Đề án Chiến lược đẩy nhanh tiến độ xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21

Để phát huy lợi thế so sánh xuất khẩu gạo của Việt Nam , bước sang thế kỷ mới , các doanh nghiệp cần có những giải pháp sau : Về sản xuất : Khẩn trương qui hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với qui hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước . Nội dung qui hoạch , kế hoạch vầ đầu tư cho vùng lúa gạo xuất khẩu phải bám sát nhu cầu của thị trường thế giới trong từng giai đoạn . Về chế biến , vận chuyển : Đây là khâu rất yếu hiện nay, nên những năm tới cần tập trung giải quyết theo các hướng : xây dựng mới các cơ sở chế biến gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu theo qui hoạch , đồng thời nâng cấp , hiện đại hoá các cơ sở đã có để tăng năng lực chế biến và năng lực xuất khẩu . Hệ thống kho tàng , đường sá , bến cảng phục vụ xuất khẩu gạo cũng cần sự đầu tư thoả đáng , mở rộng cảng Cần Thơ thành cảng xuất klhẩu gạo chủ yếu . Về thị trường :Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước . Từ năm 1999 , Chính phủ bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo là giải pháp tích cực nhưng chưa đủ. Để tăng sức mạnh cạnh tranh của hạt gạo Việt nam trong bối cảnh hiện nay còn phải có giải pháp đồng bộ hơn , một mặt tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí , mặt khác mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá , đảm bảo chữ tín với khách hàng , tăng cường tiếp thị , đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường . Ngoài những giải pháp trên đây , còn có rất nhiều giải pháp khác mà mỗi doanh nghiệp phải tự tìm hướng đi riêng cho mình để phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp . Đảm bảo cho doanh nghiệp hoàn thành được mục tiêu đã đề ra và cũng là góp phần đưa xuất khẩu gạo của nước ta lên một tầm cao mới.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1808 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chiến lược đẩy nhanh tiến độ xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nền kinh tế. Thứ tư: Đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành nghề theo hướng sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh của đất nước. Thứ năm: Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao vai trò của nước ta trên trường quốc tế. Như vậy xuất khẩu không chỉ đóng vai trò hỗ trợ phát triển mà nó còn là yếu tố bên trong của sự phát triển góp phần thực hiện các chiến lược kinh tế xã hội của Đảng và nhà nước ta. Chương 2 Thực trạng hoạt động xuất khẩu gạo của việt nam trong những năm gần đây i.nhận định chung về hoạt động xuất nhập khẩu của việt nam trong những năm đầu thế kỷ mới 1.Nhận định chung Bước vào những năm đầu thế kỷ XXI, hoạt động xuất khẩu của nước ta thuận lợi hơn nhiều so với trước . Nhìn về “thế” thì ngày nay nước ta chẳng những không còn bao vây cô lập mà đã có quan hệ kinh tế – thương mại đa dạng với nhiều nước và tổ chức quốc tế cũng như khu vực. Đứng về “lực” thì nền kinh tế của nước ta đã khác xưa , nhiều ngành đã lớn mạnh cả về lượng lẫn chất, có khả năng gia tăng đáng kể hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu với chất lượng có thể cạnh tranh trên thương trường thế giới.Trên phạm vi khu vực và toàn cầu, những thoả thuận về việc thuyên giảm hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các biện pháp phi thuê quan tạo ra thị trường xuất khẩu rộng mở. Mục tiêu hàng đầu mà chính phủ đề ra là vào năm 2010 GDP phải tăng ít nhất gấp đôi so với năm 2000 và vào năm 2020 Việt Nam phải trở thành một nước công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ to lớn này, xuất khẩu chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng , tốc độ tăng trưởng của nó chỉ ít cũng phải gấp đôi tốc độ tăng trưởng của GDP, đồng thời phải giảm tới mức thấp nhất tình trạng nhập siêu , cân bằng cán cân thương mại quốc tế. Điều này gắn với sự thay đổi sâu sắc trong nền kinh tế nước ta sau những năm thực hiện công cuộc đổi mới. Từ một nền kinh tế khan hiếm , nay một số ngành đã sản xuất dư thừa so với nhu cầu trong nước . Do đó yêu cầu thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu được xem như một chiến lược toàn ngành. Để đẩy mạnh xuất khẩu trong những năm tới có ba khâu then chốt gắn quyện với nhau là đổi mới cơ cấu mặt hàng, mở rộng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh. 2.Xuất khẩu bước vào thiên miên kỷ mới : Đỉnh cao, vị thế, thách thức 2.1.Đỉnh cao mới Năm 1999 , xuất khẩu của cả nước đạt kim ngạch hơn 11,5 tỷ đôla, tăng 23,1% so với năm 1998. Năm 2000, trước những biến động của thị trường, Chính phủ và Bộ Thương mại đã chủ động đề ra nhiều giải pháp khuyến khích đẩy mạnh xuất khẩu. Những biện pháp này đã góp phần cùng với nỗ lực vượt bậc của nền kinh tế, các doanh nghiệp, đưa kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt 14,2 tỷ đôla, trong đó nổi bật là dầu thô tăng 71,2% (3,582 tỷ đôla), nhưng xuất khẩu gạo chỉ đạt 3,5 triệu tấn với kim ngạch đạt 672 triệu đôla, giảm 22,4% về lượng và 34,4% về kim ngạch. Năm 2001, xuất khẩu gạo đạt 624,71 triệu đôla .Đầu năm 2002, xuất khẩu gạo đạt khoảng 19,41 triệu đôla (hai tháng đầu năm 2002) . Như vậy, nhìn chung tình hình xuất khẩu của nước ta trong nhưng năm đầu thế kỷ mới là tương đối khả quan, tuy có một số ngành không đạt yêu cầu, nhưng bên cạnh đó cũng có một số ngành vượt chỉ tiêu.Điều này giúp cho xuất khẩu việt nam có một đỉnh cao mới trên trường quốc tế. 2.2. Vị thế mới Với mức kim nghạch 14,3 tỷ đôla ,xuất khẩu Việt Nam không chỉ đánh dấu thêm một mốc đỉnh mới mà còn vượt qua ngưỡng về xuất khẩu của một nền kinh tế đang phát triển (bình quân 184 đôla/người/năm so với chuẩn 170 đôla/người/năm), được thế giới công nhận là nước có nền ngoại thương tương đối phát triển. Trong kinh tế đối ngoại, đây là một thuận lợi không nhỏ khi xét về chất lượng hàng hoá Việt Nam để mở rộng thị trường , đánh dấu những nỗ lực hội nhập đáng kể của kinh tế Việt Nam vào khu vực và thế giới , mở đường cho việc tham gia Tổ chức Thương mại châu á Thái Bình Dương (APEC) và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và thực hiện những hiệp định thương mại song phương trên nền tảng bình đẳng , cùng có lợi. ở hoạt động kinh tế trong nước , kim nghạch xuất khẩu tăng cao đã tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trong nước vượt chỉ tiêu kế hoạch , đạt 6,8% so với mức tăng 4,8% của năm 1999 và 5,8% của năm 1998 . Theo ước tính , tổng giá trị sản phẩm trong nước (GDP) đạt 444.000 tỷ đồng thì kim nghạch xuất khẩu chiếm đến hơn 46% (chưa kể 2,2 tỷ đôla kim nghạch xuất khẩu dịch vụ – theo ước tính của Bộ Thương Mại – mà nếu tính cả số ngoại tệ này thì chiếm đến 53,8% GDP ) . Mức kim nghạch tăng góp phần thúc đẩy sản xuất phục vụ cho xuất khẩu , nhiều ngành , nhiều doanh nghiệp tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị phục vụ sản xuất ... Và ở phương diện xã hội , đây là một giải pháp hữu hiệu nhất tăng cường giải quyết việc làm cho người lao động , giảm tỷ lệ thất nghiệp và qua đó kích cầu tiêu dùng trong nước . Theo một ước tính sơ bộ , cứ 1 đôla kim nghạch xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ năm qua đã giải quyết được việc làm cho 0,85 lao động. Hiện nay , chúng ta có quan hệ thương mại với 150 quốc gia và khu vực . Một khi công tác xuất khẩu được đẩy mạnh ,hàng hoá Việt Nam có mặt ngày càng nhiều trên các thị trường này hoặc những thị trường mới khác nữa thì không chỉ đem lại những nguồn ngoại tệ lớn phát triển đất nước mà còn nâng cao hơn vị thế của kinh tế Việt Nam trên thương trường . 2.3. Thách thức mới Nếu chỉ nhìn vào mức tăng trưởng kim nghạch xuất khẩu của 5 năm gần đây (1996 tăng 33,2% , 1997 tăng 26,6% , 1998 tăng 1,9% , 1999 tăng 23,1% , 2000 tăng 24% ) thì chỉ tiêu tăng trưởng 16% của năm 2001 không phải quá cao , song xét trên nhiều khía cạnh kinh tế và thương mại thời gian qua thì đây lại là chỉ tiêu không dễ dàng vượt qua mà thậm chí còn là thách thức không nhỏ với ngành thương mại ở đầu thế kỷ . Bởi với mức tăng trưởng 24% của năm 2000 đưa kim nghạch lên14,3 tỷ đôla là một đỉnh mốc mới , từ đỉnh mốc này vượt lên 16% đòi hỏi cả một qúa trình nỗ lực không ngừng của cả nền kinh tế nói chung và ngành thương mại , từng doanh nghiệp nói riêng . Về cơ cấu hàng xuất khẩu của những năm gần đây, dù đã có chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng chế biến , song đến nay xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn chiếm chủ yếu , tới trên 60% . Việc xuất khẩu hàng thô , sơ chế (chủ yếu để làm nguyên liệu chế biến cho các nền công nghiệp tiên tiến) không những không tạo ra được khả năng tăng vượt bậc kim nghạch , mà ngay việc tạo được những yếu tố bền vững trong tăng trưởng cũng rất khó do phụ thuộc vào ngành chế biến của các nước nhập khẩu , chưa kể xã hội sẽ không tận dụng được cơ hội giải quyết vấn nạn thất nghiệp trong điều kiện thiếu việc làm gay gắt , đồng thời còn đẩy nhanh qúa trình tận kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên . Tuy nhiên , việc tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến sâu trong xuất khẩu cũng không phải dễ , đòi hỏi một lượng vốn lớn , một chiến lược chỉnh chu hợp với thực trạng kinh tế đất nước ... có nghĩa không thể làm ngày một ngày hai . Bằng chứng là trong suốt thập niên qua , mức chuyển biến này rất chậm. Một thách thức khác có vẻ như không liên quan đến chỉ tiêu kim nghạch xuất khẩu , nhưng lại ảnh hưởng trực tiếp đến sức kéo của xuất khẩu với nền kinh tế , đó là làm sao nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng trong kim nghạch xuất khẩu để tái đầu tư phát triển . Đạt được đỉnh cao mới , tạo được vị thế mới , nhưng ngành xuất khẩu của nước ta cần phải vượt qua những thách thức trên để vươn lên tầm cao mới ổn định hơn trong một vị thế sánh vai với các cường quốc năm châu . Song song với điều đó , chúng ta cần sử dụng thoáng hơn công tác điều hành xuất nhập khẩu , các công cụ tài chính và thông tin , kỹ thuật giao dịch điện tử .. để không chỉ chuyển biến tăng về lượng , mà cả về chất trong xuất khẩu , đưa nền ngoại thương nước ta lên một tầm cao tương xứng hơn . ii.THựC TRạNG CủA XUấT KHẩU GạO VIệT NAM 1.Lợi thế so sánh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam 1.1.Lợi thế so sánh trong sản xuất Qua tình hình về điều kiện sản xuất , về đất đai , tỷ lệ diện tích được tưới tiêu , năng suất , cũng như giá vật tư các yếu tố đầu vào thì chi phí cho sản xuất lúa ở Việt Nam thấp hơn Thái Lan . (Xem bảng : Một số giá vật tư liên quan trực tiếp đến sản xuất thóc gao ở Việt Nam và Thai Lan ) . Chỉ tiêu Việt Nam Thái Lan 1.Xăng(lít) 0,35 USD 0,4 USD 2.DầuD.O(lít) 0,26 USD 0,3 USD 3.Điện(kw/h) 0,064 USD 0,12 USD Cộng 0,674 USD 0,82 USD Ước tính chi phí sản xuất 1 kg thóc Việt Nam bình quân khoảng 1.250 đến 1.600 VNĐ , trước 1996 tương đương 90 – 114,7 đôla/tấn . Hiện nay , tỷ giá 14.070 tương đương 88 – 113 đôla/tấn . Còn ở Thái Lan , giá thành sản xuất lúa tương đương 165 – 175 đôla/tấn (trước 1996) . Hiện nay do trượt giá , 1đôla = 39,12 Bath thì tương đương 105 – 110 đôla/tấn . Như vậy , trước khủng hoảng thì ta thấp hơn Thái Lan khoảng 32% , sau năm 1997 thấp hơn 17% . Xét trên góc độ chi phí : chi phí cho yếu tố đầu vào của ta thấp hơn mà năng suất lúa lại cao hơn , vì thế giá xuất khẩu tuy thấp hơn Thái Lan mà vẫn có lãi . Đây là lợi thế có sức cạnh tranh lớn trên thị trường gạo . Song tử sản xuất ra thóc đến thành gạo xuất khẩu là một chặng đường dài không ít khó khăn , bất cập như các vấn đề chế biến , môi trường kinh doanh và hàng loạt tác động về thể chế chính sách đối với xuất nhập khẩu. 1.2. Lợi thế so sánh về chất lượng Xét về mặt chất lượng , gạo Thái Lan có chất lượng tốt hơn và đã có uy tín trên thị trường thế giới, phù hợp với thị trường có thu nhập cao như Nhật Bản, EU , TRung Đông ... Trong cùng thời gian Thái Lan xuất khẩu gạo có phẩm cấp cao thường chiếm tới 60- 62% còn Việt Nam chỉ ở khoảng 40- 45% tổng lượng gạo xuất khẩu . Hiện nay , nếu so với gạo cùng phẩm cấp và vào cùng thời điểm thì giá gạo Việt Nam vẫn thấp hơn giá gạo Thái Lan khoảng 7 – 10%. Tuy nhiên , nếu chỉ căn cứ trên số liệu về phẩm cấp tỷ lệ (%) gạo xuất khẩu thì chưa thể có nhận định chính xác , vì yếu tố thị trường đã ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ này . Ví dụ , năm gần đây lượng gạo xuất khẩu vào thị trường châu phi tỷ lệ lớn (62 – 67%) lại là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu qua các chương trình viện trợ quốc tế nên yêu cầu gạo phẩm cấp thấp . Lợi thế so sánh về chất lượng , một mặt giúp Việt Nam đi được vào nhiều thị trường , nhất là thị trường ít khả năng thanh toán , mặt khác lại làm giảm hiệu quả thương mại , qua đó , giảm hiệu quả sản xuất . 1.3. Lợi thế so sánh vận chuyển Chi phí cảng , chi phí bốc dỡ xếp hàng và các chi phí liên quan tại cảng Sài Gòn khoảng 40 ngàn đôla/tàu công suất 10 ngàn tấn (chiếm 1,6% giá gạo xuất khẩu ) . Trong khi chi phí này ở Băng Cốc chỉ bằng một nửa . Ngoài chi phí cảng , tốc độ bốc dỡ rất chậm , so với Băng Cốc ta chậm hơn 6 lần (nghĩa là tại Sài Gòn bốc được 1 ngàn tấn / ngày thì ở Băng Cốc 6 ngàn tấn / ngày ) . Chậm trễ do sửa chữa và bốc xếp thường làm tốn thêm 6 ngàn đôla/ngày . Những hạn chế nói trên làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người trồng lúa phải chịu dưới hình thức giá FOB thấp hơn . 1.4. Lợi thế so sánh về thị trường tiêu thụ Thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay khoảng 80 nước , trong đó châu á , châu Phi là thị trường chính , chiếm 70 – 80 % lượng gạo xuất khẩu hàng năm . Số còn lại là các nước châu Âu , Bắc Mỹ , Trung Đông và hiện nay là Hàn Quốc , Nhật Bản , Trung Quốc. Thị trường gạo của ta cũng là thị trường gạo của Thái Lan , nên diễn ra sự cạnh tranh gay gắt về chủng loại , chất lượng và giá ... Trên thương trường Thái Lan có nhiều bạn hàng truyền thống lớn với khoảng 15 thị trường chính , đã tiêu thụ cho Thái Lan trên 80% lượng gạo xuất khẩu . Hơn nữa gạo Thái Lan đồng đều , có phẩm cấp cao phù hợp với thị trường Nhật Bản , EU ... Gạo Việt Nam trên thực tế mới thâm nhập vào thị trường chưa có bạn hàng lớn và thị trường truyền thống, Chất lượng gạo Việt Nam thấp , độ trắng không đều , lẫn thóc và nhiều tạp chất , đặc biệt lúa hè thu có độ ẩm cao , mẫu mã bao bì đóng gói không đẹp . Để khắc phục những vấn đề trên chúng ta còn nhiều việc phải làm từ sản xuất đến chế biến , bảo quản và tiếp thị lưu thông . Qua phân tích lợi thế so sánh trong chi phí sản xuất , chất lượng , vận chuyển và thị trường tiêu thụ thấy rằng : Chúng ta cần phát huy lợi thế so sánh trong chi phí sản xuất , tuy nhiên những lợi thế về giá thì cần thấy rõ cả mặt tích cực và tiêu cực của nó , phải khai thác yếu tố rẻ nhưng cũng phải thu hẹp khoảng cách về phẩm cấp giữa gạo Việt Nam và gạo Thái Lan. Những bất lợi của ta về vận chuyển , bốc dỡ , thị trường so với Thái Lan không thể ngày một ngày hai khắc phục được , nhưng sự nhận thức sâu sắc về nó giúp ta hạn chế những bất lợi này . 2.Xuất khẩu gạo trong năm 2000 2.1.Thời cơ Kết thúc năm 1999 nước ta xuất khẩu 4,55 triệu tấn gạo , thu về 1,035 tỷ đôla , vượt kế hoạch 55 vạn tấn và đã kỷ lục về số lượng và giá trị kể từ năm 1989 đến nay. Trong bối cảnh thị trường gạo thế giới năm 1999 cung vượt cầu kéo theo giá gạo giảm mạnh (từ 290 đôla/tấn xuống còn 232 đôla/tấn) thì những kết quả đạt được như trên là một thành công đáng ghi nhận . Thành công đó bắt nguồn từ những quyết sách đúng đắn và kịp thời của Chính phủ về điều hành xuất khẩu gạo . Phát huy những kết quả của năm 1999 , bước vào năm 2000 hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta tiếp tục đi lên trên thế và lực mới với thời cơ mới . Đầu mối xuất khẩu năm 2000 đã được mở rộng , trong đó bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân , doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp với nhau . Cùng với việc cải tiến điều hành xuất khẩu theo hướng thông thoáng hơn , từ năm 2000 Chính phủ rất quan tâm đến phát triển sản xuất lúa gạo theo hướng tăng chất lượng và hiện đại hoá công nghệ sản xuất gạo xuất khẩu. Về sản xuất , đã hoàn thành quy hoạch vùng lúa xuất khẩu ở hai vùng trọng điểm lúa là ĐBSCL và ĐBSH với quy mô 1,3 triệu ha (ĐBSCL 1 triệu , ĐBSH 30 vạn ha) Công nghiệp xay xát và đánh bóng gạo xuất khẩu từ đầu năm 2000 cũng có bước phát triển mới cả về máy móc thiết bị và công nghệ . Bên cạnh các nhà máy đã có, được đầu tư mới máy móc và thiết bị tại thành phố Hồ Chí Minh , Tiền Giang , An Giang , từ đầu năm 2000 lại có thêm 2 nhà máy chế biến gạo xuất khẩu do Chính phủ Đan Mạch tài trợ tại 2 tỉnh chuyên canh lúa lớn là Cần Thơ và Sóc Trăng đi vào hoạt động . Bên cạnh những nỗ lực chủ quan từ của nhà nước và nhân dân , các điều kiện khách quan cũng rất thuận lợi cho xuất khẩu gạo năm nay . Thời tiết mưa đều ở các tỉnh Nam bộ , lượng nước ở các hồ , đập thuỷ lợi khả dồi dào. Do hậu quả thiên tai năm 1999 , năm 2000 sản lượng xuất khẩu gạo của ấn Độ giảm mạnh , trong khi đó , nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước Châu Phi , Trung Đông và Mỹ Latinh tiếp tục tăng do hạn hán và tình hình chính trị không ổn định . Từ quan hệ cung – cầu đó , nên thời cơ xuất khẩu gạo của Việt Nam là rất lớn . 2.2.Thách thức Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ , thị trường lúa gạo thế giới năm 2000 cũng chứa đựng những yếu tố không thuận đổi với nước ta . Trước hết , nhu cầu nhập khẩu gạo năm 2000 ở thị trường Châu á , nhất là các nước nhập khẩu lớn như Indonesia , Philippin , Bangladesh .Năm 2000 Indonesia nhập khoảng 1,8 – 2 triệu tấn gạo , giảm 0,8 – 1,5 triệu tấn . Còn philippin cũng chỉ nhập khoảng 0,5 – 0,8 triệu tấn , giảm 0,4 – 0,7 triệu tấn , Bangladesh nhập 1,1 – 1,2 triệu tấn , giảm 0,5 – 0,6 triệu tấn . Trong khi đó khả năng xuất khẩu gạo của các nước như Thái Lan , Trung Quốc và Campuchia . Mặc dù , lượng gạo xuất khẩu tăng thêm trong năm 2000 của các nước này không lớn (ví dụ Campuchia khoảng 144 nghìn tấn , Thái Lan khoảng 0,3 triệu tấn , Trung Quốc dưới 0,5 triệu tấn), nhưng điều đáng quan tâm chính là tính cạnh tranh của hạt gạo của các nước này với hạt gạo Việt Nam là rất lớn , xét trên cả ba mặt : chất lượng , giá cả và thủ tục. Thứ hai : Giá lương thực nói chung , giá gạo nói riêng trên thị trường thế giới tiếp tục đứng ở mức thấp và giảm trong năm 2000 và trở thành một thách thức lớn đối với xuất khẩu gạo nước ta . Theo Bộ Thương Mại , giá gạo xuất khẩu bình quân của Việt Nam trong tháng 1-2000 chỉ đạt 224,7 đôla/tấn , giá tháng hai còn thấp hơn : theo các doanh nghiệp cho biết gạo 5% tấm còn 216-218 đôla/tấn , loại 10% tấm còn 208-210 đôla/tấn và loại 25% tấm còn 186-188 đôla/tấn thấp hơn giá của năm 1999 (tháng 12 năm 1999 giá gạo xuất khẩu của Việt Nam loại 5% tấm là 228 đôla/tấn , loại 25% tấm là 198 đôla/tấn ) . Tốc độ giảm giá trung bình tháng 2-2000 so với tháng 12 năm 1999 là 4-6% .Tình trạng này kéo dài đến hết năm 2000 . Điều này chắc chắn sẽ gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng như Nhà nước và nông dân trồng lúa ở nước ta . Thứ ba : Thiếu vốn và thủ tục thanh toán của ngân hàng còn phiền phức . Để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu gạo , các doanh nghiệp đầu mối rất cần vốn để mua lúa tạm trữ với số lượng lớn , tập trung vào thời điểm trong vụ thu hoạch lúa , trong khi đó khả năng cung ứng của Ngân hàng Thương Mại ( chủ yếu là Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn ) có hạn , chính sách hỗ trợ lãi suất đối với các doanh nghiệp xuất khẩu và phương thức bảo lãnh của Ngân hàng cũng còn nhiều điểm chưa hợp lý . Cuối năm 1999 , nhiều doanh nghiệp lẽ ra đã có được nhiều hợp đồng bán gạo trả chậm với số lượng lớn vả có thể gối đầu sang năm 2000 , song do Ngân hàng trong nước khó khăn trong việc tham gia thanh toán và thu nợ nên đã không ký kết được . Hai tháng đầu năm 2000 , gạo Việt Nam chỉ còn chiếm lĩnh những thị trường nhỏ , trong số 84 nghìn tấn xuất trong tháng 1 lớn nhất là hợp đồng giao cho Irắc theo hiệp định của chính phủ , còn lại là các hợp đồng lẻ tẻ do 30 doanh nghiệp ký bán , trong đó có những hợp đồng vài trăm tấn . Mức xuất của tháng 2-2000 cũng chỉ khoảng 150 nghìn tấn . Âu đó cũng là bài học đắt giá cho chúng ta trong vấn đề giải quyết vốn và vai trò cuả Ngân hàng trong việc xuất khẩu gạo . Thứ tư : Gạo nhập khẩu qua biên giới Tây Nam và phía Bắc vẫn còn nhiều và có xu hướng ngày càng tăng. Từ đó làm cho quan hệ cung – cầu gạo trong nước diễn ra phức tạp . Giá sàn mua lúa của Nhà nước rất khó thực hiện ảnh hưởng đến nguồn cung của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. 3.Xuất khẩu gạo trong năm 2001 3.1. Tình hình sản xuất và cân đối lương thực Trong kế hoạch sản xuất nông nghiệp năm 2001 , sẽ có khoảng 100.000 ha diện tích đất trồng lúa ở các vùng ven biển đất trũng sẽ được chuyển sang nuôi trông thuỷ sản ; diện tích đất ven đô thị và đất chưa chủ động tưới tiêu chuyển sang trồng cây ăn quả và loại cây trồng khác có giá trị cao hơn ; đồng thời có khoảng 200 ha gieo trồng sẽ không làm lúa vụ 3 . Như vậy , tính chung lại của cả nước sẽ giảm khoảng 130.000 ha đất trồng lúa , tức là từ 7,53 triệu ha giảm còn 7,40 triệu ha . Thay vào đó , các địa phương sẽ tăng cường công tác chỉ đạo thâm canh , đưa vào sử dụng các giống lúa có năng suất cao , chất lượng tốt để sản xuất ra gạo có sức cạnh tranh cao. 3.2.Tình hình thị trường xuất khẩu gạo năm 2001 Có thể thấy rằng thị trường gạo thế giới năm 2001 vẫn tiếp tục trong tình trạng khó khăn , cạnh tranh gay gắt . Bộ nông nghiệp Mỹ dự tính mức buôn bấn gạo trên thị trường thế giới đạt khoảng 24,6 triệu tấn , tăng 1,9 triệu tấn so với năm 2000 ; theo đó , các nước sản xuất và xuất khẩu gạo mạnh như Thái Lan , Việt Nam , ấn Độ... cũng sẽ gia tăng sản lượng và khả năng xuất khẩu . Đáng chú ý là trong thời gian ngắn nhiều nước sản xuất lúa ở Châu á bước vào thu hoạch với hưá hẹn nhiều khả năng được mùa . Chính vì vậy, một số nước đã có kế hoạch ngừng hoặc giảm đăng ký gạo nhập khẩu , đồng thời bán ra hàng triệu tấn lúa gạo tồn kho , dự trữ , như Indônesia , Pakistan... Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nước ta khả năng ký kết và thực hiện hợp đồng thời gian đầu là rất nhỏ bé . Mặc dù lượng gạo theo hợp đồng đã ký năm trước chuyển sang năm nay là khoảng 208.000 tấn ; trong đó , Tổng công ty lương thực miền Bắc là 120.000 tấn (irăq 70.000 tấn , Cu Ba 50.000 tấn) , Tổng công ty lương thực 88.000 tấn . Song , theo số liệu của Hiệp hội xuất khẩu lương thực thì tính đến quý I mới chỉ xuất khẩu được khoảng xấp xỉ 400.000 tấn , tuy có tăng hơn về mặt lượng và giá trị so với cùng kỳ năm 2000 , nhưng so với kế hoạch cả năm thì mới đạt 10% . Do vậy mà mục tiêu xuất khẩu gạo trong nam 2001 đạt 4 triệu tấn không hoàn thành , với 2 lí do chính sau : Thứ nhất , sản lượng lương thực vùng đồng bằng sông Cửu Long năm nay giảm sút khoảng 700.000 tấn so với năm trước (trong đó gạo chiếm 400.000 tấn) do chuyển cơ cấu cây trồng và do chăm bón không tốt khi giá gạo xuất khẩu thấp . Do đó nếu mua gom đủ 4 triệu tấn để xuất khẩu thì sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực quốc gia . Thứ hai , cho dù mức giá lúa ở đồng bằng sông Cửu Long đang ở mức cao (1.500 – 1.700 đồng/kg) , nhưng dự báo mức giá này vẫn còn tăng , có thể lên tới 1.800 – 1.900 đồng/kg . Với mức giá đó tương ứng với giá gạo xuất khẩu là khoảng 200 đôla/tấn thì doanh nghiệp mới có lãi , điều này làm cho các doanh nghiệp sẽ không ham xuất khẩu để được tiếng và được thưởng. III. ĐáNH GIá Về XUấT KHẩU GạO TRONG 3 NĂM ĐầU THế Kỷ (2000 - 2002) 1.Đánh giá về xuất khẩu gạo 1.1.Đánh giá về xuất khẩu gạo năm 2000 Năm 2000 , mặc dù thời tiết diễn biến phức tạp , lũ lụt xảy ra ở nhiều nơi trên phạm vi cả nước , đặc biệt tại nhiều vùng ở đồng bằng sông Cửu Long , nhưng nhờ có sự chăm lo và điều hành sát sao của Chính phủ , cấc cấp , các ngành cùng với sự nỗ lực của nhân dân các địa phương nên nhìn chung sản xuất nông nghiệp nhanh chóng được khôi phục và đạt kết quả khá, đời sống nhân dân sớm đi vào ổn định . Theo đánh giá bước đầu củ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn , tổng sản lượng lúa cả năm 2000 đạt 32,6 triệu tấn , tăng gần 1,2 triệu tấn so với năm 1999 và là năm đạt sản lượng cao nhất từ trước đến nay. Tại vùng đồng bằng sông Cửu Long , mặc dù lũ về sớm và kéo dài đã làm giảm diện tích giảm 110.00 ha , nhưng sản lượng lúa hàng hoá dành cho xuất khẩu vẫn đạt khoảng 9 triệu tấn tương đương với khoảng 4,5 triệu tấn gạo . Mặc dù , nhìn chung vụ mùa năm 2000 đạt được sản lượng cao , nhưng tỷ trọng xuất khẩu gạo năm nay giảm cả về lượng và giá trị . Đặc trưng cơ bản của thị trường gạo thế giới trong năm 2000 là nhịp độ giao dịch trầm lặng , khối lượng mua bán giảm mạnh - đó cũng chính là nguyên nhân quan trọng có tác động trực tiếp đến kết quả xuất khẩu gạo trong năm của nước ta . Theo số liệu báo cáo của hiệp hội xuất khẩu lương thực của hai tổng công ty lương thực miền Bắc và miền Nam thì tổng lượng gạo xuất khẩu trong trong năm 2000 cả nước đạt 3,398 triệu tấn , tổng kim ngạch đạt 638 triệu đôla , so với năm 1999 thì giảm 1,17 triệu tấn , và kim ngạch giảm 360 triệu đôla. Với kết quả xuất khẩu như trên , tính toán cho thấy giá xuất khẩu bình quân năm 2000 đạt 188 đôla/tấn , thấp hơn mức giá bình quân năm 1999 là 31 đôla/tấn và năm 1998 là 87 đôla/tấn . Theo ý kiến của các nhà phân tích thị trường , có tình hình trên là do mấy nguyên nhân sau đây : Trước hết , trong mấy năm gần đây lượng gạo giao dịch trên thị trường thế giới giảm liên tục , từ 27,26 triệu tấn năm 1998 , xuống còn 25 triệu tấn năm 1999 và khoảng 23 triệu tấn năm 2000 . Sự sụt giảm như vậy đã làm cho thị trường gạo thế giới ngầy càng khó khăn hơn , giá thị trường giảm mạnh và cạnh tranh gay gắt . Trong khi đó , tại một số nước trước đây phải nhập khẩu gạo với một lượng gạo lớn như Inđônesia , Philippin , Bangladesh...thì trong một vài năm gần đây đã đẩy mạnh sản xuất lương thực , sản lượng lúa gạo tăng lên đáng kể, do dó mà lượng gạo nhập khẩu cũng giảm qua các năm. Đi đôi với sự giảm sút về lượng , giá gạo trên thị trường thế giới cũng giảm mạnh , tính ra giá bình quân năm 2000 giảm khoảng 20% so với năm 1999 và giảm 30% so với năm 1998 . Tuy nhiên , so sánh với giá xuất khẩu gạo của Thái Lan thì trong năm 2000 , giá xuất khẩu gạo của Việt Nam có tốc độ giảm chậm hơn : loại gạo 5% tấm của Thái Lan giảm 53,6 đôla/tấn, loại 35% tấm giảm 42,1 đôla/tấn ; tương ứng với gạo cùng loại của Việt Nam giảm 48 đôla/tấn và 39 đôla/tấn . Ngoài ra , cũng phải nhìn nhận một thức tế là khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam còn nhiều hạn chế , bởi nhìn chung chất lượng gạo xuất khẩu của ta chưa cao , trong những năm qua Việt Nam chủ yếu xuất khẩu những loại gạo có chất lượng thấp mà thời gian gần đây lại phải cạnh tranh gay gắt với gạo cùng loại của Trung Quốc , Pakistan . Trong khi đó khả năng tài chính của các doanh nghiệp lại thấp , ít kinh nghiệm và thiếu chủ động trong các hoạt động thương mại quốc tế . Cuối cùng là trong cơ chế điều hành , mặc dù trong năm qua đã có những cải tiến tạo nên sự thông thoáng cho hoạt động xuất khẩu gạo , song trong điều hành cụ thể vẫn còn nhiều hạn chế , như thiếu tính chủ động tích cực của các doanh nghiệp , việc quản lý đầu mối xuất khẩu gạo... 1.2.Đánh giá về xuất khẩu gạo năm 2001 Thị trường gạo thế giới năm 2001 có rất nhiều biến động , khác với sự trầm lắng của năm 2000 . Lần đầu tiên kể từ nhiều năm nay , giá gạo của Việt Nam cao hơn giá gạo của Thái Lan trên thị trường quốc tế . giá gạo việt nam và thái lan năm 2001 (đôla/tấn) Nước\Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Việt Nam 5% 25% 169 157 167 144 151 131 145 127 158 137 153 137 159 138 175 157 173 150 175 160 192 170 197 185 Thái Lan 5% 25% 186 165 187 157 179 149 162 136 163 141 167 147 170 146 169 156 170 159 168 154 175 153 177 157 Tình hình thị trường gạo thế giới trong hơn nửa đầu năm 2001 cũng chưa có gì biến chuyển so vơí năm 2000. Song bắt đầu từ tháng 8/2001 , giá gạo Việt Nam đột ngột tăng , sau khi lũ lụt xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long , gây khó khăn cho việc thu hoạch , phơi sẩy và vận chuyển gạo . Các nhà xuất khẩu vẫn phải gấp rút hoàn thành những hợp đồng đã ký nên phải mua gạo với mọi giá để xuất sang Irăq , châu Phi , Philippin và Cuba . Mặc dù lũ lụt kéo dài ở đồng bằng sông Cửu Long , song không gây thiệt hại nhiều về sản lượng lúa. Mặc dù vậy , việc thu gom gặp rất nhiều khó khăn , nhất là khâu vận chuyển và nông dân không muốn bán thóc ra vì không biết tiến triển lũ lụt diễn ra và sản lượng tóc vụ tới sẽ như thế nào . Kể từ giữa tháng 9/2001 , giá gạo trắng xay xát của Việt Nam đẫ tăng khoảng 20 đôla/tấn . Còn nếu so với tháng 7/2001 thì giá gạo loại này tăng 40 đôla/tấn. Các loại gạo khác cũng tăng xấp xí như vậy . Tính đến cuối tháng 12/2001, giá gạo của Việt Nam cao hơn trên 20 đôla/tấn so với giá gạo Thái Lan , trong khi thông thường giá gạo Việt Nam rẻ hơn từ 1-20 đôla/tấn . Do giá gạo Việt Nam quá cao như vậy , khách hàng đã chuyển sang các nguồn gạo khác như Thái Lan và ấn Độ. Giá gạo Việt Nam lúc này cao như vây không phải do khách hàng đông , mà là do khan hiếm gạo xuất khẩu . Do vậy các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam đã phải ngừng ký hợp đỗng xuất khẩu mới cho tới tháng 2/2002. Năm 2001 , Việt Nam đã xuất khẩu được 3,73 triệu tấn gạo , trị giá 624,71 triệu đôla , tăng 7,27% về lượng , nhưng lại giảm 6,39 % về giá trị so với năm 2000 . thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2001 (Tỷ trọng tính theo lượng xuất khẩu) Thị trường Tỷ trọng (%) Philipin 16,8 Irăq 11,9 Inđônesia 11,2 Malaixia 6,6 Xingapo 6,5 Nga 5,5 Xênêgan 4,2 Nam phi 2,8 Aicập 2,6 Ba lan 2,6 Thuỵ suỹ 1,6 Tan dania 1,5 Hông Kông 1,3 1.3.Đánh giá về xuất khẩu gạo trong những tháng đầu năm 2002 Hai tháng đầu năm 2002 Việt Nam đã xuất khẩu được 92.453 tấn gạo , trị giá 19,41 triệu đôla , giảm mạnh so với 422.739 tấn trị giá 70,63 triệu đôla cùng kỳ năm 2001. Chỉ tính riêng tháng 2 xuất được 24.750 tấn gạo , trong đó khoảng 80% xuất sang Inđônêsia . thị trường xuất khẩu gạo của việt nam trong 2 tháng đầu năm 2002 (Tỷ trọng tính theo lượng xuất khẩu) Thị trường Tỷ trọng (%) Inđônêsia 30,0 Irăq 15,5 Nga 9,6 Cămpuchia 6,2 Malaixia 5,6 Xingapo 2,1 Philippin 1,3 Ôxtrâylia 0,8 Thị trường khác 28,9 2.Những khó khăn tồn tại 2.1.Khó khăn về thị trường Số liệu từ Trung tâm thông tin thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết , giá gạo xuất khẩu đang có dấu hiệu phục hồi . Giá gạo tăng nhẹ kéo theo giá lúa gạo nguyên liệu tăng theo . Đầu năm 2001 giá lúa loại tốt để chế biến gạo xuất khẩu ở các tỉnh Cần Thơ , An Giang , Đồng Tháp đã tăng lên 1.350 – 1400 đồng/kg ; còn loại phổ biến có mức giá 1.250 – 1.350 đồng/kg . Giá lúa nguyên liệu ở các tỉnh khác trong vùng đồng bằng sông Cửu Long cũng tăng thêm từ 50 – 100 đồng/kg . Tuy nhiên , điều mà các doanh nghiệp lo lắng nhất hiện nay là đầu ra cho của hạt gạo không những không được mở rộng mà còn có nguy cơ bị thu hẹp lại đáng kể . Theo một báo cáo của Bộ Thương mại , trong số 24 thị trường thường xuyên nhập khẩu mặt hàng gạo của Việt Nam , thì đến thời điểm đầu năm 2001 đã có 8 thị trường giảm khối lượng nhập khẩu so với cùng kỳ năm ngoái : Ucraina giảm 20,35% , Hồng Kông giảm 84% , Anh giảm 92,6%... 4 thị trường hoàn toàn bỏ trống là áo , Tây Ban Nha , Niu-di-lân và Đức . Một số thị trường có tỷ trọng lớn nhưng tốc độ tăng trưởng thấp hơn nhiều so với cùng kỳ năm ngoái . Theo ông Phạm Văn Được , Giám đốc Công ty Xuất nhập khẩu Đồng Tháp , các doanh nghiệp rất đồng tình với quyết định của Chính phủ cho đảo kho lúa gạo , trong đó có lượng gạo đã tạm trữ , giúp doanh nghiệp tự cân đối nguồn hàng , giá cả với các đối tác . “ Tuy nhiên , các biện pháp này mới chỉ giúp doanh nghiệp ổn định nguồn hàng . Còn để mở rộng thị trường xuất khẩu , biện pháp duy nhất được đại bộ phận doanh nghiệp mong đợi là áp dụng mô hình bán trả chậm . Nhưng do khả năng tài chính có hạn , nên các doanh nghiệp Việt Nam hầu như không đáp ứng được nhu cầu của một số bạn hàng muốn mua gạo trả chậm “ - ông Được nói . Theo nhiều chuyên gia thương mại , Châu Phi là thị trường nhiều tiềm năng cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo của Việt Nam , với tổng lượng gạo nhập khẩu mỗi năm lên tới 5,3 triệu tấn . Riêng Senegal , Nigieria sẽ nhập 730.000 tấn gạo trong năm 2001 . Nhưng hầu hết các nước này lại chỉ chấp nhận phương thức trả chậm . Vì vậy , nếu các doanh nghiệp Việt Nam không thực hiện được phương thức trả chậm thì khả năng để mất thị trường này cho đối thủ khác là điều không tránh khỏi . Một vấn đề nữa mà doanh nghiệp xuất khẩu gạo cũng rất quan tâm chính là khâu quản lý chào hàng xuất khẩu . Hiện nay , do Chính phủ chưa có biện pháp nào để quản lý giá chào hàng xuất khẩu cho từng vụ mùa đối với mặt hàng gạo , nên mặc nhiên các doanh nghiệp chào đủ loại giá , tạo nên tình trạng phá giá . Thực tế cho thấy, các hợp đồng có khối lượng nhỏ , giá ký kết hợp đồng rất thấp , đó cũng là một vướng mắc cho xuất khẩu gạo Việt Nam . 1.2.Khó khăn về thông tin. Số liệu do Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn công bố vào đầu tháng 5 cho thấy tại đồng bằng sông Cửu Long vựa lúa lớn nhất nước đã thu hoạch sang vụ đông xuân với sản lượng lên đến 8,2 triệu tấn. So với vụ đông xuân năm trước sản lượng năm nay tăng 300.000 tấn dù diện tích canh tác giảm hơn 20.000ha (để nuôi tôm xuất khẩu). Từ nhiều tháng qua, giá lúa ở đồng bằng sông Cửu Long ổn định ở mức 1.500 - 1.600đ/1kg, nông dân không còn chịu cảnh được mùa mất giá như nhiều năm trước. Trong khi giá gạo trên thế giới đang tăng 30,2% so với cùng kỳ gạo trong nước chỉ tăng 10%, vậy mà tiến độ xuất khẩu gạo của nước ta lại giảm chỉ bằng 60% so với cùng kỳ năm 2001. CHƯƠNG 3 một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của việt nam I.Triển vọng của thị trường xuất khẩu việt nam 1.Các thị trường chính 1.1.Thị trường ASEAN Trong giai đoạn chuyển đổi thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam , thị trường các nước asean vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam . Tuy nhiên , tình hình từ năm 1996 đến nay đã thay đổi , tỷ lệ xuất khẩu các mặt hàng sang thị trường này có xu hướng giảm . Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 , thị trường các nước ASEAN cũng sẽ bị hạn chế đối với các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu của Việt Nam . Bởi vì , các sản phẩm xuất khẩu của các nước ASEAN có cơ cấu tương tự nhau. Do đó , các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam được xuất sang những nước này phần lớn là dưới dạng tạm nhập tái xuất , đặc biệt là đối với thị trường singapo, nên không phù hợp với yêu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trên thị trường thế giới . Thêm nữa , các sản phẩm của Việt Nam thường sản phẩm thô , ít qua chế biến nên việc cắt giảm thuế nhập khẩu theo Hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung của các nước ASEAN không có tác động lớn đến khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam . Tuy nhiên , thị trường các nước ASEAN vẫn là một trong những thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 . 1.2.Thị trường các nước Châu á khác Nhìn chung , triển vọng mậu dịch hàng nông sản của thị trường các nước Châu á khác trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 là rất hơn . Nhu cầu nhập khẩu cao về các sản phẩm nông nghiệp của những nước Trung cận Đông là tương đối lớn. Đối với Việt Nam , mặc dù những năm gần đây xuất khẩu nông sản sang khu vực này đã có dấu hiệu tích cực như xuất khẩu chè sang i-rắc , ký hợp đồng xuất khẩu gạo dài hạn sang I-Ran... nhưng thị trường vùng Trung cận Đông vẫn chưa được khai thác và được xem như là một thị trường tiềm năng cho hàng nông sản Việt Nam , nhất là xuất khẩu gạo . 1.3.Thị trường các nước SNG và Đông âu Mặc dù sự giảm sút về mậu dịch nông sản giữa khu vực thị trường này với Việt Nam trong giai doạn vừa qua không chỉ do sự bất ổn của tình hình kinh tế – chính trị – xã hội của khu vực nay , mà còn do khó khăn về phương thức thanh toán và xử lý nợ của Việt Nam , nhưng đây vẫn sẽ là khu vực thị trường truyền thống đối với nông sản của Việt Nam (kể cả nông sản đã qua chế biến và thô sơ) , và được xem là thị trường dễ tính nhất đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam . Hiện nay tình hình của khu vực này đang dần đi vào ổn định và phát triển , do đó kéo theo sự phục hồi của quan hệ mậu dịch trong và ngoài khu vực . Đối với Việt Nam , trong giai đoạn tới , do những thuận lợi sẵn có và đây là khu vực thị trường lớn nên cần phải phục hồi nhanh quan hệ mậu dịch với khu vực này . 1.4.Thị trường EU Mặc dù đây là thị trường rất khó tính cho mặt hàng nông sản của Việt Nam , nhưng đây là khu vực thị trường mà Việt Nam có thể thu được hiệu quả rất cao , rất cần thiết cho sự nghiệp phát triển nền nông nghiệp hàng hoá Việt Nam trong giai từ nay đến năm 2010 . Riêng đối với mặc hàng gạo thì thị trường này chỉ đóng vai trò trung gian để Việt Nam xuất khẩu sang cấc nước nghèo ở châu Phi. 2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu 2.1.Về cơ chế xuất nhập khẩu Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp . Theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động mua bán hàng hoá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ được phép xuất khẩu, nhập khẩu mọi loại hàng hoá , trừ những mặt hàng mà nhà nước cấm kinh doanh . Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp có 100% vốn trong nước (cả về thủ tục xuất khẩu và mặt hàng kinh doanh). Tuy nhiên, hoạt động xuất nhạp khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn phai thực hiện theo quy đinh của luật Đầu tư nước ngoầi, giấy phép đầu tư và các thủ tục liên quan khác . Đối với một số mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được thực hiện từ trước đến nay theo đầu mối chỉ nhằm mục đích quản lý trật tự kinh doanh thì sắp tới sẽ bãi bỏ qui định đó , vừa để phát huy thế mạnh của doanh nghiệp , vừa phù hợp với cam kết quốc tế mà ta đã và sẽ ký sắp tới . Xây dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng trong tthời kỳ 5 năm 2001 – 2005 , áp dụng những công cụ bảo hộ mới , phù hợp với thông lệ quốc tế . Định hướng cơ bản của cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá trong tời kỳ 2001 – 2005 là giảm dần các công cụ phi thuế quan . 2.2.Về công tác thị trường ngoài nước sẽ tập trung thực hiện những nội dung chủ yếu sau : 2.2.1.Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài : Song song với việc ký mới và rà soát để đàm phán ký lại hiệp định thương mại với các nước theo yêu cầu mới , Việt Nam sẽ thoả thuận để thống nhất các tiêu chuẩn vệ sinh , kiểm dịch và tiêu chuẩn kỹ thuật tiến tới công nhận lẫn nhau về kết quả kiểm tra vệ sinh , kiểm dịch và chất lượng hàng hoá , nới lỏng hàng rào phi thuế quan của Việt Nam ; tranh thủ ký cam kết “G to G” với các nước mà ở đó sự can thiệp của Chính phủ có vai trò quyết định đới với việc nhập khẩu các mặt hàng xuất khẩu của ta như gạo , cao su... 2.2.2.Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu : Tổ chức tốt việc nghiên cứu , khảo sát thị trường ngoài nước . Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ Thương Mại (các Vụ chính sách thị trường ngoài nước, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài , Viện Nghiên Cứu thương mại , Trung tâm Thông Tin thương mại , Cục Xúc Tiến thương mại ) trong công tác nghiên cứu thị trường,cung cấp thông tin và kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp . Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát , tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu . Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý , phân phối hàng , kho ngoại quan , trung tâm trưng bày sản phẩm ; áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán , thanh toán chậm , đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng , từng thị trường ; cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt Nam ; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt Nam . Nhà nước hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi và doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại , xây dựng một vài trung tâm thương mại , quảng cáo tham gia triển lãm , hội chợ ...đối với từng mặt hàng từng thị trường . Các doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt ; xây dựng chiến lược phát triển cho từng mặt hàng xuất khẩu , trong đó có chiến lược về thị trường ; bảo đảm chữ “tín” trong kinh doanh; kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu trên thị trường cụ thể . 2.2.3.Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường nước ngoài : Kiện toàn tổ chức , nâng cao về năng lực cán bộ và đổi mới lề lối làm việc của các Vụ chính sách thị trường ngoài nước của Bộ Thương Mại và gắn hoạt động của các đơn vị này với các doanh nghiệp vì sự tăng trưởng xuất khẩu . Gắn công tác của Viện nghiên cứu thương mại với hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu . Có chính sách để các doanh nghiệp đặt hàng cho Viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu . Cùng với việc củng cố các cơ quan thương vụ Việt Nam hiện có ở nước ngoài , mở thêm một số cơ quan ở địa bàn mới... Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để Cục Xúc Tiến Thương Mại phát huy vai trò hỗ trợ và hương dẫn các Doanh Nghiệp trong các hoạt động Xúc Tiến Thương Mại . 2.2.4. Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động Xúc Tiến Thương Mại: Sớm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ chiến lược xuất nhập khẩu. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài,kế cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng ,Nhà nước, để thâm nhập thị trường phát triển kinh doanh, xuất khẩu. Phối hợp và hỗ trợ các ngành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược markettinh cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kì giữa bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng về các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử, tổ chức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này. Khuyến khích,tạo điều kiện và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu. 2.2.5.Tổ chức tốt việc thu nhập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp: Tổ chức cung cấp định kì hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài , Bộ Thương mại đến các Sở Thương mại và các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời của các doanh nghiệp. 2.2.6.Sớm xây dựng và ban hành cơ chế về công tác thị trường ngoài nước : Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có liên quan ở trung ương cũng như ở địa phương và trách nhiệm của doanh nghiệp ; qui chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm và doanh nghiệp trong công tác thị trường ngoài nước . Đồng thời , Nhà nước có chính sách cụ thể bảo đảm các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện trách nhiệm được giao trong công tác thị trường nước ngoài . 2.3.Về các thủ tục hành chính và hải quan : Bỏ việc kiểm dịch , xuất xứ hàng hoá , nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương , đa phương mà Việt Nam ký kết ; bỏ yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng hoá xuất khẩu , nếu không liên quan đến việc hoàn thuế ; cho phép xuất khẩu hàng hoá qua những nơi không phải là cửa khẩu quốc tế , quốc gia ; không thu thuế , kể cả tạm tính , đối với hàng hoá xuất khẩu bị trả lại để tái chế rồi lại xuất khẩu . Tiếp tục áp dụng những biện pháp mới mà ngành hải quan đã thực hiện và đem lại kết quả tốt trong thời gian qua . 2.4.Về sự hỗ trợ của Chính phủ và các chính sách thuế , tín dụng liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu: Sẽ đề nghị Chính phủ hỗ trợ trong việc đầu tư chế biến hàng xuất khẩu , đầu tư xây dựng cơ sở vật chất , hạ tầng và công tác thị trường nước ngoài , công tấc Xúc tiến Thương mại cho hoạt động xuất khẩu.. Đẩy mạnh quá trình cải cách thuế bước hai , trong đó có việc hoàn chỉnh thuế xuất nhập khẩu , thuế tiêu thụ đặc biệt . Có chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như hỗ trợ tín dụng , rủi ro , các khó khăn về tài chính thông qua quĩ hỗ trợ xuất khẩu hoặc ngân hàng xuất nhập khẩu .Tiếp tục thự c hiện tốt chính sách thường xuất khẩu để khuyến khích doanh nghiệp... Đẩy mạnh cải cách hành chính , phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại ; tăng cường kỷ luật hành chính và xử lý nghiêm đối với các cơ quan , công chức không thức hiện đúng luật pháp ,chính sách trong hoạt động xuất khẩu . II. giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo 1.Giải pháp từ phía nhà nước Để tận dụng thời cơ , vượt qua thách thức , đạt được mục tiêu đề ra , cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau đây : Thứ nhất : Tăng cường hơn nữa vai trò của Nhà nước trong hoạt động xuất khẩu gạo , cả về chính sách , vốn đầu tư và mở rộng thị trường . Bên cạnh việc phát huy tính chủ động và linh hoạt của các doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu gạo trong xử lý đầu vào và đầu ra cho sản phẩm . Các ngành có liên quan, nhất là ngành Tài chính , Thương mại và Ngân hàng... cần có sự phối hợp hành động chặt chẽ hơn , phải coi xuất khẩu gạo là trách nhiệm của các ngành , các cấp . Thứ hai : Tiếp tục mở rộng phương thức tạm trữ để “mua thời điểm , bán thời giá” trong năm 2000 bằng nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước và vốn tự có của các doanh nghiệp . Đặc biệt trong bối cảnh năm 2000 Nhà nước cần hỗ trợ lãi suất để các doanh nghiệp đầu mối có đủ điều kiện mua lúa tạm trữ ngay từ thời điểm thu hoạch đầu mùa vụ. Thứ ba : Chính phủ phải khấn trương ban hành Quyết định và cơ chế về điều hành xuất khẩu gạo một cách hợp lý . Ngoài những giải pháp trên , để đảm bảo đời sống của người dân cũng như đảm bảo được lượng gạo xuất khẩu mà mục tiêu đã đề ra , cần phải thực hiện khẩn trương , quyết liệt và đồng bộ cả những giải pháp trước mắt và lâu dài. Cụ thể là : Mục tiêu chủ yếu hiện nay là phải thu mua hết lúa gạo hàng hoá cho nông dân ; theo đó các cơ quan chức năng phải tính toán chi phí sản xuất , giá thành để công bố sớm giá sàn mua lúa theo nguyên tắc đảm bảo bù đắp chi phí sản xuất hợp lý và có lãi ít nhất là 20% trở lên so với giá thành . Về thị trường , các doanh nghiệp phải nâng cao hơn nữa tính chủ động trong kinh doanh , tích cực tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường và bạn hàng thông qua nhiều hình thức linh hoạt và hấp dẫn . nhà nước cho phép thực hiện cơ chế thưởng xuất khẩu theo đầu tấn , nhất là các đơn vị tìm kiếm đươc thị trường mới . Tăng cường việc đàm phán với các nước nhằm mở rộng hình thức trả nợ bằng gạo . Ngoài ra , để hỗ trợ cho công tác nay , các doanh nghiệp cần có biện pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm nâng cao chát lượng và uy tín hàng hoá, tiến tới có thể xây dựng được các thương hiệu hàng hoá cho riêng mình . Về nhiệm vụ bảo đảm tín dụng , theo chỉ đạo của Chính phủ , sẽ đồng loạt miễn , giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với những khu vực chịu thiệt hại do thị trường vvà giá cả xuống thấp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long . Tiếp tục thực hiện cho giãn nợ và cho vay mới nhằm hỗ trợ cho nông dan ổn định đời sống và duy trì sản xuất , không bán ồ ạt lúa gạo ra thị trường đẩy giá thị trường tiếp tục xuống thấp ; cho các hộ nông dân nghèo vay với lãi suất ưu đãi . Đối với doanh nghiệp nhập khẩu phân bốn , Bộ Thương mại đề nghị cho được nộp thuế VAT sau; đồng thời xem xét điều chỉnh thuế nhập khẩu phân bón (xuống tới mức 0%) và bỏ các khoản thu phụ..., nhằm tạo điều kiện để giảm giá một số loại vạt tư nông nghiệp, góp phần giảm chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Về lâu, về dài cần phải thực hiện khẩn trương và quyết liệt việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 09 của chính phủ, năm 2001, trong kế hoạch sản xuất, sẻ có một phần đất lúa ở các vùng ven biển, đất trũng được chuyển sang nuôi tôm cá, đất ven đô thị và đất chưa chủ động tưới tiêu sang trồng cây ăn quả và cây khác có hiệu quả hơn; không làm lúa vụ 3 khoảng vài trăm ha gieo trồng...,tăng cường công tác quy hoạch, xây dựng và phát triển các vùng sản xuất lúa có chất lượng cao để tăng nhanh giá trị xuất khẩu. Cùng với thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp –nông thôn, phải đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ vào nông nghiệp để nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản xuất lúa gạo và các loại nông sản khác. Muốn vậy, các cơ quan hưu quan, các cơ sơ sản xuất kinh doanh tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học tạo giống có năng suất và chất lượng cao mà thị trường trong và ngoài nước đang có nhu cầu, tiếp tục đầu tư đồng bộ về sân phơi, kho chứa, chế biến xuất khẩu..nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Tóm lại, các nhiệm vụ nêu trên đã và đang đòi hỏi phải triển khai thực hiện một cách khẩn trương và đồng bộ, tích cực của các bộ, ngành ở trung ương và các địa phương, của các doanh nghiệp, Và như khẳng định của phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn tại cuộc họp báo vào tháng 2 vừa qua là thực hiện các giải pháp trên cũng chính là thực hiện cam kết giữa chính phủ và nông dân, đảm bảo lợi ích của nông dân, lợi ích của đất nước, phát triển sản xuất và tăng trưởng kinh tế. 2 .Giải pháp từ phía doanh nghiệp Để phát huy lợi thế so sánh xuất khẩu gạo của Việt Nam , bước sang thế kỷ mới , các doanh nghiệp cần có những giải pháp sau : Về sản xuất : Khẩn trương qui hoạch vùng lúa xuất khẩu của cả nước và kế hoạch cụ thể ưu tiên đầu tư vốn và khoa học kỹ thuật để phát triển sản xuất lúa trong từng thời kỳ phù hợp với qui hoạch và kế hoạch xuất khẩu gạo của cả nước . Nội dung qui hoạch , kế hoạch vầ đầu tư cho vùng lúa gạo xuất khẩu phải bám sát nhu cầu của thị trường thế giới trong từng giai đoạn . Về chế biến , vận chuyển : Đây là khâu rất yếu hiện nay, nên những năm tới cần tập trung giải quyết theo các hướng : xây dựng mới các cơ sở chế biến gạo xuất khẩu tại các vùng sản xuất hàng hoá phục vụ xuất khẩu theo qui hoạch , đồng thời nâng cấp , hiện đại hoá các cơ sở đã có để tăng năng lực chế biến và năng lực xuất khẩu . Hệ thống kho tàng , đường sá , bến cảng phục vụ xuất khẩu gạo cũng cần sự đầu tư thoả đáng , mở rộng cảng Cần Thơ thành cảng xuất klhẩu gạo chủ yếu . Về thị trường :Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các nước về xuất khẩu gạo như hiện nay và các năm tới, Việt Nam nhất thiết phải có các giải pháp hữu hiệu về thị trường ngoài nước . Từ năm 1999 , Chính phủ bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo là giải pháp tích cực nhưng chưa đủ. Để tăng sức mạnh cạnh tranh của hạt gạo Việt nam trong bối cảnh hiện nay còn phải có giải pháp đồng bộ hơn , một mặt tăng năng suất và chất lượng sản xuất trong nước để giảm chi phí , mặt khác mở rộng và ổn định thị trường theo hướng đa dạng hoá , đảm bảo chữ tín với khách hàng , tăng cường tiếp thị , đầu tư nghiên cứu và dự báo thị trường . Ngoài những giải pháp trên đây , còn có rất nhiều giải pháp khác mà mỗi doanh nghiệp phải tự tìm hướng đi riêng cho mình để phù hợp với tình hình cụ thể của doanh nghiệp . Đảm bảo cho doanh nghiệp hoàn thành được mục tiêu đã đề ra và cũng là góp phần đưa xuất khẩu gạo của nước ta lên một tầm cao mới. Kết luận Trong khuôn khổ của một đề án tổng hợp, đề án đã cố gắng làm rõ được những thành tựu đạt được cũng như khó khăn bất cập trong xuất khẩu gạo. Hoạt động xuất khẩu trong cơ chế thị trường đã đạt được những thành tích đáng khích lệ. Những thành tựu đó thể hiện ở sản lượng cũng như giá trị đạt được qua quá trình xuất khẩu. Tuy nhiên bên cạnh đó thì trong hoạt động xuất khẩu gạo cũng đang gặp nhiều khó khăn, đó là khó khăn về thị trường, khó khăn từ phía chính các doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Và để khắc phục những khó khăn trên cũng như phát huy những lợi thế, đề án đã mạnh dạn đưa ra những biện pháp, giải pháp nhằm đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu gạo. Trong quá trình thực hiện đề án mặc dù đã cố gắng tìm tòi những tài liệu liên quan nhưng em không tránh khỏi những thiếu sót. Em xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới cô giáo hướng dẫn, ThS Trần Hương Giang, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề án này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29530.doc
Tài liệu liên quan