Từ khi tiến hành các công cuộc xã hội chủ nghĩa xã hội đến trước thời kỳ mới, nền kinh tế nước ta bên cạnh xí nghiệp thành tựu đã đạt được vẫn còn những hạn chế và nói chung vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, tình trạng lạm phát triển tình trạng lạm phát xảy ra thường xuyên, đời sống nhân dân còn gặp khó khăn, nền kinh tế trì trệ do cơ chế quản lý quan liêu bao cấp gây ra, nước ta chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu chính đó là: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, không thúc đẩy được sản xuất phát triển.
Sự tồn tại của cac thành phần kinh tế hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy muốn thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển hết phải khôi phục cơ sở tồn tại của nó, đó là các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là phải khuyến khích duy trì và phát triển các thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá tồn tại là tất yếu, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là tất yếu và cần thiết bởi nó sẽ khuyến khích quá trình sản xuất nhằm phát triển kinh tế.
Ở nước ta trong thời gian qua việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đã đem lại những kết quả đáng kể, nó góp phần khai thác được mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Ngoài ra, việc khuyến khích ot các thành phần kinh tế ot còn có tác dụng góp phận tận dụng được sức mạnh kinh tế quốc tế, khắc phục được tình trạng biệt lập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách thông qua sự đầu tư và hợp tác quốc tế. Bởi vì sự đầu tư và hợp tác quốc tế thường gắn liền với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, do đó khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư bản tư nhân sẽ thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất yếu khách quan xét cả vè mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc thứ IV đã chỉ ra: Phát triển kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, sự điều tiết và quản lý của nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài của nước ta.
24 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1471 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp cơ bản phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần mở đầu
Cho đến cuối những năm 80, về cơ bản, nền kinh tế nước ta sản xuất nhỏ vẫn phổ biến trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn còn là một nước nghèo nàn lạc hậu và kém phát triển.
Phát triển trở thành nhiệm vụ mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân trên bước đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Muốn vậy phải chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển là phát triển nền kinh tế thị trường, cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Và với chính sách mở của nền kinh tế, bộ mặt nền kinh tế nước ta hiện nay có nhiều chuyển biến, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện ngày càng đầy đủ hơn. Việc đa dạng hoá loại hình sở hữu cùng với nền kinh tế nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế nước ta, tình trạng lạm phát giảm đi, cùng với sự tăng trưởng nền kinh tế đồng đều. Tuy nhiên cùng với sự phát triển nền kinh tế còn rất nhiều vấn đề tồn tại và phát sinh cần được nghiên cứu và giải quyết đối với chính sách phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Do đó việc vận dụng lí luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về nền kinh tế thị trường là cần thiết, bởi nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần rất đa dạng và phong phú. Về cách thức hoạt động của từng thành phần kinh tế . Việc quản lý tốt các thành phần kinh tế này là rất cần thiết đối với nhà nước, nhất là trong quá trình nước ta xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhằm phát triển mạnh nền kinh tế ngang bằng với các nước phát triển trên thế giới, tiến tới xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Do đó trong thời kỳ quá độ nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất yếu khách quan. Vì vậy Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã chỉ ra: phát triển kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, sự điều tiết và quản lý của nhà nước là chiến lược lâu dài của nước ta. Vì kiến thức hạn hẹp, bài viết của em chỉ nghiên cứu nh ững vấn đề chung nhất về nền kinh tế thị trường từ khi nước ta đổi mới đến nay.
i. điều kiện ra đời của kinh tế hàng hoá
Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác nhau về chất. Đó là: thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung - tự cấp và thời đại kinh tế hàng hoá, mà giai đoạn cao của nó được gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế – xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những sản vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người, nó được bó hẹp trong mối quan hệ tuần hoàn khép kén giữa con người và tự nhiên, lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên tiêu biểu là những người lao động và đất đai làm nền tảng. Nó tồn tại và thống trị trong các xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tuy không còn chiếm giữ địa vị thống trị nhưng vẫn còn tồn tại trong xã hội tư bản cho đến ngày nay.
Đối lập với kinh tế tự nhiên là nền kinh tế hàng hoá, kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế – xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế hàng hoá gần như toàn bộ sản phẩm lao động và dịch vụ đều mang hình thái hàng hoá, tức là hầu như tất cả các mối quan hệ kinh tế đều được thực hiện dưới hình thái quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
Hình thức đầu tiên của nó là kinh tế là kinh tế hàng hoá giản đơn, ở đó sản phẩm hàng hoá do những người nông dân, thợ thủ công cá thể sản xuất ra dựa trên cơ sở tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân người sản xuất.
Kinh tế hàng hoá giản đơn được coi là khâu trung gian chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế thị trường. Loại hình kinh tế hàng hoá giản đơn này tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất khác nhau. Với sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản kinh tế hàng hoá giản đơn chuyển thành kinh tế hàng hoá phát triển hay kinh tế thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong hình thái kinh tế – xã hội gắn liền với hai điều kiện tiền đề: sự phân công lao động xã hội và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Trong lịch sử phát triển của mình, vị thế của kinh tế hàng hoá cũng dần được đổi thay, từ chỗ như là kiểu tổ chức kinh tế – xã hội không phổ biến hợp thời trong xã hội chiếm hữu nô lệ của những người thợ thủ công và nông dân tự do đến chỗ được thừa nhận trong xã hội phong kiến và đến chu nghĩa tư bản thì kinh tế hàng hoá giản đơnkhông những được thừa nhận mà còn phát triển lên giai đoạn cao hơn đó là kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao nhất của kinh tế hàng hoá, nó đã trải qua ba giai đoạn phát triển. Đầu tiên là giai đoạn chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang kinh tế thị trường. Giai đoạn thứ hai là giai đoạn phát triển kinh tế thị trường tự do ở giai đoạn này sự phát triển kinh tế, diễn ra theo tinh thần tự do, nhà nước không can thiệp vào hoạt động kinh tế. Giai đoạn thứ ba là giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại ở giai đoạn này nhà nước can thiệp vào kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường thông qua việc xây dựng các hình thức sở hữu nhà nước, các chương trình khuyến khích, đầu tư và tiêu dùng cùng với việc sử dụng các công cụ kinh tế như tài chính tín dụng tiền tệ… để điều tiết nền kinh tế ở tầm vĩ mô. Sự phối hợp giữa chính phủ và thị trường trong một nền kinh tế hỗn hợp nhằm đảm bảo sự phát triển có hiệu quả của những nước có mức tăng trưởng nhanh. Trong điều kiện nước ta hiện nay, những điều kiện chung của nên kinh tế hàng hoá vẫn coi sựtồn tại của kinh tế hàng hoá là một tất yếu khách quan. Với tư cách là cơ sở kinh tế của sản xuất hàng hoá phân công lao động ở nước ta chẳng những mất đi, trái lại nó ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, ngày càng có nhiều ngành nghề cổ truyền có tiếng không chỉ ở trong nước mà cả trên thế giới có tiềm năng lớn mà trước đây cơ chế cũ làm mai một ngày nay đã được khôi phục và phát triển.
Trong nội bộ từng khu vực, từng ngành, phân công lao động ngày càng chi tiết hơn. Điều đó được phản ánh ở tính phong phúm đa dạng và chất lượng cao hơn của sự chuyên môn hoa và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi phạm vi quốc gia trở thành quốc tế. Nền kinh tế nước ta đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư bản tư nhân, sở hữu hỗn hợp khác: tư bản nhà nước, công ty cổ phần… Do đó việc phát triển kinh tế thị trường là cần thiết nhất là trong điều kiện nước ta hiện nay còn nghèo nàn, lạc hậu, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội cần có một nền kinh tế phát triển cao và vững mạnh.
Nền kinh tế hàng hoá với cơ cấu kinh tế mở ra đời bắt đầu từ quy luật phân bố và phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước, từ quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế. Nền kinh tế hàng hoá muốn phát triển với tốc độ nhanh và hiệu quả lớn phải xây dựng theo cơ cấu kinh tế mở cử. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhờ nắm giữ được các ngành lĩnh vực then chốt chủ yếu nên trở thành nhân tố kinh tế đảm bảo cho kinh tế hàng hoá.
Sản xuất hàng hoá phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay gắn liền với việc phát triển các loại thị trường. Lịch sử phát triển kinh tế hàng hoá đã chỉ ra bước đầu xuất hiện thị trường hàng tiêu dùng sau đó mở rộng đến thị trường tư liêuh sản xuất sức lao động, tư bản dịch vụ… Ngược lại sự phát triển các loại hình có tác dụng tích cực đến sự phát triển kinh tế hàng hoá. Vì vậy để phát triển kinh tế hàng hoá cần thông suốt trong cả nước. Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất dịch vụ thị trường vốn, tiền tệ… Phát triển các hình thức thu hút vốn và đảm bảo chu chuyển vốn nhanh. Từ đây ta thấy rõ được kinh tế thị trường là giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá.
ii. Phân tích các quy luật của kinh tế thị trường
1. Quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hoá thì chừng đó còn quy luật giá trị. Quy luật giá trị chi phối quy luật kinh tế khác; các quy luật kinh doanh khác chỉ là biểu hiện yêu cầu của quy luật yêu cầu của những quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hoá dựa trên cơ sở lượng giá trị của hàng hoá hay thời gian lao động xã hội cần thiết.
Trong kinh tế hàng hoá vấn đề quan trọng là hàng hoá sản xuất có bán được không, để có thể bán được thì hao phí lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá phù hợp với mức hao phí xã hội có thể chấp nhận được. Trong trao đổi hàng hoá cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hàng hoá có giá trị sử dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng ngang nahu.
Trong sản xuất, quy luật giá trị điều tiết việc phân phối tư liệu sản xuất và sức lao động giữa các ngành sản xuất thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá. Có nghĩa là nếu ở ngành nào đó, cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hoá lên cao thì người sản xuất sẽ đổ sô vào ngành đó. Ngược lại, khi ngành nào đó thu hút quá nhiều lao động xã hội, cung vượt cầu, giá cả hàng hoá tụt xuống thì người sản xuất sẽ chuyển bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả cao hơn.
Trong nền kinh tế hàng hoá, người nào có hao phí lao động sản xuất hàng hoá thì người đó có lợi, còn người nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn kinh doanh xã hội cần thiết sẽ bị thiệt vì không thu về được toàn bộ lao động đã hao phí.
2. Quy luật cung cầu.
Nhu cầu xã hội tức là điều tiết nguyên tắc của lượng cầu chủ yếu kà những mối quan hệ giữa các cấp với nhau và do địa vị kinh tế của từng giai cấp quyết định. Như vậy lượng cầu trước hết do tỉ số giữa tổng giá trị thặng dư và tiền công quyết định, tổng cầu xã hội là tổng thu nhập, thu nhập gốc là tổng “M+V”. Do tỉ lệ phân chia mà những bộ phận khác nhau tham dự vào “giá trị thặng dư” phân giải thành lợi nhuận lợi tức, địa tô. Khác với kinh tế học tư sản quan niệm tổng thu nhập là do thu nhập từng cá nhân cộng lại, không phân rõ tính trùng lặp và sự phân phối lần đầu tiên và phân phối lại.
Cung và cầu là sự khái quát hai lực lượng cơ bản của thị trường là người bán và người mua, người sản xuất và người tiêu dùng của hai khâu trong quá trình tái sản xuất và tiêudùn. Cung và cầu về số lượng và giá cả của thị trường hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giá cả của thị trường hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá trên thị trường. Trong cơ chế thị trường người mua đại diện ch sức cầu, người bán đại diện cho sức cung. Người mua muốn giá cả hàng hoá thấp, còn người bán muốn giá cả hàng hoá cao.
Cung và cầu luôn vận động, biến đổi trên thị trường. Mối quan hệ tác động qua lại giữa cung và cầu về số lượng hàng hoá với giá cả hình thành quy luật cung và cầu. Quy luật này có sự tác dụng điều tiết sản xuất và tiêu dùng, biến đổi dung lượng và cơ cấu thị trường và quyết định giá cả thị trường.
3. Quy luật lưu thông tiền tệ.
Quy luật lưu thông tiền tệ xác định số lượng tiền cần thiết trong lưu thông. Theo quy luật này, số lượng tiền cần thiết trong lưu thông bằng tổng giá cả của toàn bộ hàng hoá chia cho số lần luân chuyển trung bình của đơn vị tiền tệ cùng loại. Trong tổng giá cả hàng hoá phải trừ đi tổng cộng giá cả hàng hoá bán chịu và số tiền khấu trừ cho nhau rồi cộng với tổng sóo tiền thanh toán đã đến hạn. Đây là quy luật chung của mọi xã hội có sản xuất hàng hoá.
Quy luật này phản ánh mối quan hệ giữa tổng giá cả hàng hoá lưu thông và tốc độ lưu thông tiền tệ với khối lượng tiền cần thiết đối với lưu thông. Tổng giá cả hàng hoá tăng lên là dấu hiệu tốt nhưng với điều kiện tăng khối lượng hàng hoá trong lưu thông. Nếu tốc độ lưu thông càng lớn thì khối lượng tiền phát hành giảm sẽ góp phần giảm chi phí lưu thông tiền tệ. Nếu vòng quay tiền quá lớn đó là dấu hiệu không bình thường như vậy công chúng không muốn cất trữ tiền tệ chứng tỏ nền kinh tế có mức lạm phát cao.
iii. thị trường và vai trò của thị trường
1. Thị trường
Trong nền kinh tế hàng hoá, mọi sản phẩm hàng hoá và dịch vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường là một hợp phần tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Ban đầu, thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trên đó diễn ra bx quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian, các địa dư, khu vực tiêu thụ hàng hoá phân theo các mặt hàng, ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. ở đây, người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Như vậy thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng.
2. Vai trò của thị trường
1. Nó là điều kiện và môi trường của sản xuất hàng hoá. Thông qua thị trường, các chủ thể kinh tế mua bán các yếu tố, điều kiện của sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, mua được các hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ. Điều đó đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành bình thường, thông suốt. Vì vậy, không có thị trường sản xuất và trao đổi hàng hoá không thể tiến hành được.
2. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu và bằng phương pháp nào đều phải thông qua thị trường. Thị trường là nơi kiểm tra về chủng loại, số lượng và chất lượng hàng hoá. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất đối với tiêu dùng xã hội. Đó là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân, các biệt thành lao động xã hội. Chi phí cá biệt có được xã hội công nhận hay không sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp. Trên ý nghĩa đó, thị trường điều tiết sản xuất và kinh doanh. Thông qua thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn phương án hoạt động, sản xuất kinh doanh và thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng năng độngm sáng tạo, đạt hiệu quả sản xuất, kinh doanh cao hơn.
3. Nói thị trường là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh tế để xác định giá cả và sản lượng hàng hoá. Vì vậy, thị trường đồng nghĩa với tự do kinh tế, tự do trao đổi, tự do xác định giá cả. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế là quan hệ bình đẳng, thuận mua vừa bán. Vì vậy thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp tính năng động, sáng tạo trong sản xuất kinh doanh, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
4. Thông qua việc mua bán hàng hoá trên các thị trường hàng hoá yếu tố sản xuất và thị trường hàng tiêu dùng, dịch vụ, lấy tiền tệ làm mối giới, làm cho các chủ thể nhiều hay ít thể hiện sự phân phối có lợi cho ai. Vì vậy thị trường thực hiện chức năng phân phối của quá trình tái sản xuất.
5. Trong xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong nước có liên hệ chặt chẽ với thị trường nước ngoài thông qua hoạt động ngoại thương. Sự phát triển mạnh mẽ của ngoại thương sẽ đảm bảo mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào, đầu ra của thị trường trong nước và đảm bảo sự cần bằng giữa hai thị trường đó.
sự vận dụng lí thuyết kinh tế thị trường ở Việt Nam .
i. đặc điểm kinh tế – xã hội Việt Nam thời ký trước đổi mới.
Trong thời kỳ bao cấp vịêc hạn chế và xoá bỏ kinh tế thị trường đã kìm hãm nền kinh tế phát triển vì nước ta đi lên xã hội chủ nghĩa không qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa nên nước ta thiếu cốt “vật chất” của một nền kinh tế phát triển như cơ cấu hạ tầng xã hội thấp kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, không có khả năng cạnh tranh, sản xuất phân tán, nhỏ lẻ kỹ thuật thủ công mang nặng tính bảo thủ và trì trệ.
Ngoài ra, kiểu quản lý nền kinh tế chỉ huy hay nền kinh tế trong thời kỳ bao cấp là sơ cứng các mối liên hệ kinh tế. Từ năm 1986 trở về thời kỳ trước dù trên thực tế vẫn thừa nhận sản xuất hàng hoá, còn quan hệ hàng hoá - tiền tệ, nhưng thực chất chỉ là kinh tế thị trường một thành phần mà thôi.
Quy luật vận động của kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa là quy luật phát triển có kế hoạch và cân đối nền kinh tế, các quy luật kinh tế hàng hoá hoặc do ý trí chủ quan “thu hẹp phạm vi hoạt động” xem như “không hợp pháp” hoặc có thừa nhận cũng chỉ đóng vai trò hết sức thứ yếu trong sự vận động của nền kinh tế mà thôi.
Những quan niệm đó về xây dựng và phát triển kinh tế là biểu hiện sai lầm chủ quan, quy ý chí, vi phạm quy luật khách quan, mà đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, không tuân theo “quá trình lịch sử tự nhiên” trong sự phát triển xã hội nói chung và trong nền kinh tế nói riêng. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho sự trì trệ kéo dài, đồng thời làm xuất hiện yêu cầu cấp bách là phải “chấn hưng” nó cho phù hợp với yêu cầu của quy luật khách quan phù hợp với xu thế thời đại ngày nay. Bởi vậy trong quá trình cải cách kinh tế đã chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
Ii. Sự phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay
* Bản chất đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung – hanh chính-quan liêu-bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện tại và tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên 6 đặc trưng bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa và những quan điểm phương hướng tổng quát về phát triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói trên, để có thể hiểu rõ và thống nhất hơn trong nhận thức và hành động.
Thứ nhất, nền kinh tế thanh toán định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta sẽ xây dựng là nền kinh tế thị trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã hội chủ nghĩa). Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khácm thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa xã hội, cho nền, sự phát triển kinh tế –xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh” vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có giầu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho nước mạnh, bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hoám nền kinh tế thị trường phải là nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền kinh tế thị trường mà chúng ta sẽ xây dựng kà nền kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi “bàn tay hữu hinhd” của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền kinh tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mô và vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo một số lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy” là “mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ, thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác vưói nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước “của dân, do dân và vì dân”, nhà nước công nông, nhà nước của đại đa sói nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của môhình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác biệt trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh- hợp tác..) sẽ chi phối các hoạt động kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo đuổi trong hoạt động kinh tế và lợi nhuận (là giá trị không ngừng tăng lên), quy định sự phân bổ các nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất – kinh doanh khác nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô, cùng với việc sử dụng các lực lượng kinh tế của mình (kinh tế nhà nước). Nhà nước tác động lên mối quan hệ cung – cầu thực hiện sự điều tiết của nền kinh tế thị trường. Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh tế thị trường là: thị trường là điều tiết nền kinh tế, nhà nước điều tiết thị trường và mối quan hệ nhà nước – thị trường – các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ thống nhất.
Thứ năm, mở cửa hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sởpt kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn, ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thỷ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để ot trong điều kiện của kinh tế thị trường hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính sau: thương mại; đầu tư và chuyển giao khoa học - công nghệ. Tuy nhiên sự mở cửa, hội nhập không có nghĩa là sự hòa tan, đánh mất mình, mà phải dựa trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ sau, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền kinh tế kinh tế thị trường ở nước ta. Phát triển trong công bằng và phát triển bền vững là những thuật ngữ phổ biến và xu thế của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng được hiểu và những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có cơ hội tham gia vào quá trình phát triển và được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm khoảng cách chênh lệch giàu-nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng chủ trơng bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng, sự bảo đảm công bằng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hoàn toàn xa lạ và khác hẳn về chất với chủ nghĩa bình quân, cao bằng thu nhập và “chia đều sự nghèo đói” cho mọi người. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Vì vậy, nếu qua nhân mạnh tới công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn kém phát triển, ngân sách còn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ lao động và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, được thực hiện theo kết quả lao động là chủ yếu kết hợp với phần theo vốn và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn) giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã được vật hoá), chủ nghĩa tư bản coi trọng nhân tố tư bản, nhân tố lao động quá khứ được tích luỹ. Bởi vậy, trong sự phối hợp thu nhập, phân phối thành quả lao động, chủ nghĩa tư bản nhấn mạnh đến nhân tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ – đầu tư hơn là yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Ngược lại, chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã hội, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh đến nhân tố lao động (lao động sống) và yếu tố tiền lương – thu nhập của người lao động. Tuy nhiên, khi nhấn mạnh đến vai trò của yếu tố lao động, đến nâng cao thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta không thể không coi trọng đến vai trò của yếu tố vốn, đến tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nhà nước và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư bản (vốn) và lao động. Vì vậy, thu nhập theo vốn và tài sản kinh doanh giờ đây đã trở thành điều bình thường, Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số người giàu có trong xã hội Tăng số người có thu nhập cao đồng thời giảm số người có thu nhập thấp trong xã hội và thu hẹp dần khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan trọng của chính sách thu nhậo và chính sách điều tiết thu nhập của nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tóm lại, quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải là “quá trình thực hiện dân giàu, nước mạnh tiến lên hiện đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức, bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm nó, tự do hạnh phúc.
iii. các giải pháp cơ bản phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
1. Đa dạng hoá các hình thức sở hữu, khôi phục nền kinh tế nhiều thành phần.
Nguyên tắc cơ bản của cơ chế r1 và sự độc lập tự do của chủ thề kinh tế. Muốn vậy, các chủ thể kinh tế có quyền chi phối các đối tượng sở hữu vì vậy việc chuyển từ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ bằng đa dạng hoá các hình thức sở hữu hình thành các chủ thể có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Thực tiễn cho thấy đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo cho mọi công dân tự do kinh doanh theo pháp luật thực sự có tác dụng giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng nền kinh tế, làm cho nền kinh tế phát triển năng động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
2. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường.
Trong một nền kinh tế thị trường thực sự, hầu hết các nguồn lực xã hội đều thông qua thị trường mà được phân bổ các ngành một cách thị trường tối ưu. Nước ta không thể có một nền kinh tế hàng hoá phát triển nếu không hình thành thị trường thống nhất và đồng bộ. Cụ thể trong năm sắp tới cần tiếp tục phát triển phát triển thị trường hàng hoá và dịch vụ thông qua việc đẩy mạnh thúc đẩy cơ cấu kinh tế, mở rộng hệ thống giao thông qua việc đẩy mạnh thúc đẩy cơ cấu kinh tế, mở rộng hệ thống giao thông, lành mạnh thị trường. Đồng thời khắc phục chia cắt thị trường giữa người lao động và tiêu dùng.
3. Khôi phục lại các thị trường.
Hình thành thị trường sức lao động có thị tổ chức trên thị trường lao động, người lao động và người sử dụng sức lao động bình đẳng trước pháp luật, nhà nước kiểm tra, kiểm soát việc thuê mướn, sử dụng và trả công lao động đảm bảo quy định việc bảo hộ an toàn lao động, bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động.
Xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành thị trường chứng khoán, phát triển thị trường vốn bằng nhiều hình thức như tiền gửi trung và dài hạn trong ngân hàng, các công ty vay theo lãi suất thị trường. Chuẩn bị thể chế cán bộ và điều kiện khác để hình thành thị trường chứng khoán nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Quản lý chặt chẽ thị trường đất và nhà ở.
4. Mở cửa quan hệ kinh tế với nước ngoài.
ở nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài là đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi tình trạng đói nghèo lạc hậu, đạt tốc độ thị trường tăng trường và phát triển nền kinh tế xã hội cao, sao cho thu nhập quốc dân tính theo đầu tư người vượt quá mức của loại nước nghèo trên thế giới từ đó tạo đà cho sự phát triển ở giai đoạn sau. Việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài không chỉ là mục đích mà còn là một nguyên tắc cơ bản cần được coi trọng khi tiến hành mở cửa quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại phải đa dạng hoá và đa phương hoá các lĩnh vực, các ngành, các bên và các hình thức. Yêu cầu đó đòi hỏi bức thiết hình thành luật pháp, sự ổn định kinh tế chính trị, xã hội đặc biệt nâng cao vai trò của tài chính, ngân hàng, cơ sở hạ tầng và dịch vụ, cũng như kiến thức cho cán bộ về quan hệ kinh tế đối ngoại.
5. Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình chủ nghĩa xã hội. Cơ cấu kinh tế phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Phản ánh đúng đắn các yêu cầu kinh tế của các quy luật khách quan đặc biệt là các quy luật kinh tế.
- Phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
- Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển. Vì vậy, cơ cấu kinh tế đó phải là “cơ chế mở”.
- Tính hợp lý của cơ cấu kinh tế, xem xét về mặt nội dung đó chính là cơ cấu kinh tế ngành và vùng. Cơ cấu kinh tế ngành và vùng cần được quan tâm một cách đúng mức, phải được đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều rộng lẫn chiều sâu.
6. Phân công lao động xã hội.
Từ nền sản xuất nhỏ đi lên, trong quá trình công nghiệp hoá để tạo ra cốt vật chất –kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại phải tiến hành phân công lại lao động xã hội trên phạm vi cả nước, cũng như từng ngành, từng cơ sở. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hoá về phương hướng lâu dài phải tuân theo quy luật sau:
- Tỷ lệ và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm xuống, tỷ lệ và số tuyệt đối lao động công nghiệp tăng lên.
- Tỷ lệ lao động trí óc ngày càng tăng và chiếm phần lớn trong tổng số lao động xã hội.
Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
7. Xây dựng kết cấu hạ tầng.
Xây dựng kết cấu hạ, trong đó ưu tiên phát triển điện, mạng lưới giao thống vận tải đường bộ, đường thuỷ, đường không và hệ thống thông tin liên lạc. Đó là cơ để phát triển kinh tế trong nước và là điều kiện để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
8. Xây dựng hệ thống luật pháp đồng bộ.
Pháp luật là công cụ quản lý của nhà nước và đảm bảo cho dân chủ được thực hiện. Thiếu pháp luật, không thể có dân chủ. Một xã hội càng dân chủ bao nhiêu, càng phải có pháp luật, trật tự kỷ cương.
Thực trạng đất nước còn nhiều thiếu sót tiêu cực trong việc xây dựng ý chí pháp luật, trật tự, trật tự pháp luật của công đoàn và xã hội. Đó là tư tưởng xem nhẹ pháp luật, coi thường pháp luật. Để khắc phục tình trạng này, quản lý nhà nước bằng pháp luật đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải lấy pháp luật làm cơ sở cho mọi hoạt động của mình, mọi việc phải theo chiếu theo pháp luật, không được tuỳ tiện ra những quy định trái pháp luật. Để làm được thì nhà nước phải xã hội một hệ thống luật pháp đồng bộ cho các ngành, các cơ quan, các hệ thống kinh tế thực hiện.
Kết luận
Từ khi tiến hành các công cuộc xã hội chủ nghĩa xã hội đến trước thời kỳ mới, nền kinh tế nước ta bên cạnh xí nghiệp thành tựu đã đạt được vẫn còn những hạn chế và nói chung vẫn là một nền kinh tế kém phát triển, tình trạng lạm phát triển tình trạng lạm phát xảy ra thường xuyên, đời sống nhân dân còn gặp khó khăn, nền kinh tế trì trệ do cơ chế quản lý quan liêu bao cấp gây ra, nước ta chỉ tồn tại hai hình thức sở hữu chính đó là: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể, không thúc đẩy được sản xuất phát triển.
Sự tồn tại của cac thành phần kinh tế hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trước hết bắt nguồn từ quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy muốn thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển hết phải khôi phục cơ sở tồn tại của nó, đó là các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Điều đó cũng có nghĩa là phải khuyến khích duy trì và phát triển các thành phần kinh tế sản xuất hàng hoá tồn tại là tất yếu, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là tất yếu và cần thiết bởi nó sẽ khuyến khích quá trình sản xuất nhằm phát triển kinh tế.
ở nước ta trong thời gian qua việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đã đem lại những kết quả đáng kể, nó góp phần khai thác được mọi tiềm năng của từng thành phần kinh tế. Ngoài ra, việc khuyến khích ot các thành phần kinh tế ot còn có tác dụng góp phận tận dụng được sức mạnh kinh tế quốc tế, khắc phục được tình trạng biệt lập của nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới bằng cách thông qua sự đầu tư và hợp tác quốc tế. Bởi vì sự đầu tư và hợp tác quốc tế thường gắn liền với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, do đó khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế trong đó có kinh tế tư bản tư nhân sẽ thu hút tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta.
Tóm lại, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều thành phần là tất yếu khách quan xét cả vè mặt lý luận và thực tiễn. Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc thứ IV đã chỉ ra: Phát triển kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở củng cố và giữ vững vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế quốc doanh, sự điều tiết và quản lý của nhà nước là đường lối chiến lược lâu dài của nước ta.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29339.doc