Đề án Các giải pháp và phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta

Chung lại, phát triển kinh tế trang trại ở nước ta là một xu hướng có tính quy luật của quá trình chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hoá, phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là mô hình kinh tế của thời đại vừa có ý nghĩa kinh tế vừa mang tính xã hội sâu sắc vì thế cần được khuyến khích phát triển. Chủ trang trại có cơ cấu rất đa dạng, trong đó các chủ trang trại có nguồn gốc từ các hộ nông dân làm ăn giỏi là lực lượng chủ yếu để xây dựng và phát triển kinh tế trang trại. Qua đó có thể thấy để phát triển kinh tế trang trại nước ta, trước hết và chủ yếu phải dựa vào lực lượng những hộ nông dân làm ăn giỏi và trang trại gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chiếm tuyệt đại bộ phận trong kinh tế trang trại ở nước ta

doc36 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các giải pháp và phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động. Việc phân loại trang trại hiện nay phụ thuộc vào những đặc điểm và trình độ phát triển của từng nước; một số tiêu thức thường được sử dụng hiện nay là: 2.1. Theo cách thức tổ chức - Trang trại gia đình: là một hình thức thường được sử dụng nhiều nhất hiện nay, là kiểu trang trại do một gia đình tổ chức hoạt động độc lập và có tư cách pháp nhân. Trong hình thức này người chủ gia đình (chủ trang trại) thường là người đứng ra tổ chức và quản lý mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của trang trại. - Trang trại liên doanh: là hình thức nhiều trang trại gia đình liên doanh lại với nhau nhằm tạo ra một hình thức trang trại lớn để có thể huy động vốn liếng và khả năng sản xuất để có thể cạnh tranh với các trang trại khác có quy mô lớn cùng ngành, đồng thời lại có thể được hưởng các chính sách của nhà nước cho các trang trại có quy mô lớn trong phát triển. Tuy liên doanh với nhau nhưng quyền trong tự chủ kinh doanh điều hành sản xuất ở các trang trại thành viên vẫn không đổi, nó vẫn bảo đảm quyền lợi và quyền quyết định của các chủ trang trại thành viên. - Trang trại hợp doanh: là loại hình trang trại được tổ chức như công ty cổ phần. Loại này thường có quy mô rất lớn và khả năng chuyên môn hoá rất cao. Lao động trong loại trang trại này thường là lao động làm thuê; tuy nhiên loại hình trang trại này chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ và chỉ có ở một số nước phát triển. 2.2. Theo cách thức điều hành trang trại - Trang trại mà người chủ là những nông dân thực thụ, gắn liền lao động trực tiếp với sự quản lý hoạt động của trang trại. Loại trang trại này gắn liền với hộ gia đình nông nghiệp, hoạt động gắn bó với tập quán và đặc thù của địa phương, làng, xã. - Trang trại mà người chủ không sống ở trang trại mà sống tại thành phố nhưng vẫn điều hành trực tiếp các hoạt động của trang trại thông qua việc tham gia lao động thường xuyên hay định kỳ tại các trang trại của mình. Loại hình trang trại này thường xuất hiện ở các vùng nông thôn xung quanh các thành phố hay thị trấn. - Trang trại mà người chủ sống và làm việc tại nơi khác, thuê người quản lý trang trại, thực hiện như là đầu tư tư bản vào lĩnh vực nông nghiệp. Thông thường loại trang trại này có quy mô khá lớn và hoạt động quản lý rất chuyên nghiệp. 2.3. Theo cơ cấu sản xuất - Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp: kết hợp trồng trọt - chăn nuôi, nông nghiệp - lâm nghiệp … cũng có khi trang trại nông nghiệp thuần tuý nhưng kết hợp nhiều loại cây trồng nhằm hỗ trợ cho sản phẩm chính kinh doanh của trang trại mình. - Trang trại sản xuất chuyên môn hoá: chỉ sản xuất kinh doanh một hay loại một nhóm loại sản phẩm chuyên môn hoá hẹp. Ngoài ra trang trại còn có thể phân loại theo mức độ sở hữu tư liệu sản xuất như: sở hữu toàn bộ hay một phần tư liệu sản xuất; hay phân loại theo cơ cấu thu nhập như: thu nhập thuần tuý nông nghiệp hay thu nhập ngoài nông nghiệp … Tóm lại mỗi cách phân loại đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, tuỳ theo nhu cầu nghiên cứu mà chúng ta có thể lấy một hay nhiều tiêu thức để phân tích làm nổi bật vấn đề chứ không nên áp đặt một thước đo cố định để đánh giá toàn bộ các trang trại hiện nay. 3. Vai trò tích cực của kinh tế trang trại Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất phù hợp với những đặc điểm của nông nghiệp, chính điều này đã làm cho loại hình tổ chức sản xuất này có ưu thế hơn các hình thức tổ chức kinh tế khác trong nông nghiệp. Qua bước đầu hình thành với thức lực còn yếu, chưa có cơ chế chính sách rõ ràng nhưng kinh tế trang trại cũng có những tác dụng tích cực khá rõ nét như; + Thứ nhất: Góp phần đáng kể vào việc phát huy nội lực qua khai thác một bộ phận tiềm năng về đất đai, lao động và vốn trong dân cư ở nông thôn để đầu tư phát triển sản xuất hàng hoá với khối lượng và giá trị tương đối lớn cho thị trường nội địa và xuất khẩu, đặc biệt là các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ hải sản … Bước đầu các trang trại đã huy đông được hơn 1000 tỷ đồng vốn đầu tư và trên 20 vạn lao động; đó là những con số không phải nhỏ. + Thứ hai: Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tập trung chuyên canh, sản xuất hàng hoá; làm tiền đề cho phát triển công nghiệp chế biến nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ hải sản; đưa công nghiệp và các hoạt động dịch vụ vào nông thôn; thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao hơn. Sự chuyển dịch đó cũng góp phần cải thiện môi trường sinh thái, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, hạn chế nạn du canh du cư phá rừng bừa bãi, thúc đẩy việc lấn biển, mở mang diện tích canh tác … +Thứ ba: Tạo thêm việc làm cho một số lao động dư thừa ở nông thôn; qua đó xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống văn hoá ở những vùng hẻo lánh thiếu ánh sáng văn minh, dân trí và ý thức dân chủ được nâng lên, tiếp cận dần với lối sống công nghiệp, giảm khoảng cách giầu nghèo giữa thành thị – nông thôn, giữa miền xuôi – vùng cao; Từ đó hình thành các khu dân cư, đô thị mới. + Thứ tư: Do phải cạnh tranh trên thị trường nên nảy sinh nhu cầu hợp tác, liên doanh các trang trại với nhau, với các đơn vị thuộc kinh tế nhà nước; cùng nhau giải quyết các nhu cầu về cơ sở hạ tầng chung và phúc lợi xã hội (như cầu đường, thuỷ lợi giáo dục …) Nhu cầu đó thúc đẩy sự hình thành các hợp tác xã kiểu mới, các hiệp hội công – nông nghiệp, các câu lạc bộ chủ trang trại … Qua đó nhà nước có thể có những chính sách đầu tư trợ giúp có hiệu quả hơn. phần II: Các vấn đề còn tồn tại của kinh tế trang trại ở nước ta I. Đặc điểm và sự xuất hiện kinh tế trang trại ở nước ta 1. Đặc điểm nông nghiệp nước ta - Nước ta là một nước nông nghiệp, nguồn sống chính của cư dân ở nông thôn dựa vào nông nghiệp nhưng nông thôn nước ta còn nghèo, canh tác còn lạc hậu, công cụ thủ công vẫn còn phổ biến. Ruộng đất manh mún chưa tạo điều kiện thuận lợi để tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ mới. Chính sách “hạn điền”, “thuế sử dụng đất” đang là yếu tố hạn chế quá trình tích tụ ruộng đất. - Nền nông nghiệp bước vào giai đoạn CNH – HĐH với xuất phát điểm thấp, dấu ấn độc canh còn mang nặng ở nhiều vùng, nguồn lực của kinh tế hộ ở nông thôn còn thấp kém. - Trình độ khoa học kỹ thuật ứng dụng vào sản xuất nông nghiệp và các hoạt động sản xuất kinh doanh ở nông thôn còn quá thấp, cơ cấu nông thôn chuyển dịch chậm. - Chiến lược thị trường đối với hàng nông sản chưa được quan tâm đúng mức làm cho cho các hộ nông dân làm kinh doanh chịu nhiều thiệt thòi. - Mức sống và thu nhập của nông dân còn thấp, sự phân hoá giầu nghèo trong nông thôn đang diễn ra nhanh chóng và rộng khắp, có chiều hướng ngày càng cách xa so với dân cư thành thị. Do đó, để thúc đẩy nông nghiệp phát triển lên một giai đoạn mới, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá, làm cho các hộ nông dân thích ứng được với kinh tế thị trường đòi hỏi ngoài việc tìm cách giải quyết tốt những trở ngại, mâu thuẫn thì cần phải có các chính sách, biện pháp từ phía nhà nước để tạo nên sức mạnh mới trong điều kiện mới là nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Sức mạnh đó là tiền đề của những thành công trong giữ nước cũng như xây dựng hoà bình vì nông thôn là yếu tố quan trọng góp phần ổn định tình hình kinh tế – xã hội cả nước. 2. Sự xuất hiện kinh tế trang trại ở nước ta Với đặc điểm của nông nghiệp cước ta, sau hơn 10 năm thực hiện và đổi mới đường lối đã xuất hiện nhiều thành phần kinh tế mới trong nông nghiệp, đặc biệt là sự xuất hiện của mô hình kinh tế trang trại. Có thể đưa ra các tác nhân quan trọng dẫn đến việc hình thành và phát triển mô hình kinh tế này ở nước ta trong thời gian qua gồm: + Chỉ thị 100 / CT – TW của BCHTW khoá IV ban hành vào đầu năm 1981 với nội dung chủ yếu là khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động: “ Tổ chức tốt việc giao ruộng đất cho đội ngũ sản xuất, cho nhóm và người lao động, sử dụng để thực hiện sản lượng khoán, tránh để đồng ruộng bị chia cắt manh mún gây trở ngại cho việc sử dụng cơ sở vật chất – kỹ thuật và áp dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất ”. Điều đó có ý nghĩa rất quyết định trong việc xác định quyền tự chủ về sức lao động của nhóm và hộ nông dân. + Nghị quyết 10 – NQ / TW của Bộ chính trị (tháng 4 – 1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp đã xác định rõ: “ Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế cá thể, tư nhân trong quá trình đi lên XHCN… Tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế này phát triển: trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng, nuôi trồng khai thác thuỷ - hải sản, chế biến kinh doanh dịch vụ nông nghiệp và mở mang ngành nghề ở nông thôn. Mọi hành vi xâm phạm các quyền nói trên đều phải xử lý theo pháp luật, các định kiến hẹp hòi đối với kinh tế cá thể, tư nhân phải được xoá bỏ ”. + Nghị quyết TW 5 khoá VIII (tháng 6 – 1993) và sau đó là Luật đất đai (tháng 9 – 1993) đã chủ trương: “ Các hộ tư nhân đầu tư phát triển các cây giống, cây con; khai thác đất trống đồi núi trọc ở các vùng trung du, miền núi, bãi bồi, ven biển; nuôi trồng và khai thác thuỷ sản, ra khơi đánh bắt cá; xây dựng các nông - lâm - ngư trại với quy mô thích hợp ”. Tức là đã trao thêm cho các tổ chúc kinh tế, cá nhân - người lao động và hộ nông dân; trách nhiệm và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp được hoạt động một cách thông thoáng hơn. + Nghị quyết TW khoá VIII (tháng 12 – 1997) cũng đã khẳng định: “ Kinh tế trang trại với các hình thức sở hữu khác nhau (Nhà nước, tập thể, tư nhân) được phát triển chủ yếu trồng cây dài ngày, chăn nuôi đại gia súc ở những ở những nơi có nhiều ruộng đất; khuyến khích việc khai phá đất hoang vào mục đích này ”. Bên cạnh đó tại Hôi nghị lần thứ 6 (kỳ1) BCHTW khoá VIII vừa qua Tổng bí thư Lê Khả Phiêu trong bài phát biểu bế mạc hội nghị đã nói: “ Đổi mới chính sách và tháo gỡ các ách tắc để thực hiện sự giải phóng sức sản xuất ở nông thôn và thu hút các nguồn lực để phát triển toàn diện, bền vững; khuyến khích thật mạnh việc khai thác, đưa vào sử dụng đất trống đồi núi trọc và đất còn hoang hoá; đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, tăng sức mua và phát triển ổn định thị trường nông thôn ”. (. Phạm Quang Lê: “ Kinh tế trang trại đột phá mới trong phát triển nông nghiệp ”. Tạp chí NCKT: Viện kinh tế học – TT KHXH và Nhân Văn Quốc Gia. Số 12- 1999, trang 29 ) Từ đây, các hộ gia đình sản xuất nông nghiệp đã hoàn toàn tự chủ trong quá trình sản xuất kinh doanh đối với sức lao động, vốn, đất đai, tư liệu sản xuất nông nghiệp khác … giá trị sản lượng sản xuất nông nghiệp tăng rõ rệt hàng năm, đời sống nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi đáng mừng, (điều này được thể hiện qua biểu 1). Biểu 1: Giá trị sản xuất nông nghiệp Đơn vị:Tỷ đồng Năm Tổng số Các ngành Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 1990 20666.5 16393.5 3701.0 572.0 1991 41892.6 33345.0 7500.3 1047.3 1992 49061.1 37539.9 10152.4 1368.8 1993 53929.2 40818.2 11553.2 1557.8 1994 64876.8 49920.7 13112.9 1843.2 1995 85507.6 66793.8 16168.2 2545.6 1996 92006.2 71589.4 17791.8 2625.0 1997 98852.3 76858.3 19287.0 2707.0 1998 113269.2 90077.9 20365.2 2826.1 Sơ bộ 1999 121731.5 96644.6 22177.7 2909.2 Cơ cấu (%) 1990 100.0 79.3 17.9 2.8 1991 100.0 79.6 17.9 2.5 1992 100.0 76.5 20.7 2.8 1993 100.0 75.7 21.4 2.9 1994 100.0 77.0 20.2 2.8 1995 100.0 78.1 18.9 3.0 1996 100.0 77.8 19.3 2.9 1997 100.0 77.8 19.5 2.7 1998 100.0 79.5 18.0 2.5 Sơ bộ 1999 100.0 79.4 18.2 2.4 Nguồn: Niên giám thống kê 1999, trang 35 – NXB Thống Kê, HN 2000 II. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta Có thể thấy kinh tế trang trại phát triển ở nước ta hiện nay đã có được những thành công đáng kể, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những vấn đề cần được xem xét để kinh tế trang trại có thể phát huy được những sức mạnh đáng có của nó. Do phạm vi của đề tài hẹp nên nội dung của phần này chỉ tập trung phân tích hai vấn đề nổi cộm còn tồn tại của kinh tế trang trại và cũng là nguyện vọng của các chủ trang trại hiện nay là vấn đề về vốn và quy mô kinh doanh. 1. Quy mô kinh doanh. Chúng ta đều biết quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại gắn với việc tích tụ tập trung các yếu tố sản xuất cho nên quy mô kinh doanh của trang trại chủ yếu phụ thuộc vào các yếu tố kinh doanh và phương hướng kinh doanh. 1.1. Yếu tố kinh doanh Bên cạnh đó trong hệ thống các biện pháp và chính sách của nước ta đối với nông nghiệp, trọng tâm của vấn đề là người nông dân. Nếu họ thiếu chủ động, không được giao quyền tự chủ, không có động lực sản xuất thì tất cả hệ thống các biện pháp khác đều kém hiệu quả, mà phát huy quyền tự chủ của nông dân nói chung và các chủ trang trại nói riêng ở khâu cơ bản nhất chính là ruộng đất. Thực tế đã chứng minh, quyền sử dụng ruộng đất với quyền sở hữu các tư liệu sản xuất khác là nguồn gốc tạo ra động lực mới thúc đẩy, khuyến khích mọi tầng lớp cư dân có năng lực nắm bắt nhanh nhu cầu thị trường đứng ra để thành lập trang trại. Cho nên trong các yếu tố kinh doanh của các trang trại thì ruộng đất đóng vai trò khá quan trọng. Cũng theo quy luật của thị trường, thì để nông nghiệp đi theo hướng sản xuất hàng hoá thì các yếu tố đầu vào và đầu ra tất yếu đều là hàng hoá. Từ đây, vấn đề được đặt ra là: Ruộng đất là yếu tố đầu vào quan trọng nhất có được coi là hàng hoá như các yếu tố khác không (hàng hoá đặc biệt) ? Quan niệm về thị trường ruộng đất ở nước ta có được đặt ra hay không nếu có đặt ra thì đặt ra như thế nào ? Đất đai trong chế độ nước ta là tài sản quốc gia thuộc sở hữu toàn dân, đó là một lực lượng sản xuất đặc biệt được tạo ra từ chính sách của Nhà nước và lao động trí tuệ kết tinh trong quá trình quản lý. Sự luân chuyển sử dụng đất đai mà Luật đất đai năm 1993 cho phép thực chất là sự trao đổi giá trị hàng hoá vì mục tiêu khai thác hiệu quả hơn giá trị đất đai. Nên chăng đã đến lúc cần công khai hoá dần thị trường đất đai như bao thị trường hàng hoá khác. Nhưng cũng cần phải thấy rằng vì nó là loại hàng hoá đặc biệt nên thị trường đất đai cần sự hướng dẫn, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ của Nhà nước để có sự tích tụ đất đai cho việc hình thành kinh tế trang trại một cách nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy luật và đạt được hiệu quả cao. Một thực trạng hiện nay là hầu hết các hộ nông dân không có ruộng, thiếu ruộng, ít có năng lực sản xuất kinh doanh, nhưng nếu chia đều ruộng đất cho các hộ nông dân thì không thể đảm bảo mức thu nhập khá cho các hộ, không thể có sản xuất kinh doanh. Điều này sẽ làm cản trở sự phát triển của kinh tế trang trại do vậy, trong quá trình phát triển trang trại tập trung hoá ruộng đất là một xu hướng cần thiết, phù hợp với yêu cầu của sự phát triển nông nghiệp - nông thôn, thể hiện quá trình phân công lại lao động và sự chuyển biến trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhưng ở nước ta, trong giai đoạn hiện nay nếu việc tập trung hoá ruộng đất diễn ra nhanh chóng, sự tác động tiêu cực mạnh mẽ theo hướng tự phát của cơ chế thị trường trong quá trình tập trung hoá ruộng đất vào một số hộ thì sẽ đưa đến tình trạng các hộ nông dân vì hoàn cảnh khó khăn quẫn bách mà buộc phải bán đất, mất đất đi đến chỗ thất nghiệp, bần cùng hoá. Ngược lại, nếu quá trình này diễn ra nhanh thì sự phân hoá giầu nghèo sẽ trở nên nghiêm trọng, dẫn đến tình trạng phân hoá giai cấp trong nông nghiệp và nông thôn. Vì vậy, việc tập trung ruộng đất phải phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn, với quá trình CNH - HĐH và phân công lại lao động xã hội tạo điều kiện cho các hình thức kinh tế mới trong nông nghiệp - nông thôn phát triển. Mặt khác, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu trong hoạt động sản xuất nông, lâm và thuỷ sản. Do đó, để phát triển kinh tế trang trại trước hết phải dựa vào đất đai nhất là những cây trồng, vật nuôi cần một lượng diện tích đất đủ lớn để sản xuất ra một lượng sản phẩm hàng nhất định. Nguồn đất bình quân trong nông nghiệp của nước ta được thể hiện ở biểu 2 Biểu 2: Nguồn đất bình quân năm Đơn vị: Ha Tiêu chí Đất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản Tổng số I. Đất đã được giao 2.9218 1.4781 0.3229 4.7229 II. Đất chưa được giao 0.9828 0.4292 0.4398 1.8518 Đất nhận thầu của HTX và của chính quyền 0.1713 0.0265 0.3847 0.5826 2. Thuê tư nhân 0.0192 0.0013 0.0018 0.0223 3. Nhận chuyển nhượng 0.3294 0.0136 0.0139 0.3569 4. Nhận cầm cố 0.0034 0.0011 0.0000 0.0045 5. Tự khai hoang 0.2644 0.0607 0.0080 0.3332 - Bãi bồi 0.0743 0.0024 0.0071 0.0838 - Đất chống đồi trọc 0.1549 0.0338 0.0003 0.1890 -Rừng 0.0328 0.0240 0.0001 0.0569 - Khác 0.0024 0.0005 0.0005 0.0034 6. Thầu của nông lâm trường 0.1596 0.1661 0.0250 0.3507 7. Nhận khoán của chủ dự án 0.0284 0.1485 0.0008 0.1777 8. Nguốn khác 0.0071 0.0113 0.0056 0.0242 Tổng số đất 3.9046 1.9073 0.7627 6.5747 Nguồn:Nguyễn Thế Nhã:“ Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta”. Tạp chí NCKT: Viện kinh tế học – TT KHXH và Nhân Văn Quốc Gia. Số 10 - 1999, trang 17. Trong số 3.004 trang trại điều tra, quỹ đất bình quân một trang trại là 6,36 ha quỹ đất bình quân các trang trại giữa các tỉnh có sự chênh lệch đáng kể: Nghệ An là tỉnh có quỹ đất bình quân lớn nhất: 12,69 ha; Yên Bái: 10,17 ha và Đồng Nai bình quân một trang trại chỉ có 2,75 ha. Nguồn gốc các loại đất đai để phát triển kinh tế trang trại rất đa dạng trong tổng đất bình quân một trang trại. Tính bình quân đất đã được giao chiếm 74,83%, đất lâm nghiệp chiếm 77,5% và đất nuôi trồng thuỷ sản chiếm 42,34%. Diện tích đất của trang trại chưa được giao chiếm 28,17%, trong đó diện tích đất các trang trại nhận thầu của hợp tác xã và chính quyền địa phương chiếm 31,46% nhận chuyển nhượng đất chiếm 19,27%, tự khai hoang chiếm 18,9% nhận khoán của chủ dự án chiếm 9,59%... 1.2. Phương hướng kinh doanh Về phương hướng kinh doanh của các trang trại nếu tính bình quân diện tích đất kinh doanh, các trang trại kinh doanh lâm nghiệp thường cao hơn quy mô bình quân diện tích của trang trại kinh doanh nông nghiệp. Trong thực tế trên cơ sở đất được giao, vốn tự có và vốn vay kết hợp với sức lao động của gia đình hoặc có thể thuê thêm lao động, các chủ trang trại đã lựa chọn hướng kinh doanh sản xuất hàng hoá chính kết hợp phát triển tổng hợp theo phương châm “ lấy ngắn nuôi dài ” khai thác tổng hợp các tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế, sớm đưa các trang trại vào định hình sản xuất. Trong số các trang trại điều tra, hướng hoạt động chủ yếu được tập trung vào các lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản với các loại hình sản xuất kinh doanh chính, bao gồm : nhóm trang trại sản xuất cây hàng năm (lúa, mía) cây công nghiệp lâu năm (cà phê, cao su, hồ tiêu...) trong lâm nghiệp chủ yếu là trồng rừng thực hiện nông lâm kết hợp và thuỷ sản chủ yếu nuôi trồng thuỷ sản nước lợ ven biển và thuỷ sản nội đồng (biểu 3) Trong số 1588 trang trại có hướng sản xuất kinh doanh chính là cây công nghiệp lâu năm được phân bố tương đối đều về số lượng giữa 3 vùng lớn xong đáng chú ý là vùng Tây Nguyên và Duyên Hải miền Trung, số trang trại này chiếm tỷ lệ lớn: 86,95% tổng số trang trại của vùng. Bên cạnh đó là số lượng các trang trại kinh doanh chăn nuôi chưa nhiều trong số 266 trang trại thì có 50 trang trại kinh doanh đại gia súc, có tới 145 trang trại chăn nuôi lợn. Có thể thấy sự phân bố về hướng và số lượng không đều, chỉ tập trung vào một số vùng. 2. Vốn và nguồn vốn. Nhiều trang trại ở nước ta được hình thành qua một quá trình tích luỹ chứ không phải ngay từ đầu đã có một nguồn vốn đủ lớn để hoạt động kinh doanh. Vốn là yếu tố quan trọng, để phát triển kinh tế trang trại đòi hỏi phải có vốn, trong đó các chủ trang trại phải tích tụ một lượng vốn tự có nhất định. Đó là một trong những điều kiện tiên quyết, nếu không nói là điều kiện quyết định bởi lẽ có vốn thì mới có thể thuê đất đai, sức lao động và các điều kiện để phát triển kinh tế trang trại Vốn sản xuất kinh doanh của trang trại cũng bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định là ruộng đất, nhà xưởng, máy móc thiết bị được tạo ra do nguồn vốn tự có hay vốn vay. Vốn lưu động là tiền mua các loại vật tư sản xuất và các chi phí sản xuất của trang trại. Vốn của kinh tế trang trại thường lưu chuyển trên thị trường thông qua ngân hàng hay các tổ chức tín dụng, thương mại.Vốn vay tín dụng của các chủ trang trại phục vụ sản xuất kinh doanh chiếm doanh số và tỷ trọng lớn. ở Mỹ, vốn vay dài hạn của chủ trang trại bằng 22,3% tổng giá trị tài sản của trang trại và gấp 6 lần thu nhập thuần tuý của các trang trại. ở nước ta có chủ trang trại chủ yếu là sử dụng nguồn vốn tự có, việc huy động nguồn vốn ngoài nông nghiệp và nông thôn phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế trang trại bắt đầu được thực hiện nhưng chưa được bao nhiêu. Nguyên nhân chính là vì mới dừng lại ở chủ trương chung, chưa có những biện pháp, chính sách đồng bộ để huy động các nguồn vốn của các tầng lớp cư dân trong nước kể cả các nguồn vốn đấu tư từ nước ngoài. biểu 3: Số lượng trang trại phân theo hướng sản xuất kinh doanh chính ở 3 vùng lớn ở nước ta Đơn vị: Trang trại Nhóm trang trại theo các hướng kinh doanh Tổng số Phân theo 3 vùng lớn Các tỉnh miền Bắc Tây Nguyên và Duyên Hải miền Trung Nam Bộ 1. Cây hàng năm 421 218 1 202 2. Cây CN lâu năm 1588 452 593 543 3. Cây ăn quả 344 238 29 77 4. Chăn nuôi đại gia súc 50 16 - 34 5. Chăn nuôi lợn 145 14 - 131 6. Chăn nuôi gia cầm 71 25 6 40 7. Lâm nghiệp 121 109 - 12 8. Thuỷ sản 280 173 46 61 9. Hướng kinh doanh khác 24 7 7 10 Tổng số 3044 1252 682 1110 Nguồn:Nguyễn Thế Nhã: “Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta”.Tạp chí NCKT: Viện kinh tế học – TT KHXH và Nhân Văn Quốc Gia.Số 257 – Tháng 10 / 1999, trang 22. Nguồn vốn tự có của các trang trại chiếm 91,03%, trong đó ở Đắc Lắc chiếm tới 96% ở Gia Lai, Lâm Đồng chiếm 93% Lượng vốn vay của các trang trại nhìn chung chiếm tỷ trọng nhỏ – gần 9% tổng lượng vốn bình quân của các trang trại. Do đó, hiện nay vấn đề tín dụng đã và đang trở thành bức thiết cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nông dân mà đặc biệt là nông dân nghèo, nông dân ở vùng sâu, vùng xa hoạt động kinh tế trang trại có quy mô lớn. Thực tế nguồn tín dụng cho nông dân vay hiện nay rất hạn hẹp, có đến 50% số hộ cần được vay vốn nhưng chưa được vay, số vốn cho vay trung hạn và dài hạn còn quá ít (chỉ chiếm 8,9% tổng số vốn cho vay, nhât là ở những vùng kinh tế trang trại phát triển. Từ đây vấn đề được đặt ra là: để mở rộng tín dụng trong nông thôn, nhất là trong nền kinh tế thị trường phải tạo điều kiện cho các trang trại tích luỹ thu nhập thặng dư của mình không phải bằng thóc hay bằng vàng như trước mà bằng các tài khoản ngân hàng. Qua đó, chúng ta thấy rằng tín dụng phải phục vụ trực tiếp phát triển nông thôn chứ không chỉ đóng khung trong nông nghiệp nhất là những vùng trung bình ruộng đất thấp, nông dân cần hoạt động rộng rãi không chỉ trong nông nghiệp mà cả phi nông nghiệp để đạt mức thu nhập cao hơn. Đó cũng chính là hình ảnh tương lai của các trang trại nước ta; tỷ trọng các khoản thu nhập trong nông nghiệp ngày càng giảm xuống trong khi tỷ trọng các khoản phi nông nghiệp ngày càng tăng; điều này tạo điều kiện cho các trang trại có khả năng chuyên môn hoá lĩnh vực kinh doanh của mình, đó là lợi thế giúp cho các chủ trang trại giảm bớt nhu cầu về tín dụng ngân hàng. III. Tổ chức quản lý kinh tế trang trại (.Nguyễn Điền: “ Tổ chức quản lý kinh tế trang trại trên thế giới và Việt Nam ”. Tạp chí NCKT: Viện kinh tế học – TT KHXH và Nhân Văn Quốc Gia. Số 4 –1999 trang 37 ) Xuất phát từ mục tiêu hoạt động kinh tế của các trang trại là sản xuất nông sản hàng hoá có quy mô lớn, chất lượng cao … vì vậy quản lý hoạt động kinh doanh của kinh tế trang trại trên thực tế có ý nghĩa quan trọng, cũng có thể coi là quản lý một doanh nghiệp do nó mang những đặc điểm của một doanh nghiệp sản xuất: xử lý các yếu tố đầu vào, đầu ra thế nào để tạo ra ưu thế cạnh tranh trên thị trường nông nghiệp về khối lượng, chất lượng và giá thành sản phẩm. Để tạo ra được những nông sản hàng hoá có chất lượng cao, giá thành hạ có khả năng cạnh tranh được trên thị trường thì phải tổ chức quản lý có hiệu quả các tư liệu sản xuất, lao động và vốn đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp phát triển. 1. Quản lý ruộng đất Thị trường ruộng đất của kinh tế trang trại thông qua việc mua bán, thuê mướn, thế chấp ruộng đất tạo ra sự chuyển dịch về ruộng đất nông nghiệp trong sản xuất. Thuê mướn ruộng đất là hình thức phổ biến trong kinh tế trang trại trên thế giới. ở Pháp 70% số trang trại có ruộng đất riêng để tự canh còn 30% số trang trại phải thuê ruộng (lĩnh canh) thêm một phần hay toàn bộ ruộng đất canh tác. ở Mỹ 58% số trang trại có đủ ruộng đất tự canh, 31% số trang trại phải lĩnh canh ruộng đất một phần và 11% số trang trại phải lĩnh canh hoàn toàn. Đặc biệt ở Mỹ loại trang trại có thuê ruộng đất một phần hoặc toàn phần có quy mô ruộng đất bình quân nhiều hơn loại trang trại có ruộng đất riêng để tự canh là 1,2- 1,7 lần. Việc thuê mướn đất đai ở các nước không có mức hạn điền về sử dụng đất, trang trại nào muốn thuê bao nhiêu cũng được và chỉ có một số nước có mức hạn điền về sở hữu ruộng đất trong đó có nước ta. Ruộng đất ở nước ta thuộc sở hữu toàn dân, các chủ trang trại chỉ có quyền sử dụng ruộng đất. Các chủ trang trại có loại có đủ ruộng đất tự có gồm có đất Nhà nước giao, cấp, đất tự khai thác, đất mua; có loại chủ trang trại tự có một phần ruộng đất, một phần đi thuê (nhận thầu) của địa phương; có loại trang trại hoàn toàn đi thuê đất để sản xuất. Mặt khác, ngoài Luật Đất Đai ở nước ta chưa có văn bản quy định cụ thể về thuê mướn đất đai trong nông nghiệp, chưa khuyến khích thuê mướn đất nông nghiệp, đề ra mức hạn điền về sử dụng đất. Do đó, vấn đề thị trường ruộng đất cần được nghiên cứu để đất đai có sự chu chuyển, tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế trang trại. 2. Quản lý vốn Từ những vai trò của vốn, vấn đề được đặt ra làm thế nào để các chủ trang trại có thể kiểm soát được đồng vốn có trong tay, sử dụng đồng vốn sao cho có hiệu quả. Để có thểt giải quyết được vấn đề này ngoài những chính sách của Nhà nước thì không còn cách nào khác là những người chủ trang trại phải tự học hỏi, trau dồi kiến thức quản lý thì mới có thể đảm bảo được yêu cầu đặt ra. Bởi vì, có được kiến thức đầy đủ về quản trị, nó sẽ tạo điều kiện cho chủ trang trại đảm bảo huy động đầy đủ vốn cần thiết trên cơ sở xác định đúng đắn các nguồn cung ứng vốn, đảm bảo tính hiệu quả cao, tăng khả năng mở rộng quy mô vốn. Mặt khác, nó còn bảo đảm cho chủ trang trại có các quyết định đầu tư đúng lúc, đúng chỗ và có hiệu quả. Do đó, muốn cho trang trại của mình hoạt động có hiệu quả thì chủ trang trại không thể không có kiến thức về quản trị. Để thực hiện được các hoạt động quản trị thì các chủ trang trại cần thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau: + Thứ nhất: Phân tích tài chính và hoạch định tài chính cho trang trại mình.Thực hiện nhiệm vụ này, trên cơ sở phân tích tình hình tài chính và các phân tích cũng dự báo cần thiết khác giúp cho chủ trang trại tiến hành lập các dự án đầu tư, các kế hoạch ngân sách dài hạn, trung hạn và ngắn hạn. + Thứ hai: Xác định các thời điểm cần vốn. Thông qua tình hình thực tế và các số liệu cần thiết thì chủ trang trại cần phải xác định được thời điểm mà trang trại có cầu về vốn. Để thực hiện được nhiệm vụ này cần phải trả lời được chính xác các câu hởi cụ thể: Vào lúc nào ? Cần vốn cho hoạt động gì ? Cần bao nhiêu vốn?. + Thứ ba: Tìm các nguồn cung ứng vốn thích hợp. Nhiệm vụ này rất quan trọng vì nó đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của trang trại, đạt được các mục tiêu đặt ra trong từng thời kỳ, mùa vụ cụ thể. 3. Quản lý điều hành sản xuất kinh doanh Một vấn đề không thể coi nhẹ là phương pháp chỉ đạo thực hiện. Đã qua rồi cái thời muốn vứt bỏ kế hoạch hoá do hiểu lầm kế hoạch hoá là sản phẩm của nền kinh tế tập trung từ thời bao cấp vì trong nền kinh tế thị trường không thể coi nhẹ vai trò của kế hoạch hoá. Mặt khác, điều hành sản xuất kinh doanh một trang trại trong nền kinh tế thị trường thực chất là điều hành một doanh nghiệp cỡ nhỏ, vừa hay lớn tuỳ theo quy mô trang trại; đòi hỏi người chủ trang trại phải được đào tạo đầy đủ về kiến thức, rèn luyện và tích luỹ kinh nghiệm. 3.1. Quản lý xây dựng quy hoạch kế hoach sản xuất kinh doanh nông nghiệp của trang trại và tổ chức thực hiện Công việc cụ thể quản lý một trang trại là tổ chức điều hành sản xuất nông nghiệp thế nào để đem lại hiệu quả. Quản lý sản xuất của trang trại thường bắt đầu từ tổng thể đến cụ thể; từ phương hướng chiến lược mặt hàng, sản phẩm đến kế hoạch ngắn hạn, dài hạn; xuất phát rừ đặc điểm tự nhiên của trang trại và đặc điểm nhu cầu của thị trường nông sản. Phương hướng chiến lược sản phẩm của trang trại cũng rất đa dạng: sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp với chu kỳ khác nhau (hàng vụ, hàng năm, lâu năm). Phương thức sản xuất kinh doanh của trang trại có tổng hợp, đa canh, chuyên môn hoá có sản phẩm mũi nhọn với cơ cấu sản xuất hợp lý, tối ưu. Có thể thấy, phương hướng, trình độ khoa học công nghệ trong trang trại đã được ứng dụng từ thô sơ đến hiện đại nhưng mục tiêu cuối cùng đặt ra về quản lý sản xuất kinh doanh của trang trại là hiệu quả đạt được, thu hồi vốn và có lợi nhuận. Chúng ta có thể xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của trang trại theo trình tự: + Lập kế hoạch sản xuất, nông sản hàng hoá trên cơ sở đặc điểm điều kiện khả thi của trang trại (đất đai, vốn, công nghệ) và tình hình thị trường tiêu thụ sản phẩm (nhu cầu, giá cả trong và ngoài nước). + Lập kế hoạch sản xuất sản phẩm của vụ sản xuất; đầu vào: kế hoạch đầu tư vốn giống, vật tư, lao động … chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm, đầu ra: kế hoạch tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, giá cả sản phẩm. + Quản lý điều hành việc thực hiện từng công đoạn trong mùa vụ, sản xuất đúng tiến độ, đúng chất lượng, đúng định mức kinh tế kỹ thuật. + Tổ chức lưu thông tiêu thụ sản phẩm + Hạch toán sản xuất kinh doanh sau mùa vụ hoặc sau năm sản xuất; tính toán cân đối giữa vốn đầu tư và thu nhập, xác định lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn. + Phân tích tình hình, đánh giá kết quả rút kết quả cho vụ sau (7 Tham khảo “ Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp ” Trường ĐH KTQD, NXB Giáo Dục – 1999. Chương 3 “ Xây dượng kế hoạch sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp ”. ). Việc xây dựng kế hoạch sản xuất, rút ra kinh nghiệm và hạch toán kinh tế của trang trại thông thường do chủ trang trại tự làm nhưng nhiều chủ trang trại ở nước ta còn hạn chế về năng lực và kinh nghiệm quản lý điều hành sản xuất kinh doanh nên gặp nhiều khó khăn trong việc đúc kết, phân tích hoạt động kinh tế của trang trại. Nguyên nhân là các chủ trang trại chưa quyên thực hiện chế độ tài chính kế toán của doanh nghiệp, có tâm lý e ngại không muốn ghi chép lại đầy đủ tình hình tài chính của trang trại. Nhìn chung, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh kinh tế trang trại ở nước ta là vấn đề mới mẻ, kinh nghiệm còn ít. Nên để phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế trang trại cần tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến quản lý kinh tế trang trại từ phía Nhà nước đến từng trang trại.Trên cơ sở vừa đúc kết kinh nghiệm thực tế trong nước, vừa tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài vì tổ chức quản lý trang trại tốt là yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của kinh tế trang trại. phần III: Các giải pháp và phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta I. Các giải pháp nhằm phát triển kinh tế trang trại (8 Tham khảo các giải pháp chung ở các tạp chí: NCKT, PTKT, KTPT… ) 1. Khó khăn chung của trang trại nước ta Qua điều tra nghiên cứu thực tế sản xuất kinh doanh của 5466 trang trại ở nước ta nhiều khó khăn đã được phát hiện, trong đó rõ nét nhất là: + Nhiều sản xuất còn lúng túng về phương hướng sản xuất, thu nhập thấp: ở Yên Bái năm 1997 thu nhập bình quân 1 trang trại chỉ có 14,5 triệu đồng / năm, + Mức độ đóng góp cho Nhà nước còn thấp: bình quân 4 tỉnh 1,2 triệu đồng 1 trang trại trong 1 năm, Yên Bái 931 ngàn đồng, Bình Dương 330 ngàn đồng, chiếm tỉ lệ 1% thu nhập của trang trại. Cao nhất là Bình Phước 8,2 triệu đồng, chiếm 6,6% tổng thu nhập của trang trại. + Các trang trại đều chưa được thừa nhận về mặt pháp lý, nên chưa có tư cách pháp nhân trong quan hệ giao dịch với các cơ quan nhà nước và các tổ chức kinh tế, nhất là với ngân hàng. Thực tế, chủ trang trại chỉ được xem như là một chủ hộ nông dân bình thường, trong khi đó qui mô sản xuất chủ trang trại lớn gấp hàng trăm, thậm chí hàng ngàn lần, nhất là vốn. Thiếu tư cách pháp nhân, chủ trang trại phải chịu thiệt thòi về nhiều mặt, do đó họ không yên tâm và không có điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh. + Một trong những rào cản lớn hiện nay của kinh tế trang trại là tâm lý kỳ thị tư nhân vẫn tồn tại, xem thuê mướn lao động là bóc lột, cũng như những chính sách về chuyển nhượng đất đai cũng chưa đủ độ linh hoạt. Các chủ trang trại đều có qui mô ruộng đất vượt hạn điền theo quy định của Luật Đất đai hiện hành. Hầu hết quỹ đất của trang trại là do khai hoang, phục hoá và nhận chuyển nhượng từ nguồn vốn và lao động của gia đình họ, nhưng lại chưa được pháp luật thừa nhận. Đến nay nhà nước vẫn chưa có chính sách về đất đai vượt hạn điền của các trang trại nên họ còn rất băn khoăn. Hiện tượng phân tán ruộng đất của các trang trại thành nhiều chủ hoặc chuyển nhượng ngầm còn diễn ra phổ biến. + Quan hệ giữa trang trại với chính quyền địa phương, các chủ thể kinh tế (nông trường, lâm trường HTXNN) và các hộ nông dân trên địa bàn còn chưa rõ ràng cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Ranh giới giữa trang trại với hộ nông dân giỏi và nông hộ cũng chưa được phân định đúng với thực tế và nói chung còn chưa rõ ràng. + Thiếu vốn nghiệm trọng nhưng Nhà nước chưa có chính sách tín dụng để hỗ trợ các trang trại nhất là trong nhưng năm đầu thành lập. + Thiếu kỹ thuật, máy móc, nông cụ và thiếu cả lao động lành nghề, nhưng bản thân các trang trại không có điều kiện đào tạo, bồi dưỡng trong khi Nhà nước chưa quan tâm. + Cơ sở hạ tầng yếu kém, gây khó khăn cho phát triển và mở rộng sản xuất. Hầu hết các trang trại hiện nay được hình thành ở vùng trung du, miền núi đất xấu, địa hình phức tạp, giao thông thuỷ lợi, điện đều gặp khó khăn. Do đó sản phẩm làm ra nhiều đang mâu thuẫn với khả năng vận chuyển, chế biến và tiêu thụ. + Các trang trại đều có khối lượng nông sản lớn, có tính thời vụ nhưng thị trường và giá cả chưa ổn định, nên nhiều chủ trang trại chưa muốn mở rộng qui mô sản xuất mặc dù khả năng đất đai, lao động vẫn còn. + Kinh tế trang trại phát triển trong giai đoạn nước ta bắt đầu có những bước hội nhập với thế giới, như vậy chính các trang trại lại phải đối phó với sự cạnh tranh rất gay gắt với hàng hoá nông sản của các nước trong khu vực. Một khó khăn rất lớn nữa cho các trang trại Việt Nam hiện nay chính là sự am hiểu thị trường và khả năng thâm nhập thị trường trong và ngoài nước. Nguyên nhân của những khó khăn trên là do nhận thức về trang trại vẫn chưa được thống nhất. Nhà nước chưa có chính sách hỗ trợ, khuyến khích, theo quy hoạch và định hướng sự phát triển trước mắt và lâu dài của các trang trại. Do đó, để phát huy ưu thế của trang trại, khắc phục những hạn chế và giải quyết những mâu thuẫn đang đặt ra, chúng ta cần nghiên cứu, lựa chọn những giải pháp phù hợp nhằm phát triển kinh tế trang trại có hiệu quả,đóng góp tích cực vào quá trình phát triển nông, lâm , ngư nghiệp và kinh tế – xã hội nông thôn. 2. Các giải pháp 2.1. Giải pháp về đất đai Đất đai là mối quan tâm hàng đầu đối với các hộ nông dân nói chung, kinh tế trang trại nói riêng và cũng là vấn đề nổi cộm nhất hiện nay đối với phát triển kinh tế trang trại. Giải quyết vấn đề đất đai để phát triển kinh tế trang trại phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau đây: + Đứng trên phạm vi chung của cả nước là khai thác và sử dụng đất đai đầy đủ và hợp lý, bảo vệ và nâng cao độ phì của đất đai một cách bền vững và lâu dài. + Các chủ trang trại yên tâm bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất. + Tạo điều kiện tập trung đất đai thực sự trở thành một yếu tố kinh tế quan trọng vận động theo xu hưóng kinh doanh sản xuất hàng hoá. + Thúc đẩy đưa sản xuất nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá. Để đảm bảo các yêu cầu trên đây, phù hợp với tình hình hiện nay cũng như sự chuyển kinh tế – xã hội trong những năm tới, cần thực hiện các biện pháp sau đây: Một là, cần hoàn chỉnh quy hoạch đất đai theo các vùng cơ bản của cả nước, các vùng địa phương tỉnh, huyện, xã dể làm cơ sở cho chính quyền các cấp giao đất cho các tổ chức và đơn vị kinh tế, trong đó có các trang trại. Hai là, thực hiện việc tập trung đất đai và mức hạn điền. Nông hộ phải tích tụ tập trung đến một qui mô đất đai nhất định mới có điều kiện sản xuất hàng hoá. Tuy nhiên, việc tập trung đất đai phải được tiến hành một cách thận trọng, đặc biệt đối với vùng đồng bằng. Việc tập trung đất đai phải được quản lý chặt chẽ của Nhà nước, tránh tự phát. Việc giao đất phải đảm bảo yêu cầu tập trung, đồng thời phải phù hợp với từng vùng đất đai nhiều ít khác nhau, thuận lợi và khó khăn khác nhau. Đối với những đất đai có nhiều khó khăn ít người muốn nhận làm, những cá nhân có nguyện vọng muốn làm trang trại sản xuất nông, lâm nghiệp có khả năng về vốn, kinh nghiệm sản xuất và quản lý thì cho họ nhận không thu tiền, với diện tích có thể cao hơn mức hạn điền. Đối với vùng đất đai thuận lợi ít khó khăn, có nhiều người muốn nhận để sản xuất nông, lâm nghiệp thì tuỳ theo diện tích đất đai và số người muốn nhận mà quyết định cụ thể. Còn vùng đất tương đối thuận lợi trong khai thác và sử dụng, có khả năng cho hiệu quả cao và nhiều người muốn nhận, có quỹ đất ít thì tổ chức đấu thầu. Về thời gian giao đất thực hiện theo Luật Đất Đai đã được Quốc hội sửa đổi bổ sung và ban hành từ ngày 1-1-1999: thời gian giao đất để sử dụng ổn định lâu dài để trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 20 năm, để trồng cây là 50 năm. Nếu người sử dụng đất thực hiện đúng Luật Đất Đai và sản xuất có hiệu quả thì được Nhà nước giao đất cho để tiếp tục sử dụng. Ba là, giải pháp khắc phục tình trạng đất manh mún. Việc khắc phục tình trạng đất manh mún của các nông hộ sẽ tạo điều kiện đi vào sản xuất tập trung, đồng thời là tiền đề để chuyển từ nông hộ lên trang trại một cách thuận lợi. Tuy nhiên, giải quyết tình trạng đất manh mún không thể dựa vào mệnh lệnh áp đặt từ trên mà phải thuyết phục nông dân tự nguyện đồng thời phải có cách làm đúng đắn và thích hợp. Cần khuyến khích các hộ nông dân chuyển đổi ruộng đất trước khi làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai. Bốn là, giải pháp cấp giấy chứng nhận sử dụng đất đai cho các trang trại. Các trang trại được hình thành từ nhiều nguồn đất khác nhau: nhận khoán thuê mướn, chuyển nhượng, khai hoang … Việc hợp pháp hoá quyền sử dụng đất đai của trang trại là vấn đề bức xúc để các trang trại yên tâm kinh doanh lâu dài. Đó là tiền đề cần thiết để các trang trại bố trí quy hoạch sản xuất. 2.2. Giải pháp về vốn Trong các nguồn lực phát triển kinh tế – xã hội nông thôn nói chung, kinh tế trang trại nói riêng, vốn là nguồn lực hết sức quan trọng. Nó là chìa khoá ban đầu, là khâu then chốt để hình thành và phát triển kinh tế trang trại. Thực tế cho thấy vốn đầu tư cho các chủ trang trại nhìn chung còn chưa lớn, nguồn vốn hầu hết là tự có của các trang trại, còn một phần nhỏ là vốn Nhà nước thông qua các chương trình dự án, các nguồn vốn khác trong dân và vốn của thân nhân chủ trang trại … Việc hình thành và phát triển trang trại đòi hỏi vốn lớn hơn so với kinh tế hộ, vì quy mô sản xuất lớn hơn, phải tiến hành khai hoang, kiến thiết đồng ruộng … Hầu hết kinh tế trang trại hiện nay đang có nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu đó, đề nghị: + Việc xây dựng các công trình hạ tầng như thuỷ lợi, giao thông, điện, nước sinh hoạt … ở các khu vực có trang trại đòi hỏi chi phí lớn, Nhà nước cần hỗ trợ một phần, chủ yếu trợ giúp kỹ thuật, huy động nguồn lực của các trang trại với phương trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm ”. + Nhà nước cần thực hiện cơ chế cho các chủ trang trại vay theo dự án đầu tư đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Thời hạn vay phải phù hợp với chu kỳ kinh doanh của từng loại sản phẩm. Nhà nước cần tăng thêm nguồn vốn đầu tư cho vay trung hạn và dài hạn để đáp ứng nhu cầu của kinh tế trang trại. Về lãi suất vốn vay đối với kinh tế trang trại cũng được đặc biệt ưu đãi. + ở các vùng sâu, vùng cao, đối với các hộ nông dân nghèo, hộ đồng bào dân tộc có nguyện vọng, có ý chí và khả năng sản xuất với quy mô lớn, Nhà nước cần khuyến khích họ bằng cách ưu tiên giao đất ở những địa bàn thuận lợi, ưu tiên cho các hộ này vay với lãi suất đặc biệt ưu đãi. Việc tạo những điều kiện thuận lợi sẽ giúp cho đối tượng này tạo lập trang trại và trên cơ sở đó xây dựng các mô hình sản xuất kinh doanh và hướng nông dân trong vùng phát triển, nông, lâm, ngư nghiệp là việc làm có ý nghĩa về kinh tế – xã hội. II. Phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta 1. Phương hướng chung và các vấn đề liên quan Kinh tế trang trại những năm gần đây ở nước ta phát triển với tốc độ rất nhanh. Đó không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà là kết quả của những thay đổi chủ chương, chính sách vĩ mô của Nhà nước. Có thể thấy nó đang trong quá trình tự khẳng định nên rất cần đựoc Đảng và Nhà nước ta quan tâm khuyến khích bằng đường lối chính sách cụ thể để có định hướng phát triển theo đúng quy luật của cuộc sống và theo định hướng XHCN. Một đặc điểm nữa là kinh tế trang trại được phát triển từ kinh tế hộ nên thường dẫn theo hệ quả là kinh tế vùng đồng bằng, ven thành thị nước ta kinh tế phát triển cao hơn ở trung du và miền núi nên kinh tế trang trại sẽ được hình thành trước tiên và nhiều hơn ở đồng bằng , nhất là các vùng ven thành thị. Nhưng ở những vùng này bình quân đất theo đầu người thấp vậy thì có nên khuyến khích các hình thức trang trại không ? Nguy cơ kinh tế – xã hội có thể nảy sinh là gì ? Loại hình kinh doanh của các trang trại đồng bằng nên như thế nào ? … Để trả lời được những câu hỏi này thì chúng ta cần phải có định hướng phát triển đúng mức. Nhà nước cần hoạch định các vùng sản xuất cụ thể trong một thời gian hợp lý để nhanh chóng tạo ra vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả hơn, từ đó tính tổng lượng đầu tư chính sách, vốn, nhân lực, khoa học – kỹ thuật, dịch vụ cần và đủ cho mỗi loại nông – lâm – hải sản hàng hoá; khả năng tham gia của các thành phần kinh tế có năng lực sản xuất hàng hoá như kinh tế nhà nước kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác vào từng vùng. + ở vùng trung du, miền núi: vùng này đất hoang còn nhiều, cần thúc đẩy hình thành các trang trại kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp gắn liền với quy mô đất đai từng trang trại. Khó khăn lớn nhất của vùng này là thiếu vốn, thiếu những chủ thể có thể làm kinh tế trang trại. Do đó, ngoài những chính sách, biện pháp khuyến khích dân cư tại chỗ làm trang trại cần khuyến khích thu hút mọi nguồn vốn trong và ngoài nước. Muốn như vậy, ngoài việc tạo môi trường về kết cấu hạ tầng, cần mạnh dạn có điều khoản riêng đặc biệt cho chính sách đất đai ở những vùng này. + ở những vùng ven đô thị và đồng bằng: trong thập kỷ tới chưa có khả năng tạo ra bước chuyển biến vượt bậc về thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động trong nông thôn. Do vậy, hướng phát triển kinh tế trang trại ở những vùng này không phải chủ yếu dựa trên cơ sở tập trung đất đai, mở rộng diện tích canh tác mà chủ yếu là tích tụ vốn, sản xuất theo chiều sâu trong từng trang trại. Đây là xu hướng phù hợp ở nhiều nước đã xuất hiện; ở Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan … bình quân đất canh tác mỗi trang trại chỉ khoảng 1,2 – 1,4 ha nhưng nhờ thâm canh kết hợp giữa nông nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp mà kinh tế nông thôn không ngừng phát triển mà vẫn dựa trên hình thức kinh doanh cơ bản là các trang trại – và do đó, cơ cấu thu nhập của các trang trại từ thuần nông chuyển sang đa ngành, năng suất lao động, năng suất đất đai không ngừng tăng lên. Trên đây là một số nhận thức quan trọng làm cơ sở cho việc xác định phương hướng phát triển các trang trại nước ta. Từ đó có thể đưa ra phương hướng phát triển chung cho các trang trại nước ta gồm: - Thúc đẩy hình thành các trang trại – nhất là ở trung du, miền núi và một số vùng ven biển có điều kiện. - Phát triển kinh tế hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, đa dạng hoá cơ cấu kinh doanh để thúc đẩy hình thành các loại trang trại. - Đa dạng hoá các loại hình trang trại kể cả quy mô, cơ cấu kinh doanh, sở hữu và phương thức quản lý. - Tăng cường quản lý Nhà nước về kinh tế trang trại, ngoài việc tạo những điều kiện để hình thành trang trại thực sự, tăng cường kiểm soát để tránh tình trạng phá rừng lấy đất làm trang trại. Tóm lại: - Kinh tế trang trại không chỉ là vấn đề kinh tế và cũng không thể có định hướng đúng cho kinh tế trang trại nếu không đứng trên quan điểm nhân văn của Đảng để giải quyết đồng thời các vấn đề xã hội phát sinh do quá trình hình thành và phát triển của kinh tế trang trại đặt ra. Do vậy chính sách khuyến khích phát triển kinh tế trang trại phải vừa mang tính kinh tế kích thích làm giầu chính đáng cuả chủ trang trại, vừa mang tính xã hội là giải quyết việc làm và đảm bảo quyền lợi của người lao động. Cố gắng hạn chế phân hoá giầu nghèo trong quá trình hoạch định và thực hiện các chủ trương, chính sách liên quan đến phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại nói riêng. - Định hướng kinh doanh và cơ cấu kinh tế của từng nhóm trang trại gắn với những đặc trưng của vùng rất rõ nét. Nguyên tắc “ sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của thị trường ” không phải là nhân tố duy nhất chi phối hướng kinh doanh của các trang trại. ở nông thôn nhất là ở trung du, miền núi yêu cầu định canh, định cư, khôi phục và phát triển rừng, tận dụng lợi thế phân tích chi tiết trong việc xác định phương hướng kinh doanh của trang trại ở từng vùng. - Đối với vùng đồng bằng do khả năng mở rộng diện tích có giới hạn nên quy mô diện tích đất nông nghiệp không lớn nhưng sẽ xuất hiện những trang trại đa canh, đa ngành, sớm có trình độ tích tụ vốn, trình độ thâm canh cao hơn các vùng khác. Biểu 4: Những mục tiêu cụ thể phát triển nông nghiệp Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2010 Năm 2020 Tốc độ tăng trưởng nông nghiệp (%) 4,5 - 5 4,5 - 5 4,5 – 5 Tốc độ phát triển kinh tế nông thôn (%) 10 -12 10 –12 10 –12 Cơ cấu kinh tế nông thôn (GDP; %) 100 - - - Nông nghiệp (%) 50 - - - Tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nông thôn (%) 25 - - - Dịch vụ (%) 25 - - Tổng sản lượng lương thực (triệu tấn) 30 - 35 40 45 Kim ngạch xuất khẩu (tỷ USD) 5 15 20 GDP bình quân đầu người (USD) 200 500 >1000 Nguồn: Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI. NXB Chính trị Quốc gia tháng 9 – 1998, trang 338 kết luận Chung lại, phát triển kinh tế trang trại ở nước ta là một xu hướng có tính quy luật của quá trình chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp từ tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hoá, phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Đây cũng là mô hình kinh tế của thời đại vừa có ý nghĩa kinh tế vừa mang tính xã hội sâu sắc vì thế cần được khuyến khích phát triển. Chủ trang trại có cơ cấu rất đa dạng, trong đó các chủ trang trại có nguồn gốc từ các hộ nông dân làm ăn giỏi là lực lượng chủ yếu để xây dựng và phát triển kinh tế trang trại. Qua đó có thể thấy để phát triển kinh tế trang trại nước ta, trước hết và chủ yếu phải dựa vào lực lượng những hộ nông dân làm ăn giỏi và trang trại gia đình là hình thức tổ chức sản xuất chiếm tuyệt đại bộ phận trong kinh tế trang trại ở nước ta Thực tế cho thấy đến nay hàng vạn trang trại đã được thành lập và phát triển mạnh trên cả nước ở hầu hết các địa phương – nhất là các tỉnh miền núi và trung du đều có các trang trại. Bên cạnh đó, mặc dù đang trong quá trình phát triển, kinh tế trang trại đã thực sự là hình thức tổ chức hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá lớn, một mặt đã tạo ra lượng giá trị hàng hoá lớn về nông, lâm, thuỷ sản mà quy mô vượt trội nhiều lần so với kinh tế hộ nông dân, mặt khác là mô hình kinh tế lấy sản xuất hàng hoá làm mục tiêu chính, sản phẩm sản xuất ra là để bán trên thị trường và ngày càng khẳng định vị trí của kinh tế trang trại trong điều kiện hiện nay của nước ta. Cũng chính kinh tế trang trại đã phát huy tiềm năng trong nông nghiệp, khai thác tối đa nội lực trong sự phát triển nông nghiệp Việt Nam, tạo ra một diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam. Kinh tế trang trại với những yếu tố nội sinh tiềm ẩn, hy vọng sẽ nhận được nhiều sự ủng hộ của Đảng, nhà nước và các cấp, các ngành để có dịp phát triển thành phong trào rộng, mạnh trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định hướng XHCN góp phần hiện đại hoá nông nghiệp, văn minh hoá nông thôn và trí thức hoá nông dân Việt Nam trên con đường CNH – HĐH nền kinh tế đất nước, trong đó, khâu quyết định là kinh tế trang trại gắn rất chặt với sự hình thành thị trường nông thôn đồng bộ, thông thoáng và hoàn chỉnh dần. danh mục liệu tham khảo 1. Giáo trình : QTKDTH 2. Chiến lược KD và kế hoạch phát phát triển DN 3. Sách : Kinh tế trang trại ở Việt Nam và trên thế giới. 4. Sách : Làm giàu bằng kinh tế trang trại – Mô hình kinh tế trang trại trẻ 5. Sách : Niên giám thống kê năm 1999 6. Tạp chí Nghiên Cứu Kinh Tế Số 10 – 1996: Kinh tế nông thôn Việt nam sau đổi mới và phát triển Số 6 – 1997 : Phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Châu á, Một số bài học đối với Việt Nam Số 1 –1999 : Khảo sát kinh tế trang trại Số 8 – 1999 : Một số vấn đề về phương hướng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta Số 9 – 1999 : Về kinh tế trang trại và kinh tế hợp tác Số 10 – 1999: Thực trạng phát triển kinh tế trang trại ở nước ta Nông trại và kinh tế thị trường Số 11 – 1999: Các giải pháp phát triển kinh tế trang trại Số 12 - 1999 : Kinh tế trang trại đột phá trong phát triển nông nghiệp 7. Tạp chí Phát Triển Kinh Tế Số 2 – 1999 : Chủ đề kinh tế trang trại với CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn Số 101- 1999: Đẩy mạnh đầu tư cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn Số 3 – 2000 : Bàn về tiêu chí xác định kinh tế trang trại 8. Một số tạp chí khác có liên quan mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35171.doc
Tài liệu liên quan