Nhà nước cũng cần có chính sách cụ thể, hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp trong quá trình tham gia AFTA. Ưu tiên tận dụng, sửa đổi bổ sung những ưu đãi thuế cho sản xuất, xuất khẩu. Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu, đặc biệt là những sản phẩm có tính chất nhạy cảm cao (nông sản, nguyên liệu, thực phẩm). Cải thiện nhanh chóng việc đáp ứng vốn lưu động cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và cạnh tranh cao. Chính sách sử dụng ngoại hối của doanh nghiệp, trong đó quy định tỷ lệ hợp lý giữa phần ký thác ngoại hối vào ngân hàng và phần được sử dụng tự do ngoại hối của doanh nghiệp trong quá trình giao dịch xuất nhập khẩu. Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp, thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Việt Nam, đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo điều kiện cho doanh nghiệp chức năng chủ động trong việc hội nhập và hợp tác doanh nghiệp với các đối tác doanh nghiệp của các nước ASEAN .
24 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 809 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Các nội dung chủ yếu của AFTA và lịch trình cắt giảm thuế quan của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m gốc.
Điều 2: Các điều khoản chung
Tất cả các quốc gia thành viên sẽ tham gia chương trình CEPT
Việc xác định sản phẩm để đưa vào chương trình CEPT sẽ dựa trên cơ sở các lĩnh vực, tức là theo mã 6 chữ số của HS.
Cho phép loại trừ không đưa vào áp dụng một số sản phẩm cụ thể theo mã 8/9 chữ số của HS đối với những Quốc gia thành viên tạm thời chưa sẵn sàng để đưa các sản phẩm đó vào chương trình CEPT, Căn cứ vào điều 1(3)của Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế của ASEAN, đối với các sản phẩm cụ thể “ nhạy cảm” đối với một Quốc gia thành viên, Quốc gia đó được phép loại trừ sản phẩm này ra khỏi chương trình CEPT, nhưng phải từ bỏ các ưu đãi đối với sản phẩm đó mà Hiệp định này đã quy định. Hiệp định này sẽ được xem xét vào năm thứ 8sau khi thực hiện quyết định về Danh mục loại trừ cuối cùng hoặc có sữa đổi với Hiệp định này.
Một sản phẩm được coi là có xuất xứ từ Quốc gia thành viên ASEAN nếu trong nội dung của sản phẩm đó chứa ít nhất 40% hàm lượng có xuất xứ từ một Quốc gia thành viên ASEAN.
Tất cả các sản phẩm chế tạo, kể cả hàng hoá cơ bản, nông sản chế biến và các sản phẩm nằm ngoài định nghĩa theo Hiệp định này thì sẽ nằm trong phạm vi áp dụng của chương trình CEPT. Những sản phẩm này sẽ nghiễm nhiên được đưa vào Chương trình cắt giảm thuế quan quy định tại Điều 4 của Hiệp định này, có xem xét tới thuế quan sau khi đã áp dụng mức ưu đãi thuế quan thấp nhất (MOP) kể từ 31/12/1992.
Các sản phẩm thuộc diện PTA mà không chuyển sang chương trình CETP sẽ tiếp tục hưởng MOP từ 31/12/1992.
Các quốc gia thành viên mà mức thuế quan đối với các sản phẩm đã được thoả thuận giảm tứ 20% và thấp hơn xuống 0-5% mặc dù đã được hưởng quy chế tối huệ quốc 0-5%, sẽ được coi là đã hoàn thành các nghĩa vụ theo Hiệp định này mà vẫn sẽ được hưởng các ưu đãi.
Điều 3: Phạm vi các sản phẩm
Hiệp định này được áp dụng đối với mọi sản phẩm chế tạo, kể cả sản phẩm cơ bản, nông sản chế biến và những sản phẩm nằm ngoài định nghĩa “hàng nông sản” được quy định trong Hiệp định này. Nông sản sẽ được loại khỏi Chương trình CEPT.
Điều 4: Chương trình cắt giảm thuế quan
Các quốc gia thành viên thoả thuận Chương trình cắt giảm thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung như sau:
Giảm các mức thuế quan hiện nay xuống còn 20% trong thời hạn từ 5-8 năm, kể từ 1/1/1993 tuỳ thuộc chương trình cắt giảm thuế quan do từng Quốc gia thành viên quyết định, và sẽ thông báo khi bắt đầu chương trình. Khuyến khích các Quốc gia thành viên cắt giảm hàng năm theo công thức (X-20)%/5 hoặc 8năm, trong đó X là mức thuế quan hiện hành tại mỗi Quốc gia thành viên.
Sau đó giảm mức thuế 20% hoặc thấp hơn trong thời hạn 7 năm. Mức giảm tối thiểu là 5% lượng được cắt giảm. Chương trình cắt giảm thuế quan sẽ được các Quốc gia thành viên quyết định và tuyên bố khi bắt đầu chương trình.
Đối với sản phẩm mức thuế hiện nay là 20% hoặc thấp hơn kể từ ngày 1/1/1993, các Quốc gia thành viên sẽ quyết định Chương trình cắt giảm thuế quan, và công bố ngày bắt đầu áp dụng chương trình cắt giảm. Hai hoặc nhiều Quốc gia thành viên có thể thoả thuận cắt giảm thuế quan xuống còn 0-5% cho các sản phẩm cụ thể với tốc độ nhanh hơn khi bắt đầu chương trình.
Căn cứ theo Điều 4 (1) (c) và 4(1) (b) của Hiệp định này, các sản phẩm đã đạt tới hoặc đang có mức thuế suất là 20% hoặc thấp hơn, sẽ nghiễm nhiên được hưởng các ưu đãi.
Các chương trình thuế quan trên đây không ngăn cản các Quốc gia thành viên cắt giảm ngay lập tức mức thuế quan của mình xuống còn 0-5% hoặc áp dụng một chương trình rút ngắn việc cắt giảm thuế quan.
Điều 5: Các điều khoản khác
Các hạn chế về số lượng và các hàng rào phi thuế quan
Các Quốc gia thành viên sẽ xoá bỏ các hạn chế về số lượng đối với sản phẩm trong Chương trình CEPT sau khi được hưởng các ưu đãi áp dụng cho những sản phẩm đó.
Các Quốc gia thành viên sẽ dần dần xoá bỏ hàng rào phi thuế quan trong thời hạn 5 năm sau khi được hưởng các chế độ ưu đãi.
B. Các hạn chế về ngoại tệ
Các Quốc gia thành viên sẽ coi là ngoại lệ đối với các hạn chế ngoại tệ liên quan tới thanh toán cho các sản phẩm trong Chương trình CEPT cũng như đối với chuyển các khoản thanh toán đó về nước mà không gây phương hại tới các quyền của mình theo quy định tại Điều 18 của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) và các điều khoản có liên quan trong Hiệp định về Quỹ tiền tệ quốc tế.
C. Các lĩnh vực hợp tác khác
Các Quốc gia thành viên sẽ xem xét các biện pháp khác liên quan tới lĩnh vực hợp tác trong phạm vi biên giới và ngoài biên giới nhằm bổ sung và hổ trợ cho tự do hoá mậu dịch. Những biện pháp này bao gồm cả việc thống nhất các tiêu chuẩn chung, công nhận kết quả kiểm chứng hàng hoá, xoá bỏ các hàng rào đối với đầu tư nước ngoài, tham khảo ý kiến trong kinh tế vĩ mô, áp dụng nguyên tắc cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, khuyến khích phát triển thị trường vốn.
D. Duy trì các chế độ ưu đãi
Các Quốc gia thành viên sẽ không xoá bỏ hoặc gây tổn hại tới bất cứ ưu đãi nào đã được thoả thuận thông qua việc áp dụng các biện pháp như các xác định giá trị theo hải quan, hoặc các biện pháp hạn chế thương mại khác, trừ trường hợp quy định trong Hiệp định này.
Điều 6: Các biện pháp khẩn cấp
Nếu do việc nhập khẩu một sản phẩm cụ thể được áp dụng theo Chương trình CEPT tăng lên mà gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới các lĩnh vực sản xuất hoặc các sản phẩm cạnh tranh tương tự ở Quốc gia thành viên nhập khẩu đó thì Quốc gia thành viên này có thể ,trong phạm vi và trong một thời gian cần thiết ,nhằm ngăn chặn hoặc để giải quyết ảnh hưởng đó ,có thể tạm thời đình chỉ áp dụng các ưu đãi mà không sự phân biệt đối xử , theo Điều 6(3) của Hiệp định này ,Việc tạm đình chỉ áp dụng ưu đãi đó phải phù hợp với quy định của GATT.
Một Quốc gia thành viên nếu thấy cần thiết phải áp dụng hoặc tăng cường các bịên pháp hạn chế về số lượng hay bất kỳ biện pháp khác để hạn chế nhập khẩu nhằm mục đích ngăn chặn nguy cơ hoặc chấm dứt sự giảm sút nghiêm trọng sự dự trữ tiền tệ của mình, có thể làm được việc đó theo phương cách bảo đảm các giá trị của các ưu đãi đã được thoả thuận, không làm phương hại tới các nghĩa vụ quốc tế hiện có.
Trong trường hợp áp dụng các biện pháp khẩn cấp theo tinh thần của Điều này, cần thông báo ngay các biện pháp đó cho Hội đồng được đề cập tới tại Điều 7 của Hiệp định này và có thể sẽ có tham khảo ý kiến đối với các biện pháp đó như quy định trong Điều 8 của Hiệp định này.
Điều 7: Các thoả thuận về thể chế
Nhằm các mục tiêu của Hiệp định này, các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN sẽ thành lập một Hội đồng cấp Bộ trưởng bao gồm mỗi Quốc gia thành viên một người được chỉ định và Tổng Thư ký ASEAN sẽ hổ trợ cho AEM. Trong khi thực hiện các chức năng của mình. Hội đồng cấp Bộ trưởng này cũng sẽ được sự hỗ trợ của Hội nghị các quan chức cao cấp kinh tế (SEOM).
Các Quốc gia thành viên có các thoả thuận song phương về cắt giảm thuế quan theo Điều 4 của Hiệp định này sẽ phải thông báo cho các Quốc gia thành viên khác và cho Ban Thư ký ASEAN về các thoả thuận đó.
Ban Thư ký ASEAN sẽ theo dõi và báo cáo cho SEOM về việc thực hịên hiệp định này theo Điều 2 (3) (8) của Hiệp định thành lập Ban Thư ký ASEAN trong việc thực thi các chức năng của mình.
Điều 8: Tham khảo ý kiến
Các Quốc gia thành viên sẽ dành mọi cơ hội cho việc tham khảo ý kiến về bất cứ khiếu nại nào của một Quốc gia thành viên liên quan đến vấn đề thực hiện Hiệp định này có thể xin ý kiến chỉ đạo của AEM trong trường hợp không thể tìm ra một giải pháp thoả đáng trong các cuộc tham khảo ý kiến trước đó.
Các Quốc gia thành viên, nếu cho rằng một Quốc gia thành viên khác không thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình, dẫn tới việc xoá bỏ hoặc làm suy giảm các lợi ích mà họ được hưởng nhằm đạt được sự điều chỉnh thoả đáng vấn đề, có thể đề nghị hoặc khiếu nại với Quốc gia thành viên đó và Quốc gia thành viên này cần xem xét thoả đáng khiếu nại hoặc đề nghị nói trên.
Mọi bất đồng giữa các Quốc gia thành viên trong việc giải thích hoặc áp dụng Hiệp định này sẽ được giải quyết trên tinh thần hoà giải hưu nghị đến mức cao nhất giữa các bên có liên quan. Trong trường hợp không giải quyết được một cách hữu nghị, vấn đề đó sẽ được trình lên Hội đồng đã được đề cập tại Điều 7 của Hiệp định và nếu cần thiết, lên AEM.
Điều 9: Các ngoại lệ chung
Trong Hiệp định này không có điều khoản nào ngăn cản bất kỳ Quốc gia thành viên nào có hành động và áp dụng các biện pháp mà Quốc gia đó thấy cần thiết nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, cuộc sống của con người, động vật và cây trồng, sức khoẻ cũng như các giá trị lịch sử và khảo cổ của mình.
Điều 10: Các điều khoản cuối cùng
Chính phủ các Quốc gia thành viên cam kết áp dụng các biện pháp thích hợp để thực hiện nghĩa vụ đã được thoả thuận theo Hiệp định này.
Bất kỳ sự sửa đổi nào đối với Hiệp định này sẽ phải thực hiện trên nguyên tắc nhất trí và có hiệu lực khi tất cả các Quốc gia thành viên chấp nhận.
Hiệp định này có hiệu lực kể từ ngày ký kết.
Hiệp định này sẽ được Tổng Thư ký của Ban Thư ký ASEAN và Tổng Thư ký lưu chiểu sẽ nhanh chóng sao thành nhiều bản có xác nhận để chuyển cho các Quốc gia thành viên.
Không có một bảo lưu nào đối với bất kỳ Điều khoản nào của Hiệp định này.
Vậy theo chương trình CEPT, các nước sẽ tiến hành cắt giảm thuế quan đến 0-5% kể từ ngày 1/1/1993 trong vòng 15 năm. Gần đây, một lịch trình mới được đề nghị trong đó quy định thời gian cắt giảm thuế quan chỉ trong vòng 10 năm, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và hàng rào phi thuế quan. Điều này có nghĩa là, nếu thực hiện lịch trình mới thì đến năm 2003 các nước phải hoàn thành cắt giảm thuế quan theo cam kết. Để thực hiện chương trình giảm thuế này, toàn bộ các mặt hàng trong danh mục biểu thuế quan được chia vào một trong bốn danh mục sau:
Danh mục các sản phẩm giảm thuế gồm các mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan ngay với lịch trình giảm nhanh và giảm bình thường.
Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế gồm các mặt hàng tạm thời sẽ chưa phải giảm thuế và sau một thời gian nhất định, các quốc gia sẽ phải đưa toàn bộ các mặt hàng này vào giảm thuế.
Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm: Các mặt hàng trong danh mục này có thời hạn giảm thuế muộn hơn, cụ thể là năm 2010 hoặc muộn hơn nữa đối với mặt hàng nhạy cảm cao.
Danh mục loại trừ hoàn toàn: Gồm các sản phẩm không tham gia Hiệp CEPT. Đây là các sản phẩm có ảnh hưởng đến an ninh Quốc gia, đạo đức xã hội .... Bên cạnh việc cắt giảm thuế quan CEPT còn quy định việc xoá bỏ hạn chế về số lượng nhập khẩu, các rào cản phi thuế quan khác và các vấn đề hợp tác trong lĩnh vực hải quan.
> 20
20
15
10
5
0
1993 1998 2000 2001 2003 2008
Tiến trình cắt giảm thuế bình thường
Tỷ lệ (%)
Lịch trình cũ Lịch trình mới
> 20
20
15
10
5
0
1993 1998 2000 2001 2003 2008
Tình hình cắt giảm thuế nhanh
Tỷ lệ thuế(%)
Từ quá trình cắt giảm liên tục hàng năm và thực trạng dòng thuế của sáu nước thành viên cũ phản ánh xu hướng thuế quan theo CEPT đạt dưới 5% vào năm 2003, đồng thời nhằm đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại ASEAN tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khắc phục hậu quả khủng hoảng tài chính tiền tệ đang làm suy thoái kinh tế, Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 năm 1998 quyết định việc rút ngắn thực hiện CEPT còn 9 năm đối với 6 nước thành viên cũ và 10 năm tính từ khi gia nhập đối 4 nước thành viên mới với mục tiêu tối đa hoá dòng thuế 0-5%. Đồng thời, các nước thành viên cũng loại bỏ hạn chế về định lượng và các hàng phi thuế quan vốn đang cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực.
Việc trao đổi của các Quốc gia thành viên trong Chương trình CEPT dựa trên nguyên tắc có đi có lại có nghĩa là các nước sẽ cắt giảm thuế lẫn nhau. Để được hưởng ưu đãi thuế quan sản phẩm phải thoả mản các điều kiện. Thứ nhất, sản phẩm phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế. Thư hai, sản phẩm phải có mức thuế nhập khẩu bằng hoặc cao hơn 20%. Thứ ba, sản phẩm đó phải có chương trình giảm thuế được hội đồng AFTA thông qua. Thư tư, sản phẩm đó là một sản phẩm của ASEAN có hàm lượng nội địa ít nhất là 40%.
Đối với việc giảm thuế theo lộ trình CEPT để phục vụ cho việc trao đổi thuận lợi giữa các nước. Các nước hình thành hệ thống thủ tục hải quan bao gồm: Thống nhất biểu thuế quan theo hệ thống điều hoà của hội đồng hợp tác hải quan HS từ 6-10 chữ số. Hệ thống tính giá hải quan theo quy định của các nước ASEAN; Hệ thống thủ tục hải quan được thống nhất và chia thành ba luồng: Luồng xanh dành cho hàng hoá miễn giảm thuế, luồng vàng dành cho hàng hoá đóng thuế bình thường, luồng đỏ các hàng hoá cấm buôn bán, hàng hoá loại trừ.
Ngoài ra nội dung của AFTA còn quy định hợp tác ở lĩnh vực thương mại cũng là một trong những điểm quan trọng trong tiến trình tiếp cận mục tiêu tự do hoá thương mại cũng như xúc tiến hơn nữa mọi hoạt động trao đổi và mậu dịch của ASEAN. Quy định hợp tác đầu tư nhằm mục đích tự do hoá lĩnh vực đầu tư. Quy định hợp tác phát triển công nghiệp, hợp tác về tài chính ngân hàng.
II. Lịch trình cắt giảm thuế quan của việt nam
Việc công bố lịch trình giảm thuế với ASEAN là nghĩa vụ của mỗi nước thành viên.Thời hạn giảm thuế của lịch trình này đã được quy định rõ trong Hiệp định CEPT. Đối với Việt Nam, vấn đề quan trọng nhất là lịch trình giảm thuế phải được xây dựng phù hợp với phương hướng và các biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất cụ thể do việc tham gia AFTA đề ra, nhằm tranh thủ lợi thế của AFTA, phát huy và nâng cao hiệu quả cho nền sản xuất trong nước, khắc phục tối đa những bất lợi do giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Hiện nay, chúng ta đã và đang xây dựng một lộ trình Việt Nam tham ra AFTA. Lộ trình này gồm ba nội dung chính đó là: Lịch trình giảm thuế những mặt hàng đưa vào thực hiện giảm thuế theo CEPT; Kế hoạch áp dụng và xoá bỏ các biện pháp hạn chế về số lượng và các biện pháp phi thuế quan khác gắn với lịch trình giảm thuế; phương hướng và các biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất trong điều kiện Việt Nam thực hiện AFTA.
Ba nội dung trên của lộ trình đòi hỏi tính đồng bộ và thống nhất rất cao. Nếu lịch trình giảm thuế không được liên hệ với phương hướng điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư của từng ngành sản xuất, kế hoạch áp dụng và xoá bỏ các biện pháp phi thuế quan không đi theo và hổ trợ cho chương trình giảm thuế thì chúng ta khó có thể đảm bảo việc tham gia thực hiện AFTA một cách có hiệu qủa.
Thực hiện cam kết giữa Việt Nam và ASEAN, ngày 10/12/1995 tại phiên họp lần thứ 8 của Hội đồng AFTA Bộ trưởng tài chính Việt Nam đã công bố với các nước ASEAN bốn danh mục hàng hoá theo Hiệp định CEPT: Danh mục loại trừ hoàn toàn, Danh mục loại trừ tạm thời, Danh mục cắt giảm thuế quan, Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm. Các mục trên được đưa ra dựa trên cơ sở các nguyên tắc sau: Không gây ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách; Bảo hộ hợp lý cho nền sản xuất trong nước; Tạo điều kiện khuyến khích việc chuyển giao kỹ thuật, đổi mới công nghệ cho nền sản xuất trong nước; hợp tác với các nước ASEAN trên cơ sở quy định của Hiệp định CEPT để tranh thủ ưu đãi, mở rộng thị trường và thu hút đầu tư nước ngoài. Lịch trình giảm thuế của Việt Nam được công bố cụ thể như sau:
Danh mục các sản phẩm giảm thuế:
Tiến trình cắt giảm bình thường:
Sản phẩm có thuế suất lớn hơn 20% sẽ giảm xuống thấp hơn 20% vào1/1/1998; còn 0-5% vào 1/1/2003
Sản phẩm có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm xuống còn 0-5% vào 1/1/2000.
Tiến trình giảm nhanh:
Sản phẩm có thuế suất lớn hơn 20% giảm còn 0-5% vào 1/1/2000
Sản phẩm có thuế suất nhỏ hơn hoặc bằng 20% sẽ giảm còn 0-5% vào 1/1/1998.
Tuy tham gia sau, nhưng ngay từ tháng 10/1995, Việt Nam đã chính thức công bố danh mục giảm thuế nhập khẩu 1633 mặt hàng cho cả thời kỳ 1996-2000. D anh mục cắt giảm thuế quan ngay của Việt Nam chủ yếu bao gồm những mặt hàng đang có thuế suất thấp hơn 20% và một số mặt hàng có thuế suất cao nhưng Việt Nam đang có lợi thế xuất khẩu. Các mặt hàng được đưa vào cắt giảm thuế ngay của Việt Nam chỉ chiếm 50,51% tổng số các mặt hàng có trong biểu thuế, thấp hơn so với tỷ lệ của các nước ASEAN khác trung bình là 85%. Song đây là biện pháp an toàn nhất để Việt Nam có thời gian nghiên cứu kỹ thêm và rút ra các bài học kinh nghiệm trong những năm đầu thưc hiện CEPT.
Danh mục các sản phẩm tạm thời chưa giảm thuế (loại trừ tạm thời) sẽ:
Chuyển sang danh mục cắt giảm thuế trong vòng 5 năm từ 1/1/1996 –1/1/2000
Mỗi năm chuyển 20% số sản phẩm trong danh mục loại trừ tạm thời sang danh mục cắt giảm thuế.
Danh mục loại trừ tạm thời của Việt Nam được xây dựng căn cứ vào quy định CEPT về kế hoạch phát triển kinh tế 2010 của các ngành kinh tế trong nước nhằm đạt được yêu cầu không ảnh hưởng tới nguồn thu ngân sách và bảo hộ một số ngành sản xuất trong nước có tiềm năng phát triển. Danh mục này có khoảng 1200 mặt hàng chủ yếu bao gồm các mặt hàng có thuế suất trên 20% và một số mặt hàng tuy có thuế suất dưới 20% nhưng trước mắt còn phải bảo hộ bằng thuế nhập khẩu hoặc các mặt hàng đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan ngoài biện pháp hạn chế số lượng như phải có giấy phép của bộ quản lý chuyên ngành, hàng phải qua kiểm tra nhà nước về chất lượng hay là những mặt hàng dự kiến nâng thuế suất. Trong số những mặt hàng nói trên, từ 1/1/1999-1/1/2003 mỗi năm chúng ta phải chuyển 20% sang danh mục cắt giảm để điều hành cắt giảm.
Danh mục loại trừ hoàn toàn:
Là những sản phẩm hoàn toàn không được đưa vào danh mục cắt giảm thuế bao gồm các sản phẩm ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, sức khoẻ con người, động thực vật bảo tồn các giá trị văn hoá nghệ thuật. Danh mục loại trừ hoàn toàn này được xây dựng phù hợp với Điểm 9 của Hiệp định CEPT và thêm vào những mặt hàng mà Việt Nam hiện đang nhập khẩu nhiều từ các nước ASEAN nhưng không có khả năng xuất khẩuvà đang có mức thuế cao trong biểu thuế .Danh mục này hiện đang có trên 150 mặt hàng thuộc những nhóm hàng như: Các loại động vật sống, sữa, rượu, bia, thuốc lá, thuốc phiện, thuốc lổ, vũ khí, xăng dầu, ô tô chở khách dưới 15 chỗ ngồi
Danh mục sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm:
Các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm thực tế cắt giảm vào 1/1/2001và kết thúc vào 2010 với mức thuế suất 0-5%.
Các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến nhạy cảm cao cũng kết thúc vào năm 2010
Danh mục này được xây dựng dựa trên kinh nghiệm của các nứơc ASEAN và căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản suất trong nước về những mặt hàng này. Danh mục này hiện có gần 50 mặt hàng thuộc các nhóm hàng như: Thịt, trứng gia cầm, các loại hoa quả, thóc
Tiến trình cắt giảm, mặc dù theo quy định của CEPT là có hai kênh giảm nhanh và giảm thông thường đồng tuyến, nhưng vận dụng giữa các nước thành viên không quy định bắt buộc các nước phải theo tiến trình cắ giảm nhanh, Việt Nam đã không áp dụng tiến trình cắt giảm nhanh.Tuy vậy, các sản phẩm hiện có thuế suất 0-5%, tức là đã thoả mãn các yêu cầu của CEPT, có thể mặc nhiên được xếp vào loại thực hiện tiến trình cắt giảm nhanh. Do đó hai năm 1996-1997, Việt Nam trên thực tế không thực hiện cắt giảm thuế quan mà chỉ đưa 875 mặt hàng đã nằm ở khung thuế suất 0-5% vào thực hiện hiệp định CEP. Còn các mặt hàng có thuế suất trên 5% chỉ có thể tham gia bước cắt giảm thuế quan đàu tiên kể từ năm 1998 để đảm bảo nguồn thu và bảo hộ một phần cho sản suất trong nước.
Để hỗ trợ cho tiến trình cắt giảm thuế theo đúng cam kết, trong hai năm 1996-1997 Việt Nam tiến hành cải cách hệ thống theo hướng tách loại thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng hiện đang được đánh gộp với thuế nhập khẩu ra khỏi thuế nhập khẩu trước khi tiến hành cắt giảm thực sự thuế nhập khẩu. Do mức thuế phải giảm trên phần thuế nhập khẩu còn lại này sẽ thấp so với mức thuế nhập khẩu phải giảm nếu ta không phân tách các loại thuế nói trên và điều này sẽ góp phần không gây ra sự giảm sút đột ngột của các nguồn thu ngân sách từ thuế nhập khẩu.
Về vấn đề loại bỏ các biện pháp bảo hộ phi thuế quan. Việt Nam đã cam kết sẽ đệ trình sớm nhất danh mục các hạn chế về số lượng và các biện pháp phi thuế quan khác. Song các biện pháp phi thuế quan của Việt Nam khá đơn giản, chủ yếu là các biện pháp như cấp giấy phép hạn ngạch, trong khi đó các biện pháp mà các nước ASEAN đang áp dụng lại rất đặc biệt là các biện pháp về tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng là những biện pháp phức tạp và tinh vi mà ở Việt Nam hiện nay chưa áp dụng, cho nên để đáp ứng được yêu cầu bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, trước mắt, trước mắt Việt Nam cần phải ban hành gấp rút các biện pháp phi thuế quan bổ sung tương tự như các nước ASEAN đang áp dụng, nhất là những biện pháp trong tương lai có thể vẫn không bị loại bỏ, trước khi chúng ta đệ trình các danh mục biện pháp phi thuế quan của ta cho ASEAN và tiến hành loại bỏ chúng.
Trong lĩnh vực hải quan, Việt Nam cũng đang đàm phán với các nước ASEAN trên một loạt các vấn đề như: Điều hoà thống nhất quy trình thủ tục hải quan, lập luồng xanh thông quan nhanh cho các sản phẩm của CEPT và đặc biệt sẽ tiến tới ký hiệp định hải quan ASEAN.
Trên cơ sở đó Việt Nam xây dựng lịch trình tổng thể thực hiện CEPT /AFTA. Giai đoạn 2001-2006 tính tới thời điểm hiện nay có vào khoảng trên 6000 dòng thuế, trong đó có khoảng 4230 dòng thuế đã được đưa vào thực hiện CEPT 2000 trở về trước, số còn lại hiện nay trong danh mục loại trừ tạm thời và sẽ được đưa vào thực hiện CEPT trong hạn 3 năm 2001-2003. Nhưng đối với mặt hàng đã đưa vào thực hiện trương trình CEPT từ năm 2000 trở về trước thì lịch trình giảm thuế giai đoạn còn lại của các mặt hàng này được xây dựng căn vào lịch trình tổng thể của nước ta đã được chính phủ thông qua trên cơ sở phù hợp và tuân thủ các quy định của hiệp địnhh CEPT (cụ thể nhưng không duy trì quá 3 năm mức thuế suất của CEPT của một mặt hàng, mỗi bước cắt giảm không dưới 5% và mức thuế suất cuối cùng 0-5% vào năm 2006 ). Còn đối với khoảng gần 1900 mặt hàng hiện đang có trong danh mục loại trừ tạm thời sẽ được vào chương trình CEPT trong 3 năm còn lại 2001-2003 và thực hiện giảm mức thuế suất đạt mục tiêu thuế suất CEPT.
Các mặt hàng đến thời điểm năm 2000 vẫn chưa đưa vào thực hiện chươg trình CEPT hầu hết thuộc những mặt hàng đàm phán dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan và thuế hoá. Trong số gần 1900 dòng thuế thuộc danh mục loại trứ tạm thời, chỉ khoảng gần 700 dòng thuế là có mức thuế suất ưu đãi hiện hành hoặc dưới 20%, còn lại trên 1200 dòng thuế có thuế suất ưu đãi hiện hành từ 30% trở lên.
Theo lịch trình cắt giảm thuế tổng thể cũng được chính phủ thông qua từ năm 1997 thì chủ yếu là các mặt hàng có mức thuế suất ưu đãi MFN cao lại được đưa vào thực hiện cắt giảm sau cùng với bước cắt giảm mạnh và đột ngột vào những năm cuối sẽ khiến cho các doanh nghiệp được hưởng mức bảo hộ cao từ mức thuế quan sẽ rơi vào tình trạng khó khăn. Ngoài ra, việc cắt giảm thuế quan muộn sẽ tạo tâm lý thiếu chủ động cho các doanh nghiệp để phấn đấu nâng cao khả năng cạnh tranh ở các thị trường trong nước và quốc tế. Đồng thời việc cắt giảm nhiều dòng thuế có mức thuế cao vào những năm cuối sẽ khiến Việt Nam khó có khả năng bảo hộ được cho một số mặt hàng chủ yếu và thực sự cần thiết bảo hộ, về mặt đối ngoại theo đúng tinh thần Hiệp định CEPT đến năm 2001 thì tất cả các mặt hàng đã đưa vào cắt giảm của Việt Nam có thuế suất CEPT cao hơn 20% đều phải đưa xuống bằng hoặc thấp hơn 20%. Do đó, nếu thực hiện cắt giảm theo đúng lịch trình cũ thì Việt Nam sẽ vấp phải những phản ứng của các nước ASEAN. Trước tình hình này, Bộ tài chính đã dự kíên hướng tháo gỡ trên cơ sở chiến lược phát triển của các bộ, ngành đã được Thủ Tướng chính phủ thông qua, kết hợp với phân tích kim ngạch và diện mặt hàng thương mại chính giữa Việt Nam và các nước ASEAN để lựa chọn những mặt hàng cần thiết để duy trì mức thuế suất vừa đưa vào cắt giảm muộn. Đối với những mặt hàng khác, ưu tiên đưa những mặt hàng có thuế suất và chịu quản lý bằng các biện pháp phi thuế quan vào thực hiện cắt giảm trước, đảm bảo đúng cam kết mà vẫn giữ thế chủ động cho doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, các bước cắt giảm sẽ được Bộ tài chính đưa ra để các doanh nghiệp và cácBộ ngành tham khảo ý kiến.
Mặc dù là một nước đi sau và còn nhiều khó khăn, nhất là trong điều kiện nền kinh tế còn đang trong quá trình chuyển đổi và trình độ phát triển còn rất thấp, song Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng nhằm vưà đáp ứng được các yêu cầu của AFTA và CEPT vừa đảm bảo duy trì sự phat triển ổn định nền kinh tế của mình theo một tiến trình giảm thuế hợp lí. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng những cam kết của Việt Nam trong việc thực hiện AFTA và CEPT vẫn mang tính đối phó và chạy theo. Để đảm bảo tham gia AFTA một cách có hiệu quả nhất, đồng thời để chuẩn bị cho bước hội nhập tiếp theo với các tổ chức kinh tế lớn hơn như APEC và WTO, Việt Nam cần phải nghiên cứu kĩ hơn về AFTA /CEPT cà kịp thời điều chỉnh thích hợp các chính sách kinh tế của mình theo hướng một nền kinh tế mở.
II. NHững cơ hội và thách thức đối với Việt Nam khi tham gia vào AFTA /CEPT
Xét trên góc độ vĩ mô của tổng thể nền kinh tế AFTA sẽ mở ra nhiều cơ hội mới, nhưng đồng thời đặt ra nhiều thách thức mới đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh của nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kì chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và kém hiệu quả sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của nhà nước. Hầu hết các ngành công nghiệp còn non yếu, xuất khẩu còn ở dạng nguyên liệu thô và thuế xuất nhập khẩu còn là nguồn thu quan trọng. Việt Nam bắt đầu tham gia AFTA 1/1/1996 bằng việc đưa 875 mặt hàng vào thực hiện CEPT song tất cả mặt hàng này đều nằm ở khung thuế suất 0-5%, mặt khác chúng ta cũng đã đệ trình cho ASEAN danh mục các biện pháp phi thuế quan để tiến hành loại bỏ chúng vầ trên thực tế AFTA đã có một số tác động sau đối với nền kinh tế Việt Nam.
Về thương mại :
Nhập khẩu: theo số liệu, nhập khẩu nước ta đã chiếm khoảng 30% trong tổng kim ngạch nhập khẩu từ các nước ASEAN, trong dó chiếm tỷ trọng lớn là máy móc thiết bị và nguyên vật liệu thô dùng cho sản xuất. Do các mặt hàng này đã có thuế suất dưới 5%. Mặt khác, một số mặt hàng mà Việt Nam được nhập khẩu với một khối lượng khá lớn từ ASEAN như xăng dầu, xe máy chưa được đưa vào danh mục cắt giảm thuế cho nên có thể nói trước mắt AFTA chưa có tác động làm tăng đáng kể nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEAN.
Tuy nhiên về lâu dài do AFTA có tác động thay đổi cơ cấu công nghiệp theo hướng chuyên môn hoá do đó dẫn đến hạ thấp giá thành sản xuất và nâng cao chất lượng hàng hoá ở các nước ASEAN nên mặc dù mức thuế không thay đổi, song khả năng cạnh tranh của một số hàng hoá ASEAN tại thị trường Việt Nam vẫn có thể cao hơn trước mà nhờ đó có thể chiếm thêm thị phần cũng về lâu dài Việt Nam phải đưa ra những mặt hàng từ danh mục loại trừ tậm thời có thuế suất lớn hơn 20% vào danh mục cắt giảm thuế và loại trừ dần các hàng rào phi thuế quan nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu khi đó rất có thể nhập khẩu nhất là các mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào Việt Nam sẽ tăng nên nếu như mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không cạnh tranh lại được.
Về xuất khẩu: về lý thuyết và lâu dài AFTA có thể tác động làm tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường ASEAN nhờ giảm thuế quan và loại bỏ các hàng rào phi thuế quan. Trong thực tế khả năng AFTA làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này do một số nguyên nhân sau:
Các mặt hàng chính xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là dầu thô, nông, lâm, hải sản chưa qua chế biến hoặc mới qua sơ chế, dệt may, giầy dép và các sản phẩm da, hàng thủ công mỹ nghệ, một số khoáng sản thô Những mặt hàng này cũng tương tự như những mặt hàng xuất khẩu của các nước ASEAN.
CEPT dành ưu đãi chủ yếu cho hàng chế biến trong khi đó tỷ trọng hàng chế biến trong xuất khẩu của Việt Nam chỉ chiếm 18% trong tổng số kim ngạch của xuất khẩu. Trong những mặt hàng có khả năng xuất khẩu của Việt Nam thì nhiều mặt hàng chưa được các nước ASEAN khác đưa vào danh mục cắt giảm thuế quan như dầu thô nông sản. Tuy nhiên một số mặt hàng nông sản mới được bổ xung vào thực hiện CEPT song tỷ trọng nó trong hàng xuất khẩu của Việt Nam lại rất nhỏ.
Tuy nhiên, như đã nói ở tên về lâu dài AFTA có tác động làm thay đổi cơ cấu công nghiệp ở các nước ASEAN một số ngành sử dụng nhiều lao động hoạc tài nguyên như dệt may chế biến thực phẩm ở một số nước sẽ giảm đi trong khi đó lại có lợi thế phát triển những ngành này và như vậy tất yếu sẽ dẫn đến Việt Nam có thể tăng xuất khẩu vào sản phẩm của ngành này trên thị trường ASEAN.
Về lâu dài0, AFTA cũng tác động gián tiếp làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường ngoài ASEAN do nhận được đầu vào cho sản xuất xuất khẩu từ các nước ASEAN với giá rẻ hơn. Mặt khác với tư cách là một thành viên của AFTA Việt Nam có điều kiện khai thác những lợi thế mới trong quan hệ thương mại với các nước lớn. Chẳng hạn trong tương lai Việt Nam có thể được hưởng hệ thống thuế quan phổ cập của Mỹ (GSP).
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý thêm rằng các nước ASEAN họ cũng được hưởng những lợi ích tương tự. Do đó, trong việc mở rộng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ngoài ASEAN, Việt Nam phải chấp nhận sự cạnh tranh không kém phần quyết liệt với các nước thành viên trong hiệp hội.
Về đầu tư nước ngoài:
Ngoài những lợi thế đầu tư nước ngoài sẵn có, Việt Nam tham gia ASEAN và AFTA sẽ có tác động thu hút mạnh mẽ hơn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đặc biệt trong ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động và tài nguyên như chế biến thực phẩm dệt may khai khoáng ..Bởi vì ngoài các yếu tố khác như nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ nghĩ đến không chỉ thị trường Việt Nam với 80 triệu dân mà là cả thị trường ASEAN khoảng 500 triệu dân. Ngoài ra, Việt Nam tham gia vào ASEAN, AFTA và cũng tham gia khu vực đầu tư ASEAN sẽ tạo ra một số thuận lợi về thủ tục hành chính và về tâm lý cho các nhà đầu tư ASEAN nói riêng và các nhà đầu tư nước ngoài nói chung vào Việt Nam.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng đây là cơ hội chung cho các nước AFTA, nhưng đối với từng nước cung là cơ hội và cũng là thách thức. Vì rằng, trước đây Việt Nam không phải là thành viên của AFTA, để vượt qua hàng rào thuế quan và các hạn chế nhập khẩu vào thị trường Việt Nam các nhà đầu tư buộc phải đầu tư vào Việt Nam, nhưng nay Việt Nam là thành viên của AFTA và nếu môi trường đầu tư ở Việt Nam không hấp dẫn thay vì đầu tư vào Việt Nam họ có thể chỉ mở rộng hoặc tăng thêm công xuất ở các nhà máy tại các nước thuộc AFTA, đặc biệt đối với dây truyền đã gần hết khấu hao nhưng vẫn vận hành tốt hoặc đầu tư mới vào các nước ASEAN khác rồi từ đó bán hàng sang Việt Nam.
Về nguồn thu ngân sách:
Tham gia AFTA và thực hiện cắt giảm thuế quan theo CEPT chắc chắn có tác động đến nguồn thu ngân sách ít nhất là trong giai đoạn đầu khi Việt Nam tham gia cắt giảm thuế quan.Theo số liệu nhập khẩu từ các nước ASEAN chiếm 1/3 tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam, trong đó thuế nhập khẩu đóng góp khoảng 1/4 tổng thu ngân sách sẽ bị giảm đáng kể.
Tuy nhiên, theo biểu thuế nhập khẩu hiện hành thì Việt Nam đã có 53,1% số nhóm mặt hàng nằm trong khung thuế suất 0-5%. Như vậy thực chất Việt Nam chỉ phải cắt giảm thuế suất của khoảng gần 50% số nhóm mặt hàng. Mặt khác, đối với mặt hàng nhập khẩu hiện nay Việt Nam chỉ áp dụng một số loại thuế duy nhất là thuế nhập khẩu trong đó bao gồm cả thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt đối với những mặt hàng cao cấp, xa xỉ phẩm. Hiện nay chúng ta đã và đang cải cách thuế nhằm tách thuế giá trị gia tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt ra khỏi thuế nhập khẩu từ đó cắt giảm thuế theo CEPT thì thuế suất thực tế sẽ giảm thấp hơn nhiều.
Hơn nữa, về lâu dài AFTA sẽ có tác động làm tăng hiệu quả sản xuất trong nước, tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và tăng kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN khác cũng như các nước ngoài ASEAN. Như vậy, chúng ta có cơ sở để tính toán rằng phần giảm của thuế nhập khẩu được thực hiện CEPT sẽ được bù lại bằng phần tăng thu do kim ngạch buôn bán tăng và tăng từ các loại khác như thuế giá trị gia tăn , thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập công tyTuy nhiên đây cũng chính là lý thuyết, còn thực tế có được như vậy hay không còn tuỳ thuộc vào sự phát triển sản xuất trong nước, cào hiệu quả cuả hệ thống thuế và bộ máy thu thuế.
Về công nghiệp :
Về mặt công nghiệp, AFTA tạo điều liện cho các nước ASEAN mở rộng và thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhằm khuyến khích sản xuất trong nước, từng bước nâng cao sản xuất trong nước, từng bước nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ để tăng khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, khu vực và thế giới. AFTA là sân đấu để tuyển chọn các doanh nghiệp, tạo ra cơ hội và động lực cho các cơ sở sản xuất làm ăn có hiệu quả, đồng thời loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém. Như vậy AFTA có tác động làm thay đổi cơ cấu công nghiệp ở Việt Nam trong đó một số ngành sẽ phát triển còn một số ngành khác sẽ teo đi.
Việt Nam khi tham gia vào AFTA trên thực tế chấp nhận mở cửa thị trường và đặt nền công nghiệp Việt Nam trước sự cạnh tranh quyết liệt hơn với các nền công nghiệp phát triển hơn nhiều trong khu vực. Tuy nhiên, AFTA cũng tạo cho chúng ta điều kiện, thời gian chuẩn bị và vươn lên để đứng vững và phát triển bởi vì: Thứ nhất, tất cả thời hạn thực hiện và hoàn thành AFTA /CEPT đối với Việt Nam được cộng thêm 3 năm. Thứ hai , cũng như tất cả các nước ASEAN khác, Việt Nam không cần phải đưa ngay cùng một lúc tất cả các danh mục hàng hoá và chương trình giảm thuế, những mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu cao có khối lượng giá trị tiêu thụ lớn trên thị trường nội địa sẽ có thể đưa vào giảm thuế chậm hơn. Thứ ba, sau khi một mặt hàng được giảm thuế thì các hàng rào phi thuế quan sau đó 3 năm mới xoá bỏ. Thứ tư, việc giảm thuế nhập khẩu đối với một số nguyên liệu sản xuất cấu thành đầu vào sẽ góp phần làm giảm chi phí sản xuất và do vậy góp phần tăng khả năng cạnh tranh cho một số sản phẩm công nghiệp.
Vấn đề đặt ra ở các nhà lập chính sách cũng như các nhà kinh doanh làm sao tận dụng được những cơ hội và thời gian nói trên một cách có hiệu quả, định hướng cơ cấu công nghiệp và mặt hàng như thế nào để có thể phát huy lợi thế so sánh của Việt Nam và tham gia có hiệu quả vào sự phân công lao động trong khu vực. Trên cơ sở định hướng phát triển công nghiệp theo cơ cấu kinh tế mở, nhà nước phải cải thiện môi trường và đầu tư thích đáng cũng như áp dụng những biện pháp bảo hộ hợp lí cho các ngành có tiềm năng phát triển để có thể cạnh tranh trên thị trường trrong nước mà còn trong khu vực và trên thế giới, đồng thời xoá bỏ dần bao cấp hoặc bảo hộ đối với ngành kém hiệu quả, không có tiềm năng phát triển.
Xết trên góc độ vi mô ta có những cơ hội thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA /CEPT. Quan điểm của nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cho rằng tham gia vào AFTA doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn thách thức hơn là cơ hội. Lí giải cho quan điểm này từ thực trạng yếu kém của doanh nghiệp Việt Nam cũng như năng lực cạch tranh của doanh nghiệp Việt Nam trước các đối tác ASEAN. Tuy nhiên nếu xem xét nội dung của AFTA đối chiếu vào hoạt động doanh nghiệp Việt Nam, có thể thấy nếu doanh nghiệp Việt Nam có giải pháp chiến lược đúng đắn sẽ tận dụng được những cơ hội thuận lợi.
Thứ nhất, AFTA tạo điều kiện thuận lợi mở cửa thị trường hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam hội nhập vào thương mại khu vực.
Nội dung của AFTA đã đưa ra những nguyên tắc xoá bỏ hàng rào thuế quan, thực hiện nguyên tắc không phân biệt đối xử trong thương mại, các tranh chấp thương mại được giải quyết công bằng bình đẳng trong đàm phán. Thông qua các nguyên tắc này khi các doanh nghiệp tham gia vào AFTA các sản phẩm sẽ được hưởng thuế suất tối huệ quốc (MFN) mà các nước ASEAN dành cho các nước WTO.
Thực tế thương mại hai chiều giữa Việt Nam và ASEAN kể từ khi Việt Nam là thành viên chính thức cuả ASEAN và khi Việt Nam tham gia vào AFTA đến nay cho thấy, các sản phẩm đóng góp của doanh nghiệp Việt Nam trong thương mại khu vực tăng lên.
Thứ hai, thông qua AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội thuận lợi mở rộng hợp tác đầu tư, chuyển giao công nghệ, tận dụng lợi thế sẵn có về công nhân, tài nguyên thiên nhiên nâng cao năng lực cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước ASEAN.
Khi môi trường thương mại nội bộ khu vực ngày càng tự do cũng có nghĩa là mức độ hội nhập kinh tế giữa các nước thành viên ngày càng tăng lên. Các hình thức liên kết khác như đầu tư nội bộ ASEAN (AIA), hợp tác công nfghiệp ASEAN (AICO), tài chính, giao thông vận tải, năng lượng đang tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam một sân chơi rộng để có thể nâng cao chất lượng của sản phẩm. Mặt khác, do có đảm bảo bằng cam kết đa phương nên các nhà đầu tư ASEAN và các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư và chuyển giao công nghệ tại thị trường Việt Nam cũng như các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài cũng dược đối xử bình đẳng.
Thứ ba, tham gia AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng rút ngắn khoảng cách tụt hậu và tranh thủ bổ sung các lợi thế sẵn có giữa các doanh nghiệp nội bộ khu vực.
Mặc dù có sự trùng lặp về cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN nhưng có nhiều lĩnh vực doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác tại thị trường ASEAN như Việt Nam có thế mạnh các sản phẩm nông sản, hàng dệt may khi đó ta cũng có nhu cầu nhập khẩu các thiết bị, máy móc hạng trung bình, các sản phẩm hoá chất, bán thành phẩm từ các nước ASEAN với giá thấp hơn so với khu vực khác trên thế giới. Nếu tranh thủ được các lợi thế này, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có lợi gia tăng khả năng cạnh tranh với các đối tác bên ngoài ASEAN về giá cả, chi phí vận chuyển. Ngoài ra, trong quá trình hội nhập kinh tế , các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi kinh nghiệm quản lý, tiếp thu kỹ thuật cộng nghệ, đặc biệt các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ từ các nước ASEAN khá .
Thứ tư, vị thế của doanh nghiệp Việt Nam được cải thiện nhờ quá trình đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ khu vực và thế giới.Trên cơ sở nguyên tắc đồng thuận cũng như sức mạnh tập thể của tổ chức ASEAN, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tạo được thế và lực trong đàm phán thương mại song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế cũng như các tổ chức quốc tế như APEC, EU, WTO
Ngoài những lợi thế như trên, doanh nghiệp Việt Nam cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Đánh giá một cách khách quan có thể thấy được thực trạng doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu cả thế và lực. Hơn 90% doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp vừa và nhỏ với số lượng vốn dưới 5 tỷ đồng Việt Nam. Trong khi đó cơ sở hạ tầng máy móc, thiết bị của các doanh nghiệp còn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Hơn nữa các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn trong quá trình chuyển đổi cơ cấu, phần lớn các sản phẩm kém khả năng cạnh tranh do chi phí tăng cao (nhập khẩu nguyên liệu thô, công suất máy móc thấp, khả năng quản lý công nhân có tay nghề cao và khả năng hạn chế về tiếp thị ). Mặt khác, các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới vào đầu những năm 90, do đó gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm tiếp cận thị trường, cũng như thông tin khác cần thiết kiên quan tới quá trình hội nhập. Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam cho đến nay vẫn chưa xây dựng được nội dung hoạt động và chiến lược kinh doang của doanh nghiệp trước sự cọ sát với các đối tác kinh doanh trong khu vực. Từ thực trạng trên các doanh nghiệp Việt Nam hiện đang phải đương đầu với một số khó khăn thách thức sau đây.
Năng lực cạnh tranh còn yếu, năng suất lao động, hiệu quả của các sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp còn thấp. Hiện trạng doanh nghiệp Việt Nam hiện có khoảng 53000 doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Tuy nhiên, nếu so sánh với các doanh nghiệp các nước ASEAN, phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ, trình độ năng công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa đủ sức canh tranh. Hơn nữa, máy móc trang thiết bị của doanh nghiệp Việt Nam phần lớn tiêu hao năng lượng nguyên liệu lớn nhiều so với doanh nghiệp của một số nước ASEAN khác.Trình độ công nghệ Việt Nam lạc hậu 25-30 năm so với Thái lan dẫn đến chi phí đầu vào cao hơn 30% đến 50% so với các đối tác ASEAN khác. Thuận lợi của các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là một số doanh nghiệp độc quyền của nhà nước (Bưu điện, Điện lực, Xăng dầu ) vì thế không phản ánh được thực lực kinh doanh của các doanh nghiệp này. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp Việt Nam sản xuất không hiệu quả. Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp còn chậm do nhiều nguyên nhân (cơ sở pháp lí, tâm lí do dự, thói quen bao cấp, khả năng kinh doanh ) Dođó, khả năng cạnh tranh, tính năng động của các doanh nghiệp còn yếu.
Vốn cân đối và sử dụng vốn để đầu tư và tái đầu tư sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam còn có những vấn đề bất ổn. Nếu so sánh tiềm năng nguồn vốn của doanh nghiệp một số nước ASEAN khác, vốn đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam đều trong tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng. Theo số liệu doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cần phải huy động 20000 tỷ đồng, chưa kể đến nguồn vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, mặt bằng sản xuất Riêng nguồn vốn lưu động mới chỉ đáp ứng 60% nhu cầu.
Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự chuẩn bị đầy đủ cho quá trình hội nhập kinh tế khu vực, chưa đưa ra chiến lược, chính sách thích ứng để tham gia AFTA. Vấn đề này liên quan đến nhiều yếu tố. Trước hết, mật độ phổ cập thông tin liên lạc đến vấn đề AFTA đối với các doanh nghiệp còn thiếu và không đồng bộ. Ngoài ra, lịch trình cắt giảm thuế theo nội dung CEPT về tổng thể được chuẩn bị tương đối đầy đủ nhưng các danh mục cắt giảm thuế của từng doanh nghiệp triển khai còn chậm chạp và lúng túng. Nhìn chung doanh nghiệp Việt Nam chưa định ra được chiến lược và chính sách cạnh tranh sản phẩm để đến năm 2006, khi kết thúc chương trình tự do hoá thương mại của Việt Nam trong khuôn khổ AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng chủ động cạnh tranh để chiếm thị phần tiêu thụ sản phẩm ở trên thị trường trong nước và khu vực. Phần lớn các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là sản phẩm sơ chế, sử dụng nhiều lao động do đó giá trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh yếu so với sản phẩm doanh nghiệp các nước ASEAN khác. Do đó cán cân thương mại giưã Việt Nam và ASEAN còn chênh lệch.
Khả năng tiêu thụ ở thị trường nội địa chậm, hạn chế đến kích thích doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất, cải cách cơ cấu mặt hàng, nâng cao năng lực cạch tranh. Vấn đề này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn làm giảm tốc độ đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Thực tiễn đang diễn ra tại thị trường Việt Nam cho thấy tình trạng cung vượt quá cầu trong một số sản phẩm như ô tô, xi măng, sắt thép, vải sợi Kết quả dẫn đến vốn tồn đọng khó lưu chuyển tăng lãi suất ngân hàng của các doanh nghiệp Việt Nam.
Từ cơ hội và thách thức nêu trên, bài toán đặt ra với các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập khu vực nói chung và tham gia AFTA nói riêng tìm ra những giải pháp khả thi và có hiệu quả sau:
Thứ nhất, cải thiện chiến lược và chất lượng kinh doanh của các doanh nghiệp. Mục đích giải pháp này là nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia vào AFTA. Giải pháp này bao gồm hai biện pháp tiến hành động bộ vừa cải thiện chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp vừa tiến hành kinh doanh hiệu quả của các doanh nghiệp.
Biện pháp cải thiện chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cần tập trung vào một số vấn đề. Cải tiến phương thức quản lý hoạt động, đặc biệt là quản lý tài chính, quản lý các yếu tố đầu vào,nhằm làm giảm chi phí sản xuất kinh doanh, tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đầu tư đổi trang thiết bị công nghệ gắn với năng lực quản lý và trình độ tay nghề của cán bộ, công nhân trong doanh nghiệp, Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mở rộng mạng lưới tiếp thị để tạo thêm giá trị cho sản phẩm. Quản lý chất lượng sản phẩm trước trong và sau giai đoạn sản xuất. Đặc biệt là các sản phẩm của doanh nghiệp phấn đấu đạt chất lượng quốc tế, cải tiến chất lượng bao bì và nhất thiết các sản phẩm phải thực hiện mã vạch. Để thực hiện các vấn đề trên đây các doanh nghiệp Việt Nam cần có những thông tin đầy đủ, cập nhật về công nghệ, thị trường sản phẩm, có sự hỗ chợ tư vấn chuyên môn hoá quản lý.
Xây dựng chiến lược doanh nghiệp, bên cạnh chiến lược tổng thể của nhà nước, bộ chủ quản, từng doanh nghiệp cũng phải xây dựng chiến lược doanh nghiệp riêng. Nội dung chiến lược tập trung vào các vấn đề cơ bản như:
Phân tích lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong tương quan với các doanh nghiệp cùng ngành các đối tác cạnh tranh. Xác định các đặc điểm kinh tế chủ chốt như thị trường, thị phần, các điều kiện của thị trường, khách hàng, công nghệ, đặc điểm của sản phẩm, quy mô tối ưu của sản phẩm Xác định các nhân tố tác động đến sự phát triển từng ngành, điều kiện cạnh tranh, điều kiện thay đổi công nghệ, nguyên vật liệu, phương hướng kinh doanh, xu hướng tiêu dùng của thị trường. Phân tích các nhân tố cạnh tranh chủ yếu với các doanh nghiệp các đối thủ cùng ngành, các đối thủ cùng ngành tương tự, các đối thủ mới và tiềm năng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp với các nhà cung ứng nguyên nhiên vật liệu, vốn đầu tư, quan hệ với khách hàng.
Nghiên cứu, dự báo tình hình và sự cạnh tranh trên thị trường trong nước, khu vực và trên thế giới trong bối cảnh Việt Nam hội nhập với các tổ chức quốc tế và khu vực AFTA , APEC, WTO. Đồng thời cũng nghiên cứu tác động xu hướng chuyển động thương mại của một số đối tác cạnh tranh với thị trường Việt Nam.
Từ cơ sở trên các doanh nghiệp xác định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp tập trung vào một số vấn đề sau. Một là, chọn lựa hướng chiến lược cụ thể cho doanh nghiệp trên cơ sở phân tích các yếu tố thuận lợi của doanh nghiệp, về sản phẩm, chi phí sản xuất yếu tố giá thành khả năng tiêu thụ sản phẩm Hai là ,tạo lợi thế cạnh tranh thông qua giá trị gia tăng của sản phẩm và dịch vụ thiết kế sản phẩm, lựa chọn và nghiên cứu các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, công tác tiếp thị phù hợp với khách hàng trong nước, khu vực và thế giới. Ba là, phải đề ra các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn trong chiến lược kinh doanh tổng thể của từng doanh nghiệp, trong đó cần chú ý đến mục tiêu trước mắt cũng như dự báo về từng loại sản phẩm nhằm làm cho sản phẩm của từng doanh nghiệp vừa có tính thích ứng với thị trường hiện tại vừa đón bắt được xu hướng của thị trường dự báo.
Thứ hai, từng bước cải thiện chất lượng môi trường kinh doanh của doanh nghiệp. Nó là hội tụ nhiều yếu tố khác nhau bao gồm các biện pháp vĩ mô và vi mô nhằm tạo cho doanh nghiệp biết sử dụng khai thác quy trình từ sản xuất đến lưu thông hàng hoá, các yếu tố này bao gồm: Biện pháp xúc tiến xuất khẩu, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nâng cao trình độ quản lý và tay nghề , các chính sách hỗ trợ sản phẩm Quan trọng hơn cả là các doanh nghiệp phải xác định việc tham gia AFTA là nhiệm vụ, trách nhiệm của chính doanh nghiệp để tồn tại phát triển trong điều kiện cạnh tranh mở của nền kinh tế.
Thứ ba, cần có sự hỗ trợ của nhà nước đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình tham gia AFTA. Xét ở phạm vi điều tiết vĩ mô vai trò của nhà nước có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA. Trước hết, nhà nước cần bảo đảm hài hoà các lợi ích ngắn, trung hạn và dài hạn giữa ba bộ phận nhà nước, doanh nghiệp và người tiêu dùng trong khi xây dựng lộ trình tham gia AFTA. Do đó, vấn đề đặt ra ở đây là trước khi đưa ra các chính sách liên quan đến AFTA, nhà nước cần có sự tham khảo ý kiến đóng góp của các nhà doanh nghiệp nhằm tránh tình trạng chính sách đưa ra không hiệu quả hoặc thay đổi chính sách liên tục gây nên sự xáo trộn kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp.
Nhà nước có vai trò điều tiết và làm lành mạnh hoá cơ chế tài chính quốc gia, đảm bảo duy trì được các cân đối lớn của nền kinh tế. Đặc biệt nhà nước đưa ra các biện pháp, cơ cấu lại nguồn thu ngân sách để bù đắp cho phần thiếu hụt do cắt giảm thuế nhập khẩu thông qua các chính sách cải cách thuế, chuyển từ thuế gián thu sang thuế trực thu.
Nhà nước cũng cần có chính sách cụ thể, hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp trong quá trình tham gia AFTA. Ưu tiên tận dụng, sửa đổi bổ sung những ưu đãi thuế cho sản xuất, xuất khẩu. Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu, đặc biệt là những sản phẩm có tính chất nhạy cảm cao (nông sản, nguyên liệu, thực phẩm). Cải thiện nhanh chóng việc đáp ứng vốn lưu động cho các doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh các sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao và cạnh tranh cao. Chính sách sử dụng ngoại hối của doanh nghiệp, trong đó quy định tỷ lệ hợp lý giữa phần ký thác ngoại hối vào ngân hàng và phần được sử dụng tự do ngoại hối của doanh nghiệp trong quá trình giao dịch xuất nhập khẩu. Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp, thực hiện quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Việt Nam, đa dạng hoá các hình thức sở hữu tạo điều kiện cho doanh nghiệp chức năng chủ động trong việc hội nhập và hợp tác doanh nghiệp với các đối tác doanh nghiệp của các nước ASEAN .
Thứ tư , kết hợp giữa việc tham gia AFTA với các hình thức hợp tác kinh tế khác giữa doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp ASEAN.
Tài liệu tham khảo
1-Hội nhập AFTA cơ hội thách thức
GS. TS Tô Xuân Dân – PGS Đỗ Đức Bình
2- Kinh tế học quốc tế
GS. TS Tô Xuân Dân- GS TS Đỗ Kim Giang. NXB Giáo Dục
3- Việt Nam hội nhập ASEAN hợp ýac và phát triển
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
4- Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á ASEAN
Bộ ngoại giao vụ ASEAN
5- Danh mục hàng hoá và thuế suất các mặt hàng của Việt Nam thực hiện
Hiệp định về ưu đãi (CEPT ) của các nước ASEAN
6- Tạp chí Tài chính
7- Tạp chí kinh tế Châu á Thái Bình Dương
8- Tạp chí phát triển kinh tế
9- Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á
10- Tạp chí Thương mại
11- Tạp chí Việt Nam và Đông Nam á ngày nay
12- Tạp chí nghiên cứu Kinh tế
13- Tạp chí Thương nghiệp va thị trường Việt Nam
14- Tạp chí nhữmg vấn đề kinh tế thế giới.
15- Tạp chí thông tin chiến lược chính sách công nghiệp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV040.doc