Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường điều này không có nghĩa là chúng ta phát triển kinh tế theo tư bản chủ nghĩa.Mà nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa.Đó là một chế độ xã hội mà nhân loại hằng mong đợi.Là nước đi sau nên chúng ta có thể rút ra những bài học từ các nước đi trước để tìm ra cho riêng mình một con đường phù hợp với quy luật,điều kiện,hoàn cảnh của nước ta hiện nay.
Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên vấn đề phát triển các doanh nghiệp là hết sức quan trọng,trong đó phai nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước.Để làm được điều đó chúng ta cần phải tăng cường sự kiểm tra,tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển góp phần vào việc phát triển kinh tế-xã hội đồng thời tạo nguồn nhân lực thực sự có năng lực để đáp ứng nhu cầu đổi mới.
Đây là một đề tài rất phong phú,nó giúp cho sinh viên chúng em tạo cho mình một kiến thức vững chắc về nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng như những nhân tố đảm bảo cho định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta.Để làm tròn trách nhiệm của mình chúng ta cần nhận thức đúng đắn sâu sắc về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu”dân giàu,nước mạnh,xã hội công băng dân chủ văn minh”.
41 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1601 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ quan đó có quyền lực ,có đầy đủ thông tin về các mặt để đièu hoà ,phối hợp các mặt hoạt động của nền sản xuất xã hôi giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế.
- Khuyến khích và trừng phạt.Bằng các chính sách đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch.Muốn vậy phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng hoạt động theo định hướng kế hoạch làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích ; ngược lại không làm theo định hướng của kế hoạch ,làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
4.1.3.Các công cụ điều tiết vĩ mô của nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Hệ thống pháp luật.Hệ thống pháp luật là một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước ,nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động , phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường ,đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế-xã hội ,bao gồm những đièu luật cơ bản về hoạt động của các doanh nghiệp (Luật doanh nghiệp ), về hợp đồng kinh tế , về bảo hộ lao động , bảo hiểm xã hội,bảo vệ môi trường…Các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điêu tiết của Nhà nước
*Kế hoạch hoá.Cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường.Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của Nhà nước ,chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau.Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực , còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường ,làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch.Kế hoạch nói ở đây được hoạch định trên cơ sở thị trường ,bao quát tất cả các thành phần kinh tế , tất cả các quan hệ kinh tế kể cả quan hệ thị trường.
*Lực lượng kinh tế của Nhà nước.Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháo luật, kế hoạch hoá , mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế , hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa ,thuc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.Nhờ đó Nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế-xã hội do kế hoạch đặt ra.
*Chính sách tài chính và tiền tệ.Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của Nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và tiền tệ.
Chính sách tài chính , đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội.Thông qua việc hinh thành và sử dụng ngân sách nhà nước , Nhà nước đìêu chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế ,xây dựng kết cấu hạ tầng đảm bảo công bằng trong phân phối Chính sách tiền tệ.Là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu ,vai trò của nó trong điều tiết kinh tế vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng.Trong chính sách tiền tệ,lãi suất là công cụ quan trọng ,là phương tiện điều tiết cung , cầu tiền tệ.Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ kìm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trưc tiếp đến nền kinh tế.
*Các công cụ đièu tiết kinh tế đối ngoại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại,Nhà nước phải sử dụng nhiều công cụ , trong đó chủ yếu là thuế xuất-nhập khẩu , trợ cấp xuất khẩu,bảo đảm tín dụng xuất khẩu.Thông qua các công cụ đó Nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu ,bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta ; giữ vững độc lập , chủ quyền ,bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế.
4.2.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Việc đề ra quan điểm ”thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân”là một trong những thành tựư to lớn của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam ,nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng như về các yếu tố cơ bản cấu thành nền kinh tế đó.
4.2.1.Nội dung của thành phần kinh tế nhà nước
Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu của nhà nước về tư liệu sản xuất .Phải phân biệt nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế , kiểm soát nền kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường với nhà nước là một lực lượng chính trị với các phương tiện vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó.Chỉ có sở hữư nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế , một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước.Với quan niệm như thế thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố cấu thành sau:
Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh ngiệp nhà nước .Đây là các tổ chức kinh tế mà sở hữu của nhà nước có thể là 100% hay chỉ là cổ phần không chế, cổ phần đặc biệt có quyền phủ quyết.Các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động theo luật riêng như hiện nay cũng có thể hoạt động theo luật doanh nghiệp chung như nhiều ý kiến đề nghị nhưng điẻm cốt lõi của nó là nhà nước thông qua các đại diện sở hữu của mình tiến hành kiểm soát chi phối hoạt động của doanh nghiệp nhằm lấy đó làm công cụ can thiệp tích cực vào nền kinh tế định hướng những cân đối lớn và hiệu quả chung.
Yếu tố thứ hai là hệ thống tài chính của nhà nước.Ngày nay khi mà xu hướng mở rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các quốc gia thì ở nước ta do nhà nước có vai trò lớn trong đam bảo công bằng nên tài chính nhà nước trở thành lưc lượng kinh tế đáng kể.Từ ngân sách nhà nươc có thể hình thành các luồng tài chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phải doanh nghiệp nhà nước để sinh lãi trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội cho vay tín dụng v.v
Yếu tố thứ ba là hệ thống dự trữ , tài nguyên đất đai vùng biển thuộc sở hữu nhà nước.Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đát đai ,mặt biển không phận đều thuộc sở hữu nhà nước.Có bộ phận đất đai nhà nước giao cho dân sử dụng lâu dai.Cũng có bộ phận đất đai mặt biển tài nguyên không phận v.v... nhà nước cho thuê và có thu nhập.Thu nhập đó có thể tái đầu tư ,cũng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công dân dưới hình thức nào đó. kiểm soát các quá trình kinh tế đó.
Yếu tố thứ tư là hệ thống dịch vụ nhà nước kể cả dịch vụ thu phí và cả dịch vụ không thu phí.Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cải tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình , ngày nay kinh tế hiện đại cho rằng của cải còn là những dịch vụ với tư cách hàng hoá vô hình nhưng có vai trò thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và làm tăng chất lượng cuộc sống và cũng được tính vào GDP.Những dịch vụ nhà nước có thể kể ra như dịch vụ của ngân hàng nhà nước , dịch vụ hải quan , dịch vụ thủ tục hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát thị trường tiền thị trưòng chứng khoán thị trường vốn…
4.2.2.Bản chất xã hội chủ nghĩa của thành phần kinh tế nhà nước.
Trong các kỳ đại hội Đảng từ năm 1986 đến nay thay cho cụm từ “ xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa “ , Đảng ta đã sử dụng cụm từ “ định hướng xã hội chủ nghĩa “ với hàm ý rằng nước ta còn đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.Đương nhiên đặc trưng của thời kỳ quá độ , như Lênin đã chỉ ra là thời kì mà nhiều thành phần cùng tồn tại trong đó có cả thành phần đại diện cho phương thức sản xuất cũ chưa thể bị thay thế , cả các thành phần đại diện cho phương thức sản xuất mới chưa đủ sức khẳng định vai trò thông trị của mình.Chính ở giai đoạn này nhà nước với tư cách “ Bà đỡ “ cho sự ra đời của phương thức sản xuất mới sẽ có vai trò đặc biệt quan trọng thể hiện ở các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho thành phần kinh tế mới nảy sinh , phát triển và tiến đến thắng lợi.Lịch sử đã chứng minh mọi phương thức sản xuât mới đều hình thành như thế.Vấn đề khác biêt đối với thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta là ở chỗ : Nếu như các phương thức sản xuất khác thực hiện sự bóc lột với quảng đại quần chúng nhân dân thì phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chúng ta hướng tới sẽ giải phóng quảng đại nhân dân lao động khỏi ách ap bức bóc lột, do đó nhà nước và thành phần kinh tế nhà nước đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động. chiếm hữu dưới hình thái nhà nước ,chứ không phải dưới hình thái một giai cấp và từ sự chiếm hữu dưới hình thái nhà nước đó , thông qua nhà nước xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân mà nhân dân lao động tiến hành kiểm soát các quá trình tổ chưc quản lý và phân phối của nền kinh tế.Có nghĩa là , ẩn giấu đằng sau hình thái sở hữu nhà nước , thành phần kinh tế nhà nước ở nước ta vẫn là sở hữu toàn dân , chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa.
Cho nên , nhà nước ta không những phải tạo điều kiện cho thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác phát triển mà hơn lúc nào hết phải tạo điều kiện và bảo vệ cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển , một khi trong lòng quan hệ sản xuất của nó , lực lượng sản xuât đang còn nhiều dư địa để phát triển.Quan điểm có tính nguyên tắc của chúng ta là tạo ra môi trường hoạt động bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác hết nội lực và nhân tố hiệu quả của chúng , đồng thời cố gắng tìm tòi , thể nghiệm dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm cũng như khái quát lý luận để tìm ra những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả , trong đó không những lực lượng sản xuất tìm thấy nguồn động lực phát triển mạnh mẽ mà quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng không ngừng được tái sinh và hoàn thiện.Và đây mới chính là nội dung cốt lõi nhất , tư tưởng xuyên suốt của đổi mới quản lý để thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
4.2.3.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước
Về mặt lý luận , vai trò chủ đạo do thành phần kinh tế đại diện cho phương thức sản xuất mới đang dần thay thế phương thưc sản xuất cũ đảm nhiệm.Trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta , vai trò chủ đạo đó tất yếu được đặt lên vai thành phần kinh tế nhà nước.Đại hội VIII Đảng Cộng Sản Việt Nam đã khẳng định :”Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm tốt vai trò chủ đạo : làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giảI quyết những vấn đề xã hội ; mở đường , hướng dẫn , hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển ; làm lực lượng vật chất để Nhà nước thưc hiện các chức năng đièu tiết và quản lý vĩ mô ; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới “ và tư tưởng này một lần nữa được khẳng định ở Hội nghị Trung ương 4 (khoá VIII).Tuy nhiên cho đến nay vẫn không ít ý kiến cho rằng vai trò chủ đạo này nên đặt cho hệ thống doanh nghiệp nhà nước hơn la cho thành phần kinh tế với nội dung đã được xác định như trên.Nếu chỉ riêng hệ thống doanh nghiệp nhà nước thì khó đảm đương vai trò chủ đạo bởi lẽ : Thứ nhất , hệ thống này khó chiến thắng doanh nghiệp tư nhân trong điều kiện cạnh tranh thị trường thuần tuý ; Thứ hai , nó khó lòng định hướng dẫn dắt và cải tạo các thành phần kinh tế khác theo hướng kinh tế tư bản nhà nứơc nếu không có sự hỗ trợ của nhà nước với tư cách chủ thể kinh tế mạnh ; Thứ ba , bản thân các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa chưng tỏ bản chất xã hội chủ nghĩa của nó mà bản chất đó chỉ được khẳng định bằng chính bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước.Như vậy , không thể chối cãi được rằng với tổng thể tiềm lực kinh tế của mình , kinh tế nhà nước đủ sức trở thành lực lượng đi tiên phong trong công nghiệp hoá , hiện đại hoá nhằm mở ra những phạm vi rộng lớn cho lực lượng sản xuất phát triển và do đó nó có ưu thế hơn hẳn các thành phần kinh tế khác ở nước ta.Mặt khác thông qua vai trò đièu tiết , định hướng , dẫn dắt thành phần kinh tế nhà nước góp phần chi phối và biến đổi các thành phần kinh tế khác trong quỹ đạo định hướng xã hội chủ nghĩa.Như nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười nói trong Hội nghị Trung ương 4 ( khoá VIII) : “ Chúng ta không thể để quan hệ sản xuất phát triển tự phát.Nếu để tự phát thì nền sản xuất sẽ hàng ngày hàng giờ đi vào chủ nghĩa tư bản “ Và hơn nữa chúng ta kì vọng vào sự tìm tòi thử nghiệm để sáng tạo tạo ra những hình thức tốtnhất , trong đó vừa duy trì và tái sản xuất được quan hệ sản xuất mới – xã hội chủ nghĩa , vừa tạo ra những phạm vi rộng lớn cho sự tăng trưởng nhanh , có hiệu quả lực lượng sản xuất.Chính đó là cốt lõi của luận đề:”kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo ,cùng với kinh tế hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng”.Tuy nhiên chúng ta cũng phải nhận thức rằng quá trình tìm tòi này không phải dễ dàng.Trên con đường tìm tòi đó sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước hiện có , đa dạng hoá loại hình sở hữu ngay trong doanh nghiệp nhà nước , cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước , chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước sang hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ , công ty hoá doanh nghiệp nhà nước , cải cách hành chính theo hướng giảm bớt các đầu mối quản lý ,tìm hình thức đại diện sở hữu nhà nước qua hội đồng quản trị , cải cách cơ chế điều tiết vĩ mô , tách tài phần kinh tế này.Ba là , tăng cường sự kiểm tra , kiểm soát của nhân dân đối với thành phần kinh tế nhà nước để hạn chế tối đa xu hướng quan liêu hoá , tham ô , tham nhũng của cán bộ đại diện cho sở hữu nhà nước.
Ngoài ra , với khái niệm thành phần chính công ra khỏi tài chính doanh nghiệp…tất cả những việc làm đó chính là quá trình thử nghiệm , tìm tòi để tìm ra một mô hình tổ chức kinh tế nhà nước tối ưu phản ánh được bản chất của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.Sự vật sẽ tự phát triển và dẫn đến những mô hình ngày càng hoàn thiện hơn.Đó là quy luật của lịch sử , không ai có thể nóng vội đốt cháy giai doạn.Song cũng có những vấn dề có tính nguyên tắc không thể xa rời. Một là, phải giữ gìn và thể hiện trên thực tế bản chất xã hội chủ nghĩa của nhà nước.Do vậy phải kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và nâng tầm lãnh đạo của Đảng ngang mức thực tế đòi hỏi.Hai là, phải củng cố,phát triển thành phần kinh tế nhà nước để nó thực sự ngày càng mạnh và thực sự có hiệu quả hơn.Cải tổ khu vực kinh tế nhà nước nhất quyết không có nghĩa là thu hẹp vai trò của thành kinh tế nhà nước rộng như vậy thì kinh tế nhà nước đã bao hàm cả phần vốn nhà nước liên doanh với tư bản tư nhân , do vậy khái niệm “ thành phần kinh tế tư bản nhà nước “ là không còn cần thiết và thích hợp với phạm trù “thành phần” , mà nên quy nó vế các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh hỗn hợp.
II.thực trạng về đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở việt nam
1.Vai trò điều tiết của nhà nước.
Hiện nay nền kinh tế ở nước ta là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Đó là nền kinh tế mà ở đó Nhà nước XHCN thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô và sử dụng kinh tế nhà nước để gián tiếp tác động ,hướng sự phát triển kinh tế phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên cơ sở tôn trọng và vận dụng đầy đủ các quy luật,nguyên tắc,cơ chế thị trường.Vì vậy khi xem xét vấn đề vai trò điều tiết của nhà nước ta cần nghiên cưú về các công cụ quản lý vĩ mô nền kinh tế của Nhà nước xem đạt được những thành tựu gì cũng như còn tồn tại những bất cập gì.Qua đó sẽ đề ra một số giải pháp cơ bản.
1.1.Hệ thống pháp luật.
Trong hơn 15 năm qua trải qua 3 khoá VIII,IX,và X là những khoá của thời kỳ đổi mới,Quốc hội đã ban hành Hiến pháp năm 1992 và ra nghị quyết sửa đổi,bổ sung một số điều của Hiến pháp này.Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cũng ban hành hàng trăm đạo luật,pháp lệnh,trong đó có những bộ luật lớn như Bộ luật dân sự,Bộ luật hình sự,Bộ luật lao động,Luật thương mại,Luật Tổ chức Quốc hội,Luật Tổ chức Chính phủ,Luật Tổ chức Toà án nhân dân…công bố chương trình xây dựng luật,pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ 2002-2007…
Hệ thống pháp luật ấy đã được điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội từ chính trị,kinh tế,an ninh,quốc phòng đến văn hoá,khoa học và công nghệ…góp phần quan trọng vào sự ổn định đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng.
Tuy nhiên hệ thống pháp luật của nước ta nhìn chung vẫn chưa hoàn thiện,đồng bộ,chất lượng và hiệu quả chưa cao,chưa thật sát với cuộc sống,chưa đáp ứng tốt yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá,phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,chưa phản ánh đầy đủ ý chí và nguyện vọng của nhân dân.Nhiều qui định của luật pháp còn thiếu cụ thể,muốn đưa vào cuộc sống,phải chờ đợi nhiều văn bản dưới luật.
Để xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh,có chất lượng và hiệu quả hơn cần có chương trình lập pháp dài hạn cho cả thời kỳ công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.Trên cơ sở đó,xây dựng chương trình kế hoạch lập pháp,hàng năm và cả nhiệm kỳ phải đổi mới hơn nữa quy trình lập pháp sao cho việc xây dựng luật từ nay phải tuân thủ một quy trình chặt chẽ bao gồm nhiều công đoạn với nhiều chủ thể tham gia,xác định trách nhiệm và cách thức làm việc của các ban soạn thảo đổi mới công tác lấy ý kiến đóng góp của nhân dân,của các chuyên gia.
1.2 Các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới kinh tế,Việt Nam đã đề ra hai chiến lược phát triển kinh tế-xã hội với các nội dung cụ thể nhằm giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho mỗi thời kỳ là:
+,Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội 1991-2000(gọi tắt là Chiến lược lần thứ nhất).
+,Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010(gọi tắt là Chiến lược lần thứ hai)
1.2.1Chiến lược lần thứ nhất được thông qua tại Đại hội 7 Đảng Cộng Sản Việt Nam(6-1991)
ở thời điểm năm1991,sau hơn 4 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế,tuy bước đầu đạt được một số thành tựu có ý nghĩa,nhưng”bước tiến đó chưa vững chắc.Lạm phát còn ở mức cao,sản xuất chưa ổn định,tiêu cực xã hội vẫn trầm trọng.Đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội”.Vì vậy bản Chiến lược lần thứ nhất đã xác định mục tiêu tổng quát là”ra khỏi cuộc khủng hoảng,ổn định tình hình kinh tế xã hội,phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển,cải thiện đời sống nhân dân,củng cố quốc phòng an ninh,tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào thế kỷ 21.Tổng sản phẩm trong nước(GDP) đến năm 2000 tăng khoảng gấp đôi so với năm 1990”
1.2.2Chiến lược lần thứ hai được thông qua tại đại hội 9 của Đảng(4-2001) và hiện đang triển khai thực hiện.
Đại hội Đảng IX đã đánh giá kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược lần thứ nhất với nhận định”Sau mấy năm thực hiện Chiến lược,đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.Phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược kinh tế-xã hội 1991-2000 đã được thực hiện.Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất,quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế;đời sống vật chất,tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt,văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ;thế và lực của đất nước hơn hẳn 10năm trước,khả năng độc lập tự chủ được nâng lên,tạo điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá...
...Tuy nhiên,những thành tựu và tiến bộ đã đạt đựơc chưa đủ để vượt qua tình trạng nước kém phát triển,chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước.Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh.Thực trạng kinh tế-xã hội vẫn còn những mặt yếu kém bất cập “
Trên cơ sở đánh giá tình hình trong nước và quốc tế,Đại hội Đảng9 đã xác định tiêu đề của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI là chiến lược đẩy mạnh Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá(CNH-HĐH) theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa(XHCN),xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành công nghiệp với mục tiêu tổng quát là :
“Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,nâng cao rõ rệt đời sống vật chất,văn hoá tinh thần của nhân dân,tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Nguồn lực con người,năng lực khoa học và công nghệ,kết cấu hạ tầng tiềm lực kinh tế quốc phòng,an ninh được tăng cường,thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản,vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
Những kết luận đánh giá của Hội nghị lần thứ 9 BCHTƯ Đảng(khoá IX) tháng 1-2004 vừa qua về kết quả thực hiện nửa nhiệm kỳ kế hoạch 5 năm 2001-2005 cho thấy bên cạnh “một số thành tựu quan trọng”,đã bộc lộ dần ra xu hướng khó hoàn thành một số mục tiêu quan trọng của chiến lược.
Thông qua các chiến lược kinh tế xã hội Việt Nam chúng ta cũng đã đạt đựoc những thành tựu nhất định tưng bước nâng cao đời sống nhân dân về mọi mặt nền kinh tế ngày càng phát triển hơn với tốc độ phát triển nhanh.Cụ thể là Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng bình quân 7,5% một năm, tỷ lệ tích luỹ từ mức không đáng kể 2,9% GDP năm 1990 lên đạt mức tích luỹ 18,2%GDP năm1995 và 27%GDP năm2000 và hiện đã đạt trên 30%GDP.Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ,từ mức 61,3%GDP năm1990 lên 75,7%GDP năm 2000và hiện đạt gần 80%GDP.Cơ cấu thành phần kinh tế cũng chuyển theo hướng đa dạng hoá.Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị chỉ còn dưới 6%,đời sống nhân dân được cảI thiện rõ rệt công tác xoá đói giảm nghèo đạt kết quả khả quan.Tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm rõ rệt,từ mức 58% năm1992 xuống còn 29% năm2002.Sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất.
1.3Cải cách hệ thống tài chính tiền tệ ở nước ta.
1.3.1.Những thành tựu.
+,Thành tựu lớn nhất trong cải cách hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam là đã thành công trong đẩy lùi và khống chế kìm giữ lạm phát(lạm phát từ 774% năm 1986 giảm xuống 12,7% năm1995,3,6% năm1998,vài năm gần đây có hiện tượng giảm phát và giữa năm 2003 lạm phát ở mức 4%.
+,Những cải cách về thuế khoá đã có tác dụng to lớn(huy động từ 13%GDP qua thuế phí trong giai đoạn 1986-1990 lên xấp xỉ 19,4% trong giai đoạn từ 1991-2000 và 20,7% đến nay.Tăng tỷ lệ tiết kiệm trong nước so với GDP từ 10,1%(năm 1990)lên 27% năm 2000.Tương tự đã tác động đến tỷ lệ đầu tư trong GDP từ 15%(năm1990) lên 29,5%(năm 2000)
+,Thu hút được trên 4500 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký 50,277 tỷ USD,tổng vốn đầu tư được thực hiện trên 20,7 tỷ USD.Đến nay có khoảng 1800 dự án với số vốn đăng ký 24,5 tỷ USD đã thực sự đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.Cân đối và đièu hành ngân sách nhà nước đã bước đầu thực hiện theo những nguyên tắc chuẩn mực như chi thường xuyên không được lớn hơn thu tư kinh tế trong nước(thuế, phí,lệ phí).
+,Ngân hàng Trung ương(Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)giữ vị trí và vai trò quản lý nhà nước bước đầu điều hành và thanh tra giám sát thực hiện chính sách tiền tệ,góp phần kìm chế lạm phát,tiến lên ổn định dần giá trị đồng tiền Việt Nam.Các ngân hàng thương mại các tổ chức tín dụng và các định chế phi ngân hàng có hoạt động giữ vai trò kinh doanh tiền tệ.
+.Thành tựu chủ yếu trong hoạch định và điều hành chính sách tài chính quốc gia là đã huy động và phân bố nguồn lực tài chính một cách tương đối theo đúng trình tự thông qua hệ thống tài chính và các công cụ của nó.Xoá bỏ sự phân biệt về lãi suất cho vay theo mục đích và đối tượng vay từ tháng 4-1989,thực hiện chính sách lãi suất dương từ 6-1991 và điều chỉnh lãi suất linh hoạt phù hợp với thị trường.Sử dụng công cụ lãi suất chiết khấu và dự trữ bắt buộc để điều tiết mức cung tiền.Theo Pháp lệnh Ngân hàng,tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể ở mức 10-35% tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại.
+,Từ tháng 7-2000 Nghiệp vụ thị trường mở – một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ đã được thực hiện ở nước ta.
+,Trong những năm có khủng hoảng tài chính khu vực,tiền tệ Việt Nam vẫn khắc phục được những ảnh hưởng của nó và giữ thế ổn định tương đối.Mặt khác thông qua điều hành chính sách tiền tệ cũng góp phần dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Trung ương tư không đáng kể đến nay đã lên 4,062 tỷ USD.
Thông qua những nhận định trên có thể thấy thành tựu chủ yếu của hệ thống tài chính tiền tệ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới được biểu hiện chủ yếu trong việc khắc phục lạm phát phi mã,tiếp đến đưa ngân sách quốc gia tiến lên tự chủ,bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ chính trị kinh tế qua các năm,góp phần cung ứng tốt vốn cho nền kinh tế quốc dân trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
1.3.2.Những bất cập trong hệ thống tài chính tiền tệ.
+,Trong tình hình hiện nay ở nước ta đã tiến hành cải cách hệ thống tài chính tiền tệ song vẫn còn nhiều thứ thuế,phí,và nhiều thứ phí động viên ngoài ngân sách rườm rà,tản mạn gây tiêu cực thất thoát và cản trở khuyến khích đầu tư của công chúng.Các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước còn phân bổ dàn trải không tập trung dứt điẻm công trình.Phân cấp ngân sách nhà nước tuy đã được luật hoá song còn rất lúng túng.Tình trạng”bao cấp chức năng”trong vận hành tài chính nhà nước vẫn còn tiếp diễn gây lãng phí tham nhũng tiêu cực.
+,Chính sách tài chính-tiền tệ-tín dụng-đầu tư chưa có sự liên kết thống nhất chặt chẽ với các chiến lược tổng thể của nền kinh tế.Phương thức điều hành và thực thi có tình trạng phân tán,manh mún và cục bộ.Công nghệ trong hệ thống tài chính tiền tệ còn ở mức thấp so với khu vực.Môi trường đầu tư và hành lang pháp lý còn nhiều bất cập và chưa được hoàn thiện.Nguồn nhân lực trong hệ thống tài chính-tiền tệ phát triển chưa đồng bộ cần được tiếp tục cấp tốc đào tạo lại.Bao trùm lên toàn bộ lĩnh vực tài chính-tiền tệ Việt Nam là thiếu vốn dài hạn nghiêm trọng,hiệu quả đầu tư còn thấp,hệ thống tài chính thiếu minh bạch,hệ thống giám sát yếu,gây nên nạn tham nhũng lãng phí.
1.3.3.Những nguyên nhân gây bất cập đối với hệ thống tài chính-tiền tệ nước ta.
+,Về nhận thức,tư duy chưa thấy hệ thống tài chính tiền tệ là nòng cốt là xương sống của nền kinh tế.Vì chưa quán triệt được nhận thức này nên đã xảy ra những bất cập trong việc hoạch định chính sách,điều hành và thực thi.
+,Xuất phát từ nhận thức tư duy không được đổi mới liên tục nên hệ thống tài chính-tiền tệ của Việt Nam còn có nhiều khập khễnh so với lý luận hiện đại.
+,Hệ thống kế toán,thống kê và phương pháp điều hành thiếu công khai minh bạch là một nguyên nhân quan trọng gây nên những thất thoát trong hệ thống tài chính ngân hàng.
+,Hệ thống giám sát,thanh tra còn lỏng lẻo thiếu nghiêm minh và còn có tình trạng”chiếu lệ”.Kỷ cương tài chính cũng thiếu nghiêm minh, thường thực hiện theo phong trào.
1.4 Nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Việt Nam đã đàm phán trả nợ quá hạn cho IMF và nối lại quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính tiền tệ như WB, ADB vào tháng 10-1993 sau 15 năm gián đoạn.
Ngày 17-10-1994 Việt Nam gửi đơn gia nhập ASEAN.Tháng 7-1995 trở thành thành viên chính thức của ASEAN và cam kết thi hành nghĩa vụ của thành viên .Việt Nam tích cực tham gia Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) từ tháng 1-1996 trên cơ sở các quy định của Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung(CEPT), tranh thủ các ưu đãi để mở rộng thị trườngvà thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài .
Tháng 12-1994 Việt Nam gửi đơn gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và đang trong quá trình đàm phán để tham gia tổ chức này.Quyết định xin gia nhập WTO là quyết định rất quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với định hướng chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế trong tương lai của Việt Nam.Tháng 3-1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập Diễn đàn Hợp tác á-Âu (ASEM) ; tháng 11-1998, Việt Nam tham gia Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu á-TháI Bình Dương(APEC) và cam kết thực hiện các mục tiêu chung của APEC.v..v…Tiếp theo Việt Nam đã tiến hành ký Hiệp định khung với Liên minh châu Âu(EU),Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ(bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11-12-2001).Trong năm 2002, Việt Nam đã tiến hành đàm phán song phương với 16 quốc gia thành viên WTO, trong đó có nhiều đối tác quan trọng như Mỹ,EU,Nhật Bản,Hàn Quốc,Thuỵ Sĩ,Ôxtrâylia.v.v..Theo các dự báo của một số chuyên gia kinh tế cùng với sự chủ động ,tích cực và thiện chí không chỉ từ một phía, có thể trong vài ba năm tới ,quá trình đàm phán và chuẩn bị sẽ được hoàn tất,khi đó Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) ở Việt Nam : năm 1987 Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành.Năm 1990, 1992, 1996, 2000 đã được đieu chỉnh bổ sung cho phù hợp với tình hình và thông lệ quốc tế,cải thiện môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Tháng 5-1997,Luật thương mại đã được quốc hội thông qua.Nó tạo điều kien cho các doanh nghiệp thực sự có một môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn.Đồng thời,nó cũng thúc đẩy nhanh chóng tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế .v..v…Tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ tám,Việt Nam đã công bố danh mục hàng hoá thực hiện CEPT.
1.4.1.Những thành tựu cơ bản trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Về thu hút đầu tư nước ngoài:năm 1996 nguồn tài chính nước ngoài chiếm tỷ lệ 48,1% vào năm 1998 tỷ lệ này có giảm đi nhưng vẫn chiếm 44%.Trong 10 năm từ năm 1991 đến năm 2000 nguồn vốn nước ngoài chiếm khoảng 40,9% tổng vốn đầu tư phát triển nền kinh tế.
Hoạt động đầu tư trực tiếp từ nước ngoài bắt đầu từ năm 1988 đến năm 2000,cả nước cấp phép 3209 dự án với hơn 700 doanh nghiệp của 62 nước và vùng lãnh thổ, tổng vốn đăng ký 39,4 tỷ USD,vốn thực hiện khoảng 18,9 tỷ USD.Tính đến ngày 20-12-2002 đã có trên 4582 dự án được đăng ký cấp giấy phép với số vốn đăng ký khoảng 50,3 tỷ USD vốn thực hiện khoảng trên 25 tỷ USD trong đó vốn nước ngoài chiếm khoảng 98,75%.Từ tháng 10-1993 quan hệ hợp tác phát triển giữa Việt Nam với cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đã được nối lại.Tại các hội nghị này các nhà tàI trợ đã cam kết dành cho Việt Nam số vốn lên tới 17,5 tỷ USD và 1,2 tỷ USD hỗ trợ cải cách kinh tế..
Kể từ khi khai thông lại quan hệ với IMF,WB,ADB tới nay qua các kỳ hội nghị của các nhà tài trợ Việt Nam đã nhận được cam kết viện trợ với tổng mức vốn trên 17 tỷ USD trong đó số vốn đã được ký kết trong hiệp định trên là 12 tỷ USD bao gồm vốn vay hơn 10 tỷ USD và viện trợ không hoàn lại trên 2 tỷ USD.
Hoạt động xuất nhập khẩu có sự tiến bộ vượt bậc.Năm 2000 Việt Nam đã đạt kim ngạch xuất khẩu tính theo đầu người 180 USD,vựot qua 170 USD\người-tiêu chí để được gọi là nước có ngoại thương bình thường.Năm 2001 Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 15,027 tỷ USD nhập khẩu là 16,162 tỷ USD so với 0,822 tỷ USD và gần 2,16 tỷ USD của năm 1986.Năm 2002 nước ta đã đạt kim ngạch xuất khẩu là 16,705 tỷ USD nhập khẩu đạt 19,733 tỷ USD.Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm trên 20%.
Tình trạng nhập siêu đã giảm từ 3,8 tỷ USD năm 1996 xuống còn 900 triệu USD năm 2000 và 1.135 tỷ USD năm 2001.Đến năm 2001 nhập siêu lại lên tới 3,028 tỷ USD.Nước ta đã có một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như dầu thô,cao su,cà phê…với số lượng lớn và chất lượng ngày càng tăng.
1.4.2Thực tế quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta trong những năm qua cũng còn nhiều hạn chế.
Sự thiếu nhất quán và đồng bộ về chính sách trong xây dựng môi trường thể chế để thúc đẩy quá trình tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn yếu.Nhìn chung năng lực cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam hiện đang vẫn đứng ở thứ hạng rất thấp và bấp bênh trên thế giới.
Công tác chuẩn bị hội nhập kinh tế cho hội nhập kinh tế quốc tế chưa tốt,chưa thật tích cực và chủ động.Cải cách và đổi mới trong nước còn chậm và chưa đồng bộ với các nỗ lực hội nhập bên ngoài.Trong những năm qua,đồng thời với việc tiến hành hội nhập kinh tế quốc tế, đã tiến hành đổi mơí trên một số lĩnh vực nhưng vẫn chưa theo kịp những yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
1.4.3Nguyên nhân của hạn chế :
Hệ thống pháp luật ,chính sách quản lý nền kinh tế thị trường của Việt Nam còn một số mặt chưa đầy đủ,chưa đồng bộ và nhất quán,chưa sát với thực tế và khó thực thi,còn hay thay đổi,chưa phù hợp thông lệ quốc tế,do đó chưa đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Chính sách vĩ mô chưa tạo được động lực khuyến khích doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.Nhiều doanh nghiệp Việt Nam có quy mô nhỏ,vốn ít và không ít doanh nghiệp còn chậm thích với cơ chế mới nên năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế yếu.
Chậm trễ trong việc nghiên cứu và đưa ra một chiến lược tổng thể về hội nhập kinh tế quốc tế cho cả giai đoạn dài với các lộ trình mở cửa trong từng lĩnh vực nhóm hàng cụ thể.Các chiến lược cần xác định rõ các mục tiêu phương châm bước đi và biện pháp cần theo đuổi cũng như một lộ trình chung về cam kết mở cửa trong các lĩnh vực và ở các cấp độ khác nhau.
Năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế còn yếu.Việc chỉ đạo và thực hiện quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều bát cập.
1.5.Cơ chế quản lý kinh tế đang được đồng bộ hoá và hoàn thiện bước đầu.
Trong 5 năm qua,nhiều đạo luật về kinh tế xã hội được ban hành đã thể chế,cụ thể hoá đường lối,chính sách của Đảng,Nhà nước,hình thành về cơ bản khuôn khổ pháp lý cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành trong cơ chế thị trường,có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Cơ chế quản lý kinh tế,hệ thống luật pháp,cơ chế chính sách được đồng bộ hoá và hoàn thiện dần,đang phát huy tích cực trong quản lý kinh tế và trong đời sống xã hội.
Trong quá trình triển khai thực hiện các Luật,Pháp lệnh,các Chỉ thị,Nghị quyết…đã kịp thời điều chỉnh,bổ sung những nội dung mới phù hợp với tiến trình phát triển,tạo ra môi trường vĩ mô thuận lợi để thu hút các nguồn lực cho đầu tư phát triển kinh tế,xã hội.
Thị trường hàng hoá dịch vụ,thị trường vốn,tiền tệ,thị trường bất động sản...đang được hình thành với những cơ chế chính sách quản lý phù hợp đã tạo thêm động lực cho sự phát triển,khơi dậy tinh năng động của nền kinh tế
2.Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
2.1.Những thành tựu mà thành phần kinh tế nhà nước đã đạt được.
Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế;tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng.Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế,cần phải xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn,có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí,điện than,hàng không,đường sắt,vận tải viễn dương,cơ khí,ngân hàng,bảo hiểm,kiểm toán,xuất nhập khẩu,luyện kim,hoá chất…
Để tăng hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương cổ phần hoá nhưng doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn tạo động lực và cơ chế quản lý thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.Chủ trương”tiếp tục sắp xếp đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của khu vực doanh nghiệp nhà nước”do hội nghị trung ưong 9(khoá IX) đề ra là một khâu đột phá trong chính sách đối với doanh nghiệp nhà nướcphù hợp với điều kiện của kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.Qua báo cáo so sánh của trên 500 doanh nghiệp đã cổ phần hoá và đa dạng sở hữu trên một năm cho thấy kết quả sản xuất,kinh doanh:Vốn điều lệ tăng 50%,doanh thu tăng 60%,lợi nhuận trước thuế tăng 137% nộp ngân sách tăng 45%,thu nhập của người lao động tăng 63%,lao động tăng 13%,cổ tức năm 2002 đạt 15,5%.Bộ máy quản lý của các Tổng công ty nhà nước được kiện toàn về số lượng,chú trọng tiêu chuẩn cán bộ chủ chốt.Đến nay,Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược quy hoạch phát triển đến năm 2010 có tính đến năm 2020 của Tổng công ty nhà nước,nhiều Tổng công ty đã đầu tư mới và chiếm vị trí hàng đầu trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.
Lợi thế của các doanh nghiệp này là sản phẩm chiếm gần như tuyệt đối thị trường trong nước như điện than,viễn thông,thuốc lá,vật liệu nổ…tình trạng độc quyền đang được tháo gỡ bằng dự thảo Luật chống độc quyền.
Chính phủ cũng chỉ đạo xây dựng đề án thí điểm hình thành tập đoàn Viễn thông,Dầu khí,Địên lực,Xi măng nhưng triển khai vẫn còn chậm khi các công ty đang tiếp tục sắp xếp các doanh nghiệp thành viên.
2.2Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp nhà nước hoạt động không có hiệu quả gây ra những tổn thất nặng nề cho ngân sách nhà nước.
Năm 2003,tổng số vốn của doanh nghiệp nhà nước(tổng số còn 4492 doanh nghiệp)sau khi đánh giá lại có khoảng 189.000 tỷ đồng.Số vốn này tập trung chủ yếu vào tổng công ty nhà nước(khoảng 100.000 tỷ đồng).Theo Bộ Tài chính thì năm 2003 tổng số lãi của doanh nghiệp nhà nước đạt khoảng 20.000 tỷ đồng,nhưng số tiền Nhà nước bỏ vào cho doanh nghiệp nhà nước dưới dạng ưu đãi cũng vào khoảng 20.000 tỷ đồng.Thế là huề!Cùng trong năm 2003,tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp nhà nước la 96.775 tỷ đồng bằng 51% tổng vốn và 23% tổng doanh thu;tổng nợ phải trả là 207.789 tỷ đồng trong đó ngân hàng chiếm 76%.Các khoản nợ tồn đọng và nợ luỹ kế của doanh nghiệp nhà nước phát sinh trước năm 2003 là 4.638 tỷ đồng,phần lớn là nợ khó đòi.
2.3Căn cứ vào hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam,có thể nêu ra những ngành và lĩnh vực sau thuộc doanh nghiệp nhà nước :
+,Khai thác khoa học kĩ thuật cao có ý nghĩa chiến lược trong phát triển lâu dài của đất nước.
+,Khai thác tài nguyên khoáng sản quy mô lớn,sản xuất sản phẩm,cung ứng dịch vụ Nhà nước độc quyền kinh doanh như vật liệu nổ,hoá chất độc,chất phóng xạ.
+,Ngành và lĩnh vực liên quan đến an ninh quốc gia,như sản xuất tiền các chứng chỉ có giá,công nghiệp quân sự quan trọng,những lĩnh vực có liên quan đến an ninh quốc phòng,và hệ thống dự trữ quốc gia,sản xuất sửa chữa vũ khí,khí tài,trang bị chuyên dùng cho quốc phòng an ninh.
+,Những hạng mục xây dựng cơ sở hạ tầng lớn có lợi ích xã hội tưong đối lớn mà trước mắt ngoài quốc doanh không đủ sức hoặc không muốn đầu tư như:các công trình trị thuỷ,trồng rưng phòng hộ,rừng đầu nguồn,các công trình thuỷ lợi lớn,các công trình cơ sở hạ tầng ở thành phố.
+,Hoạt động trên các địa bàn quan trọng chiến lược,kết hợp kinh tế với quốc phòng.
Tất cả các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực này đều phải thuộc về kinh tế nhà nước,Nhà nước giữ 100% vốn sở hữu.
III.Các giảI pháp cơ bản nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở việt nam
1.Nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước XHCN.
Để phát huy vai trò quản lý của Nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau:
1.1.Hoàn thiện hệ thống pháp luật cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện pháp luật trên các lĩnh vực sau đây:
+,Sử dụng,chuyển nhượng,cho thuê đất.thị trường bất động sản,thị trường vốn,thị trường chứng khoán,chế độ kế toán,kiểm toán,và bản báo cáo tài chính công khai bắt buộc.
+,Cải cách DNNN,chuyển đổi sở hữu một bộ phận DNNN,khuyến khích đầu tư trong nước nhất là khu vực sản xuất nhỏ: luật kiểm soát độc quyền và cạnh tranh.
+,Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật,hoàn thiện hệ thống cơ quan thi hành pháp luật xây dựng nhà nước pháp quyền và quản lý kinh tế bằng pháp luật.Luật,pháp lệnh,nghị định và các văn bản phát huy hướng dẫn cần được soạn thảo một cách hoàn chỉnh,đảm bảo sự chặt chẽ thống nhất trong hệ thống văn bản.
+,Cần bãi bỏ ngay các thủ tục gây phiền hà cho dân,cải tiến các thủ tục trong lĩnh vực quan hệ trực tiếp với các doanh nghiệp như đăng ký kinh doanh,trước bạ,công chứng.
+,Cần đề cao trách nhiệm của cơ quan kiểm soát việc thực hiện luật pháp,phải có trọng tài nghiêm minh để khuyến khích các tác nhân kinh tế làm ăn theo luật pháp.
1.2.Đổi mới phương thức và nội dung kế hoạch hoá:
Kế hoạch hoá trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi chuyển từ lối quản lý”áp đặt hành vi bằng các chỉ tiêu pháp lệnh”sang lối quản lý”hướng dẫn hành vi”thông qua các định hướng chiến lược và các chính sách phát triển cụ thể cũng như các biện pháp có tính chất hướng dẫn việc thưc hiện kế hoạch.Cần giải quyết các vấn đề:
Một là,thay đổi cơ bản chức năng của cơ quan kế hoạch nhà nước.
Hai là,trong từng ngành kinh tế,cần lựa chọnvà xây dựng một số”đơn vị kinh tế điển hình”.Các đơn vị kinh tế này với ưu thế vốn,kĩ thuật,công nghệ quản lý kinh doanh sẽ có ảnh hưởng tích cực đến các doanh nghiệp khác.
1.3.Hoàn thiện các chính sách kinh tế :
sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân trong đó quan trọng nhất là các chính sách tài chính tiền tệ và chính sách đối ngoại
1.3.1.Về chính sách tài chính.
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tài chính của Nhà nước hiện nay là chính sách tạo vốn(bao gồm cả việc sử dụng vốn)và chính sách điều hoà thu nhập ,thông qua các công cụ tài chính(thuế,bảo hiểm,chi ngân sách…)
Có thể nói,việc tạo vốn là giải pháp hàng đầu để phát triển kinh tế thị trường.Trong những năm tới,chính sách tạo vốn của nhà nước nhằm khai thác mọi tiềm năng về vốn trong nước,đẩy mạnh hoạt động tài chính đối ngoại thông qua biện pháp vay nợ viện trợ…
1.3.2.Chính sách điều hoà thu nhập:
Phải nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa tính nhân đạo của CNXH và quy luật khắt khe của nền kinh tế thị trường.Điều này là rất phức tạp.Cần phải nghiên cứu thận trọng về mức thuế và suất thuế ở cả hai khâu kích thích và hạn chế.Cần đơn giản hoá các loại thuế suất,tăng tỷ trọng thuế trực thu,mở rộng diện đièu tiết thu nhập,cải cách cơ bản hệ thống thuế.
1.3.3.Chính sách tiền tệ lãi suất phải được quy định hợp lý.
Để khuyến khích mở rộng sản xuất trên cơ sở tính toán hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp.Việc quy định lãi suất ngân hàng phải chuyển sang thực hiện lãi suất cơ bản theo ngân hàng.Tạo ra sự cạnh tranh trong kinh doanh tiền tệ,vàng bạc bằng cách khuyến khích các ngân hàng nước ngoài mở thêm chi nhánh,phát triển các ngân hàng thương mại cổ phầnvà hợp tac xã tín dụng.Cải cách ngân hàng thương mại,khắc phục tình trạng tài chính mong manh trong các ngân hàng thương mại,đảm bảo thực hiện đầy đủ nguyên tắc hợp tác kinh tế,thực hiện cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trong hệ thống ngân hàng.
1.4.Chính sách phát triển đồng bộ các yếu tố của thị trưòng.
Kinh tế thị trường là một thể thống nhất của các thị trường:hàng tiêu dùng,dịch vụ,vật tư,vốn và tài sản,tiền tệ lao động,chất xám.Xét theo khía cạnh yếu tố”đầu vào” và”đầu ra”của quá trình sản xuất,ta có thể qui thành hai loại thị trường:thị trường các yếu tố sản xuất.thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ.
+,Thị trường các yếu tố sản xuất bao gồm thị trường vốn,thị trường tư liệu sản xuất và thị trường lao động.Hiện nay,ở Việt Nam đã hình thành thị trường sức lao động,việc đảm bảo quyền làm chủ sức lao động của người lao động và quyền tuyển dụng nhân côngcủa những người sử dụng sức lao động đòi hỏi phải tính đúng tính đủ gía trị sức lao động
+,Thị trường hàng tiêu dùng và dịch vụ là thị trường mà trên đó có người bán và người mua những tư liệu sinh hoạt.Thị trường này đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hoá.
+,Thị trường vốn là yếu tố cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường hiện đại;là cơ sở hạ tầng của xã hội và do đó nó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.
Mô hình thị trường vốn ở Việt Nam phải là mô hình đặc thù có sự kết hợp các yếu tố của loại hình thị trường vốn”mở”và”đóng”.Việc tạo lập thị trường vốn phải gắn với quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay.
1.5.Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung,quan liêu bao cấp,hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước.
Có chương trình kế hoạch đào tạo,đào tạo lại và bồi dưỡng thường xuyên cán bộ công chức nhà nước.Thực hiện chế độ bổ nhiệm công chức,tạo điều kiẹn cho công chức nâng cao trình độ chuyên môn và sát với dân.
Cần công khai hoá các nội dung và cơ chế,phương thức giám sát của các cơ quan chức năng các đoàn thể quần chúng và nhân dân về thực hiện pháp luật,chính sách chế độ của Nhà nước.Cần đẩy mạnh chống tham nhũng.
Phân cấp mạnh và toàn diện giữa các cấp trong hệ thống tài chính nhà nước trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn,nghĩa vụ với quyền lợi.
Đẩy mạnh cải cách hành chính,xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch vững mạnh.
Tăng cường hiệu lực và đổi mới cơ chế quản lý ngân sách nhà nước theo hướng triệt để tiết kiệm,nâng cao quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội,Hội đồng nhân dân các cấp trong việc quyết định và thực hiện ngân sách,thực hiện công khai,minh bạch trong chi tiêu ngan sách.
Tiếp tục xoá bỏ bao cấp trong đầu tư phát triển.Ngân sách nhà nước tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội,cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng nuôi dưỡng nguồn thu,thực hiện công khai minh bạch,giải quyết hàI hoà mối quan hệ lợi ích giữa Nhà nước doanh nghiệp và dân cư.
Xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô,kiểm soát lạm phát,thúc đẩy sản xuất tiêu dùng,kích thích đầu tư phát triển bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao và bền vững.
2.Về tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.
Để cho kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai vững và phát huy vai trò chủ đạo,định hướng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,chúng ta cần giải quyết các vấn đề sau :
Thứ nhất,hoàn thiện sự quản lý,điều tiết của Nhà nước,như hệ thống pháp luật,sử dụng có hiệu quả các công cụ chính sách vĩ mô(tài chính,tiền tệ,thuế..)để từ đó hoạch định chiến lược và kế hoạch hoá kinh tế nhà nước ở tầm vĩ mô,làm đòn bẩy cho các thành phần kinh tế hoạt độngvà đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai,tiếp tục sắp xếp đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước,tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát huy và ngày càng nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế.Tiến hành cổ phần hoá mạnh mẽ hơn nữa các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn.Các công ty là hình thức điển hình về hình thức tổ chức kinh doanh mà Đảng và Nhà nước ta đang khuyến khích phát triển.Chỉ tính riêng 200 doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá đang hoạt động tốt,nhiều chỉ tiêu kinh tế đều tăng:vốn tăng 183%,doanh thu tăng 135,5%,lợi nhuận sau thuế tăng 131%,các khoản nộp ngân sách tăng 153%,lao động tăng 9%,thu nhập bình quân tăng 29%,giá trị cổ tức bình quân đạt 2,6%……
Thứ ba để phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong việc làm đòn bẩy,hướng dẫn,hỗ trợ,tạo động lực trong một hệ thống đồng bộ,thì doanh nghiệp nhà nước phải là thành tố tích cực nhất,là phương tiện công cụ,lực lượng đi đầu,mở đường cho sự phát triển của nền kinh tế.Doanh nghiệp nhà nước đã được Nghị quyết 10 Bộ Chính trị khoá VII chỉ rõ 3 vai trò chủ yếu là”Làm nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá,mở đường hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế ;cung ứng hàng hoá dịch vụ và các lĩnh vực trọng yếu ;là công cụ có sức mạnh vật chất để Nhà nước điều khiển và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa,góp phần khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường”
Thứ tư để đổi mới doanh nghiệp nhà nước,tạo động lực cho sự phát triển,bên cạnh nắm giữ các ngành các lĩnh vực then chốt,xây dựng các tổng công ty mạnh để làm nòng cốt trong các tập đoàn kinh tế và làm đối trọng cần thiết khi hội nhập kinh tế quốc tế.
Doanh nghiệp nhà nước là động lực đi dầu trong sự phát triển thì cạnh tranh bình đẳng trên thị trường,tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh,luôn đi đầu trong việc thực hiện pháp luật,chính sách,chế độ,gương mẫu trong việc nộp thuế.
Thứ năm kiện toàn tổ chức,nâng cao hiệu quả các tổng công ty theo mô hình công ty mẹ-công ty con,kinh doanh đa ngành tổng hợp trên cơ sở ngành chuyên môn hoá,gọi vốn thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh,làm nòng cốt để hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh ở một số ngành và lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế quốc dân như viễn thông,hàng không,dầu khí...
Thứ sáu bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh;thực hiện việc tách quyền sở hữu nhà nước của các cơ quan nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp,xoá bỏ chế độ cơ quan,cấp hành chính chủ quản;chuyển một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sang hoạt động theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần.
Sửa đổi bổ sung chính sách.Xác định rõ chức năng quản lý nhà nước,đào tạo và sử dụng cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước.
C.Kết luận
Nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường điều này không có nghĩa là chúng ta phát triển kinh tế theo tư bản chủ nghĩa.Mà nước ta theo con đường xã hội chủ nghĩa.Đó là một chế độ xã hội mà nhân loại hằng mong đợi.Là nước đi sau nên chúng ta có thể rút ra những bài học từ các nước đi trước để tìm ra cho riêng mình một con đường phù hợp với quy luật,điều kiện,hoàn cảnh của nước ta hiện nay.
Nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cho nên vấn đề phát triển các doanh nghiệp là hết sức quan trọng,trong đó phai nâng cao vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước cụ thể là các doanh nghiệp nhà nước.Để làm được điều đó chúng ta cần phải tăng cường sự kiểm tra,tạo mọi điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển góp phần vào việc phát triển kinh tế-xã hội đồng thời tạo nguồn nhân lực thực sự có năng lực để đáp ứng nhu cầu đổi mới.
Đây là một đề tài rất phong phú,nó giúp cho sinh viên chúng em tạo cho mình một kiến thức vững chắc về nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng như những nhân tố đảm bảo cho định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta.Để làm tròn trách nhiệm của mình chúng ta cần nhận thức đúng đắn sâu sắc về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu”dân giàu,nước mạnh,xã hội công băng dân chủ văn minh”.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo bởi thầy đã hướng dẫn em cũng như đưa ra một đề tài vô cùng phong phú và bổ ích để em có dịp tìm hiểu về những gì mà mìnhh chưa được biết.Trong bài làm của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót em mong thầy góp ý và đánh giá để bài làm của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Tài liệu tham khảo
1. Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX - NXB chính trị Quốc gia
2. Tạp chí kinh tế phát triển số 56/ 02/2002
4. Tạp chí kinh tế phát triển số 66/12/2002
5. Tạp chí cộng sản số 24/12/2004
6. Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 3/2005
7. Một số vấn đề kinh tế xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - GSTS. Nguyễn Văn Thường - NXB Chính trị Quốc gia
8. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 313/06/2004
9. Tạp chí kinh tế và dự báo số 3 /2004
10. Giáo trình kinh tế chính trị Mác Lênin
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28083.doc