Qua việc phân tích thực tạng quan hệ phân hối ở nước ta, đề ấn đã giải quyết đươc những vấn đề cơ bản sau: Quan hệ phân phối đóng vai trò cức kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó là một khâu không thể thiếu được trong bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là một trong ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất. Nó nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền các thị trường trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để thực hiện quá trình phân phố được tốt thì Đảng và Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện các nguyên tắc, nội dung phân phối hơn nữa, đó là:
+ Cải cách căn bản chính sách tiền lương ở nước ta là yêu cầu cấp bách. Chính sách tiền lương phải ngày càng phù hợp với điều kiện kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc này, cần chuẩn bị cho việc cải cách toàn diện hệ thống quan điểm về tổ chức tiền lương, tiền lương tối thiểu, đối tượng và nguồn chi trả, hệ thống thang bảng lương và các chính sách kinh tế tài chính có liên quan.
26 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1523 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất xã hội. 3
1.1.1. Bản chất của quan hệ phân phối 3
1.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất. 4
1.2. Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay 5
1.2.1. Phân phôí theo lao động 5
1.2.2. Phân phối theo vốn và tài sản 7
1.2.3. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội 8
Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 10
Phân phối theo lao động 10
Phân phối theo vốn và tài sản 15
Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội 17
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta
trong thời gian tới. 19
Kết luận. 25
Danh mục tài liệu tham khảo. 26
Lời mở đầu.
Từ những năm 1990 đến nay, nền kinh tế nước ta bước vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này bao gồm nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật, không chỉ sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, mà cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản khác, thu nhập hợp pháp khác. Phù hợp với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu là một hình thức phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù, các thành phần kinh tế ở nước ta không còn tồn tại biệt lập mà đan xen vào nhau và hợp thành cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, nhưng chưa thể thực hiện phân phối thu nhập theo một hình thức mà phải được thực hiện theo nhiều hình thức như phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản đóng góp, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội... Với nhiều hình thức phân phối như vậy, nên đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra những chính sách nhằm đảm bảo công bằng xã hội, dân giàu nước mạnh. Thực hiện tốt các chính sách mà Đảng và Nhà nước đặt ra chúng ta mới càng thấy được vị trí, vai trò và tính tất yếu của quan hệ phân phối. Đó là : quan hệ phân phối là một khâu không thể thiếu của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội.
Đề tài về quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay là một đề tài hay và tổng quát. Đề tài này giúp cho bản thân em hiểu rõ về các hình thức phân phối ở nước ta trong cả chặng đường đổi mới của đất nước. Trong đề tài này, em xin trình bày bố cục đề tài như sau :
Chương 1: Một số lý luận chung về quan hệ phân phối.
Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay.
Chương 3 : Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới.
Được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo, em đã hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề án này, em không tránh khỏi những thiếu sót. Mong thầy giáo thông cảm và giúp đỡ, để đề án của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy.
Nội dung
Chương 1
Một số lý luận chung về quan hệ phân phối.
1.1. Bản chất của quan hệ phân phối :
1.1.1. Phân phối là một khâu cảu quá trình tái sản xuất xã hội
Quá trình tái sản xuất xã hội, theo nghĩa rộng, bao gồm 4 khâu :sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó sản xuất là gốc, đóng vai trò quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng chúng có quan hệ trở lại đói với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất, vừa phục vụ tiêu dùng.
Quan hệ phân phối bao gồm : phân phối cho tiêu dùng sản xuất ( sự phân phối tư liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các nghành sản xuất ) là tiền đề, điều kiện và là một yếu tố sản xuất, nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất. Phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhạp của các tầng lớp dân cư trong xã hội, phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất : có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Ph. Ăng - ghen viết : ( phân phối không phải chỉ đơn thuần là một kết quả thụ động của sản xuất và của trao đổi, nó tác động trở lại tới sản xuất và trao đổi ). Nó cũng có liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội và nâng cao đởi sống trong nhân dân.
Như vậy, quan hệ phân phối là phân phối tỏng sản phẩm xã hội. Và phân phối thu nhập quốc dân, nó được thực hiện dưới các hình thái : phân phối hiện vật và phân phối dưới hình thái giá trị ( phân phối qua quan hệ tài chính, quan hệ tín dụng...).
1.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất :
Các - Mác đã nhiều lần đã nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất : " quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với các quan hệ sản xuất ấy ". Xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Ph. Ăng - ghen cho rằng, trên những nét chủ yếu của nó, sự phân phối là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi trong một xã hội nhất định. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Sụ biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất : có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất, vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ, trong bất cứ xã hội nào, sản phẩm lao động cũng phải được phân chia thành : một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất, một bộ phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng ching của xã hội và cho tiêu dùng cac nhân. Tính lịch sử của quan hệ phân phối là nơi mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng, phù hợp với tính chất quan hệ sản xuất của xã hội đó, nghĩa là quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có tính chất lịch sử. C. Mác viết : " quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của quan hệ sản xuất lịch sử nhất định ". Do đó, các hình thái phân phối đều mất đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy. Phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên Nhà nước cánh mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đối với nước ta hiện nay, trình độ sản xuất còn thấp, sản xuất không đáp ứng kịp nhu cầu và nhiều mặt phát triển chưa cân đối, nên phân phối thu nhập càng có vị trí quan trọng. Có thể xem xét vai trò, vị trí của nó dưới các phương diện khác nhau :
Thứ nhất : phân phối thu nhập có ảnh hưởng to lớn đối với sản xuất, C. Mác đã từng nói tới vai trò của phân phối đối với sản xuất. Trên phương diện phân phối trực tiếp các yếu tố cho quá trình sản xuất, nó nối liền sản xuất với sản xuất. Điều này có nghĩa là nó đảm bảo các yếu đầu vào cho các doanh nghiệp, đảm bảo các nguồn lực phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hoá trên thị trường sản phẩm. Sự phân phối các nguồn lực diễn ra thông suốt sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất sẽ được tiến hành một cách liên tục.
Thứ hai : phân phối thu nhập quyết định sự tiêu dùng của các chủ thể yếu tố sản xuất. Thông qua phân phối thu nhập, các chủ thể yếu tố sản xuất có được thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường sản phẩm. Về cơ bản, quy mô phân phối quyết định quy mô tiêu dùng. Các chủ thể nhận được thu nhập nhiều thì mức tăng tiêu dùng sẽ càng cao hơn về tuyệt đối.
Như vậy, phân phối thu nhập đúng đắn theo yêu cầu của quy luật khách quan và phù hợp với tình hình thực tế của đất nước sẽ là động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Ngược lại, phân phối thu nhập không đúng, không đảm bảo lợi ích kinh tế, không công bằng, chênh lệch quá đáng... sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất, kìm hãm, thậm chí phá hoại sản xuất. Vì vậy, phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh sản xuất và tiến hành phân phối, có chính sách phân phối đúng đắn để tác động lại sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo tiền đề vật chất cho tái sản xuất mở rộng, tạo môi trường chính trị - xã hội, kinh tế lành mạnh, ổn định cho các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.2. Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay :
1.2.1. Phân phối theo lao động :
* Định nghĩa :
Phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối vạt phẩm tiêu dùng cho cá nhân dựa vào số lượng, chất lượng lao động hay hiệu quả lao động mà họp đã cống hiến cho xã hội, không phân biệt màu da, tôn giáo, đảng phái, nam nữ.
*. Tính tất yếu khách quan của phân phối theo lao động :
Trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa, tức dưới chủ nghĩa xã hội, trình độ phát triển của sản xuất chưa bảo đảm được sự dư thừa về của cải và vật chất. Đồng thời, các thành viên trong xã hội coi lao động như là một phương tiện để bảo đảm cuộc sống. Lao động chưa phải là nhu cầu bậc nhất, chưa phải là thói quen làm việc không cần tính đến sự thù lao. Do đó, cần có sự kiểm soát của xã hội về mức lao động và mức tiêu dùng, cũng như cần có sự kích thích vật chất đối với kết quả lao động của những người tham gia sản xuất xã hội. Điều này, được thực hiện bằng cách phân phối của cải vật chất và dịch vụ theo lao động. Phương thức phân phối như vậy dưới chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan và vì vậy là quy luật ht của chủ nghĩa xã hội.
Phân phối phải vì lợi ích của người lao động. Có nhiều cách phân phối vì lợi ích của người lao động : phân phối theo nhu cầu, phân phối bình quân và phân phối theo lao động. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Vì thế, tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế ở nước ta.
*. Yêu cầu của phân phối theo lao động :
Phân phối theo lao động có nghĩa là việc bù đắp ngang giá những hao phí lao động sau khi trừ đi phần dùng để thoả mãn các nhu cầu xã hội. Mỗi người đều nhận được của xã hội một phần mà họ đã cống hiến cho xã hội.
Phân phối theo lao động biểu hiện quan hệ giữa các thành viên trong xã hội, các tập thể xí nghiệp, cơ quan và xã hội nói chung đối với phần thu nhập quốc dân dành cho tiêu dùng cá nhân của nhân dân.
Phân phối theo lao động đòi hỏi phải thực hiện một số nguyên tắc. Trong số đó, nguyên tắc thứ nhất là lao động bắt buộc, bởi vì dưới chủ nghĩa xã hội không có nguồn nào khác để chiếm hữu các vật phẩm tiêu dùng ngoài lao động. Nguyên tắc thứ hai là lao động như nhau sẽ được trả công bằng nhau. Chủ nghĩa xã hội không dung thứ một sự phân biệt đối xử nào đối với việc trả công lao động : về cả giới tính, tuổi tác, lẫn đặc điểm dân tộc hoặc đặc điểm chủng tộc. Cần phải nhấn mạnh điều này, bởi vì dưới chủ nghĩa tư bản, sự phân biệt đối xử như vậy được lan truyền rất rộng rãi. Việc phân phối theo lao động đòi hỏi phải có sự phân biệt phù hợp với tính chất phức tạp và mức đọ nặng nhọc của lao động. Lao động lành nghề hơn, phức tạp, tức lao động giản đơn được nhân lên, trong một đơn vị thời gian tạo ra nhiều giá trị hơn. Bởi vậy so với lao động giản đơn, ít lành nghề hơn, lao động phức tạp, lành nghề được trả công theo mức lương cao hơn, lao động dưới đất, trong các phân xưởng có nhiệt độ cao, trong điều kiện khí hậu phức tạp... đi đôi với sự hao phí nhiều năng lượng hơn. Do đó, nó cũng được bù đắp theo mức lương cao hơn. Sự phân biệt trong việc trả công là nội dung của nguyên tắc thứ ba.
* Tác dụng của nguyên tắc phân phối theo lao động :
+ Phân phối theo lao động là phương thức phân phối hợp lý, nó có tác dụng thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, tinh thần và thái độ lao động, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động.
+ Phân phối theo lao động còn có tác dụng thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hoá, ổn định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội.
+ Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện.
1.2.2. Phân phối theo vốn và tài sản :
* Định nghĩa :
Phân phối theo vốn và tài sản là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhưng căn cứ vào vốn tài sản của họ để phân phối.
* Tính tất yếu khách quan của nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản :
Phân phối theo vốn và tài sản bắt nguồn từ quyền sở hữu. Ai có quyền sở hữu thì có quyền chiếm đoạt một phần do mình sản xuất ra. Người có quyền sở hữu vốn và tài sản thì có quyền chiếm đoạt một phần giá trị mà do nguồn vốn và tài sản đó tạo ra. Quyền sở hữu ở đây bao gồm quyền định đoạt, quyền sử dụng, chiếm đoạt, chiếm hữu đối với vốn và tài sản của mình. Nguồn vốn và tài sản trong quá trình sản xuất cũng có " công " trong việc tạo ra lợi nhuận, do đó phải trích một phần lợi nhuận " để trả công ", tức là phải trích một phần lợi nhuận để phụ thêm vào vốn cũ nhằm mở rộng sản xuất. Từ đó cho thấy nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản là không thể thiếu vì nó đảm bảo cho sự công bằng xã hội.
* Tác dụng của nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản :
+ Giúp bảo toàn và phát triển các nguồn vốn và các nguồn tài sản khác.
+ Giúp huy động được các nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả.
1.2.3. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội :
* Định nghĩa :
Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằm đảm bảo những nhu cầu tiêu dùng chung của xã hội và đảm bảo cuộc sống cho một số người không có khả năng lao động ( người tàn tật không có khả năng lao động, người già cả không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi ), những người nghèo khổ so với mức sống chung của xã hội.
* . Tính tất yếu khách quan của nguyên tắc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội :
Cũng như việc phân phối theo lao động, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội biểu hiện quan hệ giữa các thành viên trong xã hội, các tập thể xí nghiệp và xã hội nói chung về phần thu
Nhập quốc dân dành cho tiêu dùng cá nhân của nhân dân. Thông qua các quỹ phúc lợi, nhân dân được học tập không mất tiền và được nâng cao trình độ lành nghề không mất tiền, được chữa bệnh không mất tiền, được trợ cấp, được cấp lương hưu trí, được cấp học bổng cho học sinh, được trả lương những ngày nghỉ phép định kỳ. Các quỹ phúc lơịi được hình thành dựa vào vốn của ngâng sách Nhà nước và phân phối theo thể thức tập trung. Ngoài ra, các quỹ phúc lợi xã hội còn được lập ra ở các liên hiệp, xí nghiệp, xí nghiệp và các cơ quan.
Sự phân phối thông qua các qũy phúc lơị xã hội có một ý nghĩa to lớn về kinh tế- xã hội. Vì thế, nó không thể thiếu trong các hình thức phân phối ở nước ta.
* Tác dụng của nguyên tắc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hôị
+ Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội trong một chừng mực nhất định làm cho thu nhập thực tế của các loại người lao động khác nhau nhích lại gần nhau, và do đó làm giảm bớt sự không công bằng trong việc thoả mãn các nhu cầu mà sự phân phố thưo lao động không thể xóa bỏ được.
+ Sự phân phối này giáo dục cho con người tính tập thể trong việc thoả mãn các nhu cầu.
+ Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội nhằm phát triển các công trình phúc lợi xã hội và đảm bảo cuộc sống cho người không có khả năng lao động.
Tóm lại, lý luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế- chính trị. Nó là vấn đề rộng lớn, liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội...của Nhà nước và nhân dân lao động. Đặc biệt, phân phối thu nhập là vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chương 2
Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay
2.1. Phân phối theo lao động
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tồn tại và nguyên tắc cơ bản: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Tương ứng với nguyên tắc phân phối theo lao động có hình thức thu nhập là tiền lương, tiền thưởng. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từng ngành và từng khu vực có tính đến trình độ chuyên môn và điều kiện lao động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong quá trình thực hiện như vậy, hình thức phân phối tiền lương cũng có những ưu điểm và nhược điểm của nó.
Kể từ năm 1957, thực hiện chế độ trả lương bằng tiền, đến nay chúng ta đã qua ba lần cải cách tiền lương( 1960, 1985 và 1993). Chế độ trả lương năm 1993 và những đổi mới trong công tác quản lý kinh tế tài chính những năm qua về cơ bản đã chuyển dần sang cơ chế thị trường, từng bước tiền tệ hóa tiền lương. Điều đó góp phần cải thiện đời sống, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chế độ tiền lương 1993 ngày càng tỏ ra lạc hậu với sự phát triển kinh tế xã hội, là nguyên nhân làm tăng bất bình đẳng và cản trở sự phát triển nhanh và ổn định chính trị- xã hội của đất nước.
Theo điều tra của trường đại học kinh tế quốc dân đối với tiền lương, thu nhập và chi tiêu của 2153 hộ công chức tại 9 tỉnh Đắc Lắc, Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Thái Bình, Hà Nội, Lạng Sơn và Sơn La hiện nay tiền lương chỉ đáp ứng được 35- 43% chi tiêu của cán bộ, công chức. Tiền lương của công chức hành chính, công chức sự nghiệp chỉ chiếm từ 26.66% đến 46.52% thu nhập, còn thu nhập ngoài lương của công chức hành chính là 71.34%, của công chức sự nghiệp là 53.48%. Tình trạng tiền lương, thu nhập và chi tiêu như trên dẫn đến những bất cập sau đây:
- Tiền lương chính thức trả theo bảng lương không đảm bảo tái sản xuất sức lao động của công chức, nói cách khác, Nhà nước chưa tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động cho công chức.
Thu nhập ngoài tiền lương chiếm từ 53.48%- 71.34% trong tổng thu nhập của công chức làm cho công chức không yên tâm thực hiện chức trách của mình, vì thế tiền lương không còn tác dụng là công cụ quản lý lao động.
Thu nhập ngoài tiền lương quá lớn, Nhà nước nước không kiểm soát được thu nhập của từng cơ sở cũng như của từng người lao động, do vậy không thể điều tiết được thu nhập, làm cho sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng tăng.
Tiền lương thấp hơn so với thu nhập, trong khi đó mức đóng và hưởng bảo hiểm xã hội lại theo tiền lương, làm cho đời sống của người hưởng bảo hiểm xã hội lại theo tiền lương, làm cho đới sống của người hưởng bảo hiểm xã hội gặp khó khăn, là nguyên nhân của những vấn đề chính trị- xã hội phức tạp
Ngoài ra, hệ thống thang bảng lương hiện nay còn quá nhiều, quá phức tạp, trùng lấp và bình quân chủ nghĩa, gấy khó khăn cho công tác quản lý, phức tạp trong công tác quản lý cán bộ, công chức.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiền lương như hiện nay, trong đó phải nói đến các nguyên nhân chủ yếu sau:
Một là, nhận thức và vận dụng chưa đúng nguyên tắc tổ chức khi trả tiền lương, thể hiện:
Tiền lương tối thiẻu thấp hơn nhu cầu mức sống tối thiểu, lại không được điều chỉnh kịp thời với tốc độ tăng trưởng và trượt giá. Tại thời điểm ban hành ché độ lướng mới ( tháng 4/1993) nhu cầu tối thiểu phải là 202.470 đồng/ tháng, những lương tối thiểu theo quy định cỉ là 120.000 đồng, bằng 59.3% mức nhu cầu tối thiểu. Thêm vào đó, từ 1993 đến 2001, nền kinh tế tăng trưởng là 60.02% và tốc độ trượt giá là 40.7%. như vậy, so với năm 1993, tăng trưởng kinh tế và trượt giá là 100.72%, trong khi đó, tiền lương tối thiểu đến năm 2001 là 210.000 đồng/tháng, so với năm 1993 tăng lên 75%.
Như vậy, tiền lương tối thiểu vốn dĩ đã thấp hơn nhu cầu tối thiểu ngay từ khi ban hành, lại không kịp thời điều chỉnh và điều chỉnh thấp hơn mức tăng trưởng và trượt giá làm cho lương tối thiểu năm 1993 chi trả đúng là 202.470 đồng/tháng, cộng thêm tốc độ tăng trưởng và trượt giá thì lương tối thiểu năm 2001 phải là 202.470 đồng/tháng cộng 203.907 đồng/tháng bằng 406.377 đồng/tháng.
Ngay cả khi tiền lương tối thiểu là 406.377 đồng/tháng, thì trong điều kiện hiện nay vẫn chưa đáp ứng nhu cầu mức sống tói thiểu của người lao động làm tốt công việc đơn giản nhất, chưa nói đến cán bộ công chức, là nững người đã qua đào tạo ở trình đội cao. Chẳng hạn, nhu cầu chi tiêu của nhóm công chức có thu nhập thấp gồm hai vợ chồng và hai người con là 1.891.000 đồng/tháng. Điều này, có nghĩa là tiền lương tối thiểu cho cán bộ, công chức phải đạt khoảng 945.000 đồng/người/tháng.
Nguyên tắc trả lương theo công việc và chức vụ không gắn tiền lương với chức năng, nhiệm vụ của công chức, tạo ra xu hướng chạy theo chức vụ mà coi nhẹ chuyên môn, nghiệp vụ.
Nguyên tắc phân phối theo lao động quy định làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không được hưởng, nhưng điều đó không có nghĩa là công chức, hành chính cứ làm việc gì, giữ chức vụ gì thì hưởng lương theo công việc và chức vụ đó.
Việc chi trả lương theo nguyên tắc trên tạo ra sự tách rời tiền lương với chức danh, chức năng, nhiệm vụ của công chức, dẫn đến tình trạng công chức phải đi làm thêm, Nhà nước nước không quản lý được công chức. Việc đưa ra nguyên tắc: “ giữ chức vụ gì, được hưởng lương theo chức vụ đó” dẫn đến tình trạng cán bộ chạy theo chức vụ, tìm mọi cách để giữ được một chức vụ nào đó, trong khi đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ không được coi trọng. Đây đang là tình trạng nan giải hiện nay trong bộ máy quản lý Nhà nước ở nước ta.
Hai là: đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước quá rộng trong khi nguồn trả lương từ ngân sách Nhà nước lại quá hẹp.
Cho nên đến năm 2001, ngân sách Nhà nước trả lương, trợ cấp, phụ cấp và sinh hoạt phí cho khoảng 6.000.000 người, trong đó khoảng 286.000 công chức hành chính, cán bộ dân cử và bầu cử, khoảng 760. 000 cán bộ xã phường, khoảng 1.630.000 người hưởng bảo hiểm xã hội và 1.340.000 người có công, 1.220.000 công chức sự nghiệp, giáo dục, y tế, văn hoá. Đối tượng hưởng lương, phụ cấp và sinh hoạt phí như trên là sự thừa hưởng đi sản từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Nnay chuyển sang điều kiện kinh tế thị trường, nhiều đối tượng chưa được tính toán lại cho phù hợp. Đối với công chức hành chính, việc hưởng lương từ ngân sách Nhà nước là đúng. Nhưng ai là công chức hành chính thì vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Vấn đề này đòi hỏi phải làm rõ trong pháp lệnh công chức. Hiện nay, chúng ta phân ra mười một loại công chức ngành hành chính bao gồm: chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, cán sự, kỹ thuật viên đánh máy, nhân viên kỹ thuật, nhân viên văn thư, nhân viên phục vụ, lái xe cơ quan và nhân viên bảo vệ. Liệu rằng mười một loại công chức ngành hành chính như vậy đã hợp lý chưa?
Đối với bộ phận hưởng lương thuộc khu vực dân cử, bầu cử trong điều kiện nước ta việc trả lương từ ngân sách Nhà nướclà phù hợp. Song hiện tại giữa bộ máy bầu cử và bộ máy hành chính Nhà nước đang có sự trùng lặp, chồng chéo. Thêm nữa, trong khu vừc này, một bộ phận lao động làm việc mang tính chất của khu vực sự nghiệp có thu vẫn hưởng lương từ ngân sách Nhà nước là chưa phù hợp.
Đối với khu vực sự nghiệp như giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, phát thanh truyền hình... phần đáng kể trong khu vực này hoạt động là sự nghiệp có thu. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, cơ cấu dịch vụ ngày càng tăng trong GDP. Khu vực này cần được coi như khu vực sản xuất, vì vậy tiền lương cũng cần áp dụng như khu vực sản xuất. Hiện nay, chúng ta chưa có cơ chế chính sách quản lý khu vực này một cách phù hợp. Người lao động vừa hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, vừa hưởng thu nhập từ các nguồn thu của đơn vị.
Đối với đội ngũ cán bộ xã phường, hơn 76 vạn người đang hưởng sinh hoạt phí hiện nay là quá nhiều. Trong khi đó, mức sinh hoạt phí cho một người lại quá ít. Vì vậy, chính sách tiền lương và thu nhập cho đội ngũ này cần được đổi mới.
Ba là: cơ chế chính sách tài chính chậm đổi mới theo cơ chế thị trường, còn mang tính chất kế hoạch hoá tập trung.
Về chính sách tạo nguồn thu ngân sách:
Trong các nước có nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động lao động sản xuất kinh doanh, dịch vụ có thu nhập đều phải đóng thuế và những người có thu nhập cao phải đóng thuế thu nhập cao. Trong khi đó ở nước ta chưa có thuế thu nhập, pháp lệnh thuế thu nhập cao trong thực tế chỉ cho những người làm việc trong liên doanh, còn lại hơn 3.000.000 người đang làm việc trong khu vực Nhà nước chưa phải đóng thuế.
Đối với khu vực sự nghiệp có thu hiện tại, Nhà nước vừa đảm bảo xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư chiều sâu, đào tạo cán bộ, vừa chi trả tiền lương, Nhưng lại không tập trung được nguồn thu vào ngân sách. Trong khi các đơn vị này hoạt động như những tổ chức dịch vụ, thì Nhà nước lại quy định quy mô hoạt động và giá cả dịch vụ. Những quy định tài chính như vậy không phù hợp với cơ chế mới, tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và dân lập, là nguyên nhân của những tiêu cực và làm giảm chất lượng hoạt động dịch vụ hiện nay.
Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, sự biến đổi trong hệ thống phân phối thu nhập diễn ra rất đa dạng. Nhiều yếu tố sản xuất từ chỗ không có giá trị đến chỗ mang lại thu nhập cao cho các chủ thể yếu tố sản xuất. Chẳng hạn đất đai, trước đây không có giá cả và giá trị, song nay là yếu tố làm cho nhiều người trở nên giàu có. Trong khi đó chính sách đất đai lại chưa tính đến sự biến đổi này nên chưa có sự điều tiết thu nhập của những chủ đất đai, bất động sản. Trong điều kiện như vậy, quan hệ giữa tiền lương cán bộ công chức với thu nhập từ giá cả đất đai, bất động sản trở nên bất hợp lý nghiêm trọng.
Như vậy, chúng ta có thể đi đến một số kết luận sau:
+ Việc giải quyết vấn đề tiền lương ở nước ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trường thống nhất.
+ Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị - sứclao động, chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng, chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của nguồn lao động làm công ăn lương. Điều đó, dẫn đến một hiện tượng là trong một thời gian dài (vài thập niên vừa qua) hàng chục triệu người lao động làm việc với một động lực mờ nhạt, không tha thiết với công việc. Nói cách khác, tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao.
+ Tiền lương vừa mang tính chất bình quân, vừa mang tính bao cấp. Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta đang triển khai thí điểm chính sách tiền lương mới nhưng trong nó vẫn còn đang chứa đựng nhiều điều bất hợp lý, đòi hỏi tiếp tục phải giải quyết.
+ Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội khác như nhà ở, phân phối điện, nước sinh hoạt...có liên quan mật thiết với nhau. Song trong quá trình giải quyết vấn đề tiền lương chưa tính toán cân đối với từng chính sách một cách cụ thể, do đó phát sinh nhiều hiện tượng tượng mâu thuẫn khó giải quyết gây ra sự bất bình đẳng lớn trong xã hội.
Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lý tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động.
Việc chỉ đạo thực hiện chính sách điều chỉnh tiền lương thường thiếu đồng bộ và không thống nhất. Đặc biệt là những tác động của chính sách giá-lương-tiền năm 1985 đã trực tiếp ảnh hưởng đến tiền lương, cuộc sống của người lao động cụ thể là mức lương, thu nhập chỉ đủ nuôi sống một tuần lễ đến 10 ngày của tháng. Công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp rất nhiều khó khăn trong đời sỗng hàng ngày. Do vậy, trong xã hội xuất hiện nhiều cách, ”nhiều kiểu làm ăn”, để bù đắp vào thu nhập (kể cả đúng đắn, chính đáng cũng như không đúng quy định, không chân chính...)
Từ đây đã gây ra tình trạng hỗn loạn trong tiền lương, xuất hiện những chênh lệch quá đáng, bất công xã hội trong tiền lương và thu nhập giữa các loại lao động.
2.2. Phân phối theo vốn và tài sản:
Nền kinh tế nước ta đang bước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng rõ nét của nước ta trong quá độ lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, nền kinh tế trong tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình sản xuất và tích tụ tư bản chưa cao, một phần tương đối lớn vốn hiện nay nằm trong tay các chủ tư hữu nhỏ trong đó có tài sản dươí dạng vàng, ngọại tệ. Vì vậy chúng phải đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề trên
Hình thức phân phối theo vốn và tài sản nổi rõ trong nền kinh tế nước ta là hoạt động của các hợp tác xã . Hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể nhằm giải quyết những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Hợp tác xã được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ
Hợp tác xã được được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên . Phân phối thu nhập cá nhân trong hợp tác xã được thực hiện trên cơ sở kết quả lao dộng, đồng thời theo tài sản của mỗi cá nhân góp vào hợp tác xã
Phân phối trong các thành phần kinh tế cá thể cũng thể hiện rõ nét nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản . trong thành phần kinh tế này người lao động sử dụng vốn và tài sản tự có của mình, dựa vào lao động của mình để sản xuất kinh doạnh . ở đây thu nhập cá nhân là phần còn lại sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất . Đặc điểm của hình thức phân phối này là phụ thuộc vào tài sản sở hữu và khả năng kinh doanh của ngưòi lao động
Do kết hợp chặt chẽ giữa hiệu quả sản xuất và sự cống hiến lao dộng của mình hình thức phân phối này kích thích tính tích cực của người lao động. Trong thành phần kt cá thể khó tránh khỏi tuỳ tiện trong việc xác định tỉ lệ giữa tích luỹ đầu tư cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân . Vì vậy vấn đề này được đặt ra sao cho mọi chủ thể kinh tế tiết kiệm trong tiêu dùng cá nhân để đầu tư cho sản xuất
Một hình thức phân phối theo vốn và tài sản khác là phân phối trong kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản nhà nước . kinh tế tư bản tư nhân là dựa trên sở hữu hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và thuê mưón công nhân, do đó sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu của chủ sở hữu (nhà tư bản) . việc phân phối ở đây được tiến hành theo nguyên tắc sở hữu tư bản và sở hữu lao động . ở đây người công nhân được hưởng lương còn nhà tư bản được hưởng lợi nhuận hay lợi tức cổ phần
Kinh tế tư bản nhà nước bao gồm các hình thức hợp tác giữa tư bản trong và ngòài nước với nhà nước . việc phân phối ở đây dựa trên cơ sở sở hữu vốn cổ phần và lao động
Lợi tức cổ phần trong hình thức kinh tế tư bản nhà nước là phần còn lại của giá trị mới sau khi đã khấu trừ các khoản nộp thuế . đây là một bộ phận của giá trị thặng dư được phân chia giữa nhà tư bản và nhà nước đại diện cho lợi ích của toàn dân,. Người lao động được nhận lương theo hiệu quả của lao động
Từ những hình thức phân phối trên ta thấy : dể có thể sử dụng được những nguồn vốn cho sản xuất xã hội không thể áp dụng các chính sách trưng thu trưng mua hay góp cổ phần một cách bình quân . Vì tất cả các chính sách đó đều dẫn đến kết quẩ là làm suy yếu lực lương sản xuất xã hội
Từ sau hội nghị lần thứ VI ban chấp hành trung ương Đảng, ở nước ta xuất hiện các biện pháp huy động vốn như một số đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể đã thực hiện như vay vốn, hùn vốn và góp cổ phần không hạn chế, với mức lãi hợp lý. Cách làm đó đã đưa được nguồn vốn vào chu chuyển, mặt khác tuy là nguồn vốn của tư nhân nhưng việc sử dụng đã mang tính xã hội .
Trên cở sở đó hình thức phân phối theo tài sản đã chính thức trở thành một hình thức phân phối trong nền kinh tế . nó tỏ ra rất phù hợp với các thành phần kinh tế mowihình thành như kinh tế tư nhân, tư bản nhà nước...và được sự bảo hộ của pháp luật.
2.3. phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội
Để nâmg cao mức sống của người dân, đặc biệt là các tầng lớp nhân dân lao động sự phân phối thu nhập của mọi thành viên xã hội còn còn đưọc thực hiện thông qua quỹ phúc lợi xã hội và tập thể . Sự phân phối này có ý nghĩa quan trọng, nó phù hợp với xu thế phát triển của xã hội
Trong điều kiện kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, Đảng ta rất coi trọng việc mở rộng dần các sự nghiệp phúc lợi xã hội. Quan điểm của Đảng trong vấn đề này là :
Coi mục tiêu và động lực chính của của sự phát triển xã hội là vì con người, do con người đặt con người vào vị trí trung tâm của chính sách và chương trình phát triển của xã hội; khơi dậy tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cả cộng đồng coi trọng lợi ích lợi ích cá nhân người lao động, xem đó là động lực trực tiếp để phát triển xã hội .
Đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. mục tiêu của chính sách xã hội và chính sách kinh tế là thống nhất, tất cả vì con người. Phát triển kinh tế là điều kiện để thực hiện chính sách xã hội nhưng chính sách xã hội lại là sự cụ thể hoá của các hoạt động kinh tế
Tính hợp lý của quỹ phúc lợi xã hội và tập thể được biểu hiện như sau:
Quỹ phúc lợi của xã hội, tập thể không thể mở rộng được khả năng của nền kinh tế xã hội cho phép . căn cứ vào khả năng kt, vào sự phát triển của nền kinh tế nhằm đáp ứng cho được những nhiệm vụ của xã hội cấp bách nhất . tỷ lệ quỹ phúc lợi tập thể, xã hội nếu xác định không hợp lý sẽ tác động tiêu cực đến tinh thần và thái độ lao động của người lao động .
Tốc độ tăng thu nhập của cá nhân trong cộng đồng phải tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của phúc lợi taapj thể và xã hội . Chỉ khi nào lực lượng sản xuất phát triển cao thì phần dành cho quỹ phúc lợi taapj thể và xã hội mới có nhiều và tốc độ của nó mới có nhiều và tốc độ của nó mới có thể cao hơn tốc độ tăng thu nhập trực tiếp của cá nhân . Nếu quỹ phúc lợi tập thể và xã hội phát triển quá mức khi chưa có các điều kiện cho phép sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính tích cực, tính chủ động và sáng tạo của của người lao động nhằm pháy triển mạnh mẽ nền kinh tế xã hội
Trong giới hạn đã xác định, cần sử dụng có hiệu quả các quỹ phúc lợi tập thể, xã hội tiết kiệm, hợp lý . Việc sử dụng phải nhằm mục đích thiết thực, tránh lãng phí xa hoa, phô trương hình thức . Vì các quỹ này có quan hệ đến lợi ích thiết thân của mỗi thành viên tập thể, cộng đồngcho nên cần phát huy đầy đủ, dân chủ, trưng cầu ý kiến của quảng đại quân chúng, phát huy được tác dụng vốn có của nó
Quỹ phúc lợi xã hội là bộ phận của chính sách xã hội cần được giải quyết theo tinh thần xã hội hoá . nhà nước chỉ ĩ vai trì nòng cốt, đồng thời động viên mọi người dân, các tổ chức các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, cá nhân trong và ngoài nước tham gia đóng góp
CHƯƠNG 3
Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới
Nhận rõ các sai lầm thiếu sót, Đảng và nhà nước đã chuyển hướng nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiét của nhà nước, đa dạng hoá các thành phần kinh tế, lấy kinh tế quốc doanh làm nòng cốt, kinh tế tập thể không ngừng được phát triển theo hướng hiệu quả và tự nguyện . và để phát huy tối đa khả năng sáng tạo của nhân tố con người trong nền kinh tế, tất yếu và trước hết phải giải quyết tốt vấn đề tiền lương với tư cách là một trong những hình thức phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay
3.1. Hệ thống các quan điểm cơ bản đổi mới chính sách tiền lương ở Việt nam
* Trong điều kiện nền kinh tế ở nước ta đang chuyển sang kinh tế thị trường đòi hỏi phải có hệ thống tiền lưoưng mới phù hợp với nó . vì vậy tất yếu phải thay đổi căn bản hệ thống tiền lương cũ, đưa ra chính sách mới về tiền lương và không ngừng hoàn thiện nó .
* Tiền lương tối thiểu phải dảm bảo là một trong những nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền lương mới
* Nội dung cơ bản của đổi mới các chính sách tiền lương phải là thay đổi kết cấu lương (lương tối thiểu, tiền tệ hoá tiền lương ...) và thay đổi cơ chế tiền lương ( nhà nước kiểm soát, điều tiết mức lương tối thiểu, tiền thưởng...)
* Xây dựng lại hệ thống tiền lương trên cơ sở tách hệ thống tiền lương cũ ra thành các hệ thống tiền lương riêng biệt cho các khu vực hành chính nhà nước . Khu vực sản xuất kinh doanh, khu vực sự nghiệp và lực lượng vũ trang theo tính chất lao động cơ chế hình thành nguồn tiền lương và mô hình phân phối tiền lương
* Xây dựng cơ chế quản lý tiền lương mới phải đảm bảo vừa tăng cường vai trò quản lý, điều tiết vĩ mô cuả nhà nước, vừa mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị cơ sở
* Phải tiến hành công cuộc đổi mới tổ chức và phân công lại lao động xã hội trên phạm vi toàn xã hội, tinh giảm biên chế khu vực nhà nước . trước hết thực hiện khẩn trương và mạnh mẽ chủ trương sắp xếp lại lao động trong cả hai khu vực sản xuất kinh doanh và hành chính sự nghiệp, coi đó là một trong những điều kiện quan trọng để đổi mới tiền lương . Chỉ có như vậy mới làm cho các đơn vị sản xuất kinh doanh thực sự đi vào cơ chế thị trường, làm ăn có hiệu quả, các đơn vị hành chính sự nghiệp, tăng cường hiệu lực của bộ máy, nâng cao chất lượng công tác
* Đổi mới chính sách tiền lương phải đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, phải tính đến mối quan hệ cơ bản trong tiền lương và những cân đối lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa việc làm, tiền lương và thu nhập, giữa cung và cầu về lao động trên thị trường, giữa sức mua và nhu cầu hàng hoá có khả năng thanh toán, quan hệ giá, lương và tiền. Tất cả các quan hệ đó phải được giải quyết theo quan điểm động
* Tiền lương là vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, liên quan đến đời sống và việc làm của hàng chục triệu người lao động . Vì vậy việc tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách tiền lương luôn là cấp bách và thiết thực, nhưng rất khs khăn . cho nên chúng ta cần giải quyết vấn dề này một cách thận trọng, không nóng vội
3.1.1. Các giải pháp cơ bản giải quyết vấn đè tiền lương ở nước ta hiện nay
Đối với người làm công ăn lương, thì tiên lương phải thực sự là nguồn thu nhập chính để nuôi sống họ, từ đó họ có thể hoàn toàn yên tâm và say mê với nghề nghiệp . Vì vậy việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương sẽ có tác dụng kích thích sản xuất phát triển, ổn dịnh cuộc sống của không chỉ các gia đình công nhân viên chức nhà nước mà còn ảnh hưởng đến mưc sống chung của toàn xã hội . Trên cơ sở đó việc giải quyết các vấn đề tiền lương còn có tác dụng to lớn trong việc hướng đạo tiền công ra ngoài khu vực quốc doanh . Chính vì vậy cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiẹn chính sách tiền lương
* Phải làm cho tiền lương thực sự trở thành giá của lao động
Hiện nay ở Việt nam thị trường sức lao động đang được hình thành. Sức lao động cũng trở thành hàng hoá, người lao dộng có quỳen tự do lựa chọn nơi làm việc đáp ứng các nhu cầu và khả năng của mình theo đúng hợp đồng lao đọng. Trong nền kinh tế thị trường tiền lương thực sự là giá cả của sức lao động, điều đó đòi hỏi phải tính đúng tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định mức tiền lương . Muốn vậy, mức lương cho người lao động phải thể hiện trình độ học vâvs tay nghề, quá trình lao động, lao dộng giản đơn hay lao động phức tạp. mức lưpơng đó phải thoả mãn nhu cầu tái sản xuất sức lao động, đảm bảo cho người lao động sống đủ mà không cần phải làm gì thêm. Nếu họ muốn làm giàu thì phải làm thêm nhiều việc. Chỉ trên cơ sở như vậytiền lươnmg mới khuyến khích mọi người lao động naang cao trìh độ tay nghề, khuyến khích thế hệ trẻ ra sức học tập để không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường
Để co tiền lương thực sự trở thành 1 đòn bẩy thúc đẩy người lao động làm việc với sức sáng tạo cao, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách tiền lương .Trong việc xác đinh các chính sách tiền lương cần quán triệt các quan điểm sau
Tiền lương phải đủ đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động . nó phải thực sự là bộ phận thu nhập chủ yếu của người lao động
Tiền tệ hoá tiền lương một cách triệt để( xoa bỏ tận gốc các khoản bao cấp trong phân phối )
Mức lương phải gắn liền với trình độ phát triển kinh tế xã hội hiệu quả sản xuất kinh doanh, quan hệ cuang cầu lao động, mức cống hiến của từng cá nhân. sự biến động của giá cả và lam phát
Chống chủ nghĩa bình quân trong việc trả lương
* Để hoàn thiện giải quyết vấn đề tiền lương, cần tiếp tục xác định hợp lý mức tiền lương tối thiểu, tiền lương tối thiểu là một mức lương đảm bảo cho một mức sống tối thiểu, nếu nhỏ hơn mức đó sẽ là thảm hoạ cho con người ( theo A.Smith). Tuy nhiên, mức sống của người lao động phải phù hợp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Mức lương tối thiểu đó phải đảm bảo tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình tái sản xuất sức lao động( cả về sinh lý, nhân văn, và các quan hệ xã hội).
+Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tính thống nhất.
Việc xác định và thực hiện tiền lương tối thiểu thống nhất sẽ tạo điều kiện giữ vững vai trò điều tiết của nhà nước và phát huy quyền tự chủ của các tổ chức kinh tế trong lĩnh vực lao động. Tiền lương tối thiểu thống nhất là công cụ cần thiết để bảo hộ giá trị sức lao động cho những người lao động không phân biệt đó là thành phần kinh tế nào.
+ Nhà nước cần sớm luật pháp hoá tiền lương tối thiểu nhằm ngăn ngừa và giải quyết các tranh chấp giữa giới chủ và giới thợ, buộc những người sử dụng lao động phải tìm cách khác để giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ những người làm công ăn lương. Việc luật pháp hoá tiền lương tối thiểu bao gồm việc xác định mức tiền lương cụ thể và phải điều chỉnh nó trong từng thời kỳ theo đà phát triển của sản xuất và mức tăng năng suất lao động, đồng thời cũng điều chỉnh trong từng thời gian những mức lương tối thiểu áp dụng cho từng vùng khác nhau.
Để đảm bảo công băng trong thu nhập cho người dân nước ta, Nhà nước đã thực hiện một số biện pháp khác:
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
Mục tiêu phấn đấu của nhân dân ta là dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, dân chủ. Dân có giàu thì nước mới mạnh, nước mạnh mới có khả năng thực hiện sự công bằng xã hội và có cuộc sống văn minh. Vì vậy, phải phát huy nỗ lực làm giàu cho mọi công dân, Nhà nước không những khuyến khích mọi người làm giàu một cách hợp pháp mà còn tạo điều kiện, giúp đỡ bằng nhiều biện pháp.
Để có thu nhập, trước hết mỗi người phảo được lao dộng. Từ một nước kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường thì tình trạng một bộ phận dân cư chưa có việc làm ổn định là điều không htể tránh khỏi và còn là vấn đề bức xúc lâu dài. Bởi vậy, để thực hiện sực công bằng xã hội trong thu nhập thì điều đầu tiên là bảo đảm việc làm cho những người có sức lao động. Trong tình hình nước ta hiện nay, phương hướng quan trọng là Nhà nước cúng toàn dân ra sức đầu tư phát triển, thực hiện tốt các kế hoạch và chương trình kinh tế xã hội của Nhà nước vạch ra, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, mọi công dân, mọi nhu cầu đầu tư mở mang ngành nghề, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Mọi công dân đều được tụ do hành nghề, thuê mướn nhân công theo pháp luật, phát triển dịch vụ việc làm, phân bố lại dân cư và lao động trên địa bàn cả nước. Mở rộng kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Tạo điều kiện cho mọi người lao động tự tạo, tự tìm kiếm việc làm.
Thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Để từng bước đạt tới sự tiến bộ và công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, xuất phát từ điều kiện cụ thể, nhiệm vụ trước mắt là phải thực hiện tốt chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Để làm tốt việc này cần:
Xây dựng và phát triển quỹ xoá đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước, quản lý chặt chẽ việc sử dụng quỹ này đúng đối tượng và có hiệu quả.
Tố chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
Tổ chưc tốt việc thi hành pháp lệnh về người có công, bảo đảm cho những người có công với đất nước và cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ít nhất bằng mức sống trung bình của nhân dân ở nơi cư trú, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho con em của những người có công với cách mạng, nối tiếp sự nghiệp của cha anh. Mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc gia đình chính sách.
Thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo đảm đời sống người nghỉ hưu được ổn định, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Thực hiện các chính sách bảo trợ trẻ mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già cô đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật, xây dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp, tiến tới xây dựng luật về bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi. Giúp đỡ những người bị thiên tai và những rủi ro khác.
Thích ứng với điều kiện của nước ta trong thời kỳ quá độ, để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, tư nhân cá thể và tất cả mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đẩu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, Đại hội thứ VI của Đảng nhấn mạnh: “ Cần sửa đôỉ bổ sung và công bố chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. Những quy định có tính chất nguyên tắc phải trở thành pháp luật để mọi thành viên xã hội yên tâm và mạnh dạn đầu tư vốn vào trong sản xuất kinh doanh”. Với quan điểm đổi mới đó, cần phải xem xét việc phân phối kết quả kinh doanh theo vốn và theo tài sản của mỗi cá nhân đóng góp vào quá trình sản xuất dưới hình thức “ lợi tức” và “ lợi nhuận” là một hình thức phân phối hợp pháp và phải được sự bảo hộ của pháp luật đối với những thu nhập hợp pháp đó.
Ngoài ra Đảng ta rất coi trọng việc mở rộng các quỹ phúc lợi xã hội Đại hội VII của Đảng nêu bật hai quan điểm lớn phải thực hiện là:
Coi mục tiêu và động lực chính của sự phát triển xã hội là vì con người, do con người đặt con người vào vị trí trung tâm của các chính sách và chương trình phát triển xã hội, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi tập thể và cả cộng đồng, coi trọng lợi ích cá nhân của người lao động, xem đó là động lực trực tiếp để phát triển kinh tế - xã hội.
Đảm bảo sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Phát triển kinh tế là điều kiện để thực hiện chính sách xã hội, nhưng chính sách xã hội lại là sự cụ thể hoá mục đích của các hoạt động kinh tế.
Tóm lại, Đảng và Nhà nước cần phải giải quyết tốt mối quan hệ về phân phối ở nước ta, nguyên tắc phân phối nào cũng quan trọng, không nên coi trọng nguyên tắc nào hơn nguyên tắc nào, bởi nhiều nguyên tắc phân phối ở nước ta đều có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế xã hội hiện nay.
Kết luận
Qua việc phân tích thực tạng quan hệ phân hối ở nước ta, đề ấn đã giải quyết đươc những vấn đề cơ bản sau: Quan hệ phân phối đóng vai trò cức kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Nó là một khâu không thể thiếu được trong bốn khâu của quá trình tái sản xuất xã hội, là một trong ba mặt cơ bản của quan hệ sản xuất. Nó nối liền sản xuất với sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền các thị trường trong nền kinh tế. Tuy nhiên, để thực hiện quá trình phân phố được tốt thì Đảng và Nhà nước cần phải tiếp tục hoàn thiện các nguyên tắc, nội dung phân phối hơn nữa, đó là:
Cải cách căn bản chính sách tiền lương ở nước ta là yêu cầu cấp bách. Chính sách tiền lương phải ngày càng phù hợp với điều kiện kinh tế trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc này, cần chuẩn bị cho việc cải cách toàn diện hệ thống quan điểm về tổ chức tiền lương, tiền lương tối thiểu, đối tượng và nguồn chi trả, hệ thống thang bảng lương và các chính sách kinh tế tài chính có liên quan.
Tăng cường nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các công cụ kinh tế để điều tiết phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường, ở đây phải chú ý cả chính sách công cụ để tác động vào đầu vào và đầu ra. Để tác động vào phân phối nguồn lực, nhà nước phải đóng vai trò tích cực trong việc phân bổ tài nguyên, đất đai, phân bổ lực lượng sản xuất, có chương trình giáo dục, đào tạo, chính sách lãi suất cho vay vốn, chính sách xuất nhập khẩu.
Cải cách chế độ thanh toán, kế toán hiện hành sao cho Nhà nước có thể kiểm soát được sự công bằng, sự vận động của động tiền trong xã hội, kiểm soát được thu nhập của từng người lao động.
Như vậy, chính sách phân phối phù hợp sẽ góp phần ổn định và phát triển kinh tế xã hội, khắc phục và hạn chế những mặt tiêu cực vốn có của nền kinh tế cũng như cơ chế thị trường, thực hiện sự công bằng và bình đảng xã hội tạo động lực cho sự phát triển ổn định và bền vững. Vì vậy, quan hệ phân phối là yếu tố quan trọng, tiên quyết không thể thiếu trong bất cứ xã hội nào, và Nhà nước cần phải hoàn thiện cho quan hệ phân phối nhiều hơn nữa
Danh mục tài liệu tham khảo
Ban tư tưởnng văn hoá Trung Ương, Tài liệu nghiên cứu văn kiện đại hội IX của Đảng _ Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Đại học kinh tế quốc dân _ Giáo trình kinh tế chính trị
Giáo trình kinh tế chính trị Mac – Lênin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – Nhà xuất bản chính trị quốc gia.
Mai Ngọc Cường – Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường – Nhà xuất bản Thống kê - năm 1994.
Mai Ngọc Cường – Về cải cách tiền lương của cán bộ, công chức ở Việt Nam những năm tới – Tạp chí kinh tế và phát triển.
M-Rn-Đina _ Những nguyên lý của kinh tế chính trị học – Nhà xuất bản Tiến bộ - 1984.
Nguyễn Quang Đông – Sự bức thiết của cải cách chế độ tiền lương nhìn từ kết quả một số cuộc điều tra _ Tạp chí kinh tế và phát triển.
Nguyễn Thị Thu Hà _ Cải cách tiền lương ở Việt Nam _ Nghiên cứu kinh tế số 282-tháng 11/2001.
9. Phumin _ Việc lựa chọn, phân phối và đào tạo cán bộ _ Nhà xuất bản Sự thật - năm 1960.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35457.doc