Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng trong xu thế hội nhập và quốc tế hoá toàn cầu, để theo được các nước là một điều rất khó khăn đối với Việt nam.
Một chính sách tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả sẽ làm bớt rất nhiều khó khăn cho ta. Vì vậy Ngân hàng trung ương phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm đưa chính sách tiền tệ ngày cáng vững mạnh. Đó là Ngân hàng trung ương tăng cường điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, hạn chế các công cụ trực tiếp.
Tóm lại, để đạt được mục tiêu tối đa của mình thì Ngân hàng trung ương phải biết nắm bắt thời cơ và dựa vào đặc điểm của mỗi nước để đưa ra những chính sách hiệu qủa nhất đối với từng quốc gia.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1567 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương trong quản lý vĩ mô của Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
áp dụng chính sách tái chiết khấu: Là lãi suất mà Ngân hàng Trung ương áp dụng để chiết khấu lại các giấy tờ có giá của Ngân hàng thương mại. Đây là loại cho vay có đảm bảo.
Lãi suất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu tư của Ngân hàng thương mại, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, thu hẹp khả năng cho vay của Ngân hàng thương mại dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việc tăng lãi suất tài chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽ biết tác động của Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách chiết khấu tối thị trường. Người đầu tư giám sát sự thông báo lãi suất của Ngân hàng Trung ương để dự tính được xu hướng thay đổi lãi suất để tìm biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn làm thay đổi tiền gửi và lãi xuất cho vay đồng thời tác động giá chứng khoán.
Đi kèm với lãi suất tài chiết khấu Ngân hàng Trung ương còn qui định hạn mức tái chiết khấu tức là qui định cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã qui định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các tổ chức tín dụng vay của Ngân hàng Trung ương. Đồng thời Ngân hàng Trung ương còn qui định các tiêu chuẩn thể hiện tài chiết khấu như về thời hạn về thể loại giấy tờ có giá, chất lượng giấy tờ có giá, và uy tín của tổ chức tín dụng khi vay vốn của Ngân hàng Trung ương.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên nền của các giấy tờ có giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vận động phù hợp với sự vận động của quy luất cung cầu thị trường. Một ưu điểm quan trọng khác nữa là nó giúp Ngân hàng Trung ương thực hiện vai trò ngươi cho vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cơn suy sụp tài chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thông Ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng bởi vì dữ trữ lập tức được điều đến các Ngân hàng. Chính sách chiết khấu còn có tác dụng thông báo quyết định của Ngân hàng Trung ương về chính sách tiền tệ trong tương lai.
Tuy nhiên công cụ này cũng có nhiều hạnh chế, nó không phát huy hiệu quả khi các điều kiện tài chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi Ngân hàng Trung ương không thể chủ động chi phối được số tiền tài chiết khấu vì nó phụ thuộc vào nhu cầu vốn của tổ chức tín dụng. Sự cân bằng tài sản nợ và tài sản có của Ngân hàng thương mại sẽ dẫn đến Ngân hàng thương mại sẽ không có nhu cầu vay của Ngân hàng Trung ương. Khi đó lãi suất sẽ không có ý nghĩa tác động điều chỉnh lượng tiền vay. Mặt khác công cụ này có ý nghĩa tác động một chiều. Khi cần tăng tiền cung ứng thì Ngân hàng Trung ương sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các Ngân hàng thương mại có nhu cầu vay và sẽ gặp khó khăn khi cần thu tiền về, vì bị ràng buộc bởi thời gian. Khi thay đổi chính sách lãi suất chiết khấu mà không có tác dụng thì không phát huy được hiệu ứng thông báo của công cụ lãi suất. Vì thế để khắc phục phải biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác như công cụ dự trữ bắt buộc.
2.3. Nghiệp vụ thị trường mở.
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đố người ta thực hiện việc mua bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Nghiệp vụ thị trường mở sẽ tác động vào các mục tiêu của chính sách tiền tệ cả về mặt giá và lượng.
Về mặt lượng: Là ảnh hưởng của nghiệp vụ thị trường mở vào dự trữ của Ngân hàng thương mại. Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện việc mua chứng từ có giá trên thị trường mở, kết quả làm dự trữ của Ngân hàng thương mại tăng lên và khi Ngân hàng Trung ương bán các chứng từ có giá trên thị trường mở dẫn đến dự trữ của Ngân hàng thương mại giảm đi. Như vậy khi Ngân hàng Trung ương thực hiện nghiệp vụ thị trường mở nó sẽ tác động vào dự trữ của Ngân hàng thương mại làm ảnh hưởng đến khối lượng tiền cung ứng.
Về mặt giá: Khi Ngân hàng Trung ương mua các giấy tờ có giá sẽ làm tăng dự trữ của Ngân hàng thương mại , cung vốn tín dụng cũng tăng lên. Điều đó sẽ ảnh hưởng đến lãi suất ngắn hạn làm lãi suất ngắn hạncó xu hướng giảm xuống và tác đôngj vào lãi suất có kỳ hạn giảm xuống. Bên cạnh đó Ngân hàng Trung ương thực hiện mua chứng từ có giá trị trên thị trường mở sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất sinh lời của các chứng từ có giá, đẫn đến có sự chuyển dịch vốn đầu tư làm ảnh hưởng đến lãi suất thị trường, tác động vào cung cầu vốn trên nền kinh tế, ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng.
Khi Ngân hàng Trung ương thực hiện mua, bán các chứng từ có giá trên thị trường mở sẽ tác động vào giá cả của chứng từ cá giá và khi Ngân hàng Trung ương thực hiện can thiệp vào giá cả của các chứng từ có khối lượng chiếm tỷ trọng lớn thì vai trò can thiệp của Ngân hàng Trung ương càng có ý nghĩa quan trọng tác động vào lượng tiền cung ứng.
Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu điểm hơn hẳn so với những công cụ khác.
- Phát huy theo ý tưởng chủ đạo của Ngân hàng Trung ương trong đó, Ngân hàng Trung ương hoàn toàn kiểm soát được khối lượng giao dịch việc kiểm soát này là không thể có được, chẳng hạn như nghiệp vụ tài chiết khấu.
- Nghiệp vụ này vừa linh hoạt, vừa chính xác, có thể sử dụng được ở bất cứ mức độ nào khi có yêu cầu.
- Nghiệp vụ này dễ dàng đảo chiều tức là khi có một sai lầm trong lúc tiến hành nghiệp vụ thị trường tự do Ngân hàng Trung ương có thể sửa chữa ngay lại bằng cách tiến hành mua bán trên thị trường tự do.
- Nghiệp vụ thị trường tự do có thể tiến hành một cách nhanh chóng không gây những chậm trễ về mặt hành chinh.
Từ những ưu điểm trên mà nghiệp vụ thị trường mở được nhiều nước sử dụng là công cụ chính sách tiền tệ. Tuy nhiên nghiệp vụ thị trường mở còn có một số hạn chế. Hạn chế lớn nhất của nghiệp vụ này là để công cụ này phát huy hiệu quả thì quốc gia đó phải có thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường là các giấy tờ có giá ngắn hạn phải phong phú, đa dạng. Ngân hàng Trung ương phải có khả năng dự báo được vốn khả dụng của toàn hệ thống để can thiệp mua bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng. Khi Ngân hàng Trung ương mua, bán làm tác động đến lượng tiền Trung ương từ đó ảnh hưởng đến lãi suất trên thị trường tiền tệ liên Ngân hàng, vì vậy để tránh ảnh hưởng này thì Ngân hàng Trung ương phải có các giải pháp xử lý thích hợp.
III. sự cần thiết phải chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp.
ở những nước có nền tài chính sơ khai, không có tính canh tranh, các công cụ trực tiếp được lựa chọn tạm thời khi khung thể chế cho các công cụ gián tiếp chưa phát triển. Các công cu trực tiếp được thừa nhận là đáng tin cậy trong việc kiểm soát tổng khối lượng tín dụng, chúng tương đối dễ áp dụng và lý giải đồng thời chi phí thực hiện tương đối thấp. Song bên cạnh đó các công cụ này lại có nhiều nhược điểm nên không cho phép Ngân hàng Trung ương điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng, từ đó có thể dẫn đến những thiệt hại do phân bổ lãng phí các nguồn lực, ngoài ra các công cu trực tiếp này càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ.
Việc sử dụng các công cụ trực tiếp chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục vĩ mô thông qua các kênh truyền dẫn trực tiếp, không thực hiện được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và thị trường tài chính với những ảnh hưởng thông qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ. Với các công cụ gián tiếp, đặc biết là nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể đa phương tác động để đạt được các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ qua các kênh truyền trực tiếp và cả gián tiếp.
Việc phân tích những hạn chế của công cụ trực tiếp, cũng như những lợi thế của công cụ gián tiếp, đặc biệt là công cụ thị trường mở ở những phần trên đã cho thấy lợi ích của việc chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp để điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt và hiệu quả hơn. Đặc biệt là trước xu thế hội nhập kinh tế toàn diện trên thế giới thì một chính sách tiền tệ cứng nhắc kém linh hoạt sé không đảm bảo cho nền kinh tế thích ứng được với những thay đổi mạnh mẽ từ bên ngoài do đó đòi hỏi chuyển các công cụ trực tiếp sang gián tiếp trở nên cần thiết hơn.
IV. kinh nghiệm của một số nước trong quá trình chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp.
Chúng ta sẽ xem xét những nước đại diện rộng rãi cho kinh nghiệmchuyển đổi này là các nước công nghiệp phát triển và 19 nước không thuộc nhóm công nghiệp phát triển là ACHENTINA, DRUDI, ASRAEL, JAMAICA, KENGA, MALAISIA, MEHICO, PHILLIPINES, BALAN, SRILANCA, THAILAND, JUNISIA, VENEZUELA.
Kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy quá trình chuyển đổi (diễn ra trong nhứng năm 70, 80 ở những nước này) là một bộ phận của quá trình tự do hoá tài chính rộng rãi. Phần lớn quá trình chuyển đổi được tiến hành từng bước và không gặp phải những khó khăn hay đảo lộn lớn, chủ yếu là nhờ vào những điều kiện thuận lợi quan trọng ban đầu đặc biệt là không có những mất cân đối vĩ mô trầm trọng. Tuy vậy hai nước Anh và Pháp đã vấp phải trong những lỗ lực đầu tiên nhằm hoàn toàn dựa vào công cụ gián tiếp.
Với các nước không thuộc khối công nghiệp phát triển thì thời gian cần thiết để hoàn thành quá trình chuyển đổi thường khá dài và thường gặp phải những khó khăn và đảo lộn tạm thời, ở những nước này việc đưa và sử dụng những công cụ gián tiếp là một bộ phận của quá trình cải cách sâu rộng bao gồm không chỉ tự do hoá khu vực tài chính mà còn ổn định vĩ mô và tự do hoá nền kinh tế nói chung. Kinh nghiệm chung của các quốc gia cho thấy cần phải mở rộng hơn nữa khu vực tài chính cho những “ứng cử viên” mới và nâng cao quyền tự chủ trong kinh doanh của các Ngân hàng. Ngoài ra thị trường liên Ngân hàng, thị trường tiền tệ yếu kém và bị phân đoạn, tính độc lập thấp và sự kém hiệu quả trong quản lý của Ngân hàng Trung ương là yếu tố gây cản trở cho quá trình chuyển đổi. Các nước có khả năng thực hiện kiểm soát trực tiếp có hiệu quả và đạt được những mục tiêu tiêng tệ của mình chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 2/3. Hầu hết các hệ thồng Ngân hàng có dự trữ vượt quá, hậu quả của bành trướng dự trữ vượt quá này được chế ngự bằng các biện pháp kiểm soát trực tiếp. Trong số những nước bị khủng hoảng tài chính có nước buộc phải đưa vào sử sụng loại công cụ kiểm soát lãi suất để giảm gánh nặng lãi suất thực cao cho người vay và Ngân hàng, còn có những nước chỉ coi việc sử dụng trở lại các công cụ trực tiếp chỉ là phương pháp đối phó tức thời với những mất cân đối quá ư trầm trọng.
Kinh nghiệm sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ rất khác nhau ở mỗi nước. Sự khác biệt này đặc trưng cho nhịp độ phát triển của quá trình chuyển đổi. Song chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm chung sau:
- Để ngăn chặn những đảo lộn trong quá trình chuyển đổi, các nước đã thực hiện một số biện pháp hữu hiệu: hoàn thiện cơ chế giám sát Ngân hàng, chỉnh sửa khung pháp lý và cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng. Các nỗ lực nhằm kiềm chế những mất cân đối tài chính nghiêm trọng đã được thực hiện mà nét tiêu biểu là các khoản tài trợ của Ngân hàng Trung ương đã bị cát gảm.
- Thường có một giai đoạn trong đó Ngân hàng Trung ương đồng thời sử dụng cả hai chuyển đổi trực tiếp và gián tiếp. Chẳng hạn chỉ có 25% trong số các nước đã phân tích, đã huỷ bỏ công cụ hạn mức tín dụng tại thời điểm khởi đầu quá trình tự do hoá.
- Chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay được sử dụng như một tiêu thức đánh giá hiêụ quả các hoạt động tín dụng của các tổ chức trung gian tài chính. Khi hiệu quả và cạnh tranh trong hệ thống tài chính tăng lên thì chênh lệch lãi suất đã được thu hẹp. Trong hầu hết các nước trên, chênh lễch lãi suất đã thu hẹp đáng kể mặc dù ở một số nước chúng tạm thời mở rộng trong quá trình chuyển đổi.
Trong toàn bộ các nước đã phân tích, sự biến động của hệ số nhân tiền đã gia tăng nghiêm trọng trong các thời kỳ trước và trong chuyển đổi làm suy yếu khả năng kiểm soát tiền tệ của Ngân Hàng Trung ương. Nhưng trong giai đoạn sau chuyển đổi, ở hầu hết các nước sự biến động của hệ số nhân tiền đã giảm đáng kể và khả năng kiểm soát tiền tệ đã được củng cố.
Chương II.
Thực trạng về công cụ chính sách tiền tệ
ở Việt nam.
I. Bối cảnh chung.
Đảng Cộng Sản Việt nam lần thứ 6 đã đánh dấu sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Bước ngoặt này là tiền đề khách quan, là điều kiện mới cho cải cách tổ chức hoạt động hệ thống Ngân hàng và định hướng chính sách tiền tệ ở Việt nam.
Từ năm 1990, sau khi 2 pháp lệnh Ngân hàng được ban hành (pháp lệch về Ngân hàng Nhà nước và pháp lệch Ngân hàng - Hợp tác xã tín dụng - Công ty tài chính), hệ thống Ngân hàng Việt nam chuyển đổi từ một cấp sang 2 cấp, phân định ró chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống Ngân hàng của nền kinh tế tiền tệ.
Công cụ chính sách tiền tệ được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể: chính sách tín dụng tạo ra nhiều công cụ huy động vốn và đồng thời mở rộng cho vay đến mọi thành phần kinh tế; chính sách lãi suất (xoá bỏ bao cấp qua lãi suất cho vay, thực hiện chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay phù hợp với sự biến động của chỉ số lạm phát...); chính sách quản lý ngoại hối và một số các công cụ hỡ trợ khác.
Đến tháng 10 năm 1998, luật Ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng bắt đầu được thực thi, thay thế hai pháp lệnh năm 1990 nhằm giúp hoạt động của hệ thống Ngân hàng tự do hơn, thông thoáng hơn phù hợp với thay đổi lớn lao trong hệ thống Ngân hàng.
II. công cụ chính sách tiền tệ của Việt nam qua các giai đoạn.
Công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền và thị trường tiền tệ , góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đứng trên phương diện này, thời kỳ 1986 đến nay có thể chia làm 4 giai đoạn.
1. Giai đợan 1986 - 1988.
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn vượt tổng cung. Nền kinh tế đang ở giai đoạn khủng hoảng do thiếu hụt ngân sách. Như vậy Nhà nước đã bành trướng tăng tiền làm cho lạm phát đạt kỷ lục 3 con số. Nhiệm vụ trung tâm lúc này là chống lạm phát. Do vậy đã có 2 thay đổi lớn trong lĩnh vực tiền tệ: Đưa tỷ giá hối đoái nên ngang mức giá thị trường và thi hành lãi suất thực dương nhằm tạo nên xung lực mạnh mẽ làm đảo lộn tình hình trên thực tế, hai biện pháp này đã đẩy lùi được lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng tiền tạo động lực để thực hiện đổi mới.
2. Giai đoạn 1989 -1991.
Đây là giai đoạn nền kinh tế đong trong quá trình chuyển đổi, tuy các chính sách kinh tế mới đã cắt được lạm phát cao nhưng lạm phát năm 1990 - 1991 vẫn lên tới 60%. Nhà nước đã thực hiện những biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi, giảm bội chi, tăng cường hoạt động của các Ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng. Đặc biệt việc cải cách hệ thống thuế đã tăng cường các nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
3. Giai doạn 1992 - 1995.
Công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam được coi là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước về tiền tệ do Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm soạn thảo và thực thi nhằm ổn định giá trị đồng tiền, ổn định tăng trưởng kinh tế. Thời kỳ này mục tiêu của công cụ chính sách tiền tệ đặt ra là: ổn định tiền tệ bao gồm ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đông tiền, tăng trưởng kinh tế, công ăn việc làm cao. Nhận thức nội dung chủ yếu của thời kỳ này thông qua các chính sách: Chính sách cung ứng và điều tiết khối lượng tiền, chính sách ngoại hối, chính sách tạm ứng cho ngân sách, chính sách cung ứng và điều tiết tiền lúc này đã nhận thức được khối tiền tệ:
M1: Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thông Ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại Ngân Hàng.
M2: Gồn M1 và tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn.
M3: Gồn M2 và các loại tiền gửi các định chế tổ chức khác.
L: Gồm M3 và các giấy tờ có giá
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, do đó trong quá trình xác định chi tiêu này Ngân hàng Nhà nước quán triệt các nguyên tắc:
- Căn cứ vào tình hình tăng trưởng kinh tế. Khối lượng tiền tệ tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế.
- Khối lượng tiền cung ứng có tính đến phạm vi tỷ lệ lạm phát.
- Khối lượng tiền cung ứng dựa vào ngoại hối trong tay người cư trú.
- Tiền cung ứng chịu ảnh hưởng bởi tốc đọ lưu thông tiền tệ theo công thức:
GNP
V=
M
P x Q
V=
M
Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm hàng năm bao gồm tiền mặt, các loại tiền gửi ở Ngân hàng nhằm dành cho nhu cầu đầu tư tín dụng cho nền kinh tế, tăng dự trữ ngoại hối và tạm ứng cho ngân sách. Khối lượng tiền cung ứng tăng thêm chỉ là một chỉ tiêu định hướng, điều quan trọng là Ngân hàng Nhà nước phải theo dõi diễn biến của hoạt động kinh tế, giá cả và tỷ giá hối đoái để điều chỉnh kịp thời việc cung ứng tiền sao cho sao cho khối lượng tiền tăng hay giảm không làm ảnh hưởng đến giá cả hoặc thiếu phương tiện lưu thông gây cản trở cho lưu thông hàng hoá. Việc điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng theo tín hiệu cuả thị trường, thông qua nhu cầu đối ứng xuất phát từ các kênh tạo tiền (Tín dụng, Ngân hàng, thị trường ngoại hối, thị trường mở).
Chính sách tín dụng cho nền kinh tế: Kiểm soát lượng tiền cung ứng thông qua chỉ tiêu hạn mức tín dụng. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các Ngân hàng thương mại thông qua hoạt động tài cấp vốn.
Chính sách ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp quản lý ngoại hối bao gồm việc sử dụng tỷ giá nhằm điều tiết thị trường ngoại hôí, quản lý dự trữ ngoại hối quốc gia, cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Ngân hàng Nhà nước sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt, có sự quản lý, phản ánh sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả.
Các công cụ của chính sách thời kỳ này bao gồm:
+ Lãi suất: Lãi suất tài cấp vốn cho các Ngân hàng thương mại vay khi họ có nhu cầu tiền Trung ương để thanh toán cho khách hàng rút tiền mặt, thanh toán cho Ngân hàng khác, mua ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương hoặc của thị trường.
Khung lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định để chỉ đạo điều tiết lãi suất, huy động tiền gửi và lãi suất cho vay của các Ngân hàng kinh doanh. Ngân hàng Nhà nước quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu, lãi suất cho vay tối đa hoặc chỉ khống chế trần lãi suất cho vay. Tất cả các loại lãi suất trên đều có ảnh hưởng đến lãi suất thị trường.
+ Dự trữ bắt buộc: để kiểm soát việc tạo tiền của các Ngân hàng thương mại và điều tiết khối lượng tind dụng cho nền kinh tế, Ngân hàng Nhà nước Việt nam áp dụng công cụ dự trữ bắt buộc.
Tiền DTBB = Tỷ lệ DTBB x Số dư tiền gửi huy động
Theo pháp lệnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10 - 30% nhưng Ngân hàng Nhà nước thường xuyên áp dụng ở mức 10% cho tất cả tiền gửi huy động. Sau đó có thể quy định riêng cho tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn. Thời kỳ này còn áp dụng cơ cấu dự trữ bắt buộc bao gồm: Tiền gửi trên tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và tiền mặt ngân phiếu tại quỹ của Ngân hàng thương mại, cũng có khi cho phép cả khoản mua tín phiếu kho bạc cũng được coi là dự trữ bắt buộc và để giảm bớt gánh nặng dự trữ bắt buộc cho các Ngân hàng.
+ Hạn mức tín dụng: Là công cụ để Ngân hàng Nhà nước khống chế mức tăng lượng tiền cung ứng. Trong thời kỳ này công cu hạn mức tín dụng được hiểu là mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước sử dụng để cấp cho nền kinh tế thông qua hệ thông hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng kết hợp với sử dụng nghiệp vụ tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu để khống chế mức tăng khối lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu của kiểm soát lạm phát.
Tóm lại, trong giai đoạn này, nền kinh tế đã đi dần vào trạng thái ổn định và tăng trưởng cao: tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1994 đạt 8,8%, năm 1995 đạt 9,5%. Nhân tố quyết định trạng thái ổn định này là do Nhà nước qua kinh nghiệm điều hành đã nhận thức được rõ tác dụng của cung ứng tiền tệ lên lạm phát nên đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng và thực hiện thành công chính sách tiền tệ.
Giai đoạn này đã tạo ra nhiều yếu tố quyết định cho chiều hướng thuận lợi cho chính sách tiền tệ.và sự phát triển trong tiền tệ ở giai đoạn sau.
4. Giai đoạn từ 1996 đến nay.
Tháng 12/1997 bộ luật Ngân hàng boa gồm luật Ngân hàng Nhà nước và luật tổ chức tín dụng thì hệ thống Ngân hàng được tiếp tục đổi mới và bước voà thời kỳ đổi mới căn bản và toàn diện trên tất cả các mặt. Theo đó công cụ chính sách tiền tệ mới bắt đầu xây dựng và từng bước được đi vào thực hiện, di dân từ thấp đến cao phú hợp với tình hình thực tế. Theo luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam thì các công cụ chính sách tiền tệ bao gồm:
- Dự trữ bắt buộc.
- Lãi suất.
- Tài cấp vốn.
- Thị trường mở
- Tỷ giá
Hiện nay thực tế vận hành chính sách tiền tệ Quốc gia Ngân hàng Nhà nước Việt nam sử dụng các công cụ:
+ Công cụ hạn mức tín dụng: Công cụ này được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1994 đã có tác dụng hiệu quả đến tốc độ tăng lượng tiền cung ứng và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên trong những năm gần đây việc áp dụng công cụ này đã mất dần vai trò của nó. Hơn nữa việc mở rộng tín dụng trong giai đoạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo thêm những khó khăn cho các Ngân hàng thương mại mở rộng tín dụng do vậy từ quý II năm 1998 Ngân hàng Nhà nước đã không sử dụng công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
+ áp dụng quy chế dự trữ bắt buộc đối với các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác có huy động tiền gửi để điều tiết khối lượng tiền cung ứng theo năm kế hoạch.
+ Công cụ tài cấp vốn: Ngân hàng Nhà nước thực hiện tài cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các Ngân hàng thương mại theo các hình thức:
\ Cho vay theo hồ sơ tín dụng.
\ Chiết khấu, tài chiết khấuthương phiếu và các chứng từ có giá ngằn hạnkhác.
\ Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các chứng từ có giá ngắn hạn khác.
+ Công cụ lãi suất: Chính sách lãi suất được Ngân hàng Nhà nước sử dụng trong mối quan hệ điều hoà với tỷ giá. Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thực hiện việc kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ bằng chính sách quy định trần lãi suất cho vay đối với VNĐ và ngoại tệ, trên cơ sở đó các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất huy động phù hợp với cung - cầu tín dụng. Hiện nay đang tiến hành tới quy định lãi suất cơ bản.
+ Công cụ tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa 2 đồng tiền hay giá cả một đơn vị tiền nước này bằng bao nhiêu đơn vị tiền nước khác.
Ngân hàng Nhà nước thực hiện biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với diễn biến trên thị trường ngoại hối trong khu vực.
+ Công cụ nghiệp vụ thị trường mở: Hiện nay Việt nam đang chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa công cụ nào về vận hành. Vừa qua mới ban hành quy chế và đang thí điểm, thể hiện Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua bán tín phiếu ngăng hạn, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để tác động vào lượng tiền cung ứng, việc thực hiện ban đầy gặp lhó khăn, song do hàng hoá ở thị trường chưa có nhiều, vì vậy công cụ này chưa phát huy được hiệu quả.
Từ năm 1996, hàng năm Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách xác định mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mục tiêu cuảu chính sách tiền tệ phụ thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, diễn biến tiền tệ của năm trước như: Tốc độ tăng trưởng phương tiện thanh toán, tốc độ tăng tín dụng, tốc độ tăng huy động tiền gửi, tốc độ tăng dự trữ ngoại tệ.
Hướng điều hành chính sách tiền tệ: Ngân hàng Nhà nước phải xác định được khối lượng tiền tăng thêm hàng năm, xác định công cụ chính sách tiền tệ như lãi suất, dự trữ bắt buộc, tài cấp vốn, tỷ giá, quản lý ngoại hối.
III. những hạn chế trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam.
1.Nhận xét chung:
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam cũng đang được bộc lộ những hạn chế thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt trong chính sách vĩ mô, trong đó có chính sách tiền tệ cũng bộc lộ khá sớm, đe doạ sự ổn định của nền kinh tế về trung và dài hạn. Bên cạnh đó vòng xoái tụt dốc “đô mi nô” về tăng trưởng kinh tế cũng ảnh hưởng đến Việt nam ít nhất là trong vòng 2 đến 3 năm kể từ năm 1997. Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ trong vòng 5 năm trở lại đây. Có thể nêu một số điều chủ yếu sau:
- Các công cụ điều hành công cụ chính sách tiền tệ chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường và còn ở rạng sơ khai. Yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp hơn vẫn chưa được xử lý tốt.
- Kinh doanh của hầu hết các Ngân hàng thương mại bị gò bó , thiếu chủ động tự chủ. Hơn nữa phần lớn các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lỗ, cho vay không hiệu quả, tỷ lệ nợ khó đòi, nợ quá hạn, nợ không sinh lời khá cao. Nhìn chung rủi ro tín dụng Ngân hàng là đáng lo ngại, bên cạnh đó là các loại rủi ro khác về tỷ giá, về thanh toán đối ngoại...
-Thị trường liên Ngân hàng nội ngoại tệ được thành lập và đi vào hoạt động từ những năm 1993 - 1994 nhưng chưa phát triển sôi động, chưa trở thành giao điểm hội tụ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa các Ngân hàng thương mại. Các giao dịch ngoại tệ chính thức bị gò bó, chi phối chưa mạnh và kịp thời với biến đọng tỷ giá hối đoái thị trường. Thị trường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung ứng vốn đầu tư trung, dài hạn cho nền kinh tế còn rất yếu. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn dài hạn nói chung mới bắt đầu và còn gặp không ít khó khăn: Đó là những trở ngại lớn cho Ngân hàng Nhà nước trong việc tiến hành nghiệp vụ thị trường mở để kiểm soát, điều chỉnh kịp thời tổng lượng tiền trong lưu thông.
Sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây, thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn “dollar hoá” khiến VNĐ bị đánh giá quá cao kích thích tâm lý tích luỹ giá trị dưới dạng ngoại tệ, không gian tiền tệ bị méo mó. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và Ngân hàng sau một vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi, qua áp lực chỉ định cho vay của các cấp chính quyền... Đó là những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá trình hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ hiện nay.
Ví dụ đôi nét về thâm hụt ngân sách trong những năm gần đây.
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tăng trưởng kinh tế
6,0
8,6
8,1
8,8
9,5
9,3
8,2
5,8
4,8
6,7
Thu ngân sách
13,1
19,0
23,5
23,2
23,3
23,1
26.1
20,5
18,3
18,0
Chi ngân sách
15.5
21,4
28,8
27,9
27,5
26,2
26,8
23,6
23,2
22,9
Bội chi ngân sách
2,4
2,4
5,2
4,7
4,2
3,1
4,2
3,1
4,9
4,9
2. Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt nam.
Hiện nay Ngân hàng Nhà nước Việt nam đang sử dụng một hệ thống các công cụ chính sách tiền tệ trực tiếp bao gồm: Hạn mức tín dụng, lãi suất (thông qua hệ thống trần lãi suất cho vay), tỉ giá. Bên cạnh đó các công cụ gián tiếp như dự trữ bắt buộc và chính sách tài cấp vốn (bao gồm hạn mức tài cấp vốn và lãi suất tài cấp vốn) cũng được sử dụng nhưng hiệu quả tác động còn hạn chế. Để bổ trợ cho các công cụ trên, Ngân hàng Nhà nước Việt nam còn sử dụng một loạt các chính sách điều chỉnh trực tiếp như chính sách tín dụng, chính sách quản lý ngoại hối.
Việc sử dụng hệ thống công cụ điều tiết trực tiếp trong thời 10 năm qua mặc dù những hạn chế của nó được biết trước là hoàn toàn phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt nam khi những điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa được hình thành.
Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước Việt nam không có khả nảng kiểm soát chính xác sự biến động số dư dự trữ của hệ thông Ngân hàng, một trong những căn cứ quan trọng để có thể sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp. Khả năng cập nhật thông tin và những phương tiện kỹ thuật phụ trợ hiện tại làm hạn chế khả năng của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát và dự boá chính xác sự biến độngmức dự trữ của hệ thống Ngân hàng.
Thứ hai: Mối quan hệ giữa lượng tiền cung ứng là rất khó dự đoán do sự biến động bất thường của cả cơ sở tiền tệ và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ số tạo tiền.
Thứ ba: Hệ thống thị trường tài chính và khả năng chứng khoán hoá các nhu cầu vốn chưa phát triển và chưa trở thành thói quen của cộng đồng. đương nhiên khi các điều kiện của cơ chế gián tiếp chưa hình thành thì việc sử dụng cơ chế trực tiếp là tất yếu.
Trong thực tế, cơ chế điều chỉnh trực tiếp đã đem lại sự thành công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỷ 90 khi nhìn vào sự biến động của các mục tiêu vĩ mô, lạm phát, sản lượng và công ăn việc làm. chính sách tiền tệ đã đạt được hiệu quả tối đa của nó.
Nếu quan niệm rằng mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị tiền tệ với ý nghĩa là ổn định tỷ lệ lamj phát ở mức thấp thì trong thời gian vưa qua mục tiêu này chưa được thực hiện một cách hoàn hảo tỷ lệ lạm phát biến động tương đối mạnh và khó dự đoán từ năm này qua năm khác. Những biến động về hiệu quả và phân phối lại các lạm phát do ảnh hưởng đến giá trị thực của các chỉ tiêu giá trị không chỉ nảy sinh từ mức lạm phát cao mà chủ yếu từ sự bất ổn định của tỷ lệ lạm phát. Vì điều quan trọng bắt đầu từ năm 1996, mặc dù tổng phương tiện thanh toán tăng liên tục nhưng giấ cả có xu hướng giảm ở các tháng đầu năm 1996, 1997, 1998 và sự giảm giá này diễn ra ở hầu hết các tháng trong năm 1999. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng giảm mạnh từ năm 1998. Điều này chứng tỏ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng để đảm bảo cho phù hợp vỡi nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế.
Lý do chủ yếu dẫn đến tình trạng trên có lẽ xuất phát từ hạn chế vốn có của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ mà ngày càng bộc lộ rõ nét:
Một là: Các công cu trực tiếp không cho phép Ngân hàng Nhà nước có thể điều chỉnh linh hoạt lượng vốn khả dụng trong điều kiện ứ thừa.
Tình trạng dự trữ không mong muốn ở các Ngân hàng thương mại bắt đầu từ năm 1994 và kéo dài đến nau. Lý do ban đầu có lẽ bởi việc duy trì lãi suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế trần tín dụng trong những năm 1994 - 1996, bởi dự trữ ngoại tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiền gửi có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên lý do chủ yếu của tình trạng này từ năm 1997 đến nay lại nằm ở sự giảm sút tổng cầu cuả nền kinh tế, phản ánh sự giảm sút nhu cầu tiền tệ đặc biệt nhu cầu về giao dịch. Thực tế này làm cho các Ngân hàng thương mại phải chịu áp lực rất mạnh về chi phí vốn đông thời làm giảm thiểu hiệu quả cuẩ chính sách tiền tệ. Ngoài dự trữ bắt buộc (thay đổi rất chậm) Ngân hàng Nhà nước không có công cụ để hấp thụ lượng vốn khả dụng thừa một cách chủ động. Thực tế năm 1996 Ngân hàng Nhà nước đã thí điểm phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để đạt được mục đích này. Nhưng vì nhiều lý do nó đã không tồn tại.
Hai là: Công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong công việc điều hành lượng tiền cung ứng cà do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ. Điều này được thể hiện rõ trong hai năm 1998, 1999 khi trần lãi suất công cụ chính sách tiền tệ chủ yếu giảm liên tục nhưng giá cả và sản lượng không những không tăng mà tiếp tục giảm. Đương nhiên sự giảm sút này xuất phát chủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn xuất phát từ yếu tố danh nghĩa. Nhưng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối lập với tình trạng này và do đó làm cho sự tác động của chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu quả.
Ba là: hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạn chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và giá ngoại tệ.
Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh như hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục tiêu thông qua các kênh dẫn truyền trực tiếp và chủ yếu thông qua tác động về mặt khối lượng.
Kênh dẫn truyền trực tiếp:
MS Chỉ tiêu tăng GNP danh nghĩa tăng
Chính sách tín dụng
Chính sách quản lý ngoại hối
Nhập khẩu tăng
Xuất khẩu giảm
Tài khoản vãng lai bội chi
VNĐ giảm giá
GNP thực tế tăng
Lạm phát tăng
Kênh dẫn truyền gián tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động của thị trường tài chính thông qua sự thay đổi của gia tài sản và sự cơ cấu lại danh mục đầu tư của người đầu tư. Với các công cụ gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Trung ương có thể đa phương truyền tác động của nó đến mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ, bao bồm các kênh dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp..
Kênh dẫn truyền gián tiếp
MS tăng
Lãi suất ngănd hạn giảm
Cơ cấu lại danh mục đầu tư
Lãi suất hoặc tỷ lệ sinh lời giảm
Chi tiêu cho những khu vực nhạy cảm với lãi suất tăng
GNP danh nghĩa tăng
Lượng mua
Tín phiếu tăng Giá tín phiếu tăng Mức sinh lời giảm
Trái phiếu tăng Giá trái phiếu giảm mức sinh lời giảm
Cổ phiếu tăng Giá cổ phiếu tăng Mức sinh lời giảm
Chi tiêu cho các đồ dùng cần thiết
Thay đổi danh mục đầu tư
Việc phân tích những hạn chế công cụ trực tiếp cũng như chỉ ra lợi thế của công cụ gián tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ không phủ nhận hoàn toàn tác động tích cực của chúng trong điều tiết lượng tiền cung ứng thời gian qua. Trong thực tế khi các điều kiện sử dụng công cụ gián tiếp chưa chín muồi bao gồm:
- Hệ thống Ngân hàng hoạt động lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh.
- Thị trường tiền tệ thứ cấp tích cực và được điều tiết hiệu quả.
- Các công cụ ảnh hưởng có hiệu quả đến lãi suất và các kênh truyền dẫn được hoàn thiện thì việc sử dụng các công cu trực tiếp đảm bảo tính hiệu qảu nhất định của nó. Tuy nhiên đã đén lúc cơ chế điều chỉnh chính sách tiền tệ cần được thay đổi. Nền kinh tế đang đứng trước thách thức của nhu cầu hội nhập và mở cửa toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không đảm bảo cho nó tranh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Hơn nữa, sau 10 năm đổi mới và những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực Ngân hàng, những điều kiện cho phép sử dụng cơ chế điều chỉnh gián tiếp đang dần hình thành hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự chuyển đổi cơ chế điều tiết lượng tiền cung ứng. Công việc cần phải làm tiếp theo là đánh giá và dự tính hiệu quả tác động của công cụ gián tiếp trong điều kiện cụ thể của Việt nam.
Chương III:
những định hướng và giải pháp nhằm chuyển đổi các công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp
Chuyển đổi việc điều hành công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp là một quá trình phức tạp, thường đòi hỏi một thời gian khá dài để hoàn thành. Kinh nghệm một số nước đã cho thấy quá trình chuyển đổi có thể gặp phải những khó khăn, chi phí nặng nề và có thể kéo dài nếu không có một phương pháp tiếp cận toàn diệnvới các công cụ gián tiếp. Đặc biệt ở những nước không thực hiện những biện pháp hỗ trợ đầy đủ. Hiệu quả kiểm soát tiền tệ đã giảm xuống và một số nước đã đình chỉ (hoặc đi ngược lại) những lỗ lực chuyển đổi của họ. Để khắc phục những khó khăn ở mức thấp nhất và tạo điều kiện thực hiện chuyển đổi trôi chảy chung ta cần phải giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
1. Phát triển thị trường tài chính.
Việc sử dụng các công cụ gián tiếp của Ngân hàng Trung ương sé có hiệu lực hơn nếu được cạnh tranh thực hiện trong điều kiện thị trường tài chính phát triển. Vì vậy, để Ngân hàng Nhà nước Việt nam có thể thực hiện quá trình chuyển việc điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp một cách có hiệu quả thì cần phải phát triển thị trường tài chính. Dười đây là một vài giải pháp phát triển thị trường tài chính Việt nam.
- Việc phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc phải tập trung vào một đầu mối thông qua Ngân hàng Trung ương làm đại lý.
- Ngân hàng Trung ương cần nghiên cứu cơ chế phát hành tind phiếu Ngân hàng Trung ương.
- Ngân hàng Trung ương cũng cần xem xét để có thể cho phép một số nước Ngân hàng thương mại được phép phát hành các loại chứng từ tiền gửi, các công cụ sẽ có hiệu quả hơn nếu thị trường tiền tệ phản ứng nhanh nhạy với các hành vi của Ngân hàng Trung ương. Hiện nay thị trường tiền tệ phát triển cần có các điều kiện sau: Góp phần cung cấp hàng hoá cho thị trường tiền tệ, từ đó thúc đẩy hoạt động thị trường mở phát huy ưu thế vốn có của nó.
- Tiến tới có cơ chế lãi suất linh hoạt và chịu sự điều tiết của thị trường.
- Đảm bảo sự ổn định của giá trị đồng tiền Việt nam trong giới hạn cho phép.
- Thị trường tiền tệ và thị trường liên Ngân hàng cần được củng cố và liên kết chặt chẽ. Một thị trường năng động là đặc biệt quan trong vì điều này sẽ giúp xác định rõ thời điểm và khối lượng của hoạt động thị trường mở. Các công cụ gián tiếp nói chung sẽ có hiệu quả hơn nếu thị trường tiền tệ phản ững nhanh nhạy với các hành vi của Ngân hàng Trung ương. Do đó cần phải phát triển cơ sở hạ tầng của thị trường - các hệ thồng và thủ tục thanh toán. Khuân mẫu pháp lý và điều tiết thị trường đồng thời đưa vào sử dụng các công cụ và kỹ thuật thị trường phù hợp. Một số nước sử dụng cửa sổ chiết khấu để hạn chế, phạt hoặc cấm vay ngắn hạn tại Ngân hàng Trung ương. Ngân hàng trung ương cũng có thể khuyến khích các giao dịch trên thị trường liên Ngân hàng thông qua một số biện pháp khác như sử dụng cơ chế chuyển giao và thanh toán để nắm chắc các nguồn giao dịch liên Ngân hàng. Hiện nay các thoả thuận mua lại (repos) được coi là hình thức tài trợ linh hoạt và thuận tiện nhất. Repos là nghiệp vụ theo đó những người tham gia thị trường mua hoặc bán các chứng khoán lấy tiền mặt thoả thuận thực hiện một giao dịch ngược lại vào một thời điểm sau đó. Nghiệp vụ này giúp tăng tính năng động của thị trường và giúp cho thị trường phát triển thuận lợi.
- Khuân mẫu giám sát và điều tiết cần được củng cố. Các nước cần xây dựng những hành lang an toàn dưới hình thức các tiêu chuẩn về vốn tối thiểu lập quỹ phòng ngừa rủ ro, các yếu tố về cầm cố vốn, bảo lãnh, thế chấp và các cơ chế khác nhằm khuyến khích các hành vi thận trọng trong kinh doanh tiền tệ. Các báo cáo tài chính phải qua kiểm toán và đảm bảo tính công khai để cho thị trường và các nhà chức trách có thể thực hiện hữu hiệu vai trò của họ trong kỷ cương tài chính.
- Có mạng lưới thông tin hoàn chỉnh.
2. Cải cách hệ thồng Ngân hàng.
2.1. Cải cách hệ thống Ngân hàng thương mại.
Hệ thống Ngân hàng thương mại cần được cơ cấu lại nhằm xây dựng những Ngân hàng thương mại mại mạnh và thúc đẩy quá trình cạnh tranh. Khu vực Ngân hàng hiện nay đang đứng trước một áp lực mạnh mẽ từ sự tăng trưởng chậm lại cải nền kinh tế và điều kiện tài chính ngày càng xấu đi của một bộ phận lớn doanh nghiệp Nhà nước. Hiện tỷ lệ xấu (Bao gồm nợ quá hạn khó đòi, nợ đã được khoanh, nợ chờ xử lý) của các Ngân hàng thương mại trong toàn hệ thống đã nên tới 12,7% cao hơn nhiều so với thông lệ quốc tế cho phép là 5%. Chính vì vậy hệ thống Ngân hàng Việt nam cần phải được cải cách lại theo một số vấn đề chính sau:
- Cải tổ cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng thương mại quốc doanh theo hướng tăng khả năng cạnh tranh và giảm mức độ độc quyền. Kinh nghiệm quốc tế đã chỉ ra rằng những hệ thồng Ngân hàng có tính cạnh tranh cao và hoạt động hiệu quả phải là một hệ thống có lượng các Ngân hàng tương đối ít, trong đó không có Ngân hàng nsò có quyền thống trị thị trường. Trước năm 1997 nhìn chung hệ thống Ngân hàng Việt nam bị chi phối bởi 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh với thị phần tiền gửi và tín dụng luôn trên 70%. Nhưng kể từ năm 1997 trở lại đây thị phần của các Ngân hàng thương mại Quốc doanh đã giảm đi nhanh chóng từ khoảng 80% vào năm 1993 xuống còn 35% vào năm 1999, tức là giảm đi 2,3 lần. Có thể thấy rằng mặc dù cấu trúc thị trường được cải thiện theo hướng tích cực như vậy nhưng hiệu quả của hoạt động Ngân hàng không tăng lên như mong đợi. Vì vậy cần phải tiếp tục tiến hành những cải cách để khắc phục những yếu kém của Ngân hàng thương mại quốc doanh.
- Cần phát triển một môi trường cạnh tranh hiệu quả trong hệ thống Ngân hàng nói chung trên cơ sở tiêu chí về khả năng sinh lời. Các Ngân hàng được tự do hơn trong việc phản ứng với các tín hiệu thị trường để lựa chọn những khách hàng cho riêng minh, đạt mức lãi suất, xác định điểm đạt chi nhanh. Cho phép các tổ chức nước ngoài mở chi nhánh, liên doanh với vác tổ chức trong nước hay chuyển những dịch vụ chuyên ngành từ nước ngoài để tăng tính cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng.
- Cơ cấu lại các Ngân hàng thương mại cổ phần: Phần lớn các Ngân hàng thương mại cổ phần hiện nay yếu kém trong hoạt động nhưng lại có xu hướng mở rộng phạm vi kinh doanh. Vì vậy trong chiến lược cơ cấu lại hệ thống Ngân hàng nhất thiết phải sắp xếp lại các Ngân hàng thương mại cổ phần theo hướng: Tăng cường sức cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại đang hoạt động bình thường, kiên quyết rút giấy phép hoạt động của các Ngân hàng thua lỗ khả năng trả nợ, giới hạn phạm vi hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng có một vài yếu kém trong hoạt động hoặc không đủ vốn pháp định và cơ caáu lại toàn bộ các Ngân hàng yếu kém có mức độ rủi ro không trả được nợ cao.
- Từng bước thành lập các Ngân hàng chính sách.
- Cải cách các nguyên tắc quản lý quản trị Ngân hàng và môi trường pháp lý. Do đó các Ngân hàng cần hoàn thiện kỹ năng quản lý cvà các hệ thống nội bộ. Việc kiểm soát phòng ngừa cần tăng cường để xây dựng thị trường trật tự trên cơ
Sở thông tin thị trường minh bạch, sự giám sát hữu hiệu của các hoạt động Ngân hàng.
- Tăng cường trang bị kỹ thuật tin học, hệ thồng thu thập xử lý thông tin nhằm: một là để phục vụ tốt và nâng lên tầm hiện đại quá trình thanh toán qua Ngân hàng, hai là để các Ngân hàng có thể thu thập kịp thời và xử lý nhanh nhạy các thông tin thị trường trong nước và quốc tế, làm chỗ dựa cho việc ra các quyết định quản lý đúng đắn, các quyết định kinh doanh sát hợp.
2.2. Cải cách đối với Ngân hàng trung ương.
Năng lực kỹ thuật của Ngân hàng trung ương cần được củng cố. Sử dụng các công cụ gián tiếp đòi hỏi Ngân hàng trung ương phải dự tính được cung cầu tiền tệ và dự trữ của Ngân hàng, tình hình thanh khoản và trạng thái hối đoái của một Ngân hàng thương mại đánh giá ảnh hưởng của chúng đến các khối lượng tiền và tín dụng ở diện rộng hơn. Do đó, Ngân hàng trung ương cần được liên hệ liên tục với thị trường, hiểu rõ hơn tâm lý thị trường, tức Ngân hàng trung ương cần chuyển từ theo dõi thụ động và định kỳ việc tuân thủ các quy định bắt buộc sang tham gia một cách tích và thường xuyên.
Việc theo dõi những diễn biến hàng ngày trên thị trường tiền tệ sẽ giúp Ngân hàng trung ương biết thời điểm và mức độ can thiệp (trực tiếp hoặc gián tiếp). điều này kéo theo sự thay đổi trong quyết định, tổ chức hệ thống thông tin bố trí nhân lực. Sau đây là một số vấn đề cụ thể:
Ngân hàng trung ương cần được phát triển thành một số định chế có quyền hình thành và thực hiện chính sách tiền tệ một cách độc lập. Ngân hàng trung ương càng độc lập, trong đó có quyền đặt ra mức lãi suất mà không chịu sự can thiệp của chính phủ thì việc chuyển đổi sẽ nhanh và hiệu quả hơn. giám đốc Ngân hàng trung ương phải là những chuyên gia có quyền tự quản và trách nhiệm, cần có những thủ tục rõ ràng nhằm giảm sự can thiệp của chính phủ vào các quyết định cho vay, quản lý tài sản và chính sách nhân sự.
Đảm bảo Ngân hàng trung ương là người cho vay cuối cùng nhằm điều hoà khối lượng tiền tệ để kiểm soát sát sao hoạt động của Ngân hàng thương mại.
Cần xây dựng một bộ máy gồm các chuyên gia tài chính tiền tệ giỏi chuyên môn theo dõi, phân tích diễn biến tình hình tiền tệ, lạm phát để có quyết định kịp thời, hợp lý. Vì vậy phải chú trọng đào tạo và có các biện pháp khuyến khích thích hợp để giữ được đội ngũ cán bộ có chuyên môn cao, đồng thời Ngân hàng trung ương phải đầu tư cho công nghệ hiện đại để hỗ trợ cho nghiệp vụ mới.
Hệ thống kế toán cũng cần được hợp lý hoá và hiện đại hoá để cung cấp thông tin cập nhật cần thiết để quản lý ngắn hạn các hạng mục chủ yếu trong bảng cân đối của Ngân hàng trung ương.
3. Các điều kiện khác.
Công cụ chính sách tiền tệ cần được cách ly với những sức ép từ những yêu cầu của chính phủ nhằm tài trợ thâm hụt tài chính. Các chức trách cần cắt giảm tài trợ thâm hụt tài chính. Chính phủ phải thanh toán các khoản nợ theo lãi suất thị trường và kìm chế việc gây áp lực lên các Ngân hàng. tăng cường tính độc lập của Ngân hàng trung ương có thể giúp cho đạt được nhữmg mục tiêu này. chính phủ cần xây dựng một chương trình toàn diện nhằm phát triển và hoàn thiện chính sách tiền tệ quản lý nợ công cộng và thông qua phát hành trái phiếu chính phủ, tức là thông qua thị trường để bù dắp thâm hụt ngân sách. Bên cạnh đó để cải thiện tình hình ngân sách cần phải tiết kiệm triệt để phần cho cho bộ máy hành chính thực hiện cải cách hành chính và cải cách thuế.
Cần tiếp tục ban hành nhưngc cơ chế, quy chế, thể lệ hợp thức hơn, mang đầy đủ hiệu lực pháp lý hơn. Trước hết cần phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế Ngân hàng nhằm tạo ra một hành lang pháp luật tương đối an toàn cho hoạt động của các Ngân hàng. trước hết là các cơ chế sau đây:
+ Cơ chế phát hành tín phiếu của Công ty tài chính
+ Cơ chế phát hành trái phiếu, trứng từ tiền gửi của Ngân hàng thương mại.
+ Cơ chế góp vốn cổ phần của cổ đông nước ngoài vào các tổ chức kinh doanh tín dụng Việt nam.
+ Cơ chế tổ chức và hoạt động các loại hính Công ty tài trợ thuê mua.
Đi đôi với những biện pháp như vậy là mở rộng phân công, phân cấp, phân quyền của các tổ chức thanh tra giám sát tài chính. Ngân hàng, đảm bảo sự minh bạch trong chế độ thông tin, báo cáo tài chính kế toán.
Chính sách tiền tệ thông thường có sự đan xen phức tạp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Vì vậy việc chuyển đổi điều hành chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp cũng không thể tránh khỏi việc tiếp tục hoàn thiện một môi trường kinh tế, mà thực chất là hoàn thiện môi trường kinh tế thị trường.
Việc chuyển đổi điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp sẽ dễ dàng và ít bị đảo lộn hơn nếu được thực hiện từng bước. Trên thực tế nếu các công cu trực tiếp vẫn còn hiệu quả đặc biệt trong các tình huống khi những cải cách thể chế cần thiết đều đẩy đủ và không chắc sẽ được thực hiện trong một tương lai gần, thì việc đưa vào sử dụng các công cụ gián tiếp có thể là quá sớm và có thể gây ra những đảo lộn.
Phần III. Kết luận
Ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ của nó là một tất yếu khách quan. Bất cứ một nền kinh tế nào muốn phát triển được thì điều đầu tiên là phải có một nền tài chính ổn định và phát triển thì mới khuyễn khích các nhà đầu tư vào sản xuất làm cho hàng hoá ngày càng phong phú. Bên cạnh đó, với thu nhập ổn định, nhu cầu tiêu dùng sẽ tăng dẫn đến tốc độ tăng trưởng kinh tế cao.
Nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây đã đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng trong xu thế hội nhập và quốc tế hoá toàn cầu, để theo được các nước là một điều rất khó khăn đối với Việt nam.
Một chính sách tiền tệ linh hoạt và có hiệu quả sẽ làm bớt rất nhiều khó khăn cho ta. Vì vậy Ngân hàng trung ương phải có những biện pháp hữu hiệu nhằm đưa chính sách tiền tệ ngày cáng vững mạnh. Đó là Ngân hàng trung ương tăng cường điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, hạn chế các công cụ trực tiếp.
Tóm lại, để đạt được mục tiêu tối đa của mình thì Ngân hàng trung ương phải biết nắm bắt thời cơ và dựa vào đặc điểm của mỗi nước để đưa ra những chính sách hiệu qủa nhất đối với từng quốc gia.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình giảng dạy môn nghiệp vụ Ngân hàng trung ương.
2. Công nghệ Ngân hàng và thị trường tài chính.
Nguyễn Công nghiệp - NXB thống kê 1993
3. Các công cụ tài chính trong nền kinh tế thị trường.
Nguyễn Thế Thọ - NXB Thống kê 1993
4. Chính sách tiền tệ với công cuộc phát triển ở Việt nam.
Phạm Ngọc Long - Tạp trí tài chính 2/2000
5. Ngiệp vụ thị trường mở một số giải pháp hữu hiệu cuă chính sách tiền tệ.
Mai Đình Đệ - Tạp trí Ngân hàng 3,4/200
6. Nghiệp vụ thị trường mở, công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ.
Mai Đình Đệ -Tạp trí Ngân hàng 9/1999
7. Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giới.
Trần Mạnh Kiên - Tạp trí Ngân hàng 10/2000
8. Một số giải pháp sử dụng nghiệp vụ thị trường mở .
Lê văn Hải - Tạp trí Ngân hàng 9/1999
9. Chuyển đổi công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp.
Nguyễn Văn Thắng - Tạp trí Ngân hàng 3/1997
10. Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành chính sách tiền tệ ở Việt nam.
Tô Kim Ngọc - Tạp trí Ngân hàng 1,2/2000
11. Ngân hàng thương mại.
Lê Văn Tư
12. Giáo trình tài chính quốc tế.
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 3
Nội dung
Chương I- Ngân hàng trung ương và các công cụ điều hành chính sách tiền tệ 4
I- Ngân hàng Trung ương với vai trò điều hành chính sách tiền tệ 4
II- Các công cụ của chính sách tiền tệ 5
1. Công cụ trực tiếp 6
2. Các công cụ gián tiến 7
III- Sự cần tihết phải chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang công cụ gián tiếp 11
IV- Kinh nghiệm của một số nước trong quá trình chuyển đổi từ công cụ trực tiếp sang gián tiếp 12
Chương II- Thực trạng về công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 14
I- Bối cảnh chung 14
II- Công cụ chính sách tiền tệ của Việt Nam qua các giai đoạn 14
1. Giai đoạn 1986 - 1988 14
2. Giai đoạn 1989 - 1991 15
3. Giai đoạn 1992 - 1995 15
4. Giai đoạn từ 1996 đến nay 17
III- Những hạn chế trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 19
1. Nhận xét chung 19
2. Hạn chế của cơ chế điều chỉnh trực tiếp trong điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam 20
Chương III- Những định hướng và giải pháp nhằm chuyển đổi các công cụ chính sách tiền tệ từ trực tiếp sang gián tiếp 25
1. Phát triển thị trường tài chính 25
2. Cải cách hệ thống ngân hàng 26
3. Các điều kiện khác 29
Phần kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35282.doc