Qua quá trình nghiên cứu đề tài “Các mô hình doanh nghiệp” ở Việt Nam đã cho ta một cái nhìn toàn diện về nền kinh tế của Việt Nam trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cụ thể như sau:
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều loại hình doanh nghiệp đang hoạt động trong đó Mô hình DNNN đóng vai trò chủ đạo điều tiết nền kinh tế.
- Mô hình Công ty TNHH, DNTN và Công ty cổ phần đang chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp và đã chứng tỏ sự phù hợp của các mô hình này trong điều kiện của nền kinh tế Việt Nam.
- Công ty hợp danh là mô hình doanh nghiệp kém hiệu quả nhất trong số các doanh nghiệp đang hoạt động. Nguyên nhân là do sự bất hợp lý trong quy định của luật doanh nghiệp đã gây khó khăn cho các chủ doanh nghiệp khi lựa chọn mô hình này.
- Các DN có vốn đầu tư nước ngoài phát triển rất hiệu quả ở Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng chưa nhiều do còn gặp khó khăn trong chính sách đầu tư của nhà nước. Cần có chính sách mở cửa hơn nữa cho nhà đầu tư nước ngoài phát triển tại Việt Nam. Nhưng chính sách phải cụ thể và có giới hạn tránh làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
- Hầu hết các loại hình doanh nghiệp ở nước ta gặp khó khăn về vốn, khoa học, công nghệ, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý
- Các doanh nghiệp ở Việt Nam mới chỉ tăng về số lượng mà chưa tăng chất lượng, quy mô.
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện cơ cấu, bộ máy tổ chức quản lý để hoạt động của doanh nghiệp mình đạt hiệu quả cao hơn.
31 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các mô hình doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường các Doanh Nghiệp có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng. Nó góp phần thúc đẩy quá trình CNH-HĐH đất nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển của tất cả các ngành và của cả nền kinh tế. Nó tạo thêm hàng hoá, việc làm, tăng thêm thu nhập nâng cao đời sống vật chất cho người lao động. Đồng thời nó còn tạo nguồn thu quan trọng cho Ngân sách nhà nước và được coi là “chiếc đệm giảm sóc” cho thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của các Doanh Nghiệp, Đảng và Nhà Nước ta đã và đang có những chủ trương, chính sách và phương pháp quản lí nhằm khuyến khích đầu tư phát triển các doanh nghiệp Việt Nam. Phát triển tốt các doanh nghiệp không những góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế mà còn tạo sự ổn định chính trị, xã hội trong nước.
Việc nghiên cứu đề tài “Các mô hình doanh nghiệp ở Việt Nam” đã góp phần phác thảo được những nét cơ bản nhất về tình hình hoạt động của tất cả các mô hình doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay. Qua đó chỉ ra những kết quả đã đạt được, những mặt còn hạn chế, đồng thời đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm giúp các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, vấn đề nghiên cứu còn phong phú và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu nên bài viết khó tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của tất cả các thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thiện đề tài này một cách tốt nhất.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Lương Văn Hải đã giúp em hoàn thành đề tài này.
MỤC LỤC
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP.
I. Khái quát chung về doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là gì?
Đây là một khái niệm có nhiều cách hiểu:
- Có người cho rằng: Doanh nghiệp là một đơn vị kinh tế được thành lập để thực hiện các hoạt động kinh doanh, nhằm mục đích sinh lợi.
- Luật doanh nghiệp nước ta năm 1999 ghi: “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”.
- Viện thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp (INSEE) thì cho rằng: “Doanh nghiệp là một tổ chức (tác nhân) kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất hoặc các dịch vụ dùng để bán”.
Sơ đồ 1.1: khái quát về doanh nghiệp.
Doanh nghiệp
Nơi SX
Kết hợp các đầu vào để SX của cải và/hoặc dịch vụ đem bán
Nơi phân chia lợi ích
Các thu nhập cho người lao động, các chủ sở hữu, các nhà cung ứng đầu vào
Nơi thực hành quyền lực
Chủ DN ra quýêt định, các cán bộ truyền đạt nhân viên và công nhân thực hiện
Nơi hợp tác và xử lý các quan hệ
Xung đột giữa các thành viên của DN(những người ăn lương và các nhà lãnh đạo)
1.2. Đặc điểm của các doanh nghiệp.
Từ các định nghĩa khác nhau về doanh nghiệp có thể tìm ra các điểm chính như sau:
Ta có sơ đồ 1.2 : Đặc điểm chung của các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp
Nơi tìm kiếm lợi nhuận
Là nhóm người có tổ chức và có cấp bậc
Tổ hợp các nhân tố sản xuất( các nhân tố đầu vào)
Sản xuất để bán(các đầu ra)
Gây tổn hại đến
môi trường
Phân chia lợinhuận
Người
Lao động Người
sở hữu
Người
chủ nợ Người
cung
ứng
- DN là các tổ chức, các đơn vị được thành lập chủ yếu để tiến hành các hoạt động kinh doanh.
- Doanh nghiệp là một chủ thể kinh doanh có quy mô đủ lớn (vượt quy mô của các cá thể, các hộ gia đình. . .) như hợp tác xã, công ty, xí nghiệp v.v...Thuật ngữ doanh nghiệp có tính quy ước để phân biệt với lao động độc lập hoặc người lao động và hộ gia đình của họ.
- DN là một tổ chức sống, theo nghĩa, nó cũng có một chu kỳ sống riêng từ lúc thực hiện một ý đồ, suy giảm hoặc tăng trưởng, các bước thăng trầm phát triển hoặc bị diệt vong.
Như vậy, Doanh nghiệp là các chủ thể kinh doanh có quy mô đủ lớn để tiến hành các hoạt động kinh doanh.
II. Mô hình doanh nghiệp.
2.1. Khái niệm mô hình doanh nghiệp.
Từ trước tới nay chúng ta đã được biết đến rất nhiều khái niệm về doanh nghiệp và các loại hình doanh nghiệp nhưng chúng ta lại không biết khái niệm Mô hình doanh nghiệp là gì?
Theo dore F. d Stefano, Mô hình doanh nghiệp là một tài liệu ngắn gọn mô tả diện mạo một công ty và nó phân với các đối thủ như thế nào bằng chính chất lượng hàng hóa và dịch vụ của nó.
Xuất phát từ các định nghĩa khác nhau của từng loại hình doanh nghiệp và định nghĩa mô hình doanh nghiệp ở trên. Chúng ta có thể hiểu:
Mô hình doanh nghiệp là một loại hình doanh nghiệp cụ thể, nó mô tả diện mạo, hình thức tổ chức và đặc trưng riêng có của từng loại hình doanh nghiệp. Có nhiều mô hình doanh nghiệp khác nhau và mỗi loại mô hình doanh nghiệp có đặc điểm riêng để phân biệt với các mô hình doanh nghiệp khác.
2.2. Phân loại các mô hình doanh nghiệp.
a. Phân loại theo quy định của luật doanh nghiệp nước ta, có các loại hình doanh nghiệp sau:
+ Doanh nghiệp nhà nước (DNNN):
DNNN: là một tổ chức kinh doanh, do nhà nước thành lập, hoặc tham gia thành lập đầu tư trên 50% vốn điều lệ và quản lý hoặc tham gia quản lý với tư cách chủ sở hữu. Đồng thời là một pháp nhân kinh tế, hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật.
+ Doanh nghiệp tư nhân (DNTN).
DNTN là DN do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
- DNTN không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy động vốn.
- Mỗi cá nhân chỉ được phép thành lập một doanh nghiệp tư nhân.
+ Công ty cổ phần (CTCP).
Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển đổi cổ phần của mình cho người khác, trừ những trường hợp quy định tại khoản 3 điều 81 và khoản 5 điều 84 của luật DN.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.
- Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Cổ phần được chia thành 2 loại, cổ phần phổ thông (người có nó được gọi là cổ đông phổ thông) và cổ phần ưu đãi (người có cổ phần loại này gọi là cổ đông ưu đãi).
- Cổ phần được cho bởi các cổ phiếu. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty. Cổ phiếu có thể ghi tên hoặc không ghi tên.
- Công ty cổ phần có quyền phát hành trái phiếu, trái phiếu chuyển đổi và các loại trái phiếu khác theo quy định của pháp luật và điều lệ công ty.
- Công ty cổ phần có Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị và giám đốc (hoặc tổng giám đốc).
+ Công ty hợp danh (CTHD).
CTHD là doanh nghiệp, trong đó:
- Phải có ít nhất 2 thành viên là chủ sở hữu chung của công ty (thành viên hợp danh), cùng nhau kinh doanh dưới một tên gọi chung, ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong pham vi số vốn đã góp vào công ty.
- CTHD không được phát hành bất kỳ một loại chứng khoán nào.
- CTHD có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH).
Công ty TNHH là doanh nghiệp trong đó:
- Các thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào DN.
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định tại các điều 43,44,và 45 của luật doanh nghiệp.
- Thành viên có thể là tôt chức, cá nhân, số lượng thành viên không vượt quá 50.
- Công ty TNHH không được quyền phát hành cổ phiếu.
- Công ty TNHH có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
- Công ty TNHH 1 thành viên là DN do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu.
- Công ty TNHH 2 thành viên trở lên thì có hội đồng thành viên, chủ tịch hội đồng thành viên, giám đốc (hoặc tổng giám đốc).
+ Hợp tác xã (HTX).
HTX là một tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (gọi chung là xã viên) có cùng nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất tinh thần góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
DN có vốn đầu tư nước ngoài đó là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (liên doanh vốn với bên Việt Nam, 100% vốn nước ngoài của một nước hoặc nhiều nước có hoặc không có lao động của người nước ngoài) tại Việt Nam.
b. Phân loại theo quy mô thu nhập: doanh nghiệp có 3 loại quy mô lớn, vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có vốn vừa phải, và tuỳ theo từng nước, mức độ vốn của các doanh nghiệp này là khác nhau.
- Ở Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có số người lao động từ 10 người đến 300 người, có số vốn kinh doanh từ 1 tỷ VNĐ đến 10 tỷ VNĐ ( tức 62.000 USD đến 620.000 USD), có doanh số hàng năm từ 2 tỷ VNĐ đến 30 tỷ VNĐ ( tức từ 120.000 USD đến 1800.000 USD). Đây là hình thức kinh doanh phổ biến nhất tại Việt Nam hiện nay.
- Doanh nghiệp lớn là doanh nghiệp có số người lao động từ 300 người trở lên, có số vốn kinh doanh từ 10 tỷ VNĐ trở lên và có doanh số hàng năm từ 30 tỷ VNĐ trở lên. Đó là các công ty Quốc Gia, công ty xuyên Quốc Gia, các tập đoàn kinh tế.
c. Theo phương thức kinh doanh: các DN được phân thành các dạnh hình thức khác nhau: Sản xuất hàng hoá (sản phẩm hay dịch vụ), Thương mại (mua bán), Môi giới tư vấn tri thức, Móc nối giữa các doanh nghiệp…
d. Theo xu thế hội nhập của nền kinh tế thị trường: có mô hình doanh nghiệp điện tử.
Mô hình doanh nghiệp điện tử là mô hình doanh nghiệp ứng dụng CNTT cho mọi hoạt động điều hành, quản lý của doanh nghiệp và ứng dụng TMĐT cho các hoạt động kinh doanh, mua bán với các đối tác bên ngoài. Như vậy có thể nói toàn bộ các hoạt động của doanh nghiệp đều được quản lý trên máy vi tính thông qua các hệ thống mạng nội bộ và mạng Internet toàn cầu, từ đó giúp doanh nghiệp kiểm soát các hoạt động kinh doanh một cách có hệ thống, ra các quyết định công việc kịp thời, phục vụ khách hàng một cách nhanh chóng và tăng hiệu quả kinh doanh và giảm chi phí hoạt động.
- Đây là một mô hình mới tỏ ra phù hợp với xu thế của nền kinh tế thị trường, nhằm tiết kiệm thời gian và chi phí, tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp.
Có nhiều cách phân loại khác nhau do đó sẽ có các mô hình doanh nghiệp khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này chỉ nghiên cứu các mô hình doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp hiện hành.
2.3. Vai trò của các mô hình doanh nghiệp.
Doanh nghiệp đóng một vai trò chủ chốt trong nền kinh tế quốc dân đặc biệt là trong đời sống địa phương. Nó sử dụng các trang thiết bị công cộng ( đường bộ, đường sắt…) hoặc ngược lại, nó góp phần cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng địa phương v.v…
Doanh nghiệp tác động tới cuộc sống của người dân địa phương thông qua việc tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho người lao động và đóng góp những khoản thuế, doanh nghiệp tham gia một cách tích cực vào đời sống kinh tế của một thành phố hoặc một vùng.
Doanh nghiệp làm ô nhiễm môi trường nếu nó không có ý thức hoặc ý thức cộng đồng trước xã hội.
Doanh nghiệp là yếu tố quan trọng, quyết định đến chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu kinh tế giữa các vùng, địa phương.
Ở các nước TBCN, các doanh nghiệp khi có quy mô bao trùm nền kinh tế quốc dân, thì chủ của các doanh nghiệp này còn có vai trò khống chế và chi phối đường hướng quản lý của đất nước.
Có thể nói các doanh nghiệp không chỉ quyết định sự phát triển bền vững về kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hóa các vấn đề xã hội.
PHẦN II: THỰC TRẠNG CÁC MÔ HÌNH DOANH NGHIỆP VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. Thực trạng chung của các doanh nghiệp ở Việt Nam năm 2007.
Trước khi nghiên cứu thực trạng của từng mô hình doanh nghiệp chúng ta sẽ tìm hiều một cách tổng quan về thực trạng môi trường kinh doanh của Việt Nam 2007, năng lực doanh nghiệp Việt Nam, vấn đề lao động và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó thấy được những thuận lợi, khó khăn mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải. Cụ thể như sau:
2.1.1. Môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2007.
Năm 2007, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam tăng 8,48%, cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 21,9% so với năm 2006 tương đương 48,56 tỷ USD, vượt 4,5% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra là 17,4%. Tuy nhiên, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chưa hợp lý. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 62,68 tỷ USD, tăng 39,6% so với năm 2006, trong đó doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập khẩu 21,7 tỷ USD, tăng 31,6% so với năm 2006. Nhập siêu cả năm 2007 là 14,12 tỷ USD, với tỷ lệ nhập siêu/xuất khẩu là 29%, gấp 2,7 lần so với năm 2006. Đây là mức nhập siêu cao nhất trong nhiều năm qua.
Số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới từ 1/1/2007 tính đến hết ngày 31/12/2007 của cả nước là 58.916 doanh nghiệp với tổng vốn đăng ký là 489.181.802 triệu đồng. Tại thời điểm 1/7//2007 trên cả nước có 183.920 cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc doanh nghiệp và cơ quan đoàn thể, hiệp hội và 3.751.158 cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục: ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm của các dự án cũ bổ sung cả năm 2007 đạt 21,3 tỷ USD, tăng 77% so với năm 2006, là mức cao nhất từ trước đến nay.
Quá trình đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp nhà nước năm qua diễn ra chậm chạp, chỉ hoàn thành khoảng 28% kế hoạch. Kết quả của Kiểm toán Nhà nước năm 2006 chỉ ra một số yếu kém đối với các doanh nghiệp nhà nước như đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng sản xuất thiếu tính toán quy hoạch, kế hoạch, hiệu quả đầu tư thấp, sử dụng máy móc thiết bị, tài sản cố định kém hiệu quả. Khá nhiều doanh nghiệp, nhất là trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí thua lỗ kéo dài.
Theo đánh giá của các tổ chức quốc tế, mức độ thuận lợi kinh doanh của Việt Nam được xếp hạng tiến xa so với năm trước. Việt Nam lọt vào nhóm 10 nền kinh tế hấp dẫn nhất về đầu tư của các tập đoàn xuyên quốc gia trong giai đoạn 2007-2009. Ngoài ra Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam cũng tiếp tục được cải thiện.
Qua điều tra Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của VCCI và Dự án Nâng cao Năng lực cạnh tranh Việt Nam (VNCI), nhìn chung, môi trường kinh doanh ở Việt Nam năm 2007 đã có những thay đổi tích cực so với thời điểm một năm trước đó. Tuy nhiên, xu hướng thay đổi của các chỉ số thành phần cho thấy các lĩnh vực liên quan đến môi trường kinh doanh cấp tỉnh chưa được cải thiện một cách đồng đều.
2.1.2. Đánh giá năng lực doanh nghiệp Việt Nam.
Việc phân tích năng lực doanh nghiệp đã được thực hiện trên 6 ngành kinh tế tiêu biểu của năm 2007. Cơ sở để lựa chọn là những ngành chịu nhiều ảnh hưởng nhất của yếu tố lao động và thị trường lao động đồng thời cũng đóng vai trò là động lực cho phát triển kinh tế. Các ngành được lựa chọn là: (1) Sản xuất thực phẩm, đồ uống và thuốc lá; (2) Dệt may; ( 3) Xây dựng; ( 4) Du lịch; (5) Dịch vụ ngân hàng, hoạt động của các quỹ và chứng khoán; ( 6) Bảo hiểm . Dữ liệu được sử dụng trong phân tích đánh giá là “Cơ sở dữ liệu tổng điều tra doanh nghiệp (2000-2006)” do Tổng cục Thống kê thực hiện hàng năm.
- Từ góc độ lao động: Cùng với xu hướng tăng của cơ hội kinh doanh, tất cả các ngành được nghiên cứu đều có nhu cầu ngày càng tăng về lao động việc làm, tuy nhiên ở các mức độ rất khác nhau. Là những ngành sử dụng nhiều lao động, các ngành xây dựng, dệt may và sản xuất thực phẩm vẫn sẽ thu hút một lượng lớn lao động cho ngành mình. Nhu cầu lao động có tay nghề cao của những ngành này nhỏ hơn một cách tương đối so với các ngành còn lại, vì vậy trong những năm tới, khả năng đáp ứng về nguồn cung lao động của thị trường Việt Nam là có thể.
Lao động trong các ngành thuộc nhóm ngành dịch vụ thường có tay nghề cao hơn do phải đáp ứng được yêu cầu công nghệ cao và tốc độ thay đổi công nghệ nhanh trong những ngành này. Vì vậy, năng suất lao động trong các doanh nghiệp thuộc nhóm ngành này thường cao hơn các ngành khác.
Một trong những động lực có thể thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành du lịch là sử dụng lao động có tri thức cao. Tuy nhiên, có lẽ do thiếu hụt lao động có trình độ làm trong ngành này nên mặc dù có rất nhiều cơ hội phát triển, ngành du lịch vẫn chưa tạo được nhiều bứt phá như dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm trong những năm vừa qua.
- Từ góc độ tài chính: Các doanh nghiệp trong 6 ngành được phân tích đều có khả năng thanh toán tốt các khoản nợ ngắn hạn. Mặc dù có quy mô nhỏ nhưng khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của các doanh nghiệp nhỏ tốt hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Tính thanh khoản của hàng hóa tồn kho trong các doanh nghiệp nhỏ cũng thường rất tốt và cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp lớn.
Phân tích các chỉ số nợ cho thấy các doanh nghiệp ngày càng lệ thuộc vào các khoản vay để phát triển sản xuất kinh doanh (không chỉ tăng lên về mức độ vay nợ, tần suất vay nợ của các doanh nghiệp cũng tăng lên theo thời gian). Để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, các ngân hàng đang cho vay nợ nhiều hơn mức cho phép. Với việc không thỏa mãn tiêu chuẩn về tổng số nợ trên vốn tự có, các doanh nghiệp đã để lộ điểm yếu của mình. Lạm phát ở Việt Nam đang ở mức rất cao cùng với ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, chắc chắn nhiều doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng. Ở mức độ vĩ mô, tăng trưởng kinh tế Việt Nam vì thế cũng sẽ chậm lại.
- Từ góc độ công nghệ: Do nhu cầu về trình độ công nghệ cao nên doanh nghiệp trong các ngành dịch vụ (dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, du lịch) có mức đầu tư vào tài sản cố định cao hơn là các ngành sản xuất. Không chỉ thế, tốc độ đổi mới công nghệ trong những ngành này rất cao, trong khi ở các ngành sản xuất thực phẩm, dệt may và xây dựng tốc độ đầu tư của doanh nghiệp trong việc mở rộng sản xuất và thay đổi công nghệ giảm dần theo thời gian.
Hiện tại, nguồn tài chính cho các hoạt động R&D và đổi mới công nghệ chiếm chủ yếu từ nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Tỷ lệ vốn nhà nước cho các hoạt động R&D và hoạt động đổi mới công nghệ còn rất thấp và chủ yếu tập trung vào khu vực doanh nghiệp lớn là khu vực tập trung nhiều các doanh nghiệp có vốn nhà nước. Điều này có ngụ ý về mặt chính sách cho các hoạt động đổi mới công nghệ. Chính phủ và Bộ Khoa học và Công nghệ cần quan tâm tới việc dành và phân bổ nguồn vốn này sao cho có hiệu quả và tạo ra được lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Doanh nghiệp trong các ngành dịch vụ có nguồn lực về con người cho các hoạt động đổi mới công nghệ cao nhất. Tỷ lệ lao động có trình độ đại học ở những ngành này vì thế cũng rất cao. Tỷ lệ này cho thấy các ngành dịch vụ, đứng đầu là ngành dịch vụ ngân hàng có nhu cầu lớn đối với lao động có trình độ cao.
- Từ góc độ tiếp cận thị trường: Việc tăng lên của xu hướng sử dụng Internet để tiếp cận thị trường và trong các giao dịch điện tử là một tín hiệu tốt, nhất là trong kỷ nguyên toàn cầu hóa hiện nay. Với chi phí không quá cao cho việc thực hiện sử dụng công nghệ tin học và kết nối Internet, số liệu phân tích cũng cho chúng ta thấy các doanh nghiệp nhỏ năng động hơn các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị trường.
Các doanh nghiệp kinh doanh du lịch Việt Nam có một lợi thế cạnh tranh lớn mang lại từ thế mạnh du lịch của Việt Nam, tuy nhiên dường như họ chưa khai thác được hết tiềm năng này. Việc các doanh nghiệp trong ngành du lịch thể hiện khả năng tiếp cận thị trường cao nhất thông qua Internet mang lại nhiều hứa hẹn về sự phát triển của thị trường du lịch Việt Nam trong tương lai.
2.1.3. Lao động và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Việt Nam có một nguồn nhân lực dồi dào, theo kết quả điều tra thực trạng việc làm và thất nghiệp năm 2006, cả nước có 45,6 triệu lao động (tăng 1,03% so với năm 2005), trong đó lao động trong độ tuổi lao động (từ 15-55 đối với nữ, 15-60 đối với nam) chiếm 94,2%, lao động nhóm tuổi từ 15-34 chiếm 45,46%. Nhìn chung lao động Việt Nam vẫn tập trung chủ yếu ở nông thôn, lao động thành thị chỉ chiếm 25,37%. Một trong những điểm bất cập rõ nhất là cấu trúc lao động, cơ cấu lực lượng lao động đã qua đào tạo.
Giai đoạn 2004-2007 đánh dấu sự nở rộ của đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Mặc dù cam kết đầu tư nước ngoài trong những năm gần đây đã đạt những kết quả vô cùng khích lệ, tuy nhiên kết quả này đạt được chủ yếu từ việc niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được nâng cao. Số liệu về vốn FDI thực hiện cho thấy những tín hiệu đáng ngại về khả năng hấp thụ vốn FDI của Việt Nam. Khoảng cách giữa vốn FDI cam kết và vốn thực hiện không ngừng doãng ra. Tốc độ tăng của vốn FDI thực hiện vì vậy thấp hơn rất nhiều tốc độ tăng của vốn cam kết. Ngay cả trong giai đoạn nở rộ của vốn FDI cam kết 2004-2006, tốc độ này chỉ đạt được 8% (2004), 16% (2005) và 20% (2006).
Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến khả năng hấp thụ thấp vốn FDI đó là hiện trạng phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam. Trong khi vốn FDI và dòng vốn đầu tư trong nước tập trung chủ yếu vào các ngành sản xuất, kinh doanh bất động sản và các ngành dịch vụ như ngân hàng, bảo hiểm, du lịch v.v.. thì vốn đầu tư vào các lĩnh vực y tế, giáo dục lại rất hạn chế .
Hiện tại, khả năng đáp ứng nhu cầu lao động của các doanh nghiệp FDI thuộc các ngành có nhu cầu lao động cao (như dệt may, sản xuất thủy sản) là khá khó khăn đối với các vùng kinh tế mà tại đó lượng vốn FDI chiếm đa số, nhất là khả năng đáp ứng nhu cầu lao động có tay nghề và trình độ cao đang có xu hướng giảm dần. Bên cạnh đó, có rất nhiều tín hiệu về sự dịch chuyển mạnh lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI ở khu vực Đông Nam Bộ và nhất là lao động có trình độ cao ra khỏi các doanh nghiệp FDI (có thể để giữ các vị trí cao trong khu vực tư nhân). Trong khi đó lượng lao động bổ sung từ các khu vực khác vào lại rất thấp do khác biệt về văn hóa và nơi cư trú.
Với những cố gắng của Chính phủ về việc xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, Việt Nam đang đứng trong Top 10 của bảng xếp hạng mức thu hút đầu tư nước ngoài. Với tốc độ cam kết vốn FDI hiện nay, nếu không có những chuẩn bị về nguồn lực lao động và có chính sách kinh tế hợp lý khuyến khích dịch chuyển lao động có tay nghề thì vị thế của Việt Nam dưới con mắt các nhà đầu tư nước ngoài rất dễ bị ảnh hưởng.
Như vậy, có thể thấy nền kinh tế Việt Nam đang tiềm ẩn một số bất ổn do quá trình hội nhập sâu, rộng vào nền kinh tế thế giới, độ mở của nền kinh tế lớn với tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu tương đương khoảng 170% GDP. Tăng lương và nhiều sản phẩm dịch vụ đầu vào khiến chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng, khả năng cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ bị hạn chế. Bên cạnh đó là tình trạng “bong bóng” của thị trường bất động sản,,thiên tai, dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm... Trong bối cảnh đó, việc nâng cao chất lượng điều hành kinh tế vĩ mô và việc tiếp tục tạo môi trường kinh doanh thuận lợi sẽ là tiền đề quan trọng cho quá trình tăng trưởng có chất lượng ở Việt Nam trong những năm tiếp theo.
II. Thực trạng của từng mô hình doanh nghiệp cụ thể.
Xuất phát từ tình hình hoạt động của nền kinh tế Việt Nam và các vấn đề thuận lợi, khó khăn về lao động, vốn, công nghệ mà các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp phải chúng ta thấy được thực trạng của từng mô hình doanh nghiệp cụ thể như sau.
2.2.1. Mô hình DNNN.
Theo số liệu thống kê, đến nay cả nước còn gần 3.000 doanh nghiệp nhà nước các loại, đang nắm giữ 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, gần 50% tổng vốn đầu tư của Nhà nước, 70% tổng vốn vay các ngân hàng nước ngoài và gần 60% tổng lượng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước... Thế nhưng, hàng năm khối doanh nghiệp nhà nước mới chỉ đóng góp 40% thu nhập trong GDP của cả nước. Nhận xét về DNNN, hầu hết các ý kiến đều thừa nhận rằng có tiềm lực lớn, được ưu đãi nhiều, đầu tư lớn từ phía Nhà nước nhưng hiệu quả kinh doanh thấp, năng lực cạnh tranh kém.
Qua quá trình sắp xếp, đổi mới DNNN, đến nay cả nước còn 1.720 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, gồm: 7 tập đoàn kinh tế, 86 tổng công ty nhà nước và 1.099 công ty nhà nước độc lập. Ngoài ra, có 4 ngân hàng thương mại nhà nước; đã có 6 tổng công ty nhà nước và 1 ngân hàng thương mại nhà nước hoàn thành cổ phần hóa, Nhà nước giữ cổ phần chi phối. Trong các tập đoàn, tổng công ty, Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ ở 524 doanh nghiệp thành viên; giữ trên 50% vốn điều lệ ở 738 doanh nghiệp thành viên và dưới 50% vốn điều lệ ở 672 doanh nghiệp đã cổ phần hóa.
Có thể nói khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được Đảng và Nhà nước xác định là đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế. Trong nhiều năm qua chúng ta đã dồn vốn, tập trung để cổ phần hoá, nâng cao hiệu lực sản xuất kinh doanh của các tập đoàn kinh tế lớn, các tổng công ty nhà nước. Nhưng chúng ta chưa đạt được điều này, thậm chí nếu so sánh thì hiệu quả đầu tư ở nhiều DNNN là thấp nhất. Báo cáo của Ủy ban Kinh tế cho thấy rằng, rất khó kiểm soát và đánh giá hoạt động đầu tư, khó đánh giá về khả năng trả nợ, vay của các DNNN. Đây là một thách thức. Chính phủ đã đề ra giải pháp là sang năm 2009, phải tập trung để có thể kiện toàn, nâng cao chất lượng và đánh giá toàn diện hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Nếu làm tốt việc này thì chắc chắn sẽ hạn chế việc lạm phát và nâng cao hiệu quả cho nền kinh tế…
DNNN của nước ta giống như một anh chàng công tử con quan được cha mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc chu đáo nên béo tốt, to cao vạm vỡ và muốn gì được nấy. Nói chung là đứng nhất về vị thế và ưu đãi, nhưng hiệu quả hoạt động thì yếu kém, đóng góp cho GDP thấp nhất, lại có nhiều động thái gây ồn ào dư luận nhất.
Một loạt DNNN trực thuộc các Tổng công ty làm ăn không hiệu quả, đồng vốn bị thất thoát, trong cơ cấu cũng như trong cơ chế của các Tổng công ty nhà nước bộc lộ nhiều bất cập, đã và đang cần sự trợ giúp đắc lực của nhà nước để tồn tại bởi không có khả năng tự bươn chải. Đã đến lúc cần cuộc “Giải phẫu” mạnh đối với mô hình Tổng công ty nhà nước.
2.2.2. Mô hình hợp tác xã (HTX).
- Theo số liệu thống kê mới nhất ngày 7/11/2008 Việt Nam hiện có 17900 HTX đang hoạt động, trong đó lĩnh vực nông nghiệp chiếm đa số với 8553 HTX, còn lại thuộc lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiêp, xây dựng, giao thông vận tải và tín dụng.
- Các HTX đang tạo việc làm cho hơn 10.5 triệu lao động là nông dân và hơn 3.5 triệu lao động ở các tổ hợp tác với mức thu nhập bình quân năm 2000 được 4.2 trđ/ 1 xã viên lên 7.5 trđ/ 1 xã viên/năm vào năm 2007. Tuy các HTX chưa mang lại thu nhập cao cho xã viên, nhưng con số nói trên cũng cho thấy mô hình này đã giải quyết được việc làm và tạo thu nhập cho hơn 14 triệu người trên tổng số 42 triệu người lao động trên toàn quốc. Có thể nói trong những năm qua mô hình HTX đã hỗ trợ nhân dân vươn lên làm giàu, xoá đói, giảm nghèo và tạo dựng bộ mặt nông thôn mới.
- Tốc độ phát triển HTX trong phạm vi cả nước không nhanh nhưng trong những năm gần đây nhiều HTX đã mạnh dạn đầu tư theo chiều sâu, bổ sung, huy động thêm vốn, góp vốn để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh đi vào hoạt động. Nếu như tổng nguồn vốn của các HTX năm 2001-2002 chỉ có 300 tỷ đồng, thì đến nay tăng lên gần 700 tỷ đồng. Đây là dấu hiệu khả quan cho tình hình hoạt động của các HTX về sau này.
2.2.3. Mô hình Doanh nghiệp tư nhân (DNTN).
Với việc thi hành Luật Doanh nghiệp và hàng loạt các biện pháp cải cách khác, môi trường kinh doanh ở nước ta trong mấy năm gần đây đã có những cải thiện quan trọng theo hướng mở rộng quyền tự do kinh doanh của người dân trên nguyên tắc doanh nghiệp và người dân được tự do kinh doanh tất cả những lĩnh vực mà luật pháp không cấm, khuyến khích người dân làm ăn, kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước, khuyến khích mọi doanh nghiệp tham gia các ngành xuất khẩu, chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa... DNTN đã nhanh chóng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước trên các mặt: tạo công ăn việc làm, tăng vốn đầu tư phát triển, mở rộng xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, thúc đẩy phát triển các thị trường, đổi mới kinh tế và hành chính.
DNTN của chúng ta có tới 95% thuộc quy mô nhỏ và vừa (theo tiêu chí của nước ta là có dưới 300 lao động và/hoặc dưới 10 tỉ đồng vốn), trong đó khoảng 50% thuộc quy mô nhỏ hoặc cực nhỏ (dưới 100 lao động và/hoặc dưới 5 tỉ đồng vốn). Cái yếu của DNTN ở nước ta thể hiện rõ nhất ở năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh và năng lực cạnh tranh nhìn chung còn thấp so với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp các nước xung quanh....
Hầu hết các DNTN ở nước ta đều thiếu những nguồn lực cơ bản cần thiết cho họ: nguồn vốn, đất đai, công nghệ, kỹ năng quản lý, nhân lực có chất lượng, thị trường, thông tin... và cả mối quan hệ với các đối tác quan trọng. Bản thân họ không thể có đủ nguồn lực, lại gặp khó khăn rất lớn trong việc tiếp cận với các nguồn lực có sẵn ở bên ngoài doanh nghiệp, kể cả những nguồn đã được Nhà nước cam kết hỗ trợ, ưu đãi hoặc giành quyền bình đẳng khi tiếp cận. Tình trạng thiếu nguồn lực của DNTN bị kéo dài đã hạn chế rất lớn sự phát triển của họ. Tuy trong thời gian qua, DNTN đạt tốc độ phát triển nhanh trên một số lĩnh vực, nhưng điều đó cũng do điểm xuất phát của họ rất thấp. Nếu tính tới hàm lượng tăng trưởng, DNTN khó sánh được với DNNN, còn tính cả về hàm lượng và chất lượng, họ khó sánh được với FDI, nhất là trong phát triển công nghiệp và các lĩnh vực đòi hỏi nguồn vốn lớn. Do vậy, DNTN vừa khó cạnh tranh, vừa khó là đối tác bình đẳng với DNNN, FDI và doanh nghiệp các nước khác. Cho tới nay, số DNTN trưởng thành, đạt quy mô kinh tế hiệu quả còn chiếm tỷ lệ rất thấp trong DNTN ở nước ta. Ngay trong số DNTN đã trưởng thành cũng không ít doanh nghiệp đang lúng túng về chiến lược và nguồn lực để tiếp tục phát triển trong thời gian tới.
DNTN cũng chưa thiết lập được sự liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế với nhau trong từng ngành, giữa các ngành liên quan, hoặc trong từng vùng để tạo thế mạnh của tính hệ thống và hiệu quả của sự phối hợp. Từng DNTN mới chỉ dựa vào sức mình là chính, chưa khai thác, sử dụng được sức mạnh của sự liên kết vốn rất cần thiết, nhất là đối với các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa. Thực tế đây cũng là vấn đề chung của các doanh nghiệp Việt Nam, với những mạng lưới kinh doanh chưa được hình thành đầy đủ, thiếu những doanh nghiệp thật mạnh có khả năng làm trụ cột, đầu đàn tạo sự liên kết, hợp tác vững chắc để nhân thêm sức mạnh trong cạnh tranh quốc tế.
2.2.4. Mô hình công ty hợp danh.
Trong tất cả các mô hình doanh nghiệp ở nước ta chỉ riêng có mô hình công ty hợp danh là hoạt động gần như không hiệu quả, số lượng các CTHD có xu hướng ngày càng giảm. Với tình hình hoạt động như vậy mô hình CTHD thực sự đóng góp không lớn vào nền kinh tế quốc dân. Một trong số những nguyên nhân cơ bản khiến cho các CTHD hoạt động kém hiệu quả như vậy là do một số vấn đề chưa được cụ thể hoá trong quy định của Luật Doanh nghiệp 2005:
+ Các CTHD không có quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh mà chỉ có thể lựa chọn một trong bốn ngành nghề để kinh doanh theo quy định là: Dịch vụ kế toán và kiểm toán, dịch vụ thiết kế xây dựng công trình xây dựng, dịch vụ khám và điều trị bệnh, dịch vụ pháp lý.
+ Theo quy định của pháp luật hiện hành không có quy định cho việc chuyển đổi từ hình thức pháp lý Cty hợp danh sang loại hình Cty TNHH. Do vậy, nếu thực hiện việc chuyển đổi bằng cách giải thể Cty TNHH để thành lập Cty hợp danh sẽ thiệt hại trước hết đến "thương hiệu" của Cty TNHH đã hoạt động từ trước đến nay.
Chính những sự bất cập trong quy định của pháp luật trong thời gian qua đã làm cho các CTHD hoạt động không hiệu quả. Cần phải có một quy định cụ thể nhằm duy trì và phát triển tốt hơn mô hình này.
2.2.5. Mô hình công ty TNHH.
Trong một vài năm gần đây mô hình công ty TNHH phát triển trên khắp các tỉnh thành trong cả nước và trở lên quen thuộc với rất nhiều người dân Việt Nam. Điều này cho thấy mô hình công ty TNHH đang phát triển rất nhanh và hiệu quả cả về mặt kinh tế lẫn xã hội như: tạo công ăn việc làm cho hàng trăm nghìn người lao động ở vùng nông thôn, nâng cao thu nhập cho người dân, làm giảm sự chênh lệch giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị.
Tuy nhiên, do các công ty TNHH đại đa số là đặt ở khu vực nông thôn (lợi dụng những chính sách ưu tiên của chính quyền địa phương, dễ dàng tìm kiếm nhân công với mức tiền công rẻ hơn nhiều . . .), đối với các công ty làm về sản xuất, chế biến. Nên thường xảy ra tình trạng ô nhiễm môi trường: không khí, nguồn nước. .An toàn về mặt sức khoẻ của người lao động còn chưa được quan tâm đúng mức.
2.2.6. Mô hình Công ty cổ phần.
Với sự mới mẻ về hình thức huy động vốn so với các cách huy động vốn truyền thống. Trong những năm qua các công ty cổ phần đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Xu hướng gia tăng về số lượng, hiệu quả hoạt động thể hiện ở DTT tăng mạnh chứng tỏ rằng mô hình công ty cổ phần phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng và nhà nước ta.
Tính linh động, linh hoạt của việc huy động vốn đã tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty cổ phần ngày càng phát triển.
2.2.7. DN có vốn đầu tư nước ngoài.
Thể hiện kinh nghiệm và trình độ quản lý của mình các DN có vốn đầu tư nước ngoài với số lượng rất khiêm tốn trong thời gian qua nhưng lại hoạt động vô cùng hiệu quả.
Theo thống kê mới nhất ngày 31/12/2006 thì các DN có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp vào ngân sách nhà nước 9.25% GDP cả nước. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục tăng khá, ước tính năm 2007 đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,3% so với năm 2006 và vượt 56,3% kế hoạch cả năm, trong đó vốn cấp phép mới là 17,86 tỷ USD. Như vậy, mặc dù số lượng không nhiều song do các DN có vốn đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả hơn các DN trong nước rất nhiều. Điều này càng chứng tỏ vai trò quan trọng của việc liên doanh, liên kết với các công ty nước ngoài. Nhằm học hỏi kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm làm việc, lợi dụng nguồn vốn của các nước tư bản giúp cho hoạt động của các DN trong nước ngày càng có hiệu quả hơn. Đóng góp nhiều hơn cho ngân sách nhà nước.
2.2.8. Ưu điểm, hạn chế của các mô hình.
a. Mô hình DNNN:
+ Ưu điểm: Các DNNN được hưởng rất nhiều lợi thế so với các loại hình DN khác như: Hầu hết các DNNN đều có tiềm lực lớn, được hưởng nhiều chính sách ưu đãi từ phía nhà nước ( quy hoạch đất đai, vốn đầu tư…) và đầu tư từ phía nhà nước.
+ Hạn chế: Hiệu quả kinh doanh thấp, thậm chí rất thấp và năng lực cạnh tranh kém.
b. Mô hình HTX:
+Ưu điểm: Được Đảng và nhà nước ta tạo điều kiện như: Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và có chính sách ưu đãi, giúp đỡ kinh tế HTX phát triển tốt.
+ Hạn chế: Các HTX hiện còn gặp nhiều khó khăn về vốn, công nghệ, đội ngũ cán bộ giỏi, thương hiệu sản phẩm trên thị trường quốc tế, khó khăn trong vấn đề tiếp cận vốn, mặt bằng sản xuất…
c. mô hình DNTN:
+ Ưu điểm: Tính linh động, linh hoạt, tự chủ của chủ DNTN trong việc quyết định đối với tất cả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, có toàn quyền quyết định việc sử dụng lợi nhuận sau khi đã nộp thuế.
+ Hạn chế: DNTN phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của công ty.
- DNTN chưa có khả năng giữ được thị phần trong nước, sản phẩm chưa đuổi kịp sản phẩm của các doanh nghiệp nước ngoài và liên doanh.
- Các DNTN đang gặp khó khăn trong vấn đề nhân lực: 63% DNTN gặp khó khăn trong vấn đề tuyển dụng người tài, 55% gặp vấn đề với việc sử dụng và giữ chân người tài. Các DNTN đang đứng trong tình trạng chảy máu chất xám trầm trọng. Trong bối cảnh hội nhập nền kinh tế diễn ra mạnh mẽ. Chỉ hơn 50% chủ DNTN có trình độ trên cấp 3.
d. Công ty hợp danh:
+Ưu điểm: Dễ dàng sát nhập giữa các thành viên để tạo thành DN, các thành viên hợp danh có quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
+ Hạn chế: Trong quá trình hoạt động công ty hợp danh đã bộc lộ những hạn chế mà mô hình này đang gặp phải. Điều này đã được nói rõ ở phần thực trạng. Cụ thể là: Công ty hợp danh không có quyền lựa chọn ngành nghề kinh doanh mà phải chọn một trong bốn ngành nghề quy định sẵn, không có quy định cho việc chuyển đổi từ CTHD sang công ty TNHH.
e. Công ty TNHH: Đây là mô hình có nhiều triển vọng phát triển hiệu quả trong nền kinh tế của Việt Nam. Và có thể nói mô hình này gặp nhiều thuận lợi trong quy định của luật doanh nghiệp hiện hành.
g. Công ty cổ phần.
+Ưu điểm: Không giới hạn số thành viên trong công ty, dễ dàng mua bán, chuyển nhượng cổ phần của mình, dễ dàng huy động vốn thông qua thị trương chứng khoán.
+ Hạn chế: Giá trị tài sản của DN được đem giao dịch trên thị trường chứng khoán đã dẫn đến tình trạng giá trị không phải lúc nào cũng đúng, có khi chỉ là ảo để dễ dàng huy động vốn. Điều này gây khó khăn cho các nhà đầu tư, thông tin thiếu tính chính xác.
h. DN có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Ưu điểm: Được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế, mặt bằng đất đai và các chính sách ưu đãi của chính quyền địa phương sở tại.
+ Hạn chế: Mặc dù hoạt động của các công ty liên doanh mang lại rất nhiều hiệu quả cho ngân sách quốc gia. Nhưng ở đời, “không ai cho không ai cái gì” nên mặc dù có được lợi ích do các công ty này mang lại. Song đây cũng là một mối đe doạ cho các DNNN và DNTN ở nước ta, thậm chí nó còn có thể ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia (một số ngành liên quan đến an ninh, quốc phòng). Hơn nữa, chúng ta không thể liên doanh một cách vô tổ chức, vô thời hạn mà nó phải được thực hiện theo sự hướng dẫn của Đảng và nhà nước ta.
Nhận xét: Từ thực trạng của các mô hình doanh nghiệp ta thấy: Công ty TNHH và DNTN chiếm 70 -80% trong tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. Các doanh nghiệp của Việt Nam mới chỉ tăng về số lượng, chưa tăng về chất lượng: 95% doanh nghiệp nước ta có quy mô vừa và nhỏ.
PHẦN III. MỘT SỐ Ý KIẾN ĐÓNG GÓP.
3.1. Quan điểm, đường nối của Đảng và Nhà Nước cho việc phát triển các loại hình doanh nghiệp.
* Tại Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Sau khi phân tích thuận lợi, khó khăn, thời cơ và nguy cơ trong 10 năm đổi mới Đảng ta nhận định rằng: nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH. Văn kiện đại hội VIII khẳng định tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh. Cụ thể như sau:
- Đảng ta chủ trương phát triển kinh tế theo định hướng XHCN. Do đó cần thiết phải chăm lo đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác xã, làm cho kinh tế nhà nước thực sự làm ăn có hiệu quả, phát huy tốt vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế HTX phấn đấu dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
- Phát triển rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản nhà nước. Áp dụng nhiều phương thức hợp tác, liên doanh giữa nhà nước với các nhà tư bản trong nước và các công ty tư bản nước ngoài. Tạo thế và lực cho DN việt nam phát triển, tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh. Cải thiện môi trường đầu tư và nâng cao năng lực quản lí để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
- Giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ giải quyết các khó khăn về vốn, về khoa học và về công nghệ, về thị trường tiêu thụ sản phẩm, hướng dẫn họ từng bước đi vào làm ăn hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm vệ tinh cho các DNNN hay HTX.
*Tới Đại hội Đảng lần thứ IX, lần đầu tiên mô hình KTTT định hướng XHCN được chính thức đưa vào văn kiện của Đảng: " Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN".
* Đại hội X của Đảng đã phân biệt rõ chế độ sở hữu, thành phần kinh tế và hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh. Chế độ sở hữu của nước ta gồm ba loại: toàn dân, tập thể, tư nhân. Như vậy, lần đầu tiên Đảng ta thừa nhận nền kinh tế quá độ của nước ta là nền kinh tế hỗn hợp, gồm nhiều loại hình sở hữu, mỗi chế độ sở hữu đều là yếu tố hợp thành chế độ kinh tế chung.
- Đại hội Đảng lần thứ X khẳng định lại vai trò chủ đạo, nền tảng trong chế độ kinh tế XHCN của kinh tế nhà nước: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và thúc đẩy các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân".
- Đại hội cũng tuyên bố rõ ràng rằng: “Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền KTTT định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh”. Đảng lãnh đạo Nhà nước thi hành các chính sách kinh tế không phân biệt đối xử với các hình thức sở hữu. Đây là một bước tiến mới về quan điểm kinh tế nhiều thành phần của Đại hội Đảng X so với các Đại hội trước đây. Hơn nữa, Đại hội chủ trương đưa hệ thống doanh nghiệp nhà nước ra hoạt động trong môi trường công khai, minh bạch, cạnh tranh thực sự, xoá bỏ độc quyền, đặc quyền sản xuất, kinh doanh và buộc các doanh nghiệp nhà nước phải hoạt động hiệu quả mới được tồn tại.
3.2. Đối với nhà nước.
Với vai trò điều tiết nền kinh tế của mình, trước những khó khăn, thách thức mà các doanh nghiệp trong nước đang gặp phải thì nhà nước nên thực hiện đúng vai trò của mình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Nhà nước cần làm một số việc sau đây:
- Ban hành, phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về doanh nghiệp.
Tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh bảo đảm thực hiện chiến lược, quy hoạch và kế hoạch định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Tổ chức thực hiện và quản lý đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao phẩm chất đạo đức kinh doanh cho người quản lý doanh nghiệp; phẩm chất chính trị, đạo đức, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp; đào tạo và xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề.
Thực hiện chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp theo định hướng và mục tiêu của chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Kiểm tra, thanh tra doanh nghiệp, giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua chế độ báo cáo tài chính định kỳ và báo các khác.
- Tạo môi trường thuận lợi và hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển
+ Ổn định môi trường chính trị.
+ Thực hiện chính sách đối ngoại có hiệu quả.
+ Mở rộng phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng, bưu chính, viễn thông, giao thông, tiền tệ, tài chính, ngân hàng.
+ Hỗ trợ doanh nghiệp phát triển.
+ Xử lý tranh chấp và sai phạm trong kinh doanh theo luật định.
+ Đấu tranh loại bỏ quan liêu, tham nhũng, hư hỏng của bộ máy và đội ngũ cán bộ công chức của bộ máy trong việc thực hiện quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp….
3.3. Đối với các doanh nghiệp.
Trước những khó khăn và thách thức của thị trường, để việc kinh doanh của doanh nghiệp mình đạt hiệu quả cao các doanh nghiệp cần làm một số việc sau:
- Chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn đầu tư, hình thức đầu tư, chủ động mở rộng quy mô và ngành nghề kinh doanh.
- Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng.
- Lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn phù hợp với doanh nghiệp mình.
- Tự chủ kinh doanh, chủ động áp dụng phương pháp quản lý khoa học, hiện đại để nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh.
- Chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, nhiệt tình với công việc.
- Nắm vững chủ trương đường lối của nhà nước để tìm cho mình ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và phương thức kinh doanh hiệu quả cao và hợp pháp.
- Sử dụng tốt nhất tiềm năng, các cơ hội của doanh nghiệp cũng như sử dụng có hiệu quả nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp trong điều kiện chấp nhận cạnh tranh, chấp nhận rủi ro của doanh nghiệp.
- Tuân thủ đúng luật định và thông lệ xã hội: Tiến hành các hoạt động kinh doanh theo đúng những điều mà pháp luật trong nước và quốc tế không cấm, những quy ước mà thị trường chấp nhận….
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu đề tài “Các mô hình doanh nghiệp” ở Việt Nam đã cho ta một cái nhìn toàn diện về nền kinh tế của Việt Nam trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cụ thể như sau:
- Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, với nhiều loại hình doanh nghiệp đang hoạt động trong đó Mô hình DNNN đóng vai trò chủ đạo điều tiết nền kinh tế.
- Mô hình Công ty TNHH, DNTN và Công ty cổ phần đang chiếm phần lớn trong tổng số các doanh nghiệp và đã chứng tỏ sự phù hợp của các mô hình này trong điều kiện của nền kinh tế Việt Nam.
- Công ty hợp danh là mô hình doanh nghiệp kém hiệu quả nhất trong số các doanh nghiệp đang hoạt động. Nguyên nhân là do sự bất hợp lý trong quy định của luật doanh nghiệp đã gây khó khăn cho các chủ doanh nghiệp khi lựa chọn mô hình này.
- Các DN có vốn đầu tư nước ngoài phát triển rất hiệu quả ở Việt Nam. Tuy nhiên, số lượng chưa nhiều do còn gặp khó khăn trong chính sách đầu tư của nhà nước. Cần có chính sách mở cửa hơn nữa cho nhà đầu tư nước ngoài phát triển tại Việt Nam. Nhưng chính sách phải cụ thể và có giới hạn tránh làm ảnh hưởng đến sự phát triển của các doanh nghiệp trong nước.
- Hầu hết các loại hình doanh nghiệp ở nước ta gặp khó khăn về vốn, khoa học, công nghệ, trình độ chuyên môn, trình độ quản lý…
- Các doanh nghiệp ở Việt Nam mới chỉ tăng về số lượng mà chưa tăng chất lượng, quy mô.
Trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế các doanh nghiệp Việt Nam cần khẩn trương hoàn thiện cơ cấu, bộ máy tổ chức quản lý để hoạt động của doanh nghiệp mình đạt hiệu quả cao hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Luật doanh nghiệp năm 1999
Luật doanh nghiệp năm 2003
Luật doanh nghiệp năm 2004
Luật doanh nghiệp năm 2005
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB chính trị quốc
gia, năm 1999, tr 81.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB chính trị quốc gia, năm 2001,tr 68.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB chính trị quốc gia, năm 2006, tr 80-83.
www. http:// việt nam net. com
www. http:// thời báo kinh tế. com
www. http:// việt báo.com
www. http:// kinh doanh.com
doanh nghiệp tư nhân và những vấn đề thường gặp.
www. http:// báo đảng cộng sản việt nam. com
www. http:// dân trí.com.vn
www. http:// thông tấn xã việt nam. Com
www. http:// cục thống kê. Com. Vn
GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và TS. Đỗ Thị Hải Hà, Giáo trình quản trị kinh doanh – NXB khoa học và kỹ thuật, XB 10/2008.
GS.TS Đỗ Hoàng Toàn và GS.TS Đỗ Kim Truy, Giáo trình quản trị kinh doanh – NXB Thống kê, XB 1/2007.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21365.doc