Trong khi trên thế giới, quá trình quản lý chất lượng và chiến lược chất lượng đã có trình độ cao, tức là chiến lược chất lượng rất được quan tâm áp dụng thì ở Việt Nam chiến lược chất lượng đang còn ở trình độ thấp, mang tính tự phát. Chiến lược chất lượng nhìn chung vẫn còn rất xa lạ đối với người lao động, thậm chí là cả các cấp lãnh đạo. Vì vậy Nhà nước cần chỉ đạo các doanh nghiệp dệt may chú ý quan tâm đến việc xây dựng và áp dụng chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu hơn nữa. Việc lựa chọn mô hình chiến lược chất lượng cũng rất quan trọng, nó tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp, sự phát triển của ngành trực thuộc và tình hình thị trường xuất khẩu mục tiêu.
30 trang |
Chia sẻ: linhlinh11 | Lượt xem: 748 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chiến lược chất lượng hàng Dệt may xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Ngành Dệt - May có vai trò quan trọng trong nền KTQD. Ngành Dệt - May luôn gắn liền với nhu cầu không thể thiếu được của mỗi con người vì nó cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho xã hội, giải quyết việc làm cho một lực lượng lớn lao động đồng thời mang lại nguồn ngoại tệ lớn từ xuất khẩu và đóng góp một phần thu cho ngân sách Nhà nước. Từ rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp này đã hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của công nghiệp tư bản. Ngành công nghiệp Dệt - May Việt Nam hiện có tiềm lực phát triển khá mạnh và được coi là một trong những trọng điểm phát triển công nghiệp của đất nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành Dệt - may chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu chiếm 13 - 14% so với tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Kim ngạch xuất khẩu năm 1999 đạt 1,73 tỷ USD, năm 2000 đạt 1,89 tỷ USD, năm 2001 đạt 1,96 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD và năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Tuy nhiên trong cơ cấu hàng Dệt - May xuất khẩu thì kim ngạch xuất khẩu hàng may luôn giữ vị trí áp đảo. Hơn nữa, hiện nay xuất khẩu may được thực hiện chủ yếu bằng phương thức gia công - CM hoặc CMT - (chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành Dệt - May). Nguyên phụ liệu của các doanh nghiệp trong nước cung cấp cho may xuất khẩu rất hạn hẹp. Vì vậy đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả và tính chủ động của các doanh nghiệp may - xuất khẩu. Vì vậy "Chiến lược chất lượng hàng Dệt may xuất khẩu" được em chọn làm đề tài cho đề án môn học.
I. Vị trí vai trò của chiến lược chất lượng đối với xuất khẩu hàng Dệt - May Việt Nam
1. Chất lượng - Chiến lược chất lượng và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hàng dệt may
Khái niệm chất lượng sản phẩm đã được sử dụng từ rất lâu và ngày nay lại rất thông dụng trên sách báo và tạp chí. Tuy nhiên chất lượng sản phẩm là một phần rất rộng và phức tạp, phản ánh tổng hợp các nội dung kỹ thuật, kinh tế, xã hội. Sản phẩm hàng hoá được gọi là có chất lượng không có giới hạn rõ ràng. Chất lượng là khái niệm tương đối nó phụ thuộc vào thuộc tính của bản thânhh và yêu cầu về mức độ đáp ứng của người tiêu dùng sản phẩm hàng hoá đó. Như vậy để hiểu như thế nào là chất lượng sản phẩm không phải là vấn đề đơn giản. Tuỳ vào góc độ khác nhau mà ta có thể đưa ra các khái niệm về chất lượng xuất phát từ người sản xuất, người tiêu dùng, từ sản phẩm hay đòi hỏi của thị trường.
Quan niệm xuất phát từ sản phẩm cho rằng: Chất lượng là tập hợp những tính chất của sản phẩm chế định tính thích hợp của sản phẩm để thoả mãn những nhu cầu xác định phù hợp với công dụng của nó. Quan niệm này đã đồng nhất chất lượng sản phẩm và số lượng các thuộc tính hữu ích của sản phẩm. Trên thị trường có nhiều sản phẩm có nhiều thuộc tính hữu ích song vẫn không được người tiêu dùng đánh giá cao. Ví dụ: các sản phẩm may mặc bị lỗi mốt, mặc dù chúng vẫn đảm bảo được các thuộc tính vốn có của hàng may mặc nhưng thị trường vẫn không chấp nhận.
Quan niệm của nhà sản xuất: Chất lượng là sự hoàn hảo, phù hợp của một sản phẩm với một tập hợp các yêu cầu hoặc tiêu chuẩn, quy cách xác định trước. Theo quan niệm ngày này thì chất lượng chỉ phản ánh việc đạt được các chỉ tiêu chất lượng đề ra.
Quan niệm chất lượng theo hướng thị trường.
+ Chất lượng xuất phát từ người tiêu dùng: Chất lượng là sự phù hợp của sản phẩm với mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
+ Chất lượng xuất phát từ mặt giá trị: Chất lượng được hiểu là đại lượng được đo bằng tỷ số giữa lợi ích thu được từ người tiêu dùng với chi phí bỏ ra để thu được lợi ích ấy.
+ Chất lượng xuất phát từ tính cạnh tranh của sản phẩm thì chất lượng cugn cấp các thuộc tính mang lại lợi thí cạnh tranh nhằm phân biệt nó với sản phẩm cùng loại trên thị trường.
Quan niệm chất lượng theo tổ chức tiêu chuẩn hoá Quốc tế: chất lượng là tập hợp tất cả các tính chất và đặc trưng của một sản phẩm có khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu ra hay tiềm ẩn. Quan niệm này được chấp nhận rộng rãi trong hoạt động kinh doanh quốc tế ngày nay vì nó thể hiện được sự thống nhất giữa các thuộc tính nội tại khách quan của khách hàng. Tuy nhiên quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển và bổ sung hơn nữa. Tuy nhiên quan niệm chất lượng sản phẩm tiếp tục được phát triển và bổ sung hơn nữa. Để đáp ứng nhu cầu khách hàng các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm của mình nhưng không thể theo đuổi chất lượng cao với bất kỳ giá nào mà luôn có giới hạn về kinh tế, xã hội và công nghệ.
Các quan niệm trên tuy khác nhau nhưng tựu chung lại ta thấy khi nói đến chất lượng cần chú ý các đặc điểm sau:
+ Chất lượng sản phẩm phải được xem xét thông qua các chỉ tiêu đặc trưng.
+ Chất lượng sản phẩm phải phù hợp với công dụng, mục đích chế tạo, nhu cầu của thị trường.
+ Chất lượng sản phẩm mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng, thị hiếu người của người dân.
Bằng các quan niệm trên chúng ta đã hiểu thêm phần nào về chất lượng thì còn chiến lược chất lượng sản phẩm. Trên quan điểm kinh doanh có thể nếu chiến lước chất lượng là tổng hợp những định hướng, kế hoạch, biện pháp lớn nhằm phát triển sản xuất, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm trên cơ sở cải tiến toàn bộ hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm.
Nói chung mục tiêu của chiến lược chất lượng là cải tiến hệ thống các chỉ tiêu chất lượng là định lượng của các thuộc tính cấu thành lên chất lượng sản phẩm. Những thuộc tính này được xem xét, đánh giá trong những điều kiện nhất định của quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Khi đề cấp đến chỉ tiểu chất lượng của hàng Dệt - May, người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu công dụng: Sản phẩm Dệt - May phải phù hợp công dụng, chức năng của nó và phải có được bền đẹp thích hợp.
+ Chỉ tiêu an toàn: sản phẩm Dệt - May an toàn, không gây độc hại cho người sử dụng, môi trường và bảo vệ người tiêu dùng trong những điều kiện nhất định.
+ Chỉ tiêu thẩm mỹ: Sản phẩm Dệt - May phải có kiểu mốt, kết cấu, kích cỡ, màu sắc, trang trí phù hợp với yêu cầu sử dụng và các đặc trưng nhân trắc của cơ thể. Các đặc điểm tâm sinh lý của người tiêu dùng.
+ Chỉ tiêu công nghệ: Sản phẩm Dệt - May phải có kết cấu phù hợp với đặc điểm công nghệ của doanh nghiệp sao cho sản phẩm được sản xuất có chất lượng cao tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành
+ Chỉ tiêu kinh tế: Thể hiện tổng hợp ở các vấn đề là chi phí sản xuất thấp, bảo đảm giá thành cạnh tranh, phù hợp với khả năng mua sắm của người tiêu dùng hợp lý hoá về chi phí lưu thông, sử dụng, bảo quản sản phẩm.
Riêng đối với sản phẩm may mặc được gọi là đạt yêu cầu thì cần đảm bảo trước tiên là đáp ứng được các tiêu chuẩn quy định cho sản phẩm may như:
+ Quy định về mật độ mũi kim:
Máy băng: 8,5 á 9,5 mũi/2cm
Máy xén: 8,5 á 9 mũi/2cm
Máy xén mờ: 7,5 á 8 mũi/2cm
Máy trần, viền: 8 á 8,5 mũi/2cm.
+ Quy định độ rộng của đường may:
Máy xén mờ: 3 á 4 mm
Máy xén một kim: 4 á 5 mm
Máy xén hai kim: 5 á 6 mm
Máy trần hai kim: 4,8 mm
+ Dung sai kích thước sản phẩm:
Dung sai kích thước sản phẩm được quy định trong các phiếu công nghệ.
Dung sai kích thước mảnh can:
Bề rộng mảnh can Ê 20cm: dung sai ± 0,5cm
Bề rộng mảnh can > 20cm: dung sai ±1cm
+ Qui định kỹ thuật may:
* Đối với áo:
Cổ áo: Bề mặt êm, không được phép có các lỗi thường vặn, rúm, xì chân cổ, ve cổ quá lệch, bọc cổ lè, hớ cổ, chồng cổ.
Nẹp áo: Không được phép có các lỗi bùng, trên dưới to nhỏ, cạnh nẹp cong, góc nẹp dúm hở, ép mex bị rộp, bong, chân nẹp xiên cong.
Túi áo: Đúng hình dáng, vị trí ép mex đường túi không bị rộp bong. Túi ốp đáy cân, mí đều, chặn miệng túi đều, phẳng.
Tay áo: May vào thân phải tra đều, êm, không gãy khúc, không bai, xoắn, măng xéc êm phẳng.
Vai áo, sườn áo: ráp êm, không thừa không thiếu làm sai lệch kích thước sản phẩm, gấu áo không được vồng, võng, vặn.
* Đối với quần:
Bản cạp: may đều, lót cạp êm, không bùng vặn.
Các đường dọc quần, giàng quần, đũng quần êm phẳng, đúng hình dáng quần cân xứng. Hai ống quần cân xứng.
+ Quy định về là gấp:
Sản phẩm được là mặt trước, bề mặt phẳng, không bị bóng mặt vải
Sản phẩm phải sạch sẽ không bị ẩm.
Gấp sản phẩm đúng theo kích thước, sai lệch cho phép ± 0.5 cm
Túi OPP, PVA không bị nhàu, nát, rách
Lót lưng không nhàu, rách, yêu cầu trằng sạch.
2. Vai trò của chất lượng hàng Dệt may đối với xuất khẩu:
Trong điều kiện kinh tế mở như hiện nay, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải tìm được thế mạnh cạnh tranh của mình. Vì thế nâng cao chất lượng có tầm quan trọng sống còn đối với các doanh nghiệp. Chất lượng là một trong các lợi thế cạnh tranh mạnh với hàng dệt may xuất khẩu khi mà thị trường thế giới đã được phân chia khá rõ ràng. Chất lượng sản phẩm trở thành một giải pháp quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Dệt may, tăng sản lượng xuất khẩu, tăng sự tín nhiệm của khách hàng nước ngoài. Mặt khác, doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao tạo điều kiện quan trọng cho tăng cường đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm của mình. Nhờ chất lượng sản phẩm cao làm tăng danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp, giữ được khách hàng cũ, thu hút thêm khách hàng mới, mở rộng thị trường nước ngoài tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững và lâu dài của doanh nghiệp. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định lựa chọn mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chất lượng tạo ra sự hấp dẫn, thu hút người mua. Vì vậy, chất lượng có vai trò rất to lớn đối với xuất khẩu.
Hàng dệt may là một trong những mặt hàng thiết yếu của xã hội, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhu cầu của người tiêu dùng về hàng dệt may không ngừng được nâng cao, ngày càng trở lên đa dạng và phòng phú hơn. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng có quyền lựa chọn những sản phẩm dệt may phù hợp với nhu cầu cũng như khả năng thanh toán của họ. Với điều kiện giá cả không còn là mối quan tâm duy nhất của khách hàng thì chât lượng là công cụ cạnh tranh hữu hiệu nhất của các nhà sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Chất lượng hàng dệt may là tiêu chuẩn tạo nên sức cạnh tranh của nó làm cho bản thân sản phẩm chiếm được sự mến mộ của khách hàng, nhất là khách hàng nước ngoài, những người có yêu cầu đòi hỏi rất khắt khe, tạo nên tài sản vô hình cho doanh nghiệp. Nâng cao chất lượng hàng dệt - may đồng nghĩa với việc nâng cao các thuộc tính của sản phẩm, thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm nhờ hoàn thiện quá trình, đổi mới, cải tiến các hoạt động, giảm sự lãng phí, phế phẩm hoặc tái chế. Kết quả của một chuỗi quá trình đó là: Giảm chi phí, tăng mức cạnh tranh của doanh nghiệp, thu hút khách hàng, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường, tăng vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp và đẩy mạnh xuất khẩu. Có thể nói khả năng xuất khẩu hàng hoá phụ thuộc nhiều vào 2 yếu tố: Chất lượng và giảm chi phí. Mà chất lượng và giảm chi phí là hai nhân tố tạo nên khả năng cạnh tranh của hàng dệt may. Chất lượng và chi phí phải được tạo ra từ chất lượng trong quản lý và sử dụng các nguồn lực, hiệu quả của tài sản và quá trình. Khi tài sản và quá trình được quản lý một cách có hiệu quả thì sẽ đạt được chất lượng cao hơn và chi phí đơn vị thấp hơn mà vẫn thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng và xã hội. Nhưng thành thật mà nói, giá thành sản phẩm dệt may của Việt Nam còn cao hơn Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan, Sri LanKa, Bangladesh Như vậy, làm gì để nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu? Thị trường hàng dệt may thế giới được chia ra làm 2 phần rõ rệt. Loại thứ nhất dùng để tiêu dùng cho đại chúng, tiêu thụ số lượng rất lớn nhưng giá lại rẻ. Loại này phù hợp với những người có thu nhập trung bình và thấp. Loại thứ hai là hàng hiệu tức là sản phẩm có nhãn hiệu tức là sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng mà bình và thấp. Loại thứ hai là hàng hiệu tức là sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng mà người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao. Nếu Việt Nam chỉ sản xuất hàng thông thường thì chắc chắn giá sẽ không cạnh tranh được với các nước nêu trên. Vậy con đường đi hợp lý cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là đi vào thị trường thứ 2. Có thể giá thành sản phẩm dệt may cảu chung ta còn cao nhưng nếu chúng ta có thương hiệu mạnh và chất lượng cao thì chúng ta vẫn cứ xuất khẩu được hàng. Đối với việc sử dụng nhãn hiệu, nếu sản phẩm dệt may của chúng ta sử dụng nhãn hiệu Việt Nam thì rất khó xuất khẩu sẽ có rất ít người mua mà nếu có mua thì giá rất thấp, không xứng với chất lượng của chúng ta làm ra. Vì vậy tam thời phải sử dụng các nhãn hiệu nổi tiếng để từ đó xây dựng nhãn hiệu của riêng mình.
3. Các chiến lược chất lượng hàng dệt may:
Như đã biết, chiến lược chất lượng là tổng hợp những định hướng, kế hoạch, biện pháp lớn nhằm phát triển sản phẩm, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm, trên cơ sở cải tiến toàn bộ hệ thống chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Chiến lược hàng dệt may cũng là những biện pháp lớn nhằm phát triển sản phẩm, kéo dài chu kỳ sống của sản phẩm trên cơ sở cải tiến các chỉ tiêu chất lượng hàng dệt may.
Một số chiến lược thường được áp dụng là:
- Chiến lược chất lượng kỹ thuật: Chiến lược này hướng các doanh nghiệp dệt may vào việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp công nghiệp mới để áp dụng vào sản phẩm dệt may của mình, đôi khi bất chấp các nghiên cứu thị trường. Doanh nghiệp tin tưởng rằng các cải tiến mới sẽ giúp sản phẩm của trở thành mới hoàn toàn và họ trở thành người định hướng cho thị trường hình thành nên các nhu cầu mới cho thị trường.
Ưu điểm của phương án chiến lược này là các hãng dệt may được sản xuất trên dây truyền công nghệ hoàn toàn mới, chất lượng cao tạo ra các sản phẩm chất liệu mới, kiển cách và hình dáng mới, doanh nghiệp trở thành người định hướng cho các nhu cầu mới. Vì hiện nay ở Việt Nam, mặt hàng lụa Tapta đang được ưa chuộng. sản phẩm này mới xuất hiện rộng rãi ở thị trường nước ta một thời gian gân đây nhưng đã chiếm được niềm tin của khách hàng. Sản phẩm vải lụa đã có ở Việt Nam từ rất lâu rồi với các tên tuổi nổi tiếng từ hàng dệt Vạn Phúc, Hà Tây. Nhưng sản phẩm lụa Tapta thì mới xuất hiện. Với việc đầu tư vào công nghệ mới, các nhà sản xuất đã tạo ra được một sản phẩm lụa mới được lụa tapta được sử dụng nhiều vào sản xuất quần áo mùa đông, túi xách tay Chính sản phẩm lụa này đã hình thành nên dòng sản phẩm mới là túi xách tay bằng lụa tapt. Nhược điểm: Vì chỉ tập trung đầu tư nghiên cứu cho giải phát công nghệ mới nên chiến lược chất lượng này không chú ý đến việc nghiên cứu thị trường. Vì vậy rất dễ dẫn đến rủi ro. Vì nhiều thị trường có những thói quen rất khó thay đổi nến sản phẩm được sản xuất ra thiếu sự nghiên cứu, văn hoá, thị hiếu phong cách thì rất khó chấp nhận.
- Chiến lược chất lượng Marketing: Chiến lược này coi chất lượng là sự chấp nhận của khách hàng và chỉ tìm kiếm giải pháp maketing cho cho chiến lược chất lượng. Ví dụ: Sản phẩm áo sơ mi nam là sản phẩm truyền thống của công ty May 10. Chiến lược chất lượng của công ty đổi mới sản phẩm này không phải sự cải tiến cho một loại sản phẩm mới, kiểu dáng mới Thậm chí ngược lại sản phẩm sơ mi nam truyền thống công ty May 10 vẫn duy trì kết cấu sản phẩm hiện có. Mặc dù vậy nó vẫn được khách hàng biết đến và đánh giá rât cao. Chiến lược chất lượng đã được áp dụng cho sản phẩm sơ mi nam là chất lượng thông qua giải pháp Marketing với đẳng cấp đã được khẳng định
Nhược điểm không phải bất cứ sản phẩm nào, chất lượng nào cũng thành công với chiến lược chất lượng Marketing. Sản phẩm phù hợp với chiến lượng chất lượng Marketing khi đã có chất lượng tốt và có những công dụng thần kỳ. Chiến lược chất lượng kỹ thuật - Marketing:chiến lược này coi chất lượng là sự chấp nhận của khách hàng và chỉ tìm kiếm giải pháp Marketing cho chiến lược chất lượng Marketing khi đã có chất lượng tốt và có những công dụng thời kỳ chiến luợc kỹ thuật - Marketing, là chiến lược đan xen các cải tiến kỹ thuật nhỏ bên cạnh các nỗ lực Marketing. Ưu điểm của chiến lược này không đòi hỏi nguồn tài chính lớn nhưng lại luôn có các cải tiến nhỏ thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp nhanh chóng với nhu cầu thay đổi của thị trường.
4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chiến lược chất lượng hàng dệt may:
a. Môi trường khu vực và quốc tế:
Xu hướng trên toàn cầu hoá, sự hội nhập của nền kinh tế cũng như quá trình tự do thương mại quốc tế tác động rất nhiều tới chất lượng và chiến lược chất lượng. Cùng với sự phát triển kinh tế và sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi nhiều cách nghĩ , cách làm, từ đó dẫn đến chiến lược chất lượng cũng thay đổi. Sự thay đổi nhanh chóng của tiến bộ xã hội đặc biệt vài trò của khách hàng ngày càng được nâng cao. Khách hàng được quyền lựa chọn mình sẽ mặc gì chứ không phải mình phải mặc gì. Cùng với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt với sự bão hoà của thị trường luôn đòi hỏi các doanh nghiệp dệt may có chiến lược phù hợp.
Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ. Công nghệ càng hiện đại thì chất lượng hàng dệt may càng ổn định, chi phí càng ít, tạo khả năng cạnh tranh cao về chất lượng nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Vì chất lượng của sản phẩm được thể hiện trước hết ở trình độ đặc trưng kỹ thuật. Mặt khác tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra được các phương tiện nghiên cứu khách hàng một cách chính xác tử đó xác định rõ đúng đắn nhu cầu "sự thay đổi của nhu cầu khoa học công nghệ còn tạo ra các loại nguyên liệu mới tốt hơn, rõ hơn và sẵn có hơn để phục vụ tốt hơn nhu cầu sản xuất .
Văn hoá - xã hội: Yếu tố văn hoá xã hội của mỗi khu vực thị trường, mỗi quốc gia ảnh hưởng rất lớn tới các đặc tính kỹ thuật của các sản phẩm dệt may. Đổi với mỗi loại thị trường khác nhau thì khách hàng yêu cầu, đặc tính chất lượng hoàn toàn khác nhau. Những đặc tính chất lượng của sản phẩm chỉ thoả mãn toàn bộ nhu cầu cá nhân nếu không ảnh hưởng lợi ích của xã hội. Do vậy, chiến lược chất lượng sản phẩm phụ thuộc chặt chẽ vào văn hoá- xã hội.
b. Cơ chế chính sách của Nhà nước:
Muốn ngành dệt may trong nước phát triển cần khuyết khích đầu tư nước ngoài vào máy móc thiết bị, khuyến khích xuất khẩu. Đồng thời nhà nước ần quản lý hàng nhái, hàng kém chất lượng đang trôi nổi tren thị trường. Một cơ chế kinh tế hợp lý sẽ tạo ra môi trường thuận lợi bên cạnh đó còn tạo ra sức ép để các tổ chức phải nâng cao chất lượng tạo nên một môi trường cạnh tranh lành mạnh một sân chơi bình đẳng cho tổ chức và doanh nghiệp. Một cơ chế thích hợp còn kích thích các doanh nghiệp đẩy mạnh đầu tư để nâng cao chất lượng thúc đẩy áp dụng chiến lược chất lượng đồng thời còn bảo vệ lợi ích của nhà sản xuất và người tiêu dùng hàng dệt may cũng nhu hàng hoá khác.
c. Môi trường ngành:
Trong môi trường ngành thì sức ép của các đối thủ cạnh tranh và sự hoạt động của các nhà cung ứng ảnh hưởng nhiều đến chiến lược chất lượng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải đưa ra được các chiến lược chất lượng phù hợp mang tình cạnh tranh hơn các đối thủ. Đồng thời trong điều kiện hiện nay việc xây dựng các hệ thống mua bán tin cậy là biện pháp quan trọng đê bảo đảm và nâng cao chất lượng.
d. Nội lực của doanh nghiệp:
Để thực hiện chiến lược chất lượng sản phẩm cho xuất khẩu thì đòi hỏi bản thân các doanh nghiệp dệt may phải xác định được điểm mạnh - yếu của mình đê tạo ra các lợi thế so sánh cần thiết.
Nguồn lực con người: Chất lượng phụ thuộc chủ yếu vào trình độ tay nghề, kinh nghiệm và ý thức trách nhiệm của con người lao động. Thêm nữa để một tổ chức có thể đạt được chất lượng theo mong muốn trên cơ sở giảm chi phí thì còn phụ thuộc lớn vào trình độ tổ chức quản lý của tổ chức. Chất lượng của hoạt động quản lý phản ánh chất lượng của các hoạt động chính trong tổ chức. Vì vậy, khai thác hợp lý các nguồn lực sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng bứt phá tạimỗi thời điểm vể chất lượng.
Vị thế và tiềm lực tài chính của doanh nghiệp cũng ảnh hưởng nhiều đến việc xây dựng và áp dụng chiến lược chất lượng. Vị thế và tiền lực có mạnh thì chiến lược chất lượng mới được quan tâm chú ý.
II.Thực trạng, chiến lược chất lượng hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam
1. Tình hình phát triển xuất khẩu ngành dệt may trong thời gian qua
Hơn 10 năm qua, bằng việc phát triển ngành công nghiệp dệt may nước ta đã có nhiều thành tựu to lớn mà nhiều ngành kinh tế khác của đất nước khó mà theo kịp, hàng dệt mayluôn đứng thứ 2 (sau dầu thô) trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Trong giai đoạn 1996 - 2002 hàng may mặc xuất khẩu tăng bình quân hàng năm từ 20 - 25 %, chiếm khoảng 12 - 13 % tổng giá trị xuât khẩu của cả nước.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 1996 - 2002
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng KNXK hàng dệt may
1150
1502
1450
1747
1892
1975,4
2750
3600
Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may giai đoạn 1996 - 2002
Thông qua bảng số liệu trên ta thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam năm 2000 đạt 1892 triệu USD tức là 1,892 tỷ USD, năm 2001 đạt 1,975 tỷ USD, năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD, năm 2003 đạt 3,6 tỷ USD. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2003 tăng gấp hai lần kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2000 và tăng 31% so với năm 2002. Trong những năm gần đây, tỷ lệ tăng trưởng ngành dệt may luôn cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, ngang bằng tỷ lệ tăng trưởng toàn ngành công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành dệt may chiếm bình quân trên 9% toàn ngành công nghiệp. Giá trị sản xuất chiếm khoảng 2% GDP của cả nước tạo việc lmà cho khoảng 1,6 triệu lao động công nghiệp.
Từ năm 1990 trở vể trước, các sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt Nam sang Liên Xô là chủ yếu, chiếm 85% trong tổng số kim ngạch xuất khẩu của ngành. Số còn lại xuất sáng các nước Đông Âu như Hungari, Tiệp Khắc, CHDC Đức. Với các sản phẩm chủ yếu như áo sơ mi nam, nữ; quần áo bảo hộ lao động và một số sản phẩm thuộc loại đơn giản. Sự xụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa làm cho thị trường xuất khẩu của ta bị thu hẹp lại. Có thể nói sau năm 1990 các doanh nghiệp dệt may của nước ta đứng trước những khó khăn gay gắt, nhiều xí nghiệp phải giảm sản xuất, cho công nhân nghỉ không lương, thậm chí có những xí nghiệp dệt may lớn đã hết sức cố gắng, một mặt tìm cách khôi phục thị trường truyền thống, mặt khác tìm cách định hướng mở rộng thị trường mới nhấ là thị trường ở các nước phát triển. Song để thâm nhập các thị trường này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ các khẩu tang thiết bị, tay nghề công nhân quản lý điều hành sản xuất, hoạt động Marketing, vệ sinh công nghệ Vì đây là thị trường khó tính có yêu cầu cao về chất lượng. Sau năm 1990 đến nay, việc kinh doanh sản phẩm dệt may của các doanh nghiệp dệt may nước ta đã được thực hiện với tất cả các bạn hàng mà chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển và các nước trong khu vực. Ngày 01/03/1993 Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu được ký kết, mở ra cho ngành dệt may Việt Nam cơ hội thâm nhập một thị trường tư bản quan trọng với hơn 350 triệu dân dệt may Việt Nam xâm nhập vào thị trường Mỹ..tt xuất khẩu chủ yếu của hàng dệt may nước ta hiện nay là Nhật Bản, EU và Mỹ.
Theo Bộ Thương mại, thống kê của Bộ Thương mại Mỹ cho biết nhập khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào Mỹ trong năm 2003 là 2,48 tỷ USD, tăng 161,4 về trị giá và tăng 132,07% về lượng so với năm 2002. Vươn lên là thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ 7 vào Mỹ theo kim ngạch. Trong năm 2003 xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ bắt đầu bị áp đặt hạn ngạch. Trong những tháng đầu năm tranh thủ khi Mỹ chưa áp đặt hạn ngạch các doanh nghiệp các doanh nghiệp đã tranh thủ xuất tối đa sang Mỹ. Chính vì vậy mà kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này trong những tháng đầu năm là rất cao. Có những tháng đạt trên 250 triệu. Tuy nhiên, kể từ khi Mỹ áp đặt hạn ngạch nhất là vào những tháng cuỗi năm thì xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đã giảm khá mạnh do lượng hạn ngạch ở một số lat đã hết.
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các tháng
Đơn vị: Triệu USD
Tháng
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
KNX năm 2002
155
134
143,3
192,7
164,6
243,4
284,5
3,5
285
271
250
264
KNX năm 2003
317
240
270
289
336
403
396
396
262
230
213
270
Bảng: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các tháng
Trong tháng 11, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ chỉ đạt khoảng 80 triệu USD, giảm tới 68,5 % so với kim ngạch xuất khẩu trong tháng 68 giảm 34,2% sơ với cùng kỳ 2002. Mặc dù bị hạn chế hạn ngạch nhưng xuất khẩu hàng dệt may của ta sang Mỹ cả năm 2003 vẫn đạt gần 1,9 tỷ USD, tăng 94,67% so với năm 2002 và chiếm hơn 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của cả nước.
EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam. Từ năm 1980 chúng ta đã xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU đặc biệt phát triển mạnh kể từ khi có hiệp định buôn bán hàng dệt may. Từ chỗ bị cấm vận, đến năm 1999 đã đạt gần 700 triệu USD và năm 2000 tăng thêm khoảng 150 triệu USD. Hiện nay, xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này chiếm 34- 38% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may hàng năm của Việt Nam. Nhiều năm trước khi thị trường Mỹ mở ra, thị trường EU luôn dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu. Nhưng 6 tháng đầu năm 2003, kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này lại xuống thấp tới mức kỷ lục, chỉ đạt 195triệu USD, giảm 31,3% so với cùng kỳ năm 2002 . Cuối năm 2003, Bộ Thương mại nối lại việc cấp giấy phép xuất khẩu (E/L) tự động đối với tất cả các mặt hàng sang EU và đặc biệt là mới đây EU đã chính thức tăng thêm 50% đến 70% hạn ngạch ở một số Lát nóng thì xuất khẩu hàng dệt may sang EU lại tăng mạnh trở lại. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU năm 2003 đạt 353 triệu USD giảm 3,26% so với năm 2002.
Thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ 3 của Việt Nam chiếm 17,5 % tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Nhật bản là thị trường phi hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này không bị hạn chế. Thế nhưng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này đang có xu hướng giảm xuống do hàng may mặc của Việt Nam xuất khấu vào thị trường này đang bị cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của các nước thành viên WTO như Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc, Italia.
Năm 2002, Việt nam đứng thứ 4 trong các nước có hàng may mặc xuất khẩu vào Nhật bản. Nhưng đến năm 2003, sản phẩm dệt may của Việt nam đã vượt qua Italia, Hàn quốc để trở thành quốc gia thứ 2 sau Trung Quốc có năng lực cạnh tranh cao tại thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt nam sang Nhật bản tăng hàng năm đến năm 2000 đạt cao nhất 620 triệu USD, sau đó năm 2001 lại giảm 5% so với năm 2000 còn 592 triệu USD năm 2002 lại giảm 20% so với năm 2001 đạt 480 triệu USD. Năm 2003 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt nam sang nhật khoảng 480 triệu USD, chiếm 26% thị phần dệt may của Nhật bản.
Năm 2004, mặc dù xuất khẩu sang Mỹ năm 2004 vẫn bị áp đặt hạn ngạch nhưng dự báo triển vọng xuất khẩu hàng dệt may vẫn thuận lợi và kim ngạch xuất khẩu có thể đạt 4 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu sang Mỹ sẽ đạt khoảng 2,1 tỷ USD; sang EU đạt khoảng 800 triệu USD; sang Nhật bản đạt 500 triệu USD.
2. Thực trạng chất lượng hàng dệt - may xuất khẩu Việt nam.
Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp dệt may phụ thuộc rất lớn vào chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp đó bán ra. Sản phẩm có chất lượng cao là một trong những căn cứ quan trọng cho quyết định lựa chọn mua hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, chất lượng tạo ra sự hấp dẫn, thu hút người mua. Với nhận thức muốn tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường thì phải đặc biệt coi trọng chỉ tiêu chất lượng. Trong những năm gần đây các doanh nghiệp dệt - may xuất khẩu Việt nam đã tiếp cận với khái niệm và phương pháp quản lý chất lượng hiện đại là ISO & TQM trong quản lý chất lượng. Một số doanh nghiệp dệt may đã được cấp chứng chỉ ISO9000 như: công ty Coats Totel phong phú, công ty May 10, công ty may Đức giang, May Chiến Thắng.v.v.Thực tế cho thấy ISO 9000 dã tạo ra cho các doanh nghiệp dệt may một phương pháp quản lý mới, một phong cách làm việc có hiệu quả.
Trong những năm qua để tăng cường hội nhập vào nền kinh tế thế giới, về mặt chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp dệt may Việt nam đã có một số tiến bộ nhất định . Để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm dệt may trên thị trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt nam phải lựa chọn mặt hàng với chất lượng và giá cả thích hợp để đẩy mạnh xuất khẩu tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp đã coi chất lượng như là thứ vũ khí cạnh tranh quan trọng nhất vì thế đã đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm trên thị trường quốc tế. Các doanh nghiệp dệt may đã cố gắng tập trung nỗ lực vào cải tiến mẫu mã đổi mới về mặt hàng, nâng cao các chỉ tiêu chất lượng như: đa dạng, phong phú về chủng loại, kiểu dáng, thẩm mỹ, kết cấu sản phẩm với các chỉ tiêu về tính năng sử dụng, độ bền, an toàn sao cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Nhờ vậy chất lượng sản phẩm dệt may đã đi dần vào thế ổn định và có xu hướng ngày càng tăng cao thoát dần khỏi tình trạng suy giảm và mất ổn định như những năm trước. Chất lượng sản phẩm của các công ty như May 10, May Đức Giang, Loats Total phong phú,đã được nâng cao rõ rệt, đã lấy lại được thị trường và có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Chẳng hạn, công ty may Chiến thắng trong giai đoạn trước những năm 1986 chỉ sản xuất theo pháp lệnh của nhà nước, không phải lo khâu tiêu thụ như thế nào để thu được lợi nhuận cao nhất vì vậy mà chất lượng sản phẩm của công ty rất thấp. Hơn nữa, các sản phẩm may mặc xuất khẩu lúc bấy giờ chủ yếu là găng tay, quần áo bơi, quàn áo bảo hộ lao động, mũhầu hết là các đồ đơn giản, yêu cầu kỹ thuật trình độ tay nghề chưa cao. Khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, công ty kịp thời có những thay đổi để bắt kịp và hoà nhập với nền kinh tế thị trường. Công ty đã đầu tư chú trọng rất nhiều vào sản xuất bằng công tác đổi mới cải tiến công nghệ và tổ chưcs quản lý để đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm lấy lại uy tín của mình trên thị trường cạnh tranh. Công ty đã mua sắm thêm một số dây chuyền công nghệ tiên tiến của Nhật, Đức, mở rộng danh mục mặt hàng bằng các sản phẩm mới, củng cố và mở rộng thị trường nguyên vật liệu, hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng sản phẩm. Công ty May chiến thắng đã trở thành một trong những doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may có uy tín, khả năng xuất khẩu cao của Việt nam.
Hằng năm kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng từ 20-25%, chiếm khoảng 12 - 13% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Nhưng để hội nhập vào thế giới và khu vực, về mặt chất lượng sản phẩm dệt may của nước ta còn phải phấn đấu rất nhiều. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tăng khá nhanh nhưng chủ yếu tăng do chi phí sản xuất bị đẩy lên cao, chưa thể nói là khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt nam đã tăng lên. Điều này được thể hiện rõ khi 60% giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt nam được thực hiện theo phương thức gia công, tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp chưa cao. Xuất khẩu theo phương thức gia công thường bị thiệt thòi nhiều vì phần giá trị gia tăng thấp, lợi nhuận không cao. Nhưng trong điều kiện hiện nay của nước ta, phương thức gia công xuất khẩu là phương thức có lợi trong việc tiếp cận thị trường thế giới, các doanh nghiệp Việt nam dễ dàng tiếp xúc với các doanh nghiệp và khách hàng nước ngoài. Nó cho phép các doanh nghiệp dệt may Việt nam thấy rõ hơn tính cấp thiết của đổi mới công nghệ nhằm đáp ứng tốt yêu cầu của khách hàng. Mặt khác, thực sự chưa thấy một doanh nghiệp dệt may Việt nam nào có đủ khả năng cạnh tranh độc lập trên thị trường nước ngoài, được biết đến nhãn hiệu hoặc thương hiệu như ở các nước khác. Vì vậy chúng ta tạm thời vẫn phải xuất khẩu theo phương thức gia công nhằm sử dụng các nhãn hiệu nổi tiếng để từ đó xây dựng nhãn hiệu của riêng mình.
Thực tế cho thấy khả năng cạnh tranh về chất lượng và giá cả của sản phẩm dệt may xuất khẩu Việt nam còn thấp. Ngành dệt của chúng ta chủ yếu hoạt động theo phương thức gia công, sản phẩm dệt chất lượng còn thấp, không thep kịp xu hướng vận động của thị trường nên phần lớn vải cung cấp cho ngành nay phải nhập từ nước ngoài. Hàng năm ngành dệt nước ta cần trung bình 100 nghìn tấn bông nhưng lượng bông trong nước chỉ cung cấp được chừng 19 nghìn tấn, tức là chung ta cần nhập khẩu hơn 80% nguyên liệu bông. Năm 1998 chúng ta xuất khẩu 2 triệu áo sơ mi cần 4 triệu mét vải thì 80% vải phải nhập ngoại. Còn ngành may hầu hết làm theo đơn đặt hàng, "vay mượn" cả về mẫu mã, công nghệ, thị trường vì vậy sức cạnh tranh kém. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may còn thấp do tính nội địa hoá của sản phẩm thấp, mẫu mã nghèo nàn không phù hợp với yêu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng nước ngoài. Hàng dệt may xuất khẩu Việt nam vào Mỹ muốn hưởng chế độ thuế xuất nhập khẩu ưu đãi thì phải có trên 70% tỷ lệ nôị địa hoá. Nhưng hàng dệt may xuất khẩu của Việt nam hầu như không đáp ứng được nen giá bán bị đẩy lên cao hơn so với sản phẩm của các nước khác.
Nói chung, khả năng cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu nước ta hiện nay còn yếu so với các nước trong khu vực và thế giới. Hiện nay hãng dệt may xuất khẩu của ta đang phải cạnh tranh gay gắt với sản phẩm của các nước thành viên WTO như: Trung quốc, Thái lan, Hàn quốcđặc biệt là Trung Quốc, sản phẩm của các quốc gia này có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn sản phẩm dệt may xuất khẩu của Việt nam về giá cả, chất lượng, mẫu mã, thương hiệu đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của thị trường xuất khẩu. Hàng dệt may Việt nam được đánh giá chung là có chất lượng chưa cao, không đồng đều, đến hơn 60% kim ngạch xuất khẩu là gia công cho nước ngoài, có nghĩa là làm theo mẫu mã và chất lượng của bên nước ngoài. Hàng xuất khẩu trực tiếp thì hầu hết tập trung phục vụ phân đoạn thị trường bình dân, yêu cầu chất lượng thấp và giá rẻ, chỉ có một số ít sản phẩm đủ tiêu chuẩn đáp ứng cho những phân đoạn thị trường có nhu cầu chất lượng cao nhưng khả năng cạnh tranh còn thấp do không cạnh tranh được về mặt giá cả với những mặt hàng cùng loại của nước ngoài. Do đó nâng cao chất lượng sản phẩm mà không kèm với giảm thị trường trong nước và quốc tế. Nói chung, nếu đánh giá theo chỉ số trình độ chất lượng thì hàng may mặc xuất khẩu nước ta có chất lượng còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Tỷ lệ giá /chất lượng hàng may mặc Việt nam có tỷ lệ cao do đó khả năng cạnh tranh về giá cho hàng xuất khẩu còn nhiều hạn chế, việc nâng cao chất lượng và giảm giá thành sản phẩm là nhiệm vụ cấp bách của các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nước ta trong thời gian tới.
3. Chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc hình thành chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu là kết quả nghiên cứu của rất nhiều vấn đề như: khách hàng sản phẩm, thị trường, công nghệhiện nay ở các doanh nghiệp Dệt - may xuất khẩu Việt nam, chiến lược chất lượng vẫn còn mang tính chất tự phát, chủ yếu là mò mẫm làm theo. Công tác quản lý chất lượng nói chung và chiến lược chất lượng sản phẩm nói riêng đang còn ở trình độ thấp, chưa có vai trò vị trí tương xứng trong điều hành hoạt động kinh doanh trên thị trường xuất khẩu. Trong khi quá trình quản lý chiến lược chất lượng sản phẩm ở thế giới đã đạt đến trình độ cao được các cấp các ngành và toàn bộ công ty quan tâm áp dụng thì tại các doanh nghiệp Việt nam chiến lược chất lượng còn là một vấn đề xa lạ. Trình độ quản lý chất lượng của các doanh nghiệp dệt may Việt nam vẫn còn ở mức kiểm tra chất lượng mặc dù có rất nhiều doanh nghiệp đã nhận được chứng chỉ ISO9000. Việc đổi mới nhận thức về chất lượng và quản lý chất lượng là rất quan trọng. Để nâng cao dần trình độ quản lý chất lượng nói chung, chiến lược chất lượng nói riêng thì rất cần quan tâm đến thực tế khan hiếm nguồn lực tài chính với các yêu cầu phải đổi mới và nâng cao tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm. Vì thế, chiến lược chất lượng theo mô hình kỹ thuật - Marketing phù hợp với các doanh nghiệp dệt -may Việt nam vì nó không đòi hỏi các nguồn lực tài chính lớn, mặt khác thúc đẩy các thay đổi nhỏ liên tục thường xuyên để không ngừng cho ra các sản phẩm dệt - may phù hợp với nhu cầu thay đổi nhanh chóng của khách hàng. Các doanh nghiệp dệt - may cần tập trung nỗ lực vào các thay đổi nhỏ của spa (như kiểu dáng, công dụng phụ thêm.v.vchứ không nhất thiết phải thay đổi hoàn toàn kết cấu của sản phẩm, dựa trên sự nghiên cứu thị trường chi tiết.
Trong bối cảnh quốc tế hoá đời sống kinh tế và sự phát triển nhanh chóng của thị trường trong và ngoài nước, quản lý chất lượng không thể khép kín nội bộ, biệt lập mà phải luôn gắn bó với xu hướng vận động của thị trường và tình hình cạnh tranh trong nước, trên thế giới và cả khu vực. Để tăng khả năng cạnh tranh và chất lượng không có nghĩa là tốt nhất, cao nhất về các đặc tính kỹ thuật mà là chất lượng tối ưu. Đó là sự đáp ứng tối đa những đòi hỏi của người tiêu dùng với chi phí thấp nhất. Do đó, việc xây dựng chiến lược chất lượng và giá cả sản phẩm là việc làm mang tính cấp bách đối với bất kỳ doanh nghiệp nào đặc biệt là đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Vì đây là mặt hàng thiết yếu mang tính nhạy cảm cao. Chỉ có sự kết hợp hài hoà giữa chiến lược chất lượng và giá cả trên từng phân đoạn thị trường nhất định mới có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp mới có thể "len chân" vào thị trường thế giới, nơi mà đã được phân chia rõ ràng bởi các quốc gia lớn và các tập đoàn xuyên quốc gia. Có một bộ phận doanh nghiệp dệt may của nước ta chưa xây dựng được chiến lược chất lượng và giá cả phù hợp làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Nhưng hầu hết các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của nước ta đã và đang đi theo chiến lược chất lượng cấp trung và giá cả hợp lý, không ngừng nâng cao thêm chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Một số doanh nghiệp có thế mạnh như Dệt Thành công, May 10, May Đức giang, May Nhà bècòn đang từng bước đi vào phần thị trường cao cấp với chiến lược chất lượng cao giá thành hạ. Tại phân đoạn thị trường chát lượng thấp, giá cả rẻ, hàng dệt may xuất khẩu của ta hầu như không cạnh tranh được với hàng cùng loại của Trung quốc; ấn độ,thẳng thắn mà nói giá thành sản phẩm của mình còn cao hơn. Phần lớn nguyên liệu dùng để sản xuất hàng dệt may của chúng ta đều phải nhập ngoại (50% nguyên liệu phục vụ ngành dệt may phải nhập) vì số lượng và chất lượng nguyên vật liệu trong nước không đảm bảo dẫn đến chi phí sản xuất tăng. Tỷ lệ nội địa hoá thấp làm cho sản phẩm dệt - may xuất khẩu của Việt nam không được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi như các nước khác, đã làm đội giá sản phẩm. Tại thị trường Mỹ, sản phẩm phải đạt 60% - 70% nội địa hoá thì mới được ưu đãi thuế, sản phẩm dệt - may Việt nam hầu như không được hưởng chế độ thuế quan ưu đãi ở thị trường này. Còn ở thị trường EU rất ít sản phẩm đáp ứng yêu cầu để được cấp Form á còn hầu hết xuất theo chứng chỉ xuất sứ FormT tức là chưa được hưởng mức thuế quan ưu đãi nhất. Vì vậy, hầu hết các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của nước ta đi theo chiến lược chất lượng trung bình và giá cả hợp lý, không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành là hợp lý. Một số doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may áp dụng thành công chiến lược này như: Dệt Thành công, may 10, May Đức giang Dệt Việt thắngsản phẩm dệt may của các doanh nghiệp này xuất khẩu sang Mỹ, EU đã có chỗ đương vì sản phẩm dệt may của Việt nam có chất lượng tương đối cao hơn sản phẩm cùng loại của Trung quốc ) mà giá cả lại phải chăng hơn. Tại công ty May Chiến thắng, khi đã có nhận thức đúng đắn về chất lượng, công ty đã xây dựng mục tiêu chiến lược chất lượng dài hạn trong mối quan hệ chặt chẽ với chiến lược cạnh tranh của doanh nghiệp . Để đánh giá kết quả thực hiện và khả năng phát triển, công ty May Chiến Thắng luôn biết kết hợp giữa các chỉ tiêu ngắn hạn và dài hạn nhằm giải quyết đồng bộ những vấn đề tình thế và chiến lược. Lợi nhuận ngắn hạn không phải là chỉ số đo khả năng cạnh tranh của công ty. Chiến lược cạnh tranh của công ty là chiến lược kết hợp giữa chất lượng và chi phí (chất lượng vừa phải, chi phí giảm hợp lý). Để khắc phục những yếu kém về chất lượng sản phẩm hiện nay, công ty may chiến thắng phải tập trung vào nâng cao chất lượng trọng điểm, đổi mới các hoạt động cải tiến chất lượng, hình thành các phong trào chất lượng trong toàn công ty nhằm huy động mọi nguồn lực của công ty vào việc đảm bảo thường xuyên cải tiến chất lượng sản phẩm. Mặc dù đã có chỗ đứng trên thị trường trên phân đoạn chất lượng trung bình, giá cả hạ nhưng sản phẩm dệt may Việt nam vẫn còn phải cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, Thái lan, Inđônê-Xiavề giá thành, chất lượng, thương hiệu
Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp dệt may lớn ở nước ta đã mở đường xuất khẩu sản phẩm cao cấp vào thị trường Mỹ, EUphân đoạn thị trường cao cấp này đòi hỏi chất lượng cao và do giá thành sản phẩm cũng cao nên chiến lược các doanh nghiệp này áp dụng là chất lượng cao và giá cả hợp lý. Có thể giá thành sản phẩm cao cấp còn cao nhưng nếu chúng ta có được những thương hiệu mạnh, chất lượng độc đáo thì chúng ta vẫn bán được hàng. Năm 2003 vừa qua, từ việc nghiên cứu thị trường Mỹ, công ty dệt thành công đã mạnh dạn đầu tư thiết bị dệt kim và dây chuyền may tăng, năng lực sản xuất lên gấp 2 lần. Nhờ đó, nhiều sản phẩm chất lượng cao được khách hàng Mỹ tín nhiệm ký hợp đồng dài hạn. Còn công ty May 10 doanh nghiệp có sản phẩm sơ mi nam thuộc "đẳng cấp cao đã được khẳng định" lựa chọn đầu tư dây chuyển sản xuất Veston là sản phẩm không cần hạn ngạch vào thị trường Mỹ. Đây là dây chuyền may veston đầu tiên ở phía Bắc đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Năm 1999, trong khi phần lớn các doanh nghiệp dệt may chạy đua vào đầu tư mở rộng sản xuất thuộc diện cat nóng như sơ mi, Jacket để xuất khẩu thì Công ty may Nhà Bè lại đầu tư xây dựng dây chuyền may veston cao cấp. Đây là dây chuyền được trang bị thiết bị đồng bộ và hiện đại nhất chuyên dùng về veston của Châu Âu lần đầu tiên được chuyển giao và lắp đặt tại Việt Nam. Vào thời điểm đó hầu như chưa có doanh nghiệp nào mạo hiểm đầu tư xuất khẩu veston, do đây là mặt hàng đòi hỏi trình độ kỹ thuật, công nghệ, nhất là tay nghề công nhân rất cao, trong khi đó vốn đầu tư cho một cơ sở veston lại gấp 4 lần cơ sở may khác. Veston Nhà Bè đã lần lượt vào được các thị trường EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ. Hiện nay sản phẩm veston là sản phẩm chủ lực của May Nhà Bè bởi xuất khẩu sản phẩm cao cấp này không bị hạn chế bởi quota. Hơn nữa xuất khẩu veston còn mang lại giá trị gia tăng cao hơn rất nhiều với sản phẩm thông thường khác. Từ một xí nghiệp có công suất 800 bộ/ngày đến nay May Nhà Bè đã có 5 xí nghiệp veston hiện đại năng lực 500 á 600 bộ/ngày và dự kiến đến tháng 4/2004 sẽ đưa thêm một xí nghiệp veston tại KCN Bình An công suất 600 bộ/ngày vào hoạt động đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Các doanh nghiệp dệt may lớn của nước ta đang càng đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm cao cấp vì sản phẩm này đem lại nhiều giá trị gia tăng hơn các loại sản phẩm khác. Phân đoạn thị trường cao cấp đang ngày càng được mở rộng ra cho các doanh nghiệp Việt Nam. Điều này chứng tỏ chiến lược chất lượng cao và giá cả hợp lý dành cho các sản phẩm cao cấp của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã phát huy tác dụng. Tại phân đoạn thị trường cao cấp này chúng ta phải cạnh tranh cao với hàng hoá của Hàn Quốc, Thái Lan, Italia về cả chất lượng, giá cả và thương hiệu. Tại phân đoạn thị trường này giá cả không phải là yếu tố quan trọng nhất tác động đến quyết định mua của khách hàng vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam muốn đứng vững trên thị trường cần có chất lượng độc đáo và thương hiệu mạnh. Do chưa có được thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế nên các doanh nghiệp dệt - may Việt Nam vẫn phải sử dụng thương hiệu của các hãng lớn để xuất khẩu hàng đồng thời quảng bá thương hiệu của mình.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt - may của chúng ta không ngừn tăng, năm 2003 kim ngạch xuất khẩu tăng gấp 2 lần năm 2000 và tăng 31% so với năm 2002. Đứng trước nhiều thuận lợi chúng ta cũng còn có rất nhiều khó khăn ảnh hưởng đến chất lượng và chiến lược chất lượng cần phải khắc phục. Đó là, thị trường xuất khẩu của chúng ta bị cạnh tranh quyết liệt bởi các nước có năng lực cạnh tranh cao như Trung Quốc, Thái Lan, ấn Độ Các nhà sản xuất ở một số nước nêu trên lại có lợi thế hơn Việt Nam cả về kỹ thuật công nghệ và giá nhân công. Ngay tại thị trường trong nước hàng nhập khẩu tràn làn cạnh tranh ngay cả về giá cả, mẫu mã, trong khi ngành dệt may vẫn lúng túng trong việc mở rộng thị trường. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị của ngành dệt tuy đã có những tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu, chậm đổi mới chưa theo kịp với yêu cầu và sự phát triển của ngành may (80% nguyên vật liệu phục vụ cho ngành may chúng ta phải nhập khẩu, do ngành dệt chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng). Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp cần nỗ lực vươn lên nhiều. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành, thực hiện tốt chiến lược chất lượng để tăng sức cạnh tranh thì cần phải đầu tư lớn, nhưng nguồn vốn lại hạn hẹp.
III. Một số kiến nghị và giải pháp về chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam
Trong khi trên thế giới, quá trình quản lý chất lượng và chiến lược chất lượng đã có trình độ cao, tức là chiến lược chất lượng rất được quan tâm áp dụng thì ở Việt Nam chiến lược chất lượng đang còn ở trình độ thấp, mang tính tự phát. Chiến lược chất lượng nhìn chung vẫn còn rất xa lạ đối với người lao động, thậm chí là cả các cấp lãnh đạo. Vì vậy Nhà nước cần chỉ đạo các doanh nghiệp dệt may chú ý quan tâm đến việc xây dựng và áp dụng chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu hơn nữa. Việc lựa chọn mô hình chiến lược chất lượng cũng rất quan trọng, nó tuỳ thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp, sự phát triển của ngành trực thuộc và tình hình thị trường xuất khẩu mục tiêu. Các doanh nghiệp cần căn cứ vào các tiềm lực và khả năng cạnh tranh của mình để xây dựng mô hình chiến lược hợp lý. Với các doanh nghiệp có thế mạnh, Nhà nước cần khuyến khích họ thâm nhập vào phân đoạn thị trường cao cấp và áp dụng chiến lược chất lượng cao nhằm tăng thêm khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp thì ngoài áp dụng chiến lược chất lượng cần áp dụng thêm chiến lược giá cả hợp lý. Để nâng cao khả năng cạnh tranh về chất lượng với sản phẩm dệt may của các nước khác nhà nước cần có những chính sách nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm mạnh mẽ hơn nữa. Những quy định về chất lượng, tiêu chuẩn chất lượng, đăng ký tiêu chuẩn chất lượng, đăng ký nhãn hiệu sản phẩm dệt may cần tiến hành nghiêm túc và kiên quyết hơn nữa. Nhà nước ta nói chung và các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu nói riêng cần có các chính sách quy hoạch chất lượng sản phẩm xuất khẩu đối với từng mặt hàng, từng thị trường riêng. Các sản phẩm dệt may xuất khẩu cần thực hiện đa dạng hoá: đa dạng về kiểu dáng, màu sắc, sản phẩm sao cho đáp ứng được nhiều loại sở thích, thói quen tiêu dùng của khách hàng. Muốn như vậy các doanh nghiệp phải cập nhật thông tin và xu thế thời trang của các trung tâm thời trang quốc tế, rồi mới đi vào sản xuất. Thêm nữa, các sản phẩm may của Việt Nam cần có sự khác biệt hoá với sản phẩm may của các đối thủ cạnh tranh Việt Nam cần có sự khác biệt hoá với sản phẩm may của các đối thủ cạnh tranh sản phẩm may của Việt Nam đều tốt về chất lượng về thiết kế phải thể hiện được những nét truyền thống đặc trưng của Việt Nam như kiểu dáng, màu sắc, chất liệu, bao gói Sự khác biệt sản phẩm giúp cho người tiêu dùng dễ dàng nhận ra sự khác nhau giữa sản phẩm của Việt Nam với sản phẩm của Trung Quốc hay của một đối thủ cạnh tranh nào khác, họ dễ dàng so sánh, đánh giá mức độ thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mỗi sản phẩm, từ đó đi đến quyết định tiêu dùng. Đây là yếu tố quan trọng trong cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. Mặt khác các doanh nghiệp cần tăng cường quảng cáo các sản phẩm dệt may của Việt Nam trên thị trường thế giới. Đây là một hình thức đầu tư trong tương lai mà các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam nên làm, bên cạnh đảm bảo giá cả phù hợp chất lượng tốt, kiểu dáng hợp thời trang thì thương hiệu sản phẩm cũng rất quan trọng, thương hiệu càng nổi tiếng thì sự thành công của sản phẩm đó càng lớn. Vì thế, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cần mạnh dạn đầu tư cho việc quảng cáo thương hiệu sản phẩm may mặc trên thị trường thế giới.
Kết luận
Trong đề án này, em đã trình bày về chiến lược hàng dệt may xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Do trình độ hạn chế, khả năng và hiệu quả thu thập tài liệu còn chưa cao nên bài viết của em còn có nhiều thiếu xót. Em mong có được sự đóng góp ý kiến của thầy để rút kinh nghiệm cho các bài viết sau. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tiến sĩ Trương Đoàn Thể đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.
Tài liệu tham khảo
Sách "Chiến lược chất lượng và giá cả sản phẩm xuất khẩu của các doanh nghiệp ngành công nghiệp nhẹ". PGS. TS Lê Văn Tâm làm chủ biên.
Tạp chí Công nghiệp và Thương mại Việt Nam
Tạp chí Công nghiệp Việt Nam
Tạp chí Chiến lược chính sách công nghiệp
Thời báo kinh tế Việt Nam
Tạp chí Thương mại.
Mục lục
Mở đầu 1
I. Vị trí vai trò của chiến lược chất lượng đối với xuất khẩu hàng dệt - may Việt Nam 1
1. Chất lượng - Chiến lược chất lượng và các chỉ tiêu đánh giá chất lượng hàng dệt may 1
2. Vai trò chất lượng hàng dệt may đối với xuất khẩu 5
3. Các chiến lược chất lượng hàng dệt may 7
4. Các nhân số ảnh hưởng tới chiến lược hàng dệt may 9
II. Thực trạng chiến lược chất lượng hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam 11
1. Tình hình phát triển xuất khẩu ngành dệt may trong thời gian qua 11
2. Thực trạng chất lượng hàng dệt - may xuất khẩu Việt Nam 16
3. Chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam 19
III. Một số kiến nghị và giải pháp về chiến lược chất lượng hàng dệt may xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam 24
Kết luận 27
Tài liệu tham khảo 28
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV168.doc