Qua những phân tích cơ bản về vấn đề chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư, chúng ta có thể hiểu sâu và rộng hơn về hoạt động đầu tư và những tác động của nó đến nền kinh tế. Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư giúp cho việc định hướng đầu tư được tốt hơn và đưa ra được những biện pháp thích hợp nhằm cải thiện các nhân tố đó theo hướng có lợi cho hoạt động đầu tư, khai thác điểm mạnh, hạn chế điểm yếu, phát huy tối đa hiệu quả đầu tư hay có các chính sách kích cầu thích đáng.
Theo tình hình kích cầu đầu tư ở nuớc ta, có thể thấy nhà nước đã và đang vận dụng một cách hợp lý các chính sách và biện pháp đã được đúc rút, tuy vẫn còn đôi điều hạn chế. Nó đã góp phần to lớn trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh mạnh, vững vàng hơn. Việt Nam cần dựa vào tình hình thực tiễn để đánh giá những mặt được và chưa được của hoạt động kích cầu, kết hợp với thực trạng nền kinh tế, phân tích những biến động kinh tế trong và ngoài nước nhằm tiếp tục có các biện pháp quản lý tốt hơn để hoạt động kích cầu đầu tư luôn được củng cố một cách tốt nhất, cải thiện tình hình đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.
49 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1717 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với tổng vốn 1,520 tỷ USD, tăng gấp 2,5 lần về vốn đầu tư so với cùng kỳ. Ngoài ra, có 117 dự án tăng vốn với vốn điều chỉnh tăng 713,2 triệu USD, tăng 2,1 lần về vốn đầu tư so với cùng kỳ. Đầu tư ra nước ngoài có 5 dự án với tổng vốn đầu tư là 53,2 triệu USD.
+ Đến nay, tổng số văn phòng đại diện các đơn vị kinh tế nước ngoài trên địa bàn thành phố được cấp phép hoạt động là 2.549 văn phòng thuộc 56 nước và vùng lãnh thổ.
II.1.4. Sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Đến nay đã tiến hành sắp xếp 49 doanh nghiệp, trong đó có 23 doanh nghiệp đã có quyết định cổ phần hóa; sáp nhập 2 doanh nghiệp; chuyển sang Công ty TNHH một thành viên 14 doanh nghiệp, chuyển sang đơn vị sự nghiệp 4 doanh nghiệp; phá sản 3 doanh nghiệp; đã chuyển 1 Tổng Công ty và thành lập 1 Tổng Công ty khác hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Tính đến nay, đã có quyết định cổ phần hóa 253 doanh nghiệp.
Về cơ bản tình hình thu hút vốn đầu tư ở Việt Nam đã ảnh hưởng tới tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế trong và ngoài nước, nó mang tính tích cực cao và đang dần phát triển theo xu hướng hội nhập với những nền kinh tế phát triển trên thế giới trong thời khắc hội nhập WTO
II.2. Đánh giá về tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam
II.2.1. Những thành tựu đã đạt được và nguyên nhân
Môi trường đầu tư được cải thiện
Theo nghĩa chung nhất, môi truờng đầu tư là tổng hoà các yếu tố bên ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư. Môi trường đầu tư đóng vai trò như một chất xúc tác ban đầu cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, vì vậy môi trường đầu tư có một vị trí vô cùng quan trọng. Sự cải thiện môi trường đầu tư có tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu tư và tăng chi tiêu toàn xã hội.Cải thiện môi trường đầu tư góp phần làm tăng lợi nhuận kì vọng và sẽ có nhiều cơ hội hơn cho các nhà đầu tư.
Về môi trường đầu tư của Việt Nam hiện nay, có thể đưa ra một số nhận xét như sau:
Môi trường đầu tư Việt Nam được coi là hấp dẫn, an toàn, có lợi thế lâu dài trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Theo công bố Báo cáo Môi trường kinh doanh 2008, Ngân hàng Thế giới (WB) và Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) đã đánh giá mức độ thuận lợi môi trường kinh doanh của Việt Nam ở vị trí 91/178 quốc gia được xếp hạng trong năm nay. Trong 10 chỉ số ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh mà Báo cáo mới đây xem xét thì năm 2008, Việt Nam có 5 chỉ số tăng, 1 chỉ số giữ nguyên và 4 chỉ số giảm. Trong đó, 2 lĩnh vực quan trọng là bảo vệ nhà đầu tư và tiếp cận Tín dụng của Việt Nam đã được Báo cáo ghi nhận là cải cách nhanh khi ban hành Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, trong đó quy định những hoạt động chính của các công ty phải có sự tham gia của nhà đầu tư, đặc biệt là thông tin về giao dịch của các bên có liên quan.Việt Nam có môi trường chính trị - xã hội ổn định, đáp ứng được nhu cầu làm ăn lâu dài của các nhà đầu tư, Việt Nam cũng có lợi thế về vị trí địa lý vì nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển năng động, đã tham gia Hiệp định CEPT/AFTA và chương trình thu hoạch sớm (EHP) của Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN - Trung Quốc. Việt Nam cũng từng bước hình thành thể chế kinh tế thị trường, duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Có nguồn nhân lực dồi dào, có trí thức và tương đối trẻ. Với số dân 80 triệu, đứng thứ 13 trên thế giới, đời sống người dân ngày càng được nâng cao, Việt Nam được đánh giá là một nước có tiềm năng về thị trường lao động và thị trường hàng hoá… Chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài nước có nhiều ưu đãi, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư kinh doanh có hiệu quả.
Thực hiện đường lối đổi mới, trong những năm qua, môi trường đầu tư ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến tích cực theo hướng hấp dẫn, an toàn và bình đẳng cho các nhà đầu tư. Đặc biệt là khi Luật Doanh nghiệp được ban hành vào năm 2005, cùng với sự ra đời của Luật đầu tư 2005, đã mở ra một sân chơi chung với tất cả các chủ đầu tư, không phân biệt nguồn vốn chủ sở hữu, thành phần kinh tế, không phân biệt chủ đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo ra một khuôn khổ pháp lý thông thoáng cho các chủ đầu tư. Cụ thể là: các nhà đầu tư được phép đầu tư trong hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, được quyền chủ động lựa chọn các hình thức đầu tư, địa điểm, đối tác đầu tư, quy mô dự án, được trực tiếp tuyển dụng lao động, được khuyến khích, ưu đãi đầu tư vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được phép mua bán ngoại tệ ở các ngân hàng thương mại để đáp ứng các giao dịch vãng lai, chính phủ đảm bảo cân đối ngoại tệ cho các giao dịch quan trọng, bỏ khống chế lãi suất trần với các khoản vay về ngoại tệ và các khoản vay nước ngoài. Nhiều điều luật cụ thể được ban hành nhằm cải thiện môi trường đầu tư và đối phó với các khó khăn về kinh tế. Hệ thống pháp luật đuợc cải cách theo hướng hợp lý hơn, tiến tới pháp lý chung và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế. . Trong năm 2005, Quốc hội đã thông qua nhiều bộ luật quan trọng, trong đó phải kể đến luật đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất có hiệu lực vào ngày 1/7/2006. Nhờ đó, hệ thống luật pháp, chính sách không ngừng được cải thiện theo hướng minh bạch, rõ ràng, có lợi cho nhà đầu tư.
Thực hiện kích cầu thông qua các dự án quốc gia
Một biện pháp hiệu quả nhằm kích cầu đầu tư đó là thông qua hệ số nhân tổng cầu khi đó Chính phủ và các cơ quan chức năng thực hiện hành vi chi tiêu của mình thông qua các dự án qua các dự án quốc gia, đầu tư các công trình cơ sở hạ tầng góp phần tăng GDP trên cả nước.
Với tiêu chí đó nhà nước đã xây dựng chương trình kích cầu đầu tư, chương trình kích cầu tiêu dùng bao gồm một loạt các chương trình và hoạt động: Chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh tưới thủy lợi liên huyện, liên xã; chương trình kiên cố hóa hệ thống kênh tưới thủy lợi liên thôn và nội đồng; chương trình nâng cấp mặt bằng đường giao thông nông thôn; chương trình khuyến khích xây dựng nhà ở khu vực đô thị và vùng khó khăn bão lụt; chương trình phát triển hệ thống điện; khuyến khích dân cư hoặc các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở hạ tầng với quy mô thích hợp; triển khai chương trình hỗ trợ giải quyết việc làm.
Các chương trình này không những thực hiện mục tiêu kích cầu đầu tư mà còn cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất và kĩ thuật nước ta.
Trong những năm gần đây, nhà nước đã có kế hoạch xây dựng các khu đô thị mới, xây dựng các khu nhà ở phục vụ tái định cư di dân, ví dụ như: Khu nhà ở tái định cư Nam Trung Yên, khu đô thị tái định cư Trung Hoà-Nhân Chính, nhà ở tái định cư GPMB kè cứng hóa hai bờ sông Hồng tại Đầm Diêm, Thanh Trì, …
Hà Nội hiện có 23 khu nhà tập thể cũ đã xuống cấp, hạ tầng kỹ thuật không đảm bảo phục vụ đời sống người dân, song công tác cải tạo, sửa chữa khá chậm chạp do vốn ngân sách đầu tư hạn chế. Các dự án cải tạo chung cư cũ cũng được tiến hành trên nguyên tắc xã hội hoá, huy động vốn của nhiều thành phần kinh tế. Cụ thể bao gồm các dự án: đầu tư cải tạo khu tập thể Nguyễn Công Trứ, Hai Bà Trưng, Hà Nội, đầu tư cải tạo khu Văn Chương, Q. Đống Đa, Hà Nội, nhà ở cao tầng Ngọc Khánh … Các dự án xây dựng khu đô thị mới khác như: khu đô thị Đâm Trâu, Hai Bà Trưng, Hà Nội, khu ĐTM Đại Kim, Định Công, Q.Hoàng Mai, HN…
Vùng đồng bằng sông Hồng hiện có khoảng 55 hệ thống thủy nông, thủy lợi vừa và nhỏ đã đảm bảo tưới cho 765.000 ha. Các công trình phần lớn được thiết kế với tần suất đảm bảo tưới: 75% tiêu: 10% mưa nội đồng và 20% mực nước ngòai sông. Qua nhiều năm hoạt động, hệ thống CTTL đã góp hiệu quả to lớn trong phục vụ tưới, tiêu cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, tạo nguồn cung nước sinh hoạt, công nghiệp, tiêu ước cho các khu dân cư, cải thiện môi trường sinh thái. Tuy nhiên, hệ thống cũng đã bộc lộ những tồn tại, bất cập cần sớm được khắc phục như: hệ thống sông, ngòi tạo nguồn, cửa lấy nước, các kênh trục và kênh mương nội đồng bị bồi lấp do không được nạo vét định kỳ, khả năng chuyển tải nước bị suy giảm; hệ thống thuỷ lợi xuống cấp; kênh mương của một số hệ thống thuỷ lợi chưa được kiên cố hoá, gây lãng phí nước, tốn diện tích đất. Để duy trì và phát huy khả năng của hệ thống thuỷ lợi, năm 2006, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã xây dựng chương trình nâng cấp, sửa chữa hệ thống CTTL CTTL ở ĐBSH. Chương trình gồm có: Cải tạo và nâng cấp các hệ thống CTTL hiện có, tăng diện tích lấy phù sa, cải tạo đất, mở rộng diện tích cây trồng đối với các khu vực chưa có CTTL, hoàn chỉnh hệ thống thuỷ lợi cho nuôi trồng thuỷ sản vùng ven biển, xây dựng mới các công trình tiêu thoát, các công trình tạo nguồn và tiếp nguồn theo qui hoạch, điều chỉnh hệ thống kênh trục theo sự phát triển công nghiệp và đô thị và quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất trong vùng…
Ngoài ra, trong mấy năm gần đây, cơ sở hạ tầng nông thôn đã được Nhà nước quan tâm đầu tư và phục vụ kịp thời cho sản xuất và đời sống ở một số vùng. Ngày nay, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành kinh tế đã chuyển dịch theo hướng ưu tiên cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, hạ tầng cơ sở và lĩnh vực xã hội. Do cơ sở hạ tầng của các tỉnh miền núi kém phát triển nên sản xuất nông nghiệp nhiều nơi vẫn trong tình trạng tự cấp, tự túc, đời sống nông dân khó khăn. Hiện tại, vẫn còn 240 xã chưa có đường ô tô tới trung tâm, 55 xã chưa có trạm xá xã, nhiều nơi vẫn còn tình trạng học ca 3, tỷ lệ người dân nông thôn được sử dụng nước sạch mới chỉ đạt 54%... Việc ban hành một cơ chế quản lý để khuyến khích tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế (kể cả trong nước và nước ngoài) đầu tư xây dựng và kinh doanh các cơ sở hạ tầng nông thôn là hết sức cần thiết và kịp thời. Vì vậy, Chính phủ đã có công văn số 1975/CP-NN, ngày 29/12/2004 giao Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư xây dựng kĩ thuật cơ sỏ hạ tầng nông thôn. Đối với những cơ sở hạ tầng nông thôn phục vụ dân sinh: Nhà tiếp tục thực hiện các chính sách đã ban hành như: Thông tư số 79/2001/TT-BTC, ngày 28/9/2001 của Bộ Tài chính về hướng dẫn cơ chế tài chính để thực hiện các dự án đường giao thông nông thôn, cơ sở hạ tầng nuôi trồng thủy sản, cơ sở hạ tầng làng nghề nông thôn; Thông tư số 84/2002/TT-BTC, ngày 26/9/2002 của Bộ Tài chính, hướng dẫn những vấn đề về tài chính khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn; Thông tư số 72/2000/TT-BTC, ngày 19/7/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn cơ chế tài chính thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương; Thông tư số 67/2003/TT-BTC, ngày 11/7/2003 của Bộ Tài chính, hướng dẫn cơ chế tài chính áp dụng cho Ban quản lý chợ, doanh nghiệp kinh doanh khai thác và quản lý chợ. Về hỗ trợ đầu tư: Các dự án cơ sở hạ tầng nông thôn đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt, được ngân sách nhà nước hỗ trợ một phần từ nguồn vốn xây dựng cơ bản tập trung theo quy định tại Luật Ngân sách. Tuỳ theo tính chất quan trọng của dự án, khả năng Ngân sách của từng địa phương UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định mức và hình thức hỗ trợ cụ thể cho phù hợp. Mức hỗ trợ tối đa không quá 30% tổng vốn đầu tư dự án.
Bằng chính sách kích cầu đầu tư, thành phố Hồ Chí Minh cũng đã thu hút được hàng ngàn tỷ đồng dành cho việc đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật cũng như hàng loạt các công trình kinh tế xã hội. Những đồng vốn bỏ ra từ ngân sách thành phố đã phát huy hiệu quả, nhất là trong những tháng cuối năm nhằm đạt cho được mục tiêu tăng trưởng trên 12% của cả năm 2005. Dự án xây dựng cầu Phú Mỹ là một trong 2 dự án BOT lớn nhất của thành phố Hồ Chí Minh năm 2005. Cầu Phú Mỹ được khởi công trong tháng 9/2005, còn nhà máy cấp nước phía Đông được khởi công vào tháng 10. Chi phí cho riêng hai dự án này là 3.500 tỷ đồng. Qua chính sách kích cầu đầu tư, thành phố Hồ Chí Minh đã và đang thực hiện một cách có hiệu quả việc đẩy mạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư từ mọi thành phần kinh tế để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án xây dựng cơ bản.
Theo ông Klaus Rohland, Giám đốc quốc gia của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, báo cáo ghi lại những thực tế đáng khen ngợi trong chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng hiện tại của Việt Nam, tổng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở mức 10% GDP, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn quốc tế.
Tuy nhiên, tình trạng kích cầu đầu tư thông qua các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cũng đang gặp phải khá nhiều bất cập và thiếu sót. Điển hình là sự đầu tư quá mức vào thuỷ điện khiến cho tình trạng thiếu điện ngày càng trở nên trầm trọng trong mùa khô. Việc phụ thuộc quá nhiều vào thuỷ điện của Việt Nam dẫn đến mức độ rủi ro càng gia tăng khi không thể kiểm soát lưu lượng nước ở thượng nguồn. Các chuyên gia cũng đưa ra những dấu hiệu cho thấy tập đoàn điện lực Việt Nam không đủ năng lực cung cấp điện để bảo đảm duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế kỳ vọng. Theo chiến lược năng lượng của chính phủ cho giai đoạn 2006 - 2015, mỗi năm Việt Nam phải tăng công suất điện từ 17-20%. Nhiều dự án hiện nay đã bị chậm tiến độ một cách trầm trọng, đúng vào lúc mà nền kinh tế đang cần điện nhất. Năm 2007, chỉ có một trong số năm dự án phải đưa vào hoạt động được thực hiện đúng tiến độ, việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng nhiều khi bị phung phí và không hiệu quả. Những chương trình như "một triệu tấn đường" hay "đánh bắt cá xa bờ" và phong trào xây dựng các khu công nghiệp, và mới đây là khu kinh tế, trên thực tế đã không đem lại nhiều lợi ích cho người dân ở các khu vực nông thôn, vốn là mục tiêu ban đầu của những dự án này. Các chuyên gia cũng nhìn nhận nhiều dự án cơ sở hạ tầng của Việt Nam bị chậm tiến độ, đội giá, và chất lượng kém. Trong nhiều trường hợp, dự án được lựa chọn mà không hề căn cứ vào những tiêu chí kinh tế thích hợp. Theo các chuyên gia, nhiều kế hoạch lớn đã được công bố hoặc đang được triển khai ở các tỉnh miền trung rất thiếu cơ sở. Thí dụ như Việt Nam đang đầu tư xây dựng mới rất nhiều cảng nước sâu dọc bờ biển miền trung trong khi đó cơ sở hạ tầng ở TP Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, và Bà Rịa - Vũng Tàu, nơi hấp thụ tới gần 60% lượng gia tăng dân số và lao động của cả nước, lại đang quá tải một cách trầm trọng nhưng không được đầu tư thỏa đáng.
Thực hiện kích cầu thông qua công cụ tài chính
Từ năm 2001 đến nay, Ngân hàng Nhà nước đã thực thi chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, về cơ bản đã đạt được mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự ổn định và phát triển của hệ thống các TCTD. Việc điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc đã tăng cường khả năng điều tiết vốn khả dụng của các NHTM, qua đó nâng cao khả năng cung ứng vốn của hệ thống NHTM cho nền kinh tế.
Cùng với đó, NHNN đã thực hiện điều chỉnh hành lang pháp lý, cơ chế chính sách theo hướng tiếp cận với các thông lệ quốc tế, nhất là trong điều hành lãi suất, tỷ giá, quản lý ngoại hối, tín dụng và hoạt động thanh toán. Luật Các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi vào giữa năm 2004, kèm theo hàng loạt những quy định chặt chẽ đối với các TCTD trong việc đảm bảo các tỷ lệ an toàn trong hoạt động, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro. Bên cạnh đó những nỗ lực lớn trong việc phát triển ứng dụng công nghệ ngân hàng hiện đại đã tạo điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả hoạt động tiền tệ, tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Trong giai đoạn 2001-2005, vốn đầu tư thông qua kênh trung gian tài chính (hệ thống ngân hàng) vào nền kinh tế chiếm trung bình từ 20-22% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bình quân tăng trưởng huy động vốn (và dư nợ cho vay nền kinh tế) giai đoạn 2001-2005 đạt mức khá cao, từ 20-25% hàng năm. Cùng với nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước, khu vực dân cư và tư nhân, ODA, FDI và kiều hối, nguồn vốn qua kênh NHTM thực sự đóng vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho tín dụng đầu tư phát triển kinh tế.
Cụ thể, nhà nuớc và hệ thống ngân hàng đã có một số chính sách và hoạt động như sau
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 không chỉ tác động đến nền kinh tế các nước Singapore, Indonesia... mà còn gây ảnh hưởng ít nhiều đến Việt Nam. Năm 1999, tình trạng thiểu phát diễn ra, nền kinh tế tăng trưởng giảm, khả năng cạnh tranh của hàng hoá thấp. Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh giảm trần lãi suất cho vay ở khu vực thành thị từ 1,1% - 1,5%/ tháng. Nhờ đó nền kinh tế trong nước đã được cải thiện đáng kể. Từ năm 1999 trở đi, lãi suất có xu hướng giảm dần đến khoảng 2/3 thời gian năm 2000 (giảm 0,15-0,2%/tháng). Để góp phần phục hồi nền kinh tế thông qua kích cầu đầu tư, tăng tiêu dùng của dân cư, Ngân hàng nhà nuớc đã hạ lãi suất cho vay khách hàng xuống thấp hơn mức trần lãi suất NHNN quy định 0,85%/tháng trong những tháng đầu năm 2000. Cộng với tình trạng các ngân hàng đua nhau hạ lãi suất cho vay khách hàng đã làm mức lãi suất cho vay giảm mạnh trong cùng kỳ. Mức lãi suất hấp dẫn đã kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư mới về nhà xưởng, trang thiết bị, công nghệ và mở rộng quy mô sản xuất.
Để cải thiện tình hình đầu tư, gia tăng sản xuất ở một số khu vực nước ta, Ngân hàng Nhà nước đã có QĐ391 về việc sửa đổi bổ sung Thông tư số 04 ngày 3/7/2003 trước đây. Quyết định trên quy định về thực hiện giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại Nhà nước đối với khu vực II, III miền núi, hải đảo và vùng đồng bào dân tộc. Theo đó, thương nhân vay vốn của Ngân hàng thương mại Nhà nước được giảm 20% lãi suất cho vay so với lãi suất cho vay thông thường của ngân hàng thương mại nhà nước tại thời điểm cho vay. Với việc cắt giảm lãi suất này, sẽ có cơ hội lớn hơn cho các nhà đầu tư để thực hiện các dự án đầu tư, khuyến khích phát triển sản xuất tại các khu vực nói trên.
Nhằm thực hiện chính sách kích cầu, sau một thời gian lãi suất không giảm, ngày 9/7/2003, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) đã giảm lãi suất tiền gửi tiết kiệm 0,02-0,03%/tháng so với mức ban đầu ở tất cả các loại kì hạn, ngoại trừ loại tiết kiệm không kỳ hạn. Cùng thời gian đó, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng công thương (ICB) cũng tuyên bố giảm lãi suất, gây ra một đợt phản ứng dây chuyền dẫn đến việc giảm lãi suất chung của các ngân hàng thương mại khác.
Tuy nhiên, hiện nay ngành tài chính ngân hàng đang cổ phần hoá rất nhiều và đương nhiên họ phải cạnh tranh và lợi nhuận là câu trả lời có sức nặng nhất đối với các Cổ đông do vậy rất dễ thấy có sự thiếu đồng bộ trong tổ chức và hoạt động giữa Chính phủ với các ngân hàng TM. Do vậy, công cụ tài chính của Chính phủ đang dần bị thu hẹp hiệu lực.
Ngoài ra, chính phủ còn sử dụng nhiều biện pháp khác để kích cầu đầu tư như: tăng số ngày nghỉ lễ, người dân có thời gian rảnh dỗi nhiều hơn nên chi tiêu nhiều hơn; tăng lương cho cán bộ công nhân viên chức, hay giảm thuế tiêu thụ đặc biệt, hoặc thuế tiêu thụ nói chung. Cụ thể, qua chương trình kích cầu tiêu dùng, chính phủ đã đưa ra các biện pháp kích cầu sau: Khuyến khích các tổ chức tín dụng cho vay tiêu dùng đối với cán bộ công nhân viên không cần bảo đảm bằng tài sản thế chấp; Tạo điều kiện hỗ trợ về mặt pháp lý, thủ tục hành chính khuyến khích đầu tư, tu sửa, xây mới nhà ở; lập quỹ tín dụng tiêu dùng để bảo lãnh hoặc hỗ trợ một phần lãi suất, trước mắt tập trung vào các mặt hàng thiết yếu đang có nhu cầu trên thị trường nhưng khả năng thanh toán bị hạn chế, nhất là đối với tầng lớp dân cư có thu nhập thấp. Thực hiện cơ chế mua hàng trả góp trên một số lĩnh vực như mua nhà ở thành thị. Đối với khu vực nông thôn, Nhà nước cho vay mua máy móc trang thiết bị trả góp, cho vay vốn mua con giống, cây giống... để tổ chức sản xuất trong từng hộ, từng nhóm. Hạ giá bán một số sản phẩm, nhất là các sản phẩm tồn đọng lớn hoặc các sản phẩm thiết yếu; Nhà nước xem xét giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu từ 10% xuống còn 5%. Đồng thời, Chính phủ cũng có những chính sách hỗ trợ nông dân tiêu thụ nông sản, chính sách hỗ trợ xuất khẩu. Khuyến khích mọi thương nhân xuất khẩu mọi mặt hàng mà pháp luật không cấm; không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh. Khuyến khích các đại diện thương mại và đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài thực hiện môi giới xuất khẩu và được hưởng hoa hồng theo quy định. Thực hiện thêm chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng như gạo, cà phê, rau quả hộp và thịt lợn cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Về chính sách nâng cao thu nhập cho người lao động: Từ năm 1999 đến nay, Nhà nước đã nhiều lần nâng mức lương tối thiểu cho cán bộ công chức khu vực Nhà nước, từ 144.000 đồng năm 1999 đến nay là 350.000 đồng. Ngoài ra, Nhà nước còn khuyến khích và chấp nhận mức lương cao đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao.
Tốc độ tăng sản lượng quốc dân tăng cao tác động tích cực đến kích cầu đầu tư
Kinh tế Việt Nam thời gian trước vốn là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, đông dân và chậm phát triển, đã từng phải trải qua những cuộc chiến tranh liên tiếp kéo dài. Kể từ khi chính thức khởi xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế từ năm 1986, Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam giảm nhanh được tình trạng nghèo đói, bước đầu xây dựng nền kinh tế công nghiệp hóa, đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với sự công bằng tương đối trong xã hội. Việt nam đã thu được những thành công về kinh tế đáng kể, một trong những thành công đó là đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, thể hiện trước hết qua tốc độ tăng trưởng GDP hàng năm.
Trong những năm 2000-2003, tăng trưởng GDP tăng từ 6% đến 7% trong khi tình hình kinh tế thế giới đang suy thoái. Năm 2004, mức tăng GDP là 7,7% và năm 2005 là 8,4%. Tổng sản phẩm trong nước năm 2007 tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Như vậy, theo lý thuyết về mối quan hệ giữa tốc độ tăng sản lượng kinh tế quốc dân với đầu tư thì vốn đầu tư sẽ có xu hướng ngày một tăng theo, tuy nhiên, tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư thì lại không giống nhau.
Bảng II.3 Tốc độ gia tăng vốn, sản lượng ở Việt Nam 1996 - 2006
Năm
Tốc độ tăng sản lượng (g)
Tốc độ tăng vốn đầu tư giá so sánh
( s1)
Tốc độ tăng vốn đầu tư giá thực tế
( s2)
1996
9.34
14.89
20.6
1997
8.15
19.23
24
1998
5.76
2.65
8.1
1999
4.77
9.79
12
2000
6.79
15.26
15.3
2001
6.89
12.48
12.8
2002
7.08
14.38
16.8
2003
7.34
12.94
16.3
2004
7.69
11.56
18.7
2005,2006, 2007
8.50, 8.17, 8.44
13.00, 12,10
17.8, 16.25
Trong thời kì sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, lợi nhuận kỳ vọng của những nhà đầu tư đối với 1 số nước Châu Á bị giảm sút rõ rệt, Việt Nam cũng không nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Tuy nhiên với các biện pháp kích cầu tích cực về lãi suất và nhiều biện pháp khác từ sau năm 2000, tốc độ tăng sản lượng liên tục tăng một cách ổn định và bền vững là tín hiệu tốt cho các nhà đầu tư, mặc dù tốc độ gia tăng vốn có thay đổi chút ít nheng nhìn chung tốc độ gia tăng vốn ở mức ổn định.
Thực trạng cho thấy, trong quá trình đổi mới, vốn đầu tư của Việt Nam gia tăng mạnh mẽ từ năm 1996 đến nay ở cả quy mô tuyệt đối và tỷ lệ so với GDP; năm 1996 tỷ lệ vốn đầu tư chỉ chiếm 32,1%, đến năm 2004 tổng mức đầu tư toàn xã hội đã chiếm 36,3% GDP - Đây là mức cao so với nhiều quốc gia khác. Điều này chứng minh rằng tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu do tăng mạnh mức đầu tư. Bình quân thời kì 2000-2006 vốn đầu tư đã tăng khoảng 16,5%. Mục tiêu đặt ra trong những năm tới đây là phải tăng hiệu quả vốn hơn là tăng lượng vốn, để đảm bảo tính khả thi trong việc huy động vốn, đồng thời cũng kiềm chế lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Hơn nữa, nâng cao hiệu quả đầu tư là một biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng tăng trưởng, là chuyển dần từ sự tăng trưởng theo chiều rộng, dựa chủ yếu vào tăng trưởng số lượng vốn đầu tư, sang phát triển theo chiều sâu, dựa vào nâng cao hiệu quả đầu tư và năng suất lao động.
II.2.2. Những hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân
Vốn đầu tư đăng ký tuy tăng song vẫn còn ở mức thấp. Năm 2005, vốn đăng ký mới đạt khoảng 5,8 tỷ USD, chỉ bằng khoảng 74, 84% năm 1996. Vốn đầu tư thực hiện tuy tăng dần qua các năm song tỷ trọng vốn ĐTNN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội lại có xu hướng giảm dần do vốn ĐTNN thực hiện tăng chậm hơn so với vốn đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Tỷ trọng vốn đầu tư trong khu vực Nhà nước còn quá lớn. Cơ cấu vốn còn tồn tại nhiều điều bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có nhưng chính sách ưu đãi nhất định nhưng tỷ trọng đầu tư mới còn khá khiêm tốn. Vốn đầu tư thường tập trung vào những địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi đó tác động hạn chế đến các khu vực như khu vực miền núi phía Bắc, một số tnhr miền Trung, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long.
Đầu tư từ các nước phát triển có thế mạnh về công nghệ nguồn như Nhật, EU, Mỹ tăng chậm, những năm gần đây chưa có sự chuyển biến đáng kể. Nguyên nhân có thể do chi phí đầu tư tại Việt Nam còn khá cao (phí dịch vụ viễn thông, năng lượng đắt đỏ…) và thị trường Việt nam chưa đủ sức hấp dẫn. Mặc dù hiệp định thương mại Việt Mỹ đã thúc đẩy gia tăng mạnh mẽ kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước song đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam chưa có nhiều chuyển biến đáng kể.
Sự liên kết giữa khu vực ĐTNN và kinh tế trong nước còn lỏng lẻo. Khả năng góp vốn của Việt Nam trong liên doanh, liên kết còn hạn chế. Bên Việt Nam trong các liên doanh hầu hết là các doanh nghiệp Nhà nước (chiếm 98% tổng vốn đầu tư vf 92% tổng số dự án liên doanh) chủ yếu là góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất nên tỷ lệ góp vốn của Việt Nam về mặt tài chính không đáng kể. Cho đến nay vẫn còn nhiều cơ chế huy động các nguồn lực khác nhau để góp vốn liên doanh với nước ngoài.
Chủ trương phân cấp, uỷ quyền giấy phép đầu tư, quản lý hoạt động ĐTNN cho các địa phương, ban quản lý các Khu công nghiệp đã phát huy tính năng động sáng tạo của địa phương, xử lý các vấn đề phát sinh kịp thời. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện phân công quản lý cũng nảy sinh hiện tượng cạnh tranh thu hút đầu tư giữa các địa phương dẫn đến thua thiệt cho phía Việt Nam. Tỷ lệ dự án phá sản, phải giải thể trước thời hạn khá cao, một số dự án quy mô lớn chậm triển khai.
Hệ thống luật pháp, chính sách mặc dù đã có những cải tiến đáng kể nhưng tính đồng bộ chưa cao. Mức am hiểu về hệ thống luật pháp, thông lệ, điều ước quốc tế còn hạn hẹp.
Những hạn chế trên có thể do rất nhiều nguyên nhân gây ra. Chúng ta có thể kể đến các nguyên nhân cơ bản là:
Về mặt luật pháp, chính sách: trong quá trình hoàn chỉnh hệ thống pháp luật theo hướng tiến tới một mặt bằng pháp lý chung đã có những thay đổi bất lợi cho các nhà đầu tư. Chẳng hạn, việc thi hành Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã làm giảm ưu đãi về thuế, nhất là đối với các dự án đầu tư vào Khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao tại các trung tâm kinh tế lớn và các dự án thuộc danh mục khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư. Việc giảm ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các dự án ĐTNN cũng như chính sách đối với ô tô, xe máy đã làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại về sự thiểu nhất quán của chính sách ở nước ta, đồng thời cản trở quyết định đầu tư của một số chủ dự án, trong đó có những dứan quy mô lớn, sử dụng công nghệ cao.
Các vướng mắc về quy hoạch ngành vẫn chưa được tháo gỡ, trực tiếp cản trở đầu tư, nhất là vào những lĩnh vực như xi măng, sắt thép, giáo dục đào tạo… Nhiều dự án đầu tư vào các lĩnh vực dịch vụ bị trì trệ do chủ trương, chính sách chưa rõ ràng.
Kinh phí đầu tư cho công tác xúc tiến đầu tư còn hạn hẹp nên chưa chủ động tổ chức được nhiều hoat động xúc tiến đầu tư hướng vào các địa bàn trọng điểm như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản…
Bộ máy hành chính cồng kềnh, việc thiếu phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước dẫn đến xử lý dự án kéo dài, ảnh hưởng tới môi trường đầu tư cũng như là rào cản lớn đối với việc thu hút vốn đầu tư. Bên cạnh đó sự cạnh tranh thu hút ĐTNN giữa các nước trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp , thị trường còn chưa phát huy được hết tiềm năng.Việc đa dạng hoá các hình thức ĐTNN để khai thác thêm các kênh thu hút đầu tư mới cũng như việc thành lập và triển khai một số mô hình khu kinh tế mở còn chậm. Quá trình thẩm định dự án còn thiếu các thông tin hướng dẫn và các tiêu chí cụ thể…
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
III.1. Một số định hướng về hoạt động đầu tư và kích cầu đầu tư năm 2008 của Việt Nam
Năm 2008 là năm có ý nghĩa rất quan trọng tạo điều kiện hoàn thành thắng lợi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010 và Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2001-2010. Đây là năm có nhiều cơ hội và thuận lợi cho phát triển những cũng có nhiều khó khăn, thách thức. Năm 2008, lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam tiếp tục được đẩy mạnh với việc triển khai thực hiện hầu hết các nghĩa vụ trong khuôn khổ WTO và các cam kết đa phương, song phương khác.
Công tác trọng tâm trong năm 2008 là giải ngân nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Năm 2008, kế hoạch đặt ra cho giải ngân là hơn 5 tỷ USD. Tốc độ giải ngân FDI hiện tại cũng đang đi đúng hướng, phù hợp với kế hoạch 5 năm 2006-2010. Với mức giải ngân là 4,6 tỷ USD, năm 2007 cũng là năm có mức giải ngân cao, song con số này vẫn còn khá khiêm tốn so với kỷ lục 20,3 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đạt được trong năm 2007. Trước sự tăng lên đột biến của nguồn vốn đăng ký này, Bộ Kế hoạch và đầu tư đang nỗ lực để có thể đạt mức giải ngân cao hơn kế hoạch đặt ra, khoảng 5,5-6 tỷ USD hoặc còn cao hơn nữa. Đây là một thách thức và sức ép lớn cho cả các bộ, ngành và địa phương. Trọng tâm năm tới là tập trung đẩy mạnh giải ngân, tạo điều kiện tốt nhất để đưa các cam kết của nhà đầu tư vào triển khai. Tất nhiên, các nhiệm vụ về thu hút FDI vẫn được tiếp tục đẩy mạnh, song nếu vấn đề giải ngân không được thực hiện tốt thì sẽ tác động rất lớn tới thu hút đầu tư.
Để triển khai tốt công tác giải ngân FDI năm 2008, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có những biện pháp tích cực, chủ động phục vụ cho kế hoạch giải ngân. Trước mắt, trong quý I/2008, Bộ sẽ phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương tiến hành rà soát tổng thể các dự án FDI theo hướng phân loại các dự án đã và đang triển khai, các dự án chưa bắt đầu, để xác định các cơ chế hỗ trợ hoặc những biện pháp thích hợp, tạo điều kiện tốt nhất cho việc triển khai các dự án. Đặc biệt, các dự án quy mô lớn sẽ được tập trung sự hỗ trợ của các bộ, ngành và địa phương để giải quyết mọi vướng mắc nếu có. Kết quả của việc rà soát này sẽ được công khai rộng rãi. Bên cạnh đó, việc rà soát lại hệ thống luật pháp, chính sách liên quan tới đầu tư cũng sẽ được thực hiện. Mặc dù trong năm 2007, vấn đề này được giới đầu tư ghi nhận và đánh giá cao, song những chuyển biến mới trong thu hút FDI cũng như trong môi trường kinh doanh của Việt Nam đang đòi hỏi những thay đổi phù hợp hơn. Trong các kế hoạch thu hút FDI, mục tiêu tập trung kêu gọi các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ nhu cầu sản xuất, kinh doanh sẽ được đẩy mạnh, giải toả những ách tắc bắt đầu xuất hiện trong giao thông - vận tải, năng lượng… Những vấn đề này cũng đang là trở ngại lớn tới tốc độ giải ngân.
Ngoài ra, do có xuất phát điểm thấp nên Việt Nam đến nay vẫn còn là nước đang phát triển có thu nhập thấp và phải đối diện với những khó khăn thách thức rất lớn. Để khắc phục những thách thức này, năm 2008, chính phủ Việt Nam tiếp tục phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP đạt mức cao hơn 9%, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 20-22%, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm 42% tổng sản phẩm trong nước (GDP); chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm cho 1,7 triệu người, đồng thời cải thiện đời sống nhân dân, nhất là vùng sâu vùng xa, đồng bào dân tộc và những nơi thường xuyên bị thiên tai; giảm hộ nghèo xuống còn khoảng 11-12%... Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh, để đạt được các chỉ tiêu này cần phải tích cực điều hành quyết liệt ngay từ đầu năm, cân đối cung cầu, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư, huy động mạnh mẽ các nguồn lực, đầu tư phát triển nhanh kết cấu hạ tầng, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường.
III.2. Đề xuất giải pháp kích cầu đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn tới
Các giải pháp nhằm kích cầu đầu tư chính là các giải pháp nhằm tạo dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định, kích thích nhu cầu chi tiêu đầu tư của các cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế, đặc biệt là khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực trọng yếu nằm trong tổng thể quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước. Môi trường đầu tư bao hàm rất nhiều yếu tố : sức mạnh của nền kinh tế vĩ mô, môi trường pháp lý, môi trường kinh tế, môi trường chính trị, văn hoá, xã hội. Mỗi yếu tố đó lại bao hàm rất nhiều công việc đã, đang và cần phải được thực hiện nhằm kích cầu đầu tư một cách có hiệu quả, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững.
III.2.1. Nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức mạnh của nền kinh tế
Hoàn thiện một bước về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất kinh doanh có hiệu quả trong các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế.
Tổ chức nghiên cứu và ban hành các chính sách thúc đẩy phát triển và hình thành đồng bộ hệ thống thị trường, đặc biệt chú ý tới các thị trường chưa phát triển như: thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ; phát triển và hoàn thiện thị trường vốn và tiền tệ. Nghiên cứu và ban hành thể chế, chính sách khuyến khích cạnh tranh theo pháp luật, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Xây dựng các đề án, các cơ chế chính sách, với mức độ hỗ trợ khác nhau của nhà nước đối với các doanh nghiệp, tạo cho các doanh nghiệp nâng cao được sức cạnh tranh trong tình hình hiện nay Xây dựng đề án phát triển và làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, đổi mới hệ thống thuế và phí; triển khai thực hiện tiến trình giảm thuế quan theo các cam kết quốc tế. Cơ cấu lại mô hình tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Nhà nước; các ngân hàng thương mại quốc doanh; nghiên cứu bổ sung các cơ chế chính sách, hình thành đồng bộ các yếu tố và điều kiện để đưa thị trường chứng khoán hoạt động ổn định.
Thúc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh khả năng cạnh tranh và hiệu quả của các hoạt động sản xuất kinh doanh:
Bổ sung, cập nhật quy hoạch phát triển các ngành công, nông, lâm, ngư nghiệp. Dự báo thị trường và định hướng sản xuất từng ngành hàng gắn kết với thị trường tiêu thụ sản phẩm. Xây dựng đề án giảm chi phí sản xuất trong các ngành sản xuất, đặc biệt là sản xuất công nghiệp. Thực hiện chương trình đổi mới công nghệ trong các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Xây dựng đề án phát triển mạnh thị trường trong nước, các trung tâm thương mại ở thành thị, mở rộng mạng lưới thương mại ở cả vùng ven đô, vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo. ứng dụng thương mại điện tử trong các hoạt động kinh doanh. Tiếp tục thực hiện các giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Mở rộng mạng lưới dự báo giá cả, thị trường tiêu thụ từng loại sản phẩm
Đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy cạnh tranh công bằng, lành mạnh trong nền kinh tế.
Xây dựng chương trình tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Sửa đổi bổ sung cơ chế, chính sách; kiện toàn, sắp xếp lại các tổng công ty, đẩy mạnh hoàn thành thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy việc giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê các doanh nghiệp nhà nước quy mô nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ và không cổ phần hoá được. Tiếp tục thực hiện các giải pháp khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, thực hiện việc xoá bỏ tư tưởng phân biệt đối xử đối với khu vực kinh tế tư nhân trong các văn bản pháp lý, các quy định hành chính và trong hành vi của từng công chức trong các cơ quan công quyền. Vận hành hệ thống thông tin doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc nối mạng với hệ thống của ngành thuế, hải quan và ngân hàng, xúc tiến việc xây dựng hệ thống thông tin lý lịch tư pháp. Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp tổ chức thường kỳ những buổi gặp mặt với doanh nghiệp nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
Tiếp tục rà soát lại để giảm chi phí sản xuất, chi phí đất đai, chi phí quản lý trong từng ngành, từng sản phẩm nhằm tăng khả năng cạnh tranh.
Các doanh nghiệp phải tập trung giảm chi phí về nguyên liệu, vật liệu, năng lượng; tổ chức lại sản xuất và tổ chức lao động nhằm giảm chi phí nhân công và chi phí quản lý doanh nghiệp; mở rộng thị trường và tiêu thụ sản phẩm; tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực; tiết kiệm chi... Từng bước nâng cao trình độ công nghệ và trang thiết bị của doanh nghiệp; trình độ công nghệ của các ngành sản xuất công nghiệp để giảm chi phí tiêu hao nguyên, vật liệu đầu vào; nâng cao tay nghề sản xuất, tăng năng suất lao động... Đẩy nhanh triển khai thực hiện các dự án đầu tư thượng nguồn, phát triển vùng nguyên liệu (vùng nguyên liệu sản xuất bột giấy; phôi thép; nguyên liệu nhựa, vùng nguyên liệu bông; sản xuất tơ, sợi, vải; thuộc và sơ chế da...). Phân công hợp tác sản xuất và chuyên môn hoá một cách hợp lý nhằm tận dụng ưu thế chuyên sâu và năng lực sản xuất sản phẩm của các doanh nghiệp. Cần có sự phối hợp của các Bộ, ngành liên quan xây dựng lộ trình giảm chi phí dịch vụ viễn thông, cước phí cảng và vận tải, giá nước sản xuất, giá điện, giá khí đốt. Rà soát và xây dựng kế hoạch cụ thể phát triển vùng nguyên liệu đáp ứng cho những doanh nghiệp đang sản xuất và một số dự án chế biến mới. Tiếp tục hoàn thiện hơn nữa môi trường sản xuất kinh doanh theo hướng tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh. Xây dựng định hướng cơ cấu lại sản xuất và quy hoạch phát triển sản xuất các sản phẩm chủ lực. Xây dựng các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình cơ cấu lại sản xuất, giảm chi phí sản xuất...Cơ cấu lại sản xuất theo hướng tạo lập chính sách đầu tư nhằm phát triển những ngành lĩnh vực có hiệu quả và tạo điều kiện tăng tiềm lực nội sinh nâng cao sức cạnh tranh trước tình hình mới.
III.2.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý, kinh tế, chính trị-văn hoá-xã hội cho hoạt động đầu tư
III.2.2.1.Môi trường pháp lý
Cần xúc tiến hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động đầu tư bằng việc ban hành qui chế mới, dỡ bỏ, sửa đổi những qui chế không phù hợp với thông lệ quốc tế để đảm bảo một khuôn khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định, một hệ thống ưu đãi và khuyến khích tài chính mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Luật hoá, nâng mức các qui định của luật, các chính sách, quyết định của Chính phủ đã được kiểm nghiệm qua thực tế. Chủ động xử lý các vấn đề pháp lý kinh tế – tài chính liên quan đến việc thực hiện các cam kết của nước ta trong lộ trình hội nhập kinh tế.
Cần tuân thủ nguyên tắc đảm bảo về sự ổn định và tính toán dự đoán trước được của các điều chỉnh pháp luật, chính sách kinh tế – tài chính để các nhà đầu tư có thể tính toán trước được lợi ích và rủi ro của đầu tư theo sự vận động khách quan của qui luật thị trường. Đồng thời, cần xử lý thoả đáng đối với trường hợp các qui định mới của Chính phủ làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư đã được qui định trong giấy phép đầu tư và trường hợp các qui định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi cấp giấy phép đầu tư.
Để thiết lập môi trường pháp lý bình đẳng và công bằng nhằm làm minh bạch môi trường đầu tư và tạo thuận lợi nhất cho nhà đầu tư cẩn phải từng bước tiến tới xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, điều chỉnh các loại hình doanh nghiệp theo cơ chế chính sách thống nhất trên quan điểm Nhà nước luôn tôn trọng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân, doanh nghiệp nhằm huy động tối đa các nguồn vốn trong xã hội, giải phóng triệt để và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực sản xuất.
Triển khai toàn diện Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư chung; sửa đổi Luật Đầu tư theo hướng cấp giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư nếu doanh nghiệp muốn xin ưu đãi và đáp ứng đủ các điều kiện của chế độ ưu đãi; bãi bỏ Giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước hoặc cấp giấy chứng nhận đầu tư theo tính chất dự án, xoá bỏ các quy định về thủ tục thẩm tra đầu tư không cần thiết, chồng chéo gây phiền hà cho nhà đầu tư. Rà soát để sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy trong hệ thống luật pháp nhằm đảm bảo sự bình đẳng trong hưởng thụ các dịch vụ công, tiếp cận các nguồn lực và cơ hội đầu tư, trên cơ sở tạo điều kiện và tạo môi trường bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp được tiếp cận vốn tín dụng, đất đai, công nghệ mới, thông tin, thị trường, đào tạo và các chế độ ưu đãi hiện hành của Nhà nước.
Xây dựng và hoàn chỉnh khung pháp lý đảm bảo sự ổn định và rõ ràng về môi trường đầu tư và tính công khai, minh bạch về chế độ, chính sách khuyến khích đầu tư, danh mục khuyến khích đầu tư. Yêu cầu các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán, các ngân hàng thương mại cổ phần thực hiện trong vòng 18 tháng. Khuyến khích các công ty cổ phần thực hiện thông lệ này. Để thống nhất đầu tư và đăng ký kinh doanh cần hợp nhất hai cơ quan đăng ký kinh doanh và quản lý đầu tư thành một cơ quan lấy tên chung là cơ quan đăng ký doanh nghiệp.
Cần cải thiện hệ thống pháp luật về đất đai, tháo gỡ những nút thắt, rào cản do quy hoạch vì phần lớn các dự án đầu tư đều có liên quan đến đẩt đai. Việc cải cách hệ thống pháp luật về đất đai phải minh bạch, nhất quán, thuận lợi cho người dân để tránh tình trạng đất một màu mà giấy tờ liên quan đến đất lại có quá nhiều màu.UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần công bố quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển đô thị và các quy hoạch về phát triển kết cấu hạ tầng dân sinh (nhà ở, cấp nước, bến xe, đường sá…) trên phạm vi địa phương để các doanh nghiệp không phân biệt thành phần kinh tế được lựa chọn đầu tư phát triển. Nâng cao hệ thống thông tin và lập quy hoạch đô thị ở các thị trấn.
Không phân biệt nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài.Ví như nghị quyết 59/2007/NĐ-CP của Chính phủ được ban hành mới đây đã có chủ trương xoá bỏ giấy chứng nhận đầu tư đối với nhà đầu tư trong nước nhưng chính điều đó lại tạo ra sự phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài. Tư duy này không phù hợp với nguyên tắc đối xử quốc gia của WTO.
Các cơ quan quản lý Nhà nước trực tiếp cũng như gián tiếp về đầu tư cần phải làm rõ những vấn đề phải thực hiện trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn và chức năng của mình, tiến hành phân cấp mạnh cho địa phương nhưng đồng thời cũng làm rõ quyền hạn của chính quyền địa phương, tránh tình trạng quan liêu, gây phiền hà, khó khăn cho nhà đầu tư để tạo tâm lý an toàn cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó cần cải thiện năng lực quản lý cho các cấp quản lý từ trung ương đến địa phương.
Đơn giản hóa các thủ tục hành chính, đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp, thủ tục hải quan, kiểm tra giao thông, giám định kỹ thuật… theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Chấm dứt các hình thức thanh tra, kiểm tra tuỳ tiện, lạm dụng quyền hạn thanh tra gây khó khăn và nhũng nhiễu cho doanh nghiệp. Cần tăng cường pháp chế, đảm bảo cho luật pháp vận hành có hiệu quả, đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư, nhưng vẫn đảm bảo lợi ích và chủ quyền đất nước.
III.2.2.2. Môi trường kinh tế
Một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định là điều kiện tiên quyết của ý định và hành vi đầu tư để đảm bảo sự an toàn cho đồng vốn của nhà đầu tư, sau đó mới đến khả năng sinh lời.
Trước hết cần bình ổn giá trị của đồng tiền bằng việc kiềm soát lạm phát và giảm phát. Vận hành đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường bao gồm lĩnh vực sản xuất vật chất, hệ thống tài chính và cơ chế phân phối lưu thông.
Thận trọng trong chính sách về lãi suất
Cần xác định một tỷ lệ lãi suất và tỷ giá hối đoái phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Vì lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay tỷ lệ thuận với nhau nên các chính sách về lãi suất đều có tác động mang tính chất hai mặt. Lãi suất tiền gửi tăng kích thích người dân tiết kiệm nhiều hơn, làm tăng nguồn vốn tích luỹ trong nước, tức là tăng nguồn vốn đầu tư của đất nước, song khi tăng lãi suất tiền gửi thì các ngân hàng thương mại buộc phải tăng lãi suất cho vay dẫn đến chi phí vốn cho đầu tư tăng làm giảm nhu cầu đầu tư. Vì vậy cần thận trọng khi ban hành chính sách về lãi suất.
Đối với hệ thống tiêu chuẩn đo lường, thống kê kinh tế
Củng cố và hoàn thiện việc xây dựng tiêu chuẩn công nghiệp và chế độ đo lường nhằm phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để thu hút đầu tư. Trong lĩnh vực thống kê kinh tế cần nâng cao năng lực của các cơ quan chuyên ngành, mà đứng đầu là tổng cục thống kê, đảm bảo tính chính xác, công khai và kịp thời của số liệu, thông tin thống kê. Hình thành hệ thống kế toán tài chính và thống kê kinh tế để cung cấp cho các doanh nghiệp không phân biệt loại hình sở hữu.
Phát triển đồng bộ các loại hạ tầng kinh tế xã hội
Chú trọng triển khai đồng bộ các loại hạ tầng kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông, điện lực và viễn thông. Ngoài ra, các loại hạ tầng công nghệ thông tin, giáo dục, y tế cũng được ưu tiên phát triển. Hạ tầng kinh tế - xã hội là lĩnh vực quan trọng mà nếu các hạ tầng yếu kém không được giải quyết nhanh thì sẽ gây khó khăn cho đầu tư. Chính phủ Việt Nam có thể chủ động đầu tư các loại hạ tầng này đồng thời khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển lĩnh vực này với mọi hình thức kinh doanh.
Đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Tiến trình cổ phần hoá sẽ được tiến hành trên nguyên tắc thị trường, gắn liền với niêm yết trên thị trường chứng khoán. Phấn đấu đến năm 2010 hoàn thành tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước.
Đa dạng hoá hoạt động tài chính - ngân hàng
Ban hành các quy chế cụ thể cho phép các ngân hàng đang hoạt động ở Việt Nam được phép chấp nhận giá trị quyền sử dụng đất làm tài sản thế chấp, từng bước hình thành các thể chế tài chính phi ngân hàng và các quy định về huy động vốn và cung ứng tín dụng đa dạng.
Trong thời gian tới cần quan tâm hơn nữa tới việc thực hiện các cam kết mở cửa, duy trì và tiến hành cơ chế khuyến khích về thuế cho các dự án công nghệ cao.
III.2.2.3. Môi trường chính trị - văn hoá – xã hội
Tình hình chính trị xã hội ổn định là một thế mạnh của Việt Nam đã và đang được các nhà đầu tư đánh giá cao vì vậy giữ vững ổn định chính trị, an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội cũng luôn là một trong những nhiệm vụ hàng đầu không chỉ nhằm mục tiêu thu hút đầu tư, đảm bảo an toàn cho đồng vốn đầu tư quốc tế.
Gìn giữ, bảo tồn bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa của các nền văn hoá trên thế giới nhằm góp phần tô điểm cho nền văn hoá Việt Nam phong phú, đặc sắc, hấp dẫn. Với truyền thống cần cù, chịu khó, ham học hỏi của dân tộc, người lao động ở Việt Nam nhìn chung là trình độ tay nghề và học vấn còn thấp song được đánh giá là có khả năng tiếp thu cao, có tinh thần học hỏi nếu được đào tạo hợp lý. Cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc hấp thu các kỹ năng cần thiết cho nền kinh tế, tiếp tục hoàn thiện hơn nữa chính sách phát triển kỹ năng dựa trên giáo dục. Không ngừng hoàn thiện triệt để giáo dục phổ cập cấp tiểu học ở nông thôn, miền núi và tiến tới phổ cập các cấp bậc cao hơn như trung học cơ sở, phổ thông trung học…
Bên cạnh giáo dục phổ cập để nâng cao trình độ dân trí chung cho mọi người cũng cần phải đẩy mạnh đào tạo dạy nghề. Thực hiện tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường giúp các em có định hướng đúng đắn và lựa chọn được nghề nghiệp phù hợp với chính bản thân mình, từ đó góp phần nâng cao chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực đáp ứng tốt hơn nhu cầu về lao động trong hoạt động đầu tư. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ, chuyên gia giỏi, có trình độ chuyên môn cao, am hiểu về từng lĩnh vực, các cán bộ làm công tác nghiên cứu, quản lý, tư pháp cũng đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Tỉ lệ lao động đã qua đào tạo của Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 30%, đặc biệt là một số cán bộ lành nghề, kỹ sư phục vụ cho công nghệ cao hiện còn rất thiếu. Trong quá trình phát triển chúng ta cần nâng dần tỉ lệ lao động được đào tạo ngày càng cao hơn. Cần có nhiều nỗ lực trong việc trang bị thông tin, giáo dục-đào tạo các thẩm phán và các nhà quản lý, đại biểu của cơ quan hành pháp và tư pháp, nhằm hấp thu và thực hiện các thay đổi của pháp luật một cách lành mạnh.
KẾT LUẬN
Qua những phân tích cơ bản về vấn đề chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư, chúng ta có thể hiểu sâu và rộng hơn về hoạt động đầu tư và những tác động của nó đến nền kinh tế. Nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư giúp cho việc định hướng đầu tư được tốt hơn và đưa ra được những biện pháp thích hợp nhằm cải thiện các nhân tố đó theo hướng có lợi cho hoạt động đầu tư, khai thác điểm mạnh, hạn chế điểm yếu, phát huy tối đa hiệu quả đầu tư hay có các chính sách kích cầu thích đáng.
Theo tình hình kích cầu đầu tư ở nuớc ta, có thể thấy nhà nước đã và đang vận dụng một cách hợp lý các chính sách và biện pháp đã được đúc rút, tuy vẫn còn đôi điều hạn chế. Nó đã góp phần to lớn trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh mạnh, vững vàng hơn. Việt Nam cần dựa vào tình hình thực tiễn để đánh giá những mặt được và chưa được của hoạt động kích cầu, kết hợp với thực trạng nền kinh tế, phân tích những biến động kinh tế trong và ngoài nước nhằm tiếp tục có các biện pháp quản lý tốt hơn để hoạt động kích cầu đầu tư luôn được củng cố một cách tốt nhất, cải thiện tình hình đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24693.doc