất định.
3.2.2. Nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam để xuất khẩu sang Hoa Kỳ
Một trong những khó khăn của các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu Việt Nam trong quá trình xuất khẩu sang thị trường Mỹ là năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam còn rất thấp. Để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu, các doanh nghiệp cần giải quyết những vấn đề sau đây:
- Ngoài những nguồn đầu tư trong nước, cần phải thu hút và tận dụng một cách tối đa các nguồn vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hoặc là vốn viện trợ chính thức (ODA) vào việc sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao nhằm tạo những sản phẩm có chất lượng tốt và đồng đều, có sức cạnh tranh trên thị trường.
- Một biện pháp quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường Mỹ là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp nhất thiết phải áp dụng phương pháp quản lý chặt chẽ từ quản lý doanh nghiệp, quản lý quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000 và các quy định của các cơ quan kiểm soát chất lượng của Mỹ đối với những mặt hàng mà mình tham gia kinh doanh.
- Cùng với giải pháp về vốn và chất lượng, để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh về giá cả của hàng xuất khẩu Việt nam trên thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp cần tận dụng một cách tối đa các nguyên phụ liệu sản xuất trong nước nhằm hạn chế chi phí đến mức thấp nhất có thể. Mặt khác, một thực tế là hiện nay Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công cho các doanh nghiệp của Hoa Kỳ, do đó tới đây các doanh nghiệp cần đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, từng bước chuyển việc xuất khẩu gián tiếp sang xuất khẩu trực tiếp cho phù hợp với thông lệ buôn bán của thị trường Hoa Kỳ.
- Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng cần được cải thiện nếu doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh hàng xuất khẩu. Các doanh nghiệp nên chú trọng đến vấn đề giảm xuất khẩu sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm chế biến ngày càng sâu và tinh trong cơ cấu hàng xuất khẩu nhằm làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa, đồng thời làm gia tăng giá trị hàng xuất khẩu qua đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu.
3.2.3. Chủ động tiếp cận công nghệ thông qua việc tích cực sử dụng có hiệu quả hơn hệ thống Internet
Thương mại điện tử tuy mới xuất hiện và đang ở dạng tiềm năng nhưng đang phát triển rất nhanh và tiềm năng cũng rất lớn. Thương mại điện tử có nhiều điểm ưu việt và thực sự là một công cụ mới cho chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu của doanh nghiệp. Trước hết, người bán và người mua được nối trực tiếp với nhau và không có hạn chế về không gian và thời gian, cho nên các doanh nghiệp có thể nâng cao hiệu quả của quá trình nghiên cứu thị trường. Nhờ có thương mại điện tử mà các doanh nghiệp xuất khẩu giảm được chi phí quảng cáo, chi phí vận chuyển đặc biệt là đối với hàng hóa là các ấn phẩm điện tử, giảm các loại chi phí khác như chi phí giao dịch. Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam phải có thời gian dài mới có thể tham gia xuất khẩu hàng hóa thông qua mạng Internet, nhưng ngay từ bây giờ các doanh nghiệp Việt Nam phải nhận thức được xu thế của phương thức kinh doanh hiện đại này và chuẩn bị đầy đủ về vốn, ngoại ngữ cũng như các yếu tố về kỹ thuật công nghệ thông tin để sẵn sàng hòa nhập khi có thể.
3.3. Nhóm giải pháp đối với một số hàng xuất khẩu cụ thể
3.3.1. Hàng dệt may
Trước hết, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ cần nghiên cứu và tuân thủ các quy định chặt chẽ về chất lượng, nhãn hiệu hàng hóa, xuất xứ sản phẩm do Mỹ quy định:
- Mọi sản phẩm dệt may xuất khẩu sang thị trường Mỹ phải đạt tiêu chuẩn chất lượng ISO 9000.
- Tất cả hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ đều phải được ghi nhãn hiệu, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước chế tạo, gia công sản phẩm. Từ ngày 1/7/1996, Quy định mới về xuất xứ sản phẩm dệt may của Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Theo đó, nước xuất xứ của sản phẩm may mặc gia công qua nhiều công đoạn được xác định là nơi diễn ra công đoạn may. Đối với sản phẩm dệt thì xuất xứ chính là nơi tiến hành in, nhuộm vải.
Ngoài ra, đơn hàng nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ thường có giá trị lớn nên doanh nghiệp phải có lượng hàng lớn để kịp thời cung ứng. Số lượng hàng lớn mà thời gian cung ứng lại ngắn nên bản thân từng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay khó lòng đảm đương nổi. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải sớm xem xét khả năng hợp tác với nhau, cùng đầu tư trang thiết bị chuyên dùng một cách đồng bộ để có thể sản xuất những lô hàng có tiêu chuẩn giống nhau nhằm thực hiện đơn hàng lớn từ nước bạn.
Đồng thời, Hiệp hội Dệt May Việt Nam cần tích cực tăng cường hoạt động hơn nữa, từng bước góp phần khắc phục những điểm yếu hiện nay của ngành dệt may. Mặt khác, là đại diện cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam, Hiệp hội cần tích cực tham gia hoạt động với các tổ chức quốc tế và khu vực liên quan đến lĩnh vực dệt may như Hiệp hội Dệt May ASEAN, Diễn đàn ngành Dệt May vùng Châu á Thái Bình Dương để trao đổi thông tin và truyền đạt những kiến nghị của ngành dệt may trong nước đối với khu vực và quốc tế nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may trong quá trình kinh doanh xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói riêng.
Nhiệm vụ của ngành dệt may Việt Nam là rất nặng nề trong nỗ lực đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ. Ngành dệt may Việt Nam phải cố gắng xâm nhập thị trường Mỹ càng nhanh càng tốt ngay trong một vài năm đầu khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực mặc dù con đường còn rất nhiều khó khăn trở ngại. Sở dĩ như vậy là do Việt Nam và Mỹ sẽ có một hiệp định về hàng dệt may, trong đó hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam sẽ được xác định trên cơ sở thực tế xuất khẩu hàng dệt may trong một hoặc hai năm đầu. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tương lai xuất khẩu lâu dài của ngành dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ.
3.3.2. Hàng thuỷ sản
Mặc dù được hưởng mức thuế phi MFN chênh lệch không lớn so với mức thuế MFN và luôn là một trong những mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch lớn nhất của Việt Nam sang Mỹ (có kim ngạch lớn nhất năm 2000 với 242,9 triệu USD), xuất khẩu thủy sản Việt Nam vẫn chưa tận dụng hết lợi thế của mình. Ngay cả khi Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, thì xuất khẩu thủy sản cũng khó phát huy hết tiềm năng nếu ngành thủy sản không thực hiện những biện pháp thiết thực, mà cụ thể là:
Thứ nhất, cần phải tăng cường đầu tư và nâng cao năng lực quản lý việc đánh bắt cá xa bờ và nuôi trồng thủy sản để một mặt đảm bảo đủ nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, mặt khác đa dạng hóa chủng loại sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang thị trường Mỹ.
Trước tình hình nguồn tài nguyên ven bờ đã cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua cho nên chủ trương tăng sản lượng khai thác đánh bắt xa bờ là một biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề nguyên liệu cho chế biến thủy sản xuất khẩu, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để lựa chọn những loại thủy sản mới đưa và xuất khẩu. Bên cạnh đánh bắt xa bờ, một lợi thế so sánh khác của Việt Nam để tham gia thương mại quốc tế thời gian tới là đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, để có thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến vốn, diện tích, kỹ thuật nuôi trồng như giống, thức ăn và những ràng buộc về môi trường sinh thái ngành thủy sản chắc chắn rất cần tới sự trợ giúp của Nhà nước và cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, giá hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Mỹ nhìn chung là vẫn thấp, chỉ bằng 70% mức giá cùng loại của Thái Lan và Indonesia nhưng vẫn không cạnh tranh được với hàng từ các nước xuất khẩu khác. Sở dĩ như vậy là do kỹ thuật chế biến hàng thủy sản Việt Nam còn hạn chế. Để khắc phục điểm bất lợi này, cần phải tăng cường hợp tác kinh tế - kỹ thuật với nước ngoài trong việc chế biến hàng thủy sản xuất khẩu.
Việc gia nhập Hiệp hội Nghề cá các nước Đông Nam A cũng như gia nhập các tổ chức khu vực và thế giới AFTA, APEC sẽ mở ra cho Việt Nam những cơ hội vô cùng to lớn để tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thủy sản, cũng như học hỏi những kinh nghiệm trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật của các nước trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philippines, là những nước chế biến thủy sản khá tiên tiến và có sản phẩm thủy sản đạt tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Thứ ba, song song với việc phấn đấu giảm giá thành để có ưu thế trong cạnh tranh quốc tế thì vấn đề đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động xuất khẩu hàng thủy sản của Việt Nam nói chung, hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói riêng. Tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm HACCP (Hazard Analysis Critical Control Point - Phân tích các nguy cơ và kiểm soát các khâu trọng yếu) là yêu cầu bắt buộc đối với hàng thủy sản Việt Nam khi xuất sang thị trường Mỹ. Để chiếm lĩnh thị trường Mỹ, thì không còn cách nào khác ngoài việc các doanh nghiệp sản xuất chế biến thủy sản Việt Nam phải tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để đạt chất lượng theo tiêu chuẩn HACCP.
Cuối cùng, do thủy sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiến lược sang thị trường Mỹ cho nên để giúp các doanh nghiệp sản xuất và chế biến thủy sản xuất khẩu đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Mỹ, Nhà nước cần tăng cường các biện pháp khuyến khích xuất khẩu thủy sản. Chẳng hạn, có chính sách hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật cho các doanh nghiệp Việt Nam như tài trợ xuất khẩu thủy sản và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thủy sản, quỹ tín dụng...
3.3.3. Hàng nông sản
Tuy ngành hàng nông sản đã có một số mặt hàng được thị trường Mỹ chấp nhận, song, hiện nay vẫn còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác và phát huy chưa tương xứng với lợi thế vốn có. Nhiều loại sản phẩm nông nghiệp chưa được khai thác đưa vào xuất khẩu như các sản phẩm thịt gia cầm, một số loại hoa quả nhiệt đới (chuối, quả có múi...). Những sản phẩm đã được khai thác xuất khẩu như cà phê, cao su, chè và gia vị thì hầu hết là ở dạng thô (chiếm tới 70 - 80%), do đó không có lợi thế trong cạnh tranh. Nguyên nhân chính của tình trạng trên là:
- Cơ sở hạ tầng yếu, thiếu sự đồng bộ của các yếu tố sản xuất (điện, nước, kỹ thuật) tại các vùng tập chung chuyên canh sản xuất hàng nông sản.
- Công nghệ sau thu hoạch còn rất nhiều bất cập mà cụ thể là máy móc, thiết bị sản xuất còn sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu chế biến tiêu hao nhiều nguyên liệu trong khi đó chất lượng lại thấp, không đảm bảo.
- Tổ chức hệ thống kinh doanh xuất khẩu còn yếu kém, không hiệu quả, lưu thông chồng chéo, tranh mua, tranh bán, gây tổn hại đến lợi ích chung trong kinh doanh xuất khẩu cũng như lợi ích người sản xuất.
Trên cơ sở đó, để tăng cường khả năng xuất khẩu của ngành nông sản sang thị trường Mỹ, cần phải thực hiện những biện pháp sau đây:
- Đầu tư vốn và kỹ thuật để phát triển và mở rộng nguồn hàng nông sản xuất khẩu: mục tiêu chủ yếu là nhằm khai thác hết tiềm năng của sản xuất nông nghiệp Việt Nam và tạo ra các cơ sở nguồn hàng nông sản xuất khẩu không chỉ có quy mô lớn mà còn phong phú về chủng loại sản phẩm.
- Tăng cường năng lực chế biến để nâng cao giá trị hàng xuất khẩu: song song với việc tăng cường vốn đầu tư để nâng cấp máy móc thiết bị với khoa học công nghệ tiên tiến, trong giải pháp này cần phải chú ý tới việc xây dựng một chương trình đồng bộ cho các sản phẩm trọng điểm dựa trên cơ sở đa dạng hóa để chọn ra các sản phẩm có ưu thế xuất khẩu.
IV. Kiến nghị về một số biện pháp cụ thể nhằm quản lý có hiệu quả hơn đối với việc nhập khẩu hàng hoá từ hoa kỳ
4.1. Ban hành Luật Kiểm soát Nhập khẩu
Cùng với việc Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, Việt Nam phải thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong Hiệp định. Một trong các nghĩa vụ phải thực hiện là cho hàng hoá của Hoa Kỳ được hưởng Quy chế Tối huệ quốc và Đối xử quốc gia khi nhập khẩu vào Việt Nam, cùng hàng loạt các chính sách mới mẻ khác mà lâu nay Việt Nam chưa áp dụng. Cùng với các quy chế và chính sách này, Việt Nam sẽ trở thành thị trường không chỉ của Hoa Kỳ mà còn là thị trường của nhiều hàng hoá của nhiều quốc gia khác. Sự cạnh tranh sẽ thật sự khốc liệt. Trong môi trường cạnh tranh đó, mặt tích cực sẽ được thúc đẩy nhưng cũng không loại trừ mặt tiêu cực sẽ phát sinh. Chính vì vậy, hơn bao giờ hết, việc ban hành Luật Kiểm soát Nhập khẩu là hết sức cần thiết.
Mục tiêu của Luật kiểm soát nhập khẩu là để bảo hộ sản xuất trong nước (tất nhiên là bảo hộ bằng những công cụ, chính sách phù hợp với các quy định của WTO và thông lệ quốc tế); chống bán phá giá; chống nhập khẩu những hàng có chất lượng xấu, ảnh hưởng đến môi trường, văn hoá, tư tưởng, thuần phong, mỹ tục và sức khoẻ của con người. Mục tiêu của Luật Kiểm soát Nhập khẩu cũng nhằm hướng các doanh nghiệp Việt Nam tập trung tài chính để nhập khẩu những thiết bị, công nghệ, giảm thiểu việc nhập khẩu tràn lan những hàng hoá mà Nhà nước không khuyến khích.
Dựa vào Luật Kiểm soát Nhập khẩu, Nhà nước quản lý toàn bộ các hoạt động nhập khẩu của Việt Nam, trong đó có nhập khẩu hàng hoá từ Hoa Kỳ. Dựa vào Luật này, Nhà nước cũng sẽ ban hành các luật, quy chế như lệnh đánh thuế nhập khẩu 100% để chống lại sự lũng đoạn thị trường của một sản phẩm, hàng hoá của một nước nào đó hoặc chống lại việc bán phá giá, v.v, ban hành các văn bản dưới luật cụ thể hoá chính sách nhập khẩu của nước ta với từng nhóm nước, từng khu vực, từng thời kỳ, v.v
Với việc ban hành Luật Kiểm soát Nhập khẩu, Việt Nam dễ dàng đấu tranh chống lại những áp đặt phi lý của các cường quốc kinh tế (kể cả Hoa Kỳ) và các công ty xuyên quốc gia.
4.2. Ban hành Luật Hải quan Việt Nam và khẩn trương đưa Luật Hải quan Việt Nam vào thực tiễn
Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa X đã nhất trí thông qua Luật Hải quan - đạo luật đầu tiên của Việt Nam về quản lý hoạt động hải quan. Vấn đề cấp bách nhất hiện này là cần phải đưa Luật Hải quan vào thực tiễn. Tuy nhiên cần phải có những biện pháp để thi hành Luật Hải quan có hiệu quả, do đó cần phải:
- Phổ cập sâu rộng trong mọi cấp, mọi ngành, đặc biệt là phổ cập cho các doanh nghiệp Việt Nam khi nhập khẩu hàng từ Hoa Kỳ.
- Khẩn trương ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành Luật Hải quan đối với các cơ quan, ngành quản lý liên quan.
- Nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan quản lý trong ngành hải quan đối với việc thực thi luật, bằng cách trang bị phương tiện hiện đại cho hải quan Việt Nam đủ khả năng thi hành công vụ cũng như thay mặt Nhà nước quản lý việc nhập khẩu hàng nước ngoài vào Việt Nam.
4.3. Ban hành Luật Bảo vệ các loài động vật đặc biệt
Nhằm ngăn chặn hiện tượng nhiều doanh nghiệp, cá nhân lợi dụng chính sách mở cửa thông thoáng của nhà nước để tổ chức các vụ làm ăn phi pháp và làm triệt tiêu các loài động vật quí hiếm ảnh hưởng đến môi trường môi sinh ở Việt Nam, do đó cần ban hành Luật Bảo vệ các loài động vật quý hiếm để kiểm soát chặt chẽ hơn việc khai thác, đánh, bắt các loài động vật quý hiếm.
4.4. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật về thuế nhập khẩu
- Điều chỉnh lại thuế nhập khẩu ở dạng nguyên chiếc và linh kiện lắp ráp. Không nên để quá nhiều mức thuế suất cho dạng linh kiện lắp ráp như hiện nay (SKD, CKD1, CKD2, TKD1, TKD2, v.v).
- Cần lấy danh mục của ASEAN làm chuẩn cho biểu thuế nhập khẩu. Biểu thuế cần được công bố công khai trong hệ thống hải quan và các doanh nghiệp. Khẩn trương hoàn thiện danh mục hàng hoá 8 chữ số trong danh mục HS nhằm tránh tình trạng lẫn lộn về tên hàng có thuế suất khác nhau.
4.5. Phối hợp hiệu quả hơn nữa công tác quản lý nhập khẩu và quản lý xuất khẩu hàng hoá từ Hoa Kỳ sang Việt Nam và ngược lại
Mục tiêu của nhập khẩu là phục vụ nền kinh tế trong nước, hướng tới sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá, trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu. Do vậy, việc quản lý nhập khẩu không thể tách rời khỏi quản lý xuất khẩu. Các chính sách, biện pháp quản lý việc nhập khẩu hàng hoá từ Hoa Kỳ vào Việt Nam phải được xây dựng trên cơ sở phối hợp chặt chẽ với các biện pháp và chính sách quản lý việc xuất khẩu hàng hoá từ Việt Nam sang Hoa Kỳ nhằm tránh hiện tượng mâu thuẫn, chồng chéo nhau.
VI. Kết luận
Với việc hiệp định thương mại Việt nam - Hoa Kỳ được được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 10 tháng 12 năm 2001, chúng ta phần nào thấy được tương lai tốt đẹp cho quan hệ thương mại hai nước hai nước. Tuy nhiên cùng với những thuận lợi mới chúng ta sẽ phải đối mặt với nhưng thách thức trong một mội trường cạnh tranh vô cùng khốc liệt. Trong điều kiên đó để chuẩn bị cho mình một hành trang nhất định, mọi ngành, mọi cấp, các cơ quan quản lý, các cơ quan hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu cũng như các doanh nghiệp Việt Nam phải tìm hiểu các quy định của pháp luật Hoa Kỳ, các chính sách xuất nhập khẩu của Hoa Kỳ cũng như các quy định điều tiết thương mại hàng hoá trong Hiệp định một cách kỹ càng. Bên cạnh đó bản thân Nhà nước Việt Nam phải tạo dựng các hành lang pháp lý, xây dựng các chính sách, chiến lược hợp lý, cũng như có các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để có thể đứng vững trong một môI đầy tính cạnh tranh cạnh tranh . Tuy nhiên với những gì mà Việt Nam đã đạt được trong những năm qua chúng ta hi vọng rằng Việt Nam sẽ đứng vững và phát triển mạnh mẽ trong thế kỉ mới với xu thế hội nhập toàn cầu và trong mối quan hệ mới với Hoa Kỳ.
tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lấn thứ IX. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001.
Chỉ thị số 22/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/10/2000 về Chiến lược phát triển xuất - nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ thời kỳ 2001-2010.
Thông tấn xã Việt Nam:
- “Quan hệ thương mại Việt - Mỹ”, ngày 11/5/2001.
- “Thế kỷ Mỹ”, ngày 10/6/2001.
Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ ngày 13/7/2000.
Nguyễn Đình Lương “Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ dưới tác động của Hiệp định Thương mại song phương”, tạp chí Quốc tế, số 11/2000.
Vũ Khoan “Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”, tạp chí Công sản, số 15/2000.
Một số vấn đề về khả năng xuất nhập khẩu với thị trường Mỹ-Bộ Thương Mại-1995.
Tuyên bố của Tổng thống Bill Clinton về việc bình thường hoá quan hệ của Hoa Kỳ với Việt Nam. Báo Nhân Dân số 234/1995.
Báo cáo của Bộ Thương mại về tình hình thực hiện kế hoạch năm 2000 và phương hướng, mục tiêu kế hoạch thương mại năm 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29624.doc