- Để tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng công bằng trong kinh doanh chính sách cạnh tranh quốc gia cần bao gồm các bộ phận:
+Xoá bỏ các quy đinh hạn chế cạnh tranh, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu.
+Kiểm soát độc quyền, bao gồm độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước lớn trong và ngoài lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
+Ban hành và thực hiện luật cạnh tranh.
- Tiếp tục đổi mới quan niệm, nhận thức về cạnh tranh. Côi đó là một động lực phát triển kinh tế, ổn định cho phát triển, đảm bảo lợi ích quốc gia, an ninh và quốc phòng.
- Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho kinh doanh.
- Các biện pháp cụ thể khác:
+Thành lập doanh nghiệp mới.
+Đất đai: chuyển chế độ phê duyệt chuyển đổi mục đích và quyền sử dụng theo chế độ đăng ký tại một cơ quan. Cho thuê đất theo quy hoạch và xây dựng khu công nghiệp là hướng giải quyết thuận lợi cho các loại doanh nghiệp có nhu cầu phát triển.
+Vốn: giảm dần tiến tới chấm dứt các khoản vay tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, xoá bỏ giới hạn mua cổ phần của các đối tượng: người quản lý, người ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1699 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cạnh tranh trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A- Mở đầu
Hiện nay nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế.Thực chất đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa . Vì lợi ích kinh tế và để tồn tại buộc các chủ thể kinh tế phải cạnh tranh. Cạnh tranh là động lực, là một trong những nguyên tắc cơ bản tồn tại khách quan và không thể thiếu được của nền sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Đối với mỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo sức ép hoặc kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ, thiết bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành vàgiá bán hàng hoá. Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng người kinh doanhchuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử dụng có hiệu quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh tranh doanh nghiệp yếu kém bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện, doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng hợp lý. Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng chính là tạo ra nhiều lựa chọn cho khách hàng, cho người tiêu dùng.
Chính vì sự cần thiết đó của cạnh tranhmà em đã chọn đề tài: “Cạnh tranh trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Đề án gồm 3 nội dung chính:
Phần I: Lý luận chung về cạnh tranh và độc quyền.
Phần II:Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam.
Phần III:Một số giải pháp và kiến nghị.
B-Nội dung chính
I. Lý luận chung về cạnh tranh và độc quyền:
1. Duy trì cạnh tranh và kiểm soát độc quyền là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường:
* Những hiểu biết chung về kinh tế thị trường:
- Cơ chế thị trường là guồng máy tự sản xuất và lưu thông hàng hoá, điều tiết sự hoạt động của kinh tế thị trường do sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có.
- Tại Việt Nam hiện nay việc phát triển kinh tế thị trường là sự cần thiết khách quan do:
+ Phân công lao động xã hội hay còn gọi là phân công xã hội đã phát triển. Đó là sự tách biệt của các loại hoạt động lao động khác nhau với bốn dạng phân công lao động là: Phân công chung, phân công riêng, phân công theo lãnh thổ và phân công trong nội bộ. Việc dẫn đến phân công lao động trong xã hội là do sự phát triển của lực lượng sản xuất nhưng ngược lại phân công lao động phát triển cũng là nhân tố thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nền kinh tế nước ta hiện nay tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những đặc điểm sau:
+ Trình độ kinh tế nước ta kém phát triển. Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội thấp kém. Cơ sở vật chất kỹ thuậtcông nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu, kém sức cạnh tranh. Nền kinh tế nước ta vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán, phân công lao động chưa phát triển, tỷ trọng hàng hoá chưa cao đặc biệt trong nông nghiệp. Trình độ quản lý còn yếu, chúng ta còn thiếu những cán bộ quản lý kinh doanh có trình độ. Quan hệ kinh tế vẫn còn dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy làm sơ cứng các mối quan hệ kinh doanh. Mức sống dân cư thấp dẫn đến sức mua kém kéo theo kinh tế không phát triển.
+ Nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế chuyển hoá lẫn nhau, có sự quản lý của nhà nước.
+ Cơ chế điều hành nền kinh tế là cơ chế thị trường với sự quản lý của nhà nước.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối trong đó phân phối theo động là chủ yếu.
* Cạnh tranh - đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, động lực thúc đẩy phát triển trong kinh tế thị trường:
- Mục tiêu và chức năng của chính sách cạnh tranh:
+ Chính sách cạnh tranh theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các biện pháp của nhà nước để cạnh tranh được tồn tại như một công cụ điều tiết của kinh tế thị trường. Như vậy chính sách cạnh tranh hay rộng hơn là thể chế cạnh tranh bao gồm những biện pháp chống cạnh tranh không lành mạnh và những biện pháp chống hạn chế cạnh tranh. Nội dung của chính sách sẽ được phân loại theo cấu trúc thị trường, hành vi ứng xử và kết quả đạt được trên thị trường. Kết quả cạnh tranh sẽ xác định vị thế của doanh nghiệp trên thị trường. Vị thế của doanh nghiệp trên thị trường chỉ mang tính tương đối, chính vì vậy trong thực tế, bên cạnh những chiến lược để nâng cao vị trí tuyệt đối của mình, một số doanh nghiệp còn tìm cách làm giảm vị trí tuyệt đối của các đối thủ hoặc kìm chế số lượng đối thủ tham gia nhập cuộc. Như vậy phương thức cạnh tranh của các doanh nghiệp bao gồm cả những biện pháp tích cực lẫn biện pháp tiêu cực đối với hoạt động kinh tế. Mỗi nước đặt ra cho chính sách cạnh tranh những mục tiêu khác nhau. Việc áp dụng nguyên mẫu mô hình chính sách cạnh tranh của nước này vào mô hình của nước khác chắc chắn sẽ không thu được kết quả như mong đợi, thậm chí còn làm nảy sinh những hậu quả tai hại cho nền kinh tế nhưng có thể tham khảo để học tập. Chính sách cạnh tranh của Mỹ có ba mục tiêu: tăng phúc lợi cho người tiêu dùng, bảo vệ tự do cạnh tranh và tăng hiệu quả kinh tế. ở một số nước khác, mục tiêu cạnh tranh lại nhấn mạnh tới đổi mới và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Luật cạnh tranh Canada nêu rõ mục tiêu là duy trì và khuyến khích cạnh tranh, thúc đẩy hiệu quả kinh tế.
+ Chức năng của chính sách cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường bao gồm những nội dung cơ bản sau:
Tạo nền tảng cơ bản cho quá trình cạnh tranh, duy trì và thúc đẩy quá trình cạnh tranh tự do hay bảo vệ hoặc thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả. Để thực hiện được các mục tiêu này, chính sách cạnh tranh đảm bảo tự do thương mại, tự do lựa chọn và tự do tiếp cận thị trường cho các doanh nghiệp. ở một số nước ví dụ như Đức, tự do hành động một cách độc lập được coi là biểu hiện dân chủ của hệ thống pháp luât kinh tế. Một số nước khác, ví dụ như Pháp đặc biệt nhấn mạnh chính sách cạnh tranh như một cách thức đảm bảo tự do kinh tế và tự do kinh tế chính là tự do cạnh tranh.
Điều tiết quá trình cạnh tranh, hướng quá trình này phục vụ cho những mục tiêu đã được định sẵn, ví dụ như đặt hiệu quả kinh tế cao, bảo vệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, duy trì hệ thống doanh nghiệp tự chủ, duy trì sự công bằng, trung thực trong kinh doanh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng…
Chính sách cạnh tranh còn có thể giúp bình ổn giá cả trong nước và ngược lại, nếu tồn tại xu hướng độc quyền sẽ ít có khả năng thành công trong việc bình ổn giá cả.
Hạn chế các tác động tiêu cực nảy sinh do sự diều hành quá mức của nhà nước đối với thị trường như kéo dài thời gian ra quyết định của doanh nghiệp và chi phí giao dịch cao.
- Vai trò của chính sách cạnh tranh trong cải cách quy chế:
+ Quy chế có thể mâu thuẫn với chính sách cạnh tranh. Các quy chế có thể khyến khích thậm chí yêu cầu, hành vi và điều kiện vi phạm pháp luật cạnh tranh. Ví dụ như quy chế cấm bán với giá thấp hơn chi phí, mặc dù đây là biện pháp thúc đẩy cạnh tranh nhưng thường được coi là hành vi chống cạnh tranh.
+ Quy chế có thể thay thế chính sách cạnh tranh. Khi độc quyền là hình thức không thể tránh khỏi, quy chế cố gắng kiểm soát trực tiếp quyền lực thị trường thông qua ấn định giá hoặc kiểm soát việc nhập cuộc hoặc tiếp cận. Những thay đổi về kỹ thuật và các thể chế có thể dẫn tới việc xem xét lại các giả định cơ bản ủng hộ cần có quy chế là chính sách cạnh tranh và các thể ché có thể là không đủ để thực hiện nhiệm vụ ngăn cản độc quyền và lạm dụng vị thế thị trường.
+ Quy chế có thể củng cố chính sách cạnh tranh. Các quy định và các nhà lập pháp có thể cố gắng ngan cản hành vi câu kết hoặc lạm dụng trong một ngành nào đó. Ví dụ , quy chế có thể xác định chuẩn mực cho cạnh tranh lành mạnh hoặc đưa ra các quy định đảm bảo đấu thầu cạnh tranh.
+ Quy chế có thể sử dụng phương pháp của chính sách cạnh tranh. Các công cụ để đạt được các mục tiêu thể chế có thể được thiết kế để khai thác lợi thế của các khuyến khích thị trường và tinh năng động của cạnh tranh. Hành vi câu kết đó có thể là cần thiết để đảm bảo rằng các công cụ này thực hiện như mong muốn của chính sách cạnh tranh.
- Độc quyền trong kinh doanh- cơ chế hình thành và hậu quả:
+ Cơ chế hình thành và những tồn tại củađộc quyền trong kinh doanh: Độc quyền trong kinh doanh là việc một doanh nghiệp hay một tập đòan kinh tế với những điểu kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định khống chế thị trường sản xuất và tiêu thụ hành hoá, dịch vụ. Độc quyền hoặc khống chế thị trường là mơ ước của hầu hết các nhà doanh nghiệp. Tất cả các nhà doanh nghiệp đều ước muốn tồn tại và phát triển mà không phải đương đầu với cạnh tranh. Vì vậy lịch sử xủa các chiến lược hạn chế cạnh tranh có một bề dày gần tương đương với bề dày của nền kinh tế thị trường. Thông thường người ta đưa ra ba loại chiến lược hạn chế cạnh tranh khác nhau là: chiến lược đàm phán, chiến lược cản trở và chiến lược tích tụ.Để đối phó với chiến lược cạnh tranh trên thị trường, một số công ty, doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ cùng một mặt hàng có mối liên hệ hữu cơ với nhau trong quá trình sản xuất hoặc tiêu thụ, cùng liên kết với nhau hình thành một tập đoàn kinh tế chi phối khối lượng sản xuất, cung ứng và giá cả thị trường. Đây chính là quá trình tích tụ tư bản trên phạm vi toàn xã hội và diễm ra một cách tự phát. Kết quả là những tập đoàn kinh tế mạnh ra đời và coa khả năng quy định giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn cao. Độc quyền còn được hình thành theo những con đường khác. Trong một số trường hợp, nhờ quyền lực chính trị xã hội mà một doanh nghiệp có thể giành được quyền kinh doanh một mặt hàng nhất định, còn các nhà đầu tư khác muốn tham gia kinh doanh thì không được phép. Như vậy độc quyền luôn gắn với chủ trương của nhà nước là người cầm quyềm và quản lý kinh tế xã hội. Trong các nước kinh tế chuyển đổi, độc quyền độc quyền do nhà nước tạo ra tương đối phổ biến. Một hình thức độc quyền khác trong kinh doanh là độc quyền tự nhiên khi nhiều doanh nghiệp không thể tham gia kinh doanh do mức độ kỹ thuật quá phức tạp, yêu cầu vốn lớn và hiệu quả chỉ đạt được với quy mô sản xuất rất lớn.
+ Những hậu quả của độc quyền trong kinh doanh: độc quyền trong kinh doanh dù hình thành và tông tạ bằng cách nào cũng thường gây ra hậu quả tiêu cực đối với nền kinh tế quốc dân. Độc quyền trong kinh doanh là nhân tố kìm hãm động lực phát triển của nền kinh tế. Bởi lẽ với thế độc quyền, người sản xuất không cần quan tâm đến đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất và phương thức quản lý mà vẫn thu được lợi nhuận đặc biệt cao.Độc quyền trong kinh doanh sẽ dẫn đến hình thành giá cả độc quyền, giá cả lũng đoạn cao, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng. Độc quyền trong kinh doanh là yếu tố hạn chế tự do kinh doanh và văn minh thương mại.
2. Cạnh tranh và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường:
* Những hiểu biết chung về cạnh tranh:
-Khái niệm cạnh tranh: tất cả các nhà sản xuất kinh doanh trên thị trường đều cần phải biết và hiểu rõ thuật ngữ “cạnh tranh”. Nhờ cạnh tranh mà các nhà sản xuất kinh doanh quan tâm nhiều hơn đối với các hoạt đông sản xuất kinh doanh. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về cạnh tranh. Theo Marx: “Cạnh tranh là sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.Trong từ điển kinh doanh đưa ra khái niệm cạnh tranh: “Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành thị trường tiêu thụ hàng hóa về phía mình”. Mỗi khái niệm cạnh tranh được diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung đều có cùng một quan điểm đó là: sự ganh đua gay gắt, sự kình địch mãnh liệt giữa các nhà sản xuất và kinh doanh. Có thể nói cạnh tranh quyết định sự sống còn của các nhà sản xuất và kinh doanh.
Có nhiều loại cạnh tranh, dựa vào những tiêu thức khác nhau có thể đưa ra các loại cạnh tranh khác nhau.
- Dựa vào trạng thái thị trường có ba loai cạnh tranh:
+ Cạnh tranh hoàn hảo: Là cạnh tranh khi có nhiều đối thủ đưa ra bán những hànghoá tương tự nhau, trong đó không có một người bán hay người mua nào có vai trò lớn trong toàn bộ thị trường.
+ Cạnh tranh không hoàn hảo: Là trạng thái cạnh tranh phần lớn các sản phẩm không đồng nhất với nhau. Trong cạnh tranh không hoàn hảo môi trường cạnh tranh rất khốc liệt và hình thức cạnh tranh cũng đa dạng.
+ Cạnh tranh độc quyền: Là trạng thái cạnh tranh mà ở đó chỉ có một hay một số người bán sản phẩm đồng nhất hoặc một hay một số ít người mua sản phẩm một loại sản phẩm.
- Dựa vào hình thức cạnh tranh có hai loại:
+ Cạnh tranh bằng giá cả: Là hình thức cạnh tranh mà các nhà sản xuất đưa ra mức giá thấp hơn đối thủ nhằm tiêu thụ được hàng hoá, chiếm lĩnh thị trường.
+ Cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm: Là hình hức cạnh tranh mà các nhà sản xuất kinh doanh luôn luôn cố gắng nâng cao chất lượng hàng hoá của mình hơn các đối thủ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng cao hơn đối thủ.
* Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường:
Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh luôn có tác động tích cực.
Đối với nền kinh tế, cạnh tranh đảm nhận một số chức năng quan trọng sau:
- Cạnh tranh đảm bảo điều chỉnh giữa cung và cầu.
- Cạnh tranh hướng việc sử dụng các nhân tố sản xuất vào những nơi có hiệu quả nhất.
- Cạnh tranh tạo môi trường thuận lợi để sản xuất thích ứng với sự biến động của cầu và công nghệ sản xuất.
- Cạnh tranh tác động một cách tích cực đến phân phối thu nhập: Cạnh tranh sẽ hạn chế hành vi bóc lột trên cơ sở quyền lợc thị trường và việc hình thành thu nhập không tương ứng với năng suất.
- Cạnh tranh là động lực thúc đẩy đổi mới.
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hoá trên thị trường. Khi cung một hàng hoá nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người bán làm cho giá cả thị trường giảm xuống, chỉ những cơ sở kinh doanhnào đủ khả năng cải tiến công nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có thể tồn tại. Với ý nghĩa đó cạnh tranh là nhân tố quan trọng kích thích việc ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất.
Khi cung một hàng hoá nào đó thấp hơn cầu, hàng hoá đó trở nên khan hiếm trên thị trường, Giá cả tăng lên tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực của nững cơ sở sản xuất sẵn có. Đó là động lực quan trọng nhất làm tăng thê lượng vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh nâng cao năng lực sản xuất trong tòan xã hội. Điều quan trọng là động lực đó hoàntoàn tự nhiên, không theo và không cần bất cứ một mệnh lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nước.
Cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh luôn luôn quan tâm đến việc cải tiến công nghệ, trang bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và trên cơ sở đó hạ giá bán của hàng hoá.
Trong cạnh tranh tất yếu sẽ có doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh nhờ làm ăn hiệu quả, đồng thời có doanh nghiệp bị phá sản. Đối với xã hội, phá sản doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý nghĩa tiêu cực vì các nguồn lực của xã hội được chuyển sang cho nhà kinh doanh khác tiếp tục sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Vì vậy, phá sản không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà là sự huỷ diệt sáng tạo. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu quả còn gây ra nhiều lãng phí cho xã hội hơn là phá sản.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền:
Xuất phát từ cơ chế hình thành, tồn tại của độc quyền, từ mối liên hệhữu cơ giữa độc quyền và cạnh tranh trong kinh doanh, để có sự cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền, cần có những điều kiện nhất định. Những điều kiện quan trọng nhất cần có là:
- Điều kiện về các yếu tố pháp lý- thể chế đối với hoạt đông kinh doanh. Các yếu tố về pháp lý thể chế do nhà nước ban hành là nhân tố quan trọng nhất hình thành môi trường kinh doanh trong mỗi quốc gia. Với xu thế hội nhập ngày càng cao về kinh tế trên thế giới hiện nay, nhiều quy định về pháp lý thể chế điều chỉnh các hành vi kinh doanh đã và đang không bị giới hạn trong phạm vi quốc gia mà được hình thành và có hiệu lực trong phạm vi khu vực hoặc toàn cầu. Song dù hình thành và có hiệu lực trong phạm vi nào, để đảm bảo cho cạnh tranh và chống độc quyền, các yếu tố pháp lý thể chế phải đáp ứng những yêu cầu sau đây:
+ Bảo đảm sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh vực của họat động kinh doanh.
+ Các quy định pháp lý thể chế do nhà nước (hoặc một nhóm các quốc gia như hiệp hội, tổ chức quốc tế) ban hành phải rõ ràng và sát với thực tiễn.
+ Hiệu lực pháp luật của các quy định pháp lý thể chế phải đảm bảo sự thống nhất trong việc điều chỉnh hành vi kinh doanh. Điều đó có nghĩa là cần hạn chế đến mức thấp nhất những ngoại lệ đối với một chủ thể hay một hành vi kinh doanh nào đó nhằm tạo ra sự bình đẳng trên thực tế giữa các chủ thể kinh doanh.
- Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân. Các quy định pháp lý thể chế của nhà nước là sản phẩm chủ quan trên cơ sở nhận thức khách quan. Để các quy định pháp luật đã ban hành có hiệu lực trong thực tiễn thì việc chỉ đạo và điều hành của bộ máy hành chính nhà nước đóng vai trò quyết định. Vì vậy, để thực hiện vai trò quản lý kinh tế của mình, nhà nước phải hình thành được bộ máy điều hành đủ năng lực chuyên môn, tận tụy, công tâm khi thi hành công vụ. Mọi văn bản pháp quy đều không thể đưa vào thực hiện trong cuộc sống nếu bộ máy điều hành non kém về chuyên môn, quan liêu, và lãng phí.
- Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các chủ thể kinh doanh. Nếu như sự hình thành của các văn bản pháp luật, công tác chỉ đạo, điều hành của bộ máy công quyền là những điều kiện cần thì trình độ văn hoá và đạo đức của các chủ thể kinh doanh lại là điều kiện đủ để bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền trong kinh doanh. Sự phân biệt giữa cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh thường thông qua những tiêu chí định tính, khó có thể định lượng. Vì vậy, chỉ có thể đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh khi nhân dân với tư cách là người tiêu dùng có trình độ văn hoá cần thiết và đạo đức trong kinh doanh được tôn trọng.
II. Thực trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta:
1. Sự chuyển biến về nhận thức đối với cạnh tranh:
- Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung cạnh tranh được quan niệm là thuộc tính của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, dẫn tới lãng phí do đầu tư trùng lặp, phá sản tạo ra sự lộn xộn trên thị trường. Cạnh tranh bị đồng nhất với “tranh mua tranh bán”, “cá lớn nuốt cá bé”.
- Về độc quyền, Đảng và nhà nước ta chủ trương hình thành và duy trì một số độc quyền nhà nước. Một số doanh nghiệp độc quyền được bênh vực với các lý do “đảm bảo an ninh quốc gia”, “duy trì và củng cố vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước”, “bảo hộ sản xuất trong nước”. Độc quyền được coi là cần thiết để cung cấp nguồn thu quan trọng cho ngân sách. Trên thực tế độc quyền nhà nước và độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước được coi là đồng nhất. Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được đề cao nhưng trên thực tế những lĩnh vực, ngành nghề nhà nước cần nắm giữ độc quyền và chi phối chưa được thể chế hoá trong luật pháp.
- Cùng với quá trình đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật đã dần được chấp nhận như một động lực phát triển, đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội nhưng có giới hạn. Để thúc đẩy kinh tế phát triển và giải quyết công ăn việc làm, nhà nước từng bước nới lỏng cạnh tranh. Tuy nhiên cho đến nay các mục tiêu phát triển ổn định và việc làm được đặt lên trên mục tiêu hiệu quả.
- Tư duy nhận thức đang được đổi mới. Thị trường tự điều chỉnh theo quy luật kinh tế, Nhà Nước tôn trong nguyên tắc, cơ chế hoạt đông khách quan của thị trường, hạn chế tiêu cực của thị trường. Nhà nước xây dựng chiến lược, kế hoạch dài hạnm, định hướng phát triển, xây dựng môi trường chung để thị trường hoạt động. Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu thông qua hệ thống pháp luật và các công cụ kinh tế vĩ mô, hạn chế chỉ đạo điều hành kinh tế bằng các biện pháp hành chính mà không dựa trên thước đo hiệu quả kinh tế, thiếu công khai, minh bạch. Quản lý toàn bộ các chủ thể tham gia thị trường, nhà nước đảm nhiệm vai trò trọng tài, điều hoà phối hợp giưã các thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp trong thị trường tự điều chỉnh với nhau, chỉ yêu cầu sự can thiệp của nhà nước nếu có tranh chấp mà không tự giải quyết được. Chức năng của cơ quan quản lý nhà nước chuyển trọng tâm từ cấp phép, kiểm soát sang xây dựng chính sách, hỗ trợ doanh nghiệp. Các cơ quan cấp giấy phép chuyển dần sang xúc tiến kinh doanh.
- Sự tồn tại của chế độ kế hoạch hoá tập trung trong hệ thống xã hội chủ nghĩa cũ và thực tế điều hành nền kinh tế nước ta những năm 80 đầu 90 cho thấy với sự điều hành chặt chẽ đến mức không còn chỗ cho doanh nghiệp phát huy quyền chủ động laị dẫn đến trì trệ. Trong sản xuất nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước không chủ đạo thì kết quả đặt được tốt hơn. Trong các lĩnh vực do tổng công ty chủ đạo và việc tham gia kinh doanh của các khu vực khác bị hạn chế thì giá cả thường bị thao túng: giá cả biên động nhiều hơn so với các ngành khác.
- Nhà Nước đang tham gia hoạt động kinh tế nhưng với quy mô hạn chế hơn một cách tương đối. Về lâu dài, nhà nước chỉ tham gia kinh doanh trong trường hợp tư nhân không làm được và không muốn làm do không thể đồng thời phát triển mọi thành phần kinh tế: với sức mạnh về kinh tế và chính trị của nhà nước, Việc phát huy mọi tiềm năng cuả doanh nghiệp nhà nước sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển của khu vực tư nhân.
- Vai trò của kinh tế tư nhân ngày càng được khẳng định rõ ràng hơn trong chủ trương, đường lối phát triển, trong luật pháp và trên thực tế. Ngay từ năm 1945, tuyên ngôn độc lập đã khẳng định quyền bình đẳng, quyền mưu cầu hạnh phúc của người dân. Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh của công dân, quyền bình đẳng trước pháp luật của các thành phần kinh tế. Hiến pháp sửa đổi vừa được quốc hội thông qua tháng 12 năm 2001 thể chế hoá một thực tế: các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Các văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất đã phản ánh chủ trương của đảng là lấy dân làm gốc, kể cả trong lĩnh vực kinh tế. Vai trò to lớn của kinh tế tư nhân trong việc tạo ra sự năng động sáng tạo của nền kinh tế và giải quyết vấn đề lao động thiếu việc làm đang được khẳng định từng từng bước.
- Chuyển đổi từ kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường, nhiều yếu tố trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chuyển sang cho doanh nghiệp tự quyết định: sản lượng, thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ, vay vốn, lao động tiền lương, giá cả (nhà nước chỉ quản lý giá của một bộ phận sản phẩm và dịch vụ nhỏ hơn trước rất nhiều dưới hình thức giá trần, giá sàn, thẩm định giá, duyệt giá)…
- Trong kinh tế thị trường tự do cạnh tranh bao gồm tự do hành nghề theo pháp luật, tự do quyết định của người kinh doanh và tự do lựa chọn của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về quyêt định của mình và hưởng thành quả theo kết quả hoạt động.
2. Hiện trạng cạnh tranh và độc quyền ở nước ta:
* Cấu trúc thị trường.
-Cấu trúc thị trường theo mức độ tích tụ tập trung- Các hình thái thị trường:
+ Cạnh tranh đã hình thành với mức độ khác nhau trong nền kinh tế. Môi trường cạnh tranh rộng rãi chủ yếu hình thành trong ngành sản xuất và kinh doanh hàng tiêu dùng thông thường như sản xuất và chế biến lương thực, thực phẩm thông dụng, điện tử, dệt may, giầy dép…Trong những ngành này, sản phẩm phong phú đa dạng. Do không bị hạn chế nên rất nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần tham gia kinh doanh, doanh nghiệp được tự chủ, chủ động phát huy tính sáng tạo và năng động của mình. Kết quả là nhiều doanh nghiệp đã vươn lên, tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh chiếm được và duy trì thị phần đáng kể trên thị trường trong nước, vươn ra thị trường thế giới với kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh.
+Trong một số thị trường khác, cạnh tranh mang tính độc quyền có phạm vi hẹp hơn trong một chừng mực nhất định nhưng vẫn rất quyết liệt như trong lĩnh vực lắp ráp ôtô, xe máy. Số doanh nghiệp hạn chế hơn, sản phẩm ít đa dạng hơn. Cạnh tranh diễn ra chủ yếu giữa các nhãn mác khác nhau của cùng một loại sản phẩm, mỗi hãng độc quyền sản xuất một sản phẩm riêng của mình. Giá cả giữ ở mức cao trong nhiều năm và gần đây có xu hướng giảm xuống khi xuất hiện cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Các hãng liên tiếp đưa ra các nhãn mác, kiểu dáng mới để thu hút người tiêu dùng.
+Ngoài một số không nhiều lĩnh vực cạnh tranh như vậy, tình trang độc quyền còn tương đối phổ biến trong nền kinh tế. Theo điều kiện hình thành các độc quyền ở nước ta có hai loại: độc quyền theo quy định hành chính của nhà nước và độc quyền tự nhiên (bản thân hình thái độc quyền này cũng một phần do nhà nước quy định). Độc quyền do nhà nước quy định chỉ dành cho các doanh nghiệp nhà nước gồm: điện,viễn thông, kinh doanh thiết bị phát sóng, cung cấp dịch vụ Internet, kinh doanh chứng khoán, xây dựng và khai thác cảng, dịch vụ cảng, xuất nhập khẩu ấn phẩm, tác phẩm điện ảnh, sản xuất thuốc lá.
+Độc quyền có thể do một hoặc một nhóm công ty nắm giữ. Độc quyền của một doanh nghiệp (chủ yếu là độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng) tồn tai trong các ngành vận tải hàng không (tham gia kinh doanh có hãng Pacific Airlines nhưng đây là một công ty cổ phần do Hàng không Việt Nam chi phối và quá bé nhỏ nên không có vị trí của một đối tác cạnh tranh), bưu chính viễn thông (gần đây dịch vụ đường trục chính vẫn hoàn toàn do tổng công ty bưu chính viễn thông Việt Nam độc quyền), điện lực (gần đay đã cho phép mua điện của một số nhà máy điện nước ngoài theo giá của tổng công ty điện lực, song khâu truyền tải phân phối chỉ do tổng công ty đảm nhận), vận tải biển (các đội tàu của doanh nghiệp tỉnh còn quá bé nhỏ và chỉ đảm nhận những thương vụ gần), đường sắt, cấp thoát nước…
+Độc quyền nhóm dưới hình thức tổng công ty bao gồm xăng dầu, xi măng, bảo hiểm, ngân hàng thương mại, vận tỉa biển, sắt thép, hoá chất cơ bản, mía đường, xuất nhập khẩu cafộ gạo, du lịch lữ hành…
+Vị trí độc quyền của một doanh nghiệp và độc quyền của một nhóm doanh nghiệp và do đó khả năng chi phối thị trường đều do nhà nước quyết định theo phương thức hành chính hoặc do ưu thế về vốn và quan hệ khách hàng trước đây để lại mà thực chất cũng là kết quả độc quyền trong quá khứ. Trong nhiều trường hợp độc quyền của nhà nước chuyển thành độc quyền của doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp chi phối thị trường đều là các doanh nghiệp nhà nước lớn dưới hình thức tổng công ty.
+Trong nền kinh tế nước ta chưa hình thành độc quyền doanh nghiệp nỳ hiệu quả kinh doanh thông qua con đường tập trung tích tụ vốn. Độc quyền doanh nghiệp của tư nhân cũng chưa hình thành do quy mô vốn nhỏ, phân tán, trình độ công nghệ tương đối thấp. Doanh nghiệp có vốn nước ngoài chưa được trở thành độc quyềnmặc dù trong số này có nhiều doanh nghiệp có ưu thế về vốn và công nghệ nhưng chưa có khả năng chi phối thị trường do chỉ cáp phép trên thị trường đã có một số nhất định doanh nghiệp hoạt động hoặc bắt buộc phải liên doanh với doanh nghiệp nhà nước.
- Cấu trúc thị trường theo sở hữu: trong chế độ kế hoạch hoá tập trung chỉ có kinh tế nhà nước, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, chi phối toàn bộ nền kinh tế. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh (sản lượng sản xuất, người cung cấp, người tiêu thụ, giá cả) đều do nhà nước quyết định, doanh nghiệp chỉ là người chấp hành. Thực hiện chính sách đổi mới của đảng, nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh với nhiều hình thức pháp lý khác nhau. Môi trường kinh doanh mở rộng và thông thoáng tạo điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp cạnh tranh với nhau để tồn tại và phát triển. Nhiều văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường đã được ban hành, tạo nền tảng pháp lý cho kinh tế thị trường. Cấu trúc thị trường theo thành phần kinh tế năm 2001 như sau:
+Kinh tế nhà nước: có 5991 doanh nghiệp nhà nước, trong đó có 173 doanh nghiệp thuộc bộ quôc phòng, 13 doanh nghiệp thuộc bộ công an, 189 doanh nghiệp của đảng, 71 doanh nghiệp của tổng công đoàn và 13 doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội khác. Cho đến nay đa số các doanh nghiệp trên hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp của tổ chức chính trị và các chính trị xã hội khác chưa được chế định trong luật. Nghị quyết hội nghị trung ương đảng lần thứ 3 (khoá 9) quyết định chuyển các doanh nghiệp thuộc các tổ chức chính trị xã hội sang hoạt động theo luật doanh nghiệp (số liệu của bộ tài chính, theo báo cáo thống kê chưa đầy đủ của doanh nghiệp).
+Kinh tế tập thể có 4750 hợp tác xã được điều chỉnh theo luật hợp tác xã.
+Kinh tế cá thể tiểu chủ có hơn 1,1 triệu cá thể kinh doanh hoạt động theo luật thương mại, bộ luật dân sự.
+Kinh tế tư bản tư nhân có 55.381 doanh nghiệp do nhân dân đầu tư vốn, được điều chỉnh theo luật doanh nghiệp.
+Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: 2.482 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
* Độc quyền của một số tổng công ty.
- Nhằm mục đích tách chức năng kinh doanh khỏi chức năng quản lý cua nhà nước, tạo dựng công cụ điều khiển thị trường, thực hiện các chính sách xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế, năm 1994 nhà nước đã ban hành quyết định thành lập các tổng công ty 90-91. Các tổng công ty tập hợp các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong cùng một ngành sản phẩm được coi là có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế trong phạm vi cả nước hoặc trong nội bộ ngành, địa phương. Cho đến nay có 17 tổng công ty 91 với 450 thành viên, 71 tổng công ty 90 của bộ với 1057 thành viên và 7 tổng công ty 90 của địa phương với 116 thành viên; tổng cộng chiếm 27% số doanh nghiệp nhà nước và 76,5% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp nhà nước cả nước.
- Sự tồn tại của tổng công ty đã hạn chế cạnh tranh giữa tổng công ty với các doanh nghiệp không phải thành viên và giữa các công ty thành viên trong nội bộ tổng công ty. Các tổng công ty có khả năng chi phối thị trường đã dựng nên rào cản hành chính (do các cơ quan nhà nước hoặc do chính bản thân ban hành) cản trở các doanh nghiệp khác tham gia kinh doanh, dù đó là doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các tổng công ty với sức mạnh kinh tế của mình thường kiến nghị với chính phủ chính sách bảo hộ ngăn cản nhập khẩu, chính sách bao cấp như trợ cấp xuất khẩu, lãi suất ưu đãi để ổn định giá nhằm duy trì vị trí độc quyền của mình. Trong nhiều trường hợp các tổng công ty đã thành công.
- Bên cạnh đó, cạnh tranh tron nội bộ tổng công ty cũng bị hạn chế trong một chừng mực nhất định. Nhiều tổng công ty có những thành viên là pháp nhân độc lập. Các doanh nghiệp này có quyền chủ động kinh doanh về sản xuất, thị trường cung cấp và tiêu thụ, nhưng lại chịu sự chỉ đạo của tổng công ty về hướng đầu tư phát triển, các chỉ tiêu cân đối lớn, định mức kinh tế kỹ thuật, địa bàn hoạt động…, thậm chí phải gánh chịu hậu quả của thành viên kém hiệu quả theo quyết định của tổng công ty.
- Mục tiêu tách chức năng kinh doanh khỏi chức năng quản lý của nhà nước đã không đạt được: một số tổng công ty vẫn thực hiện chức năng quản lý nhà nước như quy hoạch ngành, vùng, hợp tác quốc tế và gián tiếp là đinh giá. Được thành lập để ổn định thị trường nhưng thực tế một số tổng công ty đang chi phối thị trường theo hướng ngược lại, làm cho giá cả hoặc sốt nóng hoặc sốt lạnh, hoặc bán với giá quá thấp. Một số tổng công ty đã thể chế hoá những ưu đãi đặc quyền của mình và đưa ra những quyết định bất lợi cho đối thủ cạnh tranh.
- Một số tổng công ty vừa kinh doanh, vừa định giá những mặt hàng do họ độc quyền, tạo ra sự bất bình đẳng trên thị trường giữa nhữngngười kinh doanh. Sự bất bình đẳng còn thể hiện trong việc đối với cùng một loại hàng hoá và dịch vụ, tổng công ty áp dụng nhiều loại giá với các loại khách hàng. Giá điện nước, giá vé máy bay, tàu hoả giữa người Việt Nam và người nước ngoài là một điển hình.
- Được bảo hộ mạnh mẽ trên thị trường trong nước khỏi sự cạnh tranh của các doanh nghiệp khác và cạnh tranh của hàng nhập khẩu, mục tiêu nâng cao năng lực cạnh tranh của các tổng công ty cũng không đạt được. Hoạt động của những tổng công ty được bảo hộ cao trên thị trường trong nước bị trì trệ. Một số tổng công ty như bưu chính viễn thông mặc dù đã đầu tư nhiều để hiẹn đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành nhưng so với tốc độ thay đổi kỹ thuật trên thế giới thì vẫn còn chậm. Không bị cọ xát cạnh tranh trong nước thì các tổng công ty độc quyền khó có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế.
* Độc quyền tự nhiên trong các ngành kết cấu hạ tầng.
Độc quyền tự nhiên là độc quyền trong các ngành mà kỹ thuật, công nghệ của sản phẩm mang tính chất đặc biệt, yêu cầu vốn lớn nên số doanh nghiệp sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ bị hạn chế (hiệu quả kinh tế nhờ quy mô sản xuất lớn chỉ đăt được nếu có một doanh nghiệp kinh doanh). Tuy nhiên thời gian gần đây tiến bộ công nghệ đã làm giảm quy mô của độc quyền tự nhiên, cho phép áp dụng các nguyên tắc cạnh tranh trong môt bộ phận nhất định của độc quyền tự nhiên. Mặt khác, vốn lớn không phải là một trở ngại đối với công ty nước ngoài.
- Trong lĩnh vực hạ tầng, kể cả xây dựng cơ sở và cung cấp dịch vụ hầu như chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nhà nước được phép hoạt động. Độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước lớn dưới hình thức tổng công ty nhà nước trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng đã hạn chế đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh và đầu tư nước ngoài. Cho đến nay, sự tham gia của thành phần ngoài quốc doanh còn rất hạn chế.
- Do số lượng hạn chế nên các doanh nghiệp được tổ chức theo mô hình kinh doanh khép kín theo chiều dọc từ khâu đầu đến khâu cuối.
- Mạng lưới kết cấu hạ tầng kém phát triển do thiếu đầu tư.
- Mức giá dịch vụ độc quyền ở nước ta cao hơn nhiều so với chi phí thực tế, thu nhập trung bình của người dân và cao hơn mức giá ỏ các nước khác ngay cả các nước đang phát triển.
* Thị trường trong nước bị chia cắt.
Quy đinh về mở chi nhánh, văn phòng đại diện chưa tương thích với luật doanh nghiệp về đăng ký hoạt động với quyền chủ động thuộc về người kinh doanh (văn phòng không được phép kinh doanh), hạn chế quyền hạn của doanh nghiệp về phân cáp uỷ quyền và nhân sự. Điều này dẫn đến một tình trạng khá phổ biến là thị trường trong nước bị chia cắt theo vùng: một số chính quyền địa phương hạn chế doanh nghiệp ở địa phương khác hoạt động kinh doanh tạu địa phương mình bằng cách không cho hoặc hạn chế cấp phép mở chi nhánh, văn phòng đại diện. Đối với một số bộ ngành cũng xảy ra tình trạng khoanh vùng khép kín thị trường hoặc chỉ định đối tác giao dịch cho các đơn vị thuộc quyền quản lý: doanh nghiệp thuộc bộ chỉ mua dịch vụ, hàng hoá của doanh nghiệp trong ngành.
Các doanh nghiệp từ một địa phương bị cản trở thâm nhập sang địa phương khác nhiều khi không phải do các quy định chính thức của chính quyền địa phương nhưng có sự chỉ đạo không cho doanh nghiệp của địa phương khác tiêu thụ hàng tại địa phương mình. Tình trạng các cấp địa phương, bộ ngành thu thêm phí ngoài quy định khá phổ biến, góp phần hạn chế lưu thông hàng hoá thông suốt trong cả nước.
* Cạnh tranh không bình đẳng.
Cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế chưa bình đẳng. Mặc dù hiến pháp năm 1992 chính thức thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế và khẳng định tính chất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trước pháp luật nhưng hệ thống luật và văn bản dưới luật chưa thể hiện điều này. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế: giữa doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp khu vực tư nhân trong nước, giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp co vốn đầu tư nước ngoài, khá phổ biến. Sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài là rất rõ rệt: doanh nghiệp nước ngoài hoạt động hầu như theo một quy chế riêng. Sự bất bình đẳng ở chỗ các doanh nghiệp nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi chỉ vì lý do sở hữu chứ không phaỉ vì lý do hiêu quả, trong khi đó kinh tế tư nhân và nước ngoài đều bị nhiều hạn chế trong hoạt động. Các ưu đãi bao gồm lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, hình thức huy động vốn, đất đai, thâ nhập và mở rộng thị trường, tài chính, thuế, hình thức xử lý thua lỗ.
Tình trạng này có nguồn gốc ngay trong quy định của pháp luật: hệ thông luật pháp được xây dựng và phân chia theo thành phần kinh tế, dựa trên tính chất sở hữu và trong điều hành thực tế của cơ quan quản lý nhà nước. Sự phân biệt đối xử trong luật pháp trở nên nặng nề hơn trên thực tế do một số cán bộ nhà nước e ngại trách nhiệm và có quan niệm thiên lệch về các thành phần kinh tế.
* Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số doanh nghiệp làm ăn không chính đáng có thể làm hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Doanh nghiệp có thể hạn chế cạnh tranh dưới các hình thức:
+Một số doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh thoả thuận cùng phối hợp hành động để tạo ra khả năng chi phối thị trường. Sự liên kết này có tác dụng tương tự như độc quyền của một doanh nghiệp.
+Một đơn vị độc quyền lạm dụng khả năng chi phối thị trường của mình để ngăn cản cạnh tranh.
+Độc quyền có thể hình thành bằng cách một số doanh nghiệp sát nhập hợp nhất với nhau.
+Cạnh tranh trên thị trường còn bị méo mó do hành vi cạnh tranh không lành mạnh của một số doanh nghiệp làm ăn không chính đáng gây ra.
-Hành vi hạn chế cạnh tranh của một số doanh nghiệp thoả thuận, thông đồng, cấu kết. Bước đầu đã có hiện tượng các đối thủ cạnh tranh thoả thuận ngăn cản không cho doanh nghiệp khác tham gia kinh doanh, mở rông hoạt động, ứng dụng công nghệ mới, ấn định sản lượng, tẩy chay không cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ.
-Hành vi lạm dụng ưu thế của doanh nghiệp chi phối thị trường. Các doanh nghiệp nhà nước lớn (tổng công ty độc quyền hoặc có khả năng chi phối thị trường) có thể sử dụng các biện pháp cạnh tranh không lành mạnh để duy trì vị trí chi phối thị trường. Hành vi lạm dụng mang tính chất cửa quyền của các doanh nghiệp này thường liên quan đến giá cả. Các doanh nghiệp độc quyền còn có những hành vi từ chối giao dich với đối tác kinh doanh hoặc người tiêu dùng nhất là trong các ngành dịch vụ.
-Sát nhập, hợp nhất, mua lại doanh nghiệp. Cho đến nay các trường hợp sát nhập, hợp nhất làm tăng đáng kể mức độ tập trung tích tụ của thị trường chỉ diễn ra theo quyết định hanhf chính của nhà nước. Đó là sự thành lập các tổng công ty và các liên doanh.
-Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh do các chủ thể kinh doanh thực hiện. Những hành vi này có thể gây hại cho người tiêu dùng hoặc cho đối thủ cạnh tranh hoặc cho đối tác kinh doanh. Một số hành vi đã được điều chỉnh bằng pháp luật nhưng chưa quy định chế tài, một số hành vi khác hoàn toàn chưa được điều chỉnh. Hành vi không lành mạnh gây hại cho người tiêu dùng rất đa dạng nhưng chủ yếu gồm các hành vi làm hàng giả, đinh giá không tương xứng với chất lượng hàng hoá, quảng cáo sai sự thật về sản phẩm của mình và khi so sánh với sản phẩm khác, khuyến mại lừa đảo về giá cả và mức thưởng. Các hành vi gây hại cho đối thủ chủ yếu gồm vu khống tung tin thất thiệt, vi phạm hợp đồng, chiếmđoạt hoặc làm lộ bí mật kinh doanh, thông đồng với cơ quan nhà nước để cản trở, loại trừ đối thủ cạnh tranh. Khai thác bí mật kinh doanh một cách bất hợp pháp hoặc làm lộ bí mật kinh doanh cũng là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng trở nên phổ biến hơn nhưng chưa được pháp luật quan tâm đúng mức.
* Sự cần thiết xây dựng chính sách cạnh tranh: để doanh nghiệp trong nước chuẩn bị cho quá trình hội nhập, bước vào cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt khi cam kết quốc tế có hiệu lực đầy đủ, nhà nước càn xây dựng chính sách cạnh tranh để tạo ra và duy trì môi trường cạnh tranh tích cực trên thị trường trong nước với các mục tiêu:
- Phân bổ các yếu tố sản xuất một cách tối ưu, chuyển nguồn lực xã hội từ nơi kém hiệu quả sang nơi hiệu quả hơn.
- Phát huy nguồn lực trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài để duy trì phát triển tốc độ cao.
- Xây dựng môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp.
- Thu được lợi ích kinh tế từ hội nhập kh quốc tế nhờ giảm chi phí kinh doanh cho doanh nghiệp và bảo đảm cho các chủ thể kinh tế phản ứng linh hoạt trước những biến động trên thị trường trong nước và quốc tế.
- Điều chỉnh lại hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp bằng luật pháp.
- Bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng.
* Xu hướng cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà Nước thúc đẩy quá trình cạnh tranh trong nước phát triển. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước đang có xu hướng cổ phần hoá, khi cổ phần hoá được thực hiên thì đối với bản thân doanh nghiệp sẽ có trách nhiệm hơn về hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mình. Khi đó thì hoạt đông kinh doanh sẽ diễn ra sôi nổi hơn, các doanh nghiệp sau khi cổ phần sẽ tích cực hoạt động hơn dể giành lấy vị thế cho mình. Chính vì vậy mà nó sẽ thúc đẩy cạnh tranh phát triển.
III. Các giải pháp duy trì cạnh tranh và chống độc quyền
1. Những nhược điểm đã vấp phải
*Hệ thống pháp lý thiếu hoàn chỉnh: các yếu tố pháp lý thể chế ở nước ta hiên nay còn chắp vá thiếu hoàn chỉnh. Đó là một trong những nhân tố làm hạn chế cạnh tranh lành mạnh và nuôi dưỡng độc quyền trong kinh doanh. Sự chắp vá và thiếu hoàn chỉnh của các yếu tố pháp lý thể chế trong kinh doanh thể hiện qua những điểm sau:
- “Lệch pha” đối tượng điều chỉnh luật. Hiện đang có các luật cùng điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp:
+Luật doanh nghiệp nhà nước điều chỉnh sự hình thành và hoạt động của các doanh nghiệp do nhà nước đầu tư vốn.
+Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam điều chỉnh sự hình thành, hoạt động của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
+Luât hợp tác xã điều chỉnh sự hình thành hoạt động của hợp tác xã (thường được gọi là kinh tế tạp thể).
+Luật doanh nghiệp điều chỉnh sự hình thành hoạt đông của doanh nghiệp do nhân dân đầu tư vốn, thường được gọi là kinh tế tư bản tư nhân hay doanh nghiệp dân doanh.
- Luật khung và những nguyên tắc chung thiếu cụ thể, hướng dẫn thi hành chậm.
- Chồng chéo và thiếu nhất quán. Theo quy trình ban hànhcác vanbản pháp quy hiện nay, việc ban hành các văn bản luật, pháp lệnh chỉ là khâu mở đầu. Các doanh nghiệp – chủ thể kinh doanh – quan tâm hơn đến văn bản hướng dẫn thi hành. Không chỉ chậm vè thời gian các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn chồng chéo, thậm chí mâu thuẫn nhau.
- Luật điều chỉnh đi sau thực tiễn kinh tế. Trước hết các văn bản luật, pháp lệnh không được ban hành trong cùng một thời gian nên yêu cầu của kinh tế thị trường được phản ánh trong các văn bản luật cũng khác nhau. Thứ hai, tình trạng đi sau thực tiễn kinh tế vẫn còn thể hiện ở sự “lac hậu tương đối” của các văn bản luật mới ban hành. Thứ ba, trong nền kinh tế nước ta hiện nay vẫn còn khá nhiều lĩnh vực chưa được điều chỉnh bằng luật.
*Các rào cản kinh doanh và tiếp cận các yếu tố sản xuất: ở Việt Nam hiện nay tuỳ theo hình thức sở hữu đang chịu sự điều chỉnh của 4 luật đã đề cập ở trên. Đi kèm theo các đạo luật này là hệ thống các văn bản hướng dẫn tương ứng. Do vậy các rào cản về pháp lý, thể chế đối với từng loại hình doanh nghiệp có những biểu hiện khác nhau, với mức độ và tính chất khác nhau. Có các loại rào cản: rào cản cho việc gia nhập (đối với doanh nghiệp nhà nước, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vả đối với doanh nghiệp tư nhân); rào cản trong việc xử lý doanh nghiệp kém hiệu quả (tổ chức lại doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp và phá sản doanh nghiệp); các rào cản đối với việc tiếp cận đất đai cho sản xuất; rào cản trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng thương mại và tiếp cận thị trường vốn; các rào cản liên quan đến việc tiếp cận thị trường lao động; các hạn chế trong tiếp cận trường; chuyển giao công nghệ; thuế và tài chính doanh nghiệp; rào cản về sở hữu và quản lý…
2. Nhận xét và liên hệ kinh nghiệm quốc tế
* Một số nhận xét về vấn đề cạnh tranh và độc quyền ở Việt Nam:
- Các quy định của nhà nước đã thể hiện sự quan tâm quá mức của các cơ quan nhà nước tới hoạt động kinh doanh, điều hành quản lý của doanh nghiệp trong khi không phải chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh của họ.
- Khung pháp luật kinh doanh cho các doanh nghiệp có sự khác biệt khá lớn. Các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được chủ trương duy trì vị trí chủ đạo nên được hưởng những ưu đãi trong nhiều lĩnh vực nhưng ngược lại cũng nhiều ràng buộc về quản lý. Doanh nghiệp có vốn nước ngoài được hưởng ưu đãi về thuế còn trong các lĩnh vực khác đều bị hạn chế khá chặt chẽ. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam ở vào vị trí ít thuận lợi nhất. Doanh nghiệp của tổ chức và tổ chức chính trị xã hội trên thực tế hoạt động như doanh nghiệp nhà nước nhưng thiếu luật pháp điều chỉnh.
- Việc doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động nếu không đạt hiệu quả là điều thường xuyên xảy ra, việc xử lý trách nhiệm, quyền hạn của các bên liên quan được quy định rõ ràng. Ơ Việt Nam rất khó giải quyết việc thanh lý, phá sản của doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nước ngoài mà nguyên nhân một phần là do sở hữu chưa rõ ràng.
- Khung pháp luật còn thiếu nhiều quy định, trong đó cơ bản nhất là Luật cạnh tranh để diều chỉnh hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh.
- Việt Nam chưa có cơ quan xây dựng chính sách cạnh tranh, đưa các chính sách cạnh tranh vào các chính sách kinh tế khác.
* So sánh với Trung Quốc:
- Việt Nam và Trung Quốc có sự tương đồng về điều kiên xây dựng chính sách cạnh tranh.
+Trong nhận thức về cạnh tranh và độc quyền, ở cả Việt Nam và Trung Quốc đều có một số cơ quan cũng như không ít cá nhân còn ngộ nhận về cạnh tranh và độc quyền, chưa được giải thích thâu đáo về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vì thế chưa có một quan điểm dứt khoát cho việc ủng hộ cạnh tranh lành mạnh và kiểm soát độc quyền.
+Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm tỷ trong quá lớn trong nền kinh tế.
+Khuôn khổ pháp lý cho sự vận hành nền kinh tế thị trường chưa được hoàn chỉnh.
- Trung Quốc cũng vấp phải những vấn đề mà Việt Nam gặp phải như vấn đề pháp lý liên quan đến cạnh tranh và độc quyền trong nền kinh tế, vấn đề cạnh tranh không lành mạnh, vấn đề phân biệt đối xử, vấn đề về nhà nước, vấn đề độc quyền hành chính, vấn đề kiểm soát độc quyền, vấn dề về các công ty xuyên quôc gia và việc gia nhập WTO.
- Những bài học của Trung Quốc: trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách cạnh tranh cần lưu ý được những điểm sau: thống nhất nhận thức và quan điểm, xoá bỏ tình trạng phân biệt đối xử, tôn trọng quyền tự do của người tiêu dùng vì chỉ khi quyền tự do lựa chọn của người tiêu dùng được đảm bảo thì cơ chế cạnh tranh mới phát huy được tác dụng tích cực của nó, cần phải caỉ cách doanh nghiệp nhà nước, giải quyết độc quyền hành chính, giám sát độc quyền, đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục.
3. Một số kiến nghị
- Để tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng công bằng trong kinh doanh chính sách cạnh tranh quốc gia cần bao gồm các bộ phận:
+Xoá bỏ các quy đinh hạn chế cạnh tranh, xây dựng môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các hình thức sở hữu.
+Kiểm soát độc quyền, bao gồm độc quyền của một số doanh nghiệp nhà nước lớn trong và ngoài lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
+Ban hành và thực hiện luật cạnh tranh.
- Tiếp tục đổi mới quan niệm, nhận thức về cạnh tranh. Côi đó là một động lực phát triển kinh tế, ổn định cho phát triển, đảm bảo lợi ích quốc gia, an ninh và quốc phòng.
- Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý cho kinh doanh.
- Các biện pháp cụ thể khác:
+Thành lập doanh nghiệp mới.
+Đất đai: chuyển chế độ phê duyệt chuyển đổi mục đích và quyền sử dụng theo chế độ đăng ký tại một cơ quan. Cho thuê đất theo quy hoạch và xây dựng khu công nghiệp là hướng giải quyết thuận lợi cho các loại doanh nghiệp có nhu cầu phát triển.
+Vốn: giảm dần tiến tới chấm dứt các khoản vay tín dụng ưu đãi cho doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở nguyên tắc cạnh tranh, xoá bỏ giới hạn mua cổ phần của các đối tượng: người quản lý, người ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài.
+Lao động: thống nhất các quy định chug cho các loại hình doanh nghiệp, cụ thể về tuyển dụng lao động, lương tối thiểu chug cho toàn quốc, mức thuế thu nhập.
+Tiếp cận thị trường: chú ý đến việc đổi mới trong xuất nhập khẩu tránh rườm rà quá mức cần thiết.
+Thuế quan: miễn giảm thuế tối đa đối với mọi mặt hàng xuất khẩu. Thuế nhập khẩu thì xóa bỏ cách đánh thuế theo mục đích sử dụng, giảm số thuế và mức thuế.
+Chuyển giao công nghệ.
+Giảm chi phí đầu vào.
+Cải cách doanh nghiệp Nhà Nước.
+Tuyên truyền, giáo dục về cạnh tranh.
+Thành lập hội người tiêu dùng.
- Cơ cấu lại và kiểm soát độc quyền, kể cả độc quyền tự nhiên.
Tài liệu tham khảo
Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.-CIEM- Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương.
Chính sách phát triển kinh tế. Kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc.- tạp I - CIEM- Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương.
Đảng công sản Việt Nam – văn kiện đại hội đaị biểu toàn quốc lần thứ 8.
Đảng công sản Việt Nam – văn kiện đại hội đaị biểu toàn quốc lần thứ 9.
Kinh tế học chính trị Mac-Lenin
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35686.doc