Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch còn nhiều hạn chế. Như chúng ta đã biết, để hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đạt được kết quả tốt thì công tác Marketing là một công việc rất quan trọng. Hoạt động này không chỉ đơn thuần giúp chúng ta định hướng, lựa chọn được thị trường mục tiêu mà còn giúp chúng ta trong việc thiết kế sản phẩm, định giá sản phẩm, có định hướng kinh doanh tốt.
Đặc biệt, đối với ngành du lịch thì công tác quảng bá, tiếp thị được coi là một trong những việc quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Tuy nhiên, cho tới nay các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch còn rất non kém, chưa mang tính chiến lược tầm cỡ quốc gia. Trên thực tế, kinh phí dành cho hoạt động này còn rất hạn chế, các cơ quan truyền thông của ngành như các báo, các tạp chí, các đài.chưa phát huy triệt để tác dụng.
17 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề án Chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch của Việt Nam thực trạng và một số kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Khoa QTKD du lịch và khách sạn
đề án môn học
kinh tế du lịch
Đề tài:
chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch của Việt Nam
thực trạng và một số kiến nghị
Giáo viên hướng dẫn : Vương quỳnh thoa
Sinh viên thực hiện : Lê viễn
Hà Nội 2005
Lời nói đầu
Trước một thiên niên kỷ mới, ngành du lịch trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã được chú trong ưu tiên trong nền kinh tế. Nó đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân và nó kết nối sự đoàn kết hữu nghị giữa các quốc gia trên thế giới.
Cùng với xu hướng chung của thế giới là hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển thì quá trình liên kết khu vực và quốc tế.
Với sự mở rộng quy mô và đầu tư phát triển chiều sâu thì ngành du lịch của các nước phát triển trên thế giới đã tăng trưởng mạnh mẽ. Ngành du lịch Việt Nam đang hội nhập vào xu thế phát triển chung của thế giới, điều này đã được thể hiện rõ tại điều 1 Pháp lệnh du lịch do Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 20/02/1999: “Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm, phát triển kinh tế xã hội của đất nước”.
Nhận thức rõ được vấn đề này nên các doanh nghiệp du lịch ở Việt Nam và Tổng cục du lịch đã tiến hành các công việc để góp phần xúc tiến chương trình tuyên truyền quảng bá. Nhưng công tác quảng bá tiếp thị vẫn còn ở dạng sơ khai, chưa có sự phối hợp chặc chẽ giữa các ngành ban liên quan. Công việc đầu tư cho chương trình xúc tiến quảng bá còn ít, nhận thức về vai trò tầm quan trọng của tuyên truyền du lịch trong các tầng lớp nhân dân vẫn còn chưa đầy đủ.
Chính vì vậy, để góp phần vào chương trình du lịch quốc gia năm 2000 và chiến lược phát triển du lịch của Việt Nam trong thế kỷ 21 em chọn đề tài: “Chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch của Việt Nam. Thực trạng và một số kiến nghị”.
Đây là một đề tài khó và phạm vi nghiên cứu rộng nên trong khuôn khổ của bài viết em chỉ có thể đưa ra được những ý tưởng do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót. Đồng thời mới chỉ nghiên cứu dưới góc độ vĩ mô mà chưa đi sâu vào nghiên cứu hoạt động ở các doanh nghiệp.
I- Đối tượng phạm vi nghiên cứu và cơ cấu của đề tài.
1. Đối tượng nghiên cứu: Chiến lược xúc tiến và quảng bá du lịch ở Việt Nam.
2. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một cách tổng quát chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch ở Việt Nam. Từ đó đánh giá chung về thực trạng hoạt động của vấn đề này. Đồng thời nêu ra những suy nghĩ của bản thân cho công việc xúc tiến quảng bá du lịch ở Việt Nam.
3. Cơ cấu của đề tài: Đề tài được viết do sự hướng dẫn giúp đỡ của thầy cô giáo khoa Quản trị kinh doanh du lịch và khách sạn Trường Đại học Kinh tế Quốc dân.
Đề tài gồm các phần sau:
Lời nói đầu.
Đối tượng phạm vi nghiên cứu của đề tài
Lý luận chung về xúc tiến quảng bá du lịch.
Thực trạng hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch ở Việt Nam
Phương hướng, giải pháp và một số kiến nghị của bản thân.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo.
II- lý luận chung về xúc tiến quảng bá du lịch.
1. Các khái niệm cơ bản.
Cũng như bất kỳ ngành sản xuất kinh doanh nào, đối với ngành du lịch hoạt động xúc tiến quảng bá có ý nghĩa to lớn trong quá trình hoạt động sản xuất của ngành. Đặc biệt, hơn thế nữa ngành du lịch còn có những đặc điểm riêng như: yếu tố lao động sống trong sản phẩm chiếm phần lớn, sản phẩm dịch vụ du lịch đại đa số là vô hình…
Trong thời điểm hiện nay, cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt thì hoạt động xúc tiến quảng bá cũng có ảnh hưởng đến mức doanh thu của ngành cũng như hiệu quả xã hội của tổ chức kinh doanh du lịch.
Trước khi nghiên cứu hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch, ta nghiên cứu mô hình quyết định mua của khách du lịch để thấy được phần nào vai trò của hoạt động xúc tiến quảng bá.
Hệ thống sản phẩm du lịch
Quảng cáo
Tập gấp
Phương tiện truyền thông
Tiếp nhận (nhận thức)
Mong muốn
Quyết định mua
Nhóm tham khảo
Kinh nghiệm
Trí thức
Đặc tính tâm lý cá nhân
Thái độ sau khi mua
Với sơ đồ trên, ta có thể nhận thấy rằng với tư cách là một người tiêu dùng sản phẩm du lịch, khách du lịch sẽ đứng trước hàng loạt những sự lựa chọn khác nhau về sản phẩm du lịch. Chính vì vậy, khách du lịch sẽ phải thực hiện xử lý thông tin sơ cấp thu được từ những sản phẩm du lịch khác nhau để đánh giá, lựa chọn những sản phẩm phù hợp với họ nhất; sau đó, khách du lịch mới tiếp nhận và tiếp tục quá trình quyết định mua. Từ đây, ta nhận thấy rằng chất lượng của kênh thông tin đóng vai trò quan trọng như thế nào? một kênh thông tin tốt phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Chính vì vậy, vấn đề của người làm marketing là phải xem xét các nguồn thông tin và nghiên cứu xem loại thông tin nào là phù hợp với sản phẩm. Các nguồn thông tin được khách du lịch khai thác từ nhiều đối tượng. Vấn đề ở đây là các tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực du lịch phải chủ động gửi được các thông tin tới tận người tiêu dùng. Nói rộng hơn, để thực hiện được những mục tiêu của ngành du lịch thì bản thân ngành du lịch phải có những hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch. Như vậy, xúc tiến, quảng bá du lịch là gì? Nó bao gồm những nội dung gì và thực hiện nó như thế nào?
* Lý thuyết chung về xúc tiến, quảng bá du lịch.
- Xúc tiến du lịch có thể hiểu theo cách đơn giản là xúc tiến bán và những hoạt động thúc đẩy sự giao lưu thông tin giữa bộ phát (người bán) và bộ thu (người mua) nhằm tác động đến thái độ và hành vi của ngươì mua. Xúc tiến du lịch là một trong những chiến lược của chiến lược marketing - mix trong marketing dịch vụ.
Chiến lược xúc tiến du lịch có thể gọi là chiến lược giao tiếp và xúc tiến bán.
Hoạt động giao tiếp và xúc tiến hướng vào các mục tiêu như làm tăng sự nổi bật (uy tín, danh tiếng) của dịch vụ, kích thích thử tiêu dùng dịch vụ hiện tại và dịch vụ mới…
Xúc tiến du lịch là nỗ lực từ phía doanh nghiệp bằng mọi công cụ thông tin ngôn ngữ hay phi ngôn ngữ nhằm cung cấp thông tin cho khách du lịch tiềm năng về sản phẩm du lịch của doanh nghiệp, của quốc gia. Xét ở khía cạnh khác, xúc tiến du lịch còn là những thông điệp gửi tới dân cư sở tại nhằm nâng cao nhận thức của họ trong việc gìn giữ, bảo vệ tài nguyên du lịch, khơi dậy lòng mến khách đối với khách du lịch là người ngoài địa phương.
- Quảng bá du lịch có thể hiểu trên hai khía cạnh.
1) Với mục đích văn hoá thuần tuý: quảng bá là hoạt động nhằm giới thiệu về đất nước, con người, truyền thống dân tộc v.v… tới khách du lịch và đồng thời khơi dậy lòng yêu quê hương đất nước của mọi người.
2) Với mục đích kinh tế: quảng bá là hoạt động quảng cáo sản phẩm du lịch tới khách du lịch, thu hút khách du lịch…
2. Vai trò, ý nghĩa, nhiệm vụ của xúc tiến, quảng bá du lịch.
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp. Sự phát triển hoạt động du lịch trong mỗi quốc gia đòi hỏi phải có sự tham gia hỗ trợ phát triển của nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân: Hàng không, văn hoá, giao thông, tài chính, công an… Với đặc điểm như vậy, Du lịch Việt Nam luôn được coi là ngành kinh tế quan trọng hàng đầu. Trong các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, phát triển du lịch luôn được chú trọng.
Về nhiệm vụ và mục tiêu của xúc tiến quảng bá du lịch, Đảng và Nhà nước đã xác định:
- Xúc tiến quảng bá du lịch nhằm góp phần chuyển biến và nâng cao nhận thức của các ngành, địa phương và toàn thể xã hội về du lịch, dưa du lịch trở thành sự nghiệp của toàn dân.
- Xúc tiến quảng bá du lịch nhằm nâng cao hình ảnh của Việt Nam nói chung và du lịch nói riêng trong khu vực và thế giới.
- Xúc tiến quảng bá du lịch nhằm nâng cao số khách du lịch tại Việt Nam.
Trên quan điểm kinh tế, hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch có vai trò và tác dụng thuyết phục khách du lịch và thu hút họ đi du lịch tại nơi có dịch vụ du lịch. Trên cơ sở đó, các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ thoả mãn đầy đủ những nhu cầu của khách từ đó tạo điều kiện cho việc khai thác tốt nguồn tài nguyên du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, lực lượng lao động, làm tăng khối lượng sản phẩm bán ra… đặc biệt là tăng giá trị xuất khẩu tại chỗ, tăng lợi nhuận và đạt hiệu quả kinh tế cao.
Trên quan điểm văn hoá - xã hội, xúc tiến quảng cáo tác động theo hai hướng. Đối với khách du lịch, hoạt động này góp phần làm cho du khách hiểu hơn về đất nước, con người, bề dày lịch sử, cảnh quan thiên nhiên, môi trường… từ đó làm tăng thêm mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, các quốc gia. Đối với dân địa phương, hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức của họ về du lịch, thấy được tầm quan trọng của du lịch từ đó nâng cao lòng mến khách, giữ gìn môi trường sống và cảnh quan thiên nhiên.
Đối với doanh nghiệp, mục tiêu lợi nhuận là một trong những mục tiêu hàng đầu. Số lượng khách hàng tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp có ý nghĩa rất lớn. Chính vì vậy, hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch của doanh nghiệp là hoạt động rất cần thiết. Tuỳ từng doanh nghiệp khác nhau sẽ có những mục tiêu cụ thể khác nhau. Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lưu trú, mục tiêu đặt ra có thể là số lượng khách lưu trú, cồn suất sử dụng phòng … Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận chuyển, mục tiêu đặt ra là số lượng hành khách, số chuyển đi…
Tuy nhiên, tựu chung lại, để đạt được mục tiêu của mỗi doanh nghiệp, hoạt động xúc tiến, quảng bá là hết sức quan trọng và cần thiết. Trên thực tế, các doanh nghiệp sẽ phải thực hiện một số công cụ marketing để quảng cáo cho sản phẩm của mình. Như vậy, trong phạm vi hoạt động của doanh nghiệp, xúc tiến quảng bá được hiểu là các hoạt động marketing.
Các chiến lược marketing trong doanh nghiệp bao gồm:
- Chiến lược sản phẩm
- Chiến lược giá cả
- Chiến lược phân phối
- Chiến lược chiêu thị
Bốn chiến lược trong hoạt động marketing của doanh nghiệp du lịch đóng vai trò khác nhau nhưng không thể thiếu một trong số đó. Đối với từng doanh nghiệp cụ thể sẽ có những cách thức hoạt động marketing phù hợp với đặc điểm kinh doanh của từng tổ chức. Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp là động lực lớn để thúc đẩy doanh nghiệp phải có con đường đi đúng đắn cho sự phát triển. Vì vậy, hoạt động marketing đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Qua phân tích trên, chúng ta có thể thấy được một trong những vai trò quan trọng của hoạt động marketing trong doanh nghiệp và hoạt động này cần phải được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế và góp phần nâng cao sự ổn định lâu dài của doanh nghiệp.
3. Các nhân tố ảnh hướng tới hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam, chúng ta có thể phân tích một số yếu tố sau:
- Các chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch: ở góc độ tổng thể để xem xét vấn đề, có thể thấy rằng có rất nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp tác động tới công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch. Một trong những yếu tố không thể không đề cập tới, đó là hệ thống luật, các văn bản dưới luật có liên quan tới hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch nói riêng và ngành du lịch nói chung.
Trong những năm của thập kỷ trước, có thể nói ngành du lịch Việt Nam kém phát triển. Một trong những nguyên nhân chính là do chiến tranh kéo dài nền kinh tế bị ảnh hưởng nặng nề, vì vậy chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để phát triển du lịch. Tuy nhiên, từ khi Đảng và Nhà nước tiến hành thực hiện nền kinh tế mở cửa, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế thì cũng là thời điểm mà du lịch có điều kiện phát triển. Có thể nói, phát triển du lịch cần thiết phải đi đôi với mở rộng quan hệ quốc tế và xúc tiến, quảng bá du lịch là một phần của phát triển kinh tế đối ngoại. Cùng với quá trình hội nhập của quốc gia, để cho phù hợp với tình hình mới thì có rất nhiều văn bản pháp luật được bàn hành và thực hiện nhằm phát triển du lịch. Như vậy, Đảng và Nhà nước thông qua hệ thống các văn bản pháp luật đóng vai trò quan trọng và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển của du lịch Việt Nam. Cho tới nay, ngành du lịch Việt Nam đã có cơ sở pháp lý vững chắc để tồn tại và phát triển, đó là Pháp lệnh Du lịch. Văn bản này bao gồm toàn bộ những quy định về du lịch và hoạt động kinh doanh du lịch, gồm 9 chương, 56 điều, trong đó có riêng một chương quy định rõ ràng, cụ thể về hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch ở Việt Nam. Một phần trong chương này đã chỉ ra cụ thể: “… Tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi về đất nước, con người Việt Nam, danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử, di tích cách mạng, di sản văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người, bản sắc văn hoá dân tộc cho các tầng lớp nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế.
Nâng cao nhận thức xã hội về du lịch, tạo môi trường du lịch văn minh, lành mạnh, an toàn, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc…”.
Nội dung trong phần trên có thể được chia làm hai phần cơ bản. Một là tuyên truyền, giới thiệu đất nước con người Việt Nam cho khách du lịch quốc tế. Hai là xúc tiến, quảng bá du lịch cho các tầng lớp nhân dân và nâng cao nhận thức của xã hội về du lịch, phát huy truyền thống mến khách của dân tộc. Tới đây, thấy rằng ngoài mục đích gửi tới khách du lịch là người nước ngoài về hình ảnh Việt Nam, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch còn muốn đạt tới những mục đích khác không kém phần quan trọng. Như vậy xúc tiến quảng bá du lịch là để nâng cao nhận thức của nhân về du lịch, đồng thời nâng cao hiểu biết của nhân dân về du lịch là để phục vụ cho xúc tiến quảng bá được hoạt động tốt hơn.
Hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch còn chịu sự tác động của các quy định trong hệ thống văn bản pháp luật về du lịch cuả Đảng và Nhà nước. Các quy định này có thể là những quy định về thuế, nguồn vốn đầu tư cho xúc tiến quảng bá du lịch…
Trên thực tế, để thực hiện tốt việc tuyên truyền , quảng bá du lịch, vấn đề đầu tiên đặt ra là nguồn kinh phí được trích từ nguồn ngân sách Nhà nước dành cho hoạt động này như thế nào. Việc tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt Nam được thực hiện thông qua các hoạt động quan hệ quốc tế; các hội chợ du lịch quốc tế, thông qua các cơ quan ngôn luận, báo chí trong nước hoặc thông qua hệ thống thông tin quốc tế để giới thiệu về du lịch Việt Nam. Đối với khách du lịch quốc tế, hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch phải được thực hiện để cho đối tượng này nắm rõ được những thông tin về du lịch Việt Nam, cuối cùng để họ quyết định tiêu dùng sản phẩm du lịch tại Việt Nam. Đối với người dân trong nước, việc tuyên truyền quảng bá du lịch ngoài vai trò khuyến khích người dân đi du lịch, đồng thời còn có tác dụng nâng cao sự hiểu biết của họ về du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động du lịch phát triển.
- Mối quan hệ giữa các tổ chức trong ngành và với những cơ quan ngoài ngành.
Nếu như nguồn kinh phí dành cho hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch được coi như là nguồn nguyên liệu cho một bộ máy hoạt động thì sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan trong ngành với nhau cũng như với những cơ quan hữu quan có thể coi nhu một bộ khung cho bộ máy hoạt động bình thường và đạt hiệu quả. Hiểu một cách đầy đủ thì du lịch là hoạt động được cấu thành bởi nhiều hoạt động bộ phận và những hoạt động này không diễn ra một cách đơn lẻ mà chúng luôn cần có sự phối hợp. Các hoạt động này liên kết với nhau thể hiện tính tổng hợp của một ngành kinh doanh dịch vụ, đặc biệt là du lịch . Các hoạt động này diễn ra thường xuyên và tồn tại trong một phạm vi rộng lớn. Trong phạm vi bài viết, nhóm tác giả chỉ có thể đề cập đến một số hoạt động cụ thể có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt Nam.
+ Tổng cục Du lịch Việt Nam là cơ quan đứng đầu trong ngành du lịch. Mọi hoạt động của các doanh nghiệp du lịch trực thuộc đều chịu sự quản lý chặt chẽ của Tổng cục du lịch. Vừa qua, Tổng cục du lịch đã đưa ra quy định cụ thể về hoạt động xúc tiến xúc tiến, quảng bá du lịch trong doanh nghiệp. Nội dung của quy định này có thể hiểu như sau: trong vòng ba năm, các doanh nghiệp quốc tế phải tiến hành hoạt động tuyên truyền xúc tiến quảng bá du lịch một lần. Nếu có nhiều doanh nghiệp du lịch trong nước tham gia thì Tổng cục sẽ đầu tư chi phí cho việc xây dựng một ngôi nhà du lịch Việt Nam. Các khoảng chi phí khác do doanh nghiệp đảm nhiệm…
+ Sự hợp tác hoạt động giữa Tổng cục du lịch và các ngành hữu quan thúc đẩy một cách tích cực tới công tác tuyên truyền quảng bá du lịch Việt Nam. Các cơ quan hữu quan bao gồm: Hàng không, Bưu chính viễn thông, Hải quan, Truyền hình, Truyền thanh, Báo chí…
Sự hợp tác giữa Tổng cục du lịch với các đài báo làm cho du lịch cũng như du lịch toàn quốc có điều kiện tuyên truyền hoạt động của mình. Thực tế, Tổng cục du lịch và đài Truyền hình Việt Nam có sự liên kết với nhau. Đó là hai chuyên mục du lịch được phát sóng trên truyền hình: :Du lịch qua màn ảnh nhỏ” và Tạp chí “Người hướng dẫn du lịch”. Truyền hình là thông tin phổ biến nhất . Qua truyền hình, du lịch sẽ được truyền bá sâu, rộng.
Bên cạnh sự phối hợp với đài truyền hình Việt Nam, còn nhiều cơ quan hữu quan khác có chức năng tuyên truyền quảng bá du lịch. Các cơ quan này có thể là các báo, cơ quan bưu chính viễn thông… và đặc biệt là các doanh nghiệp du lịch Việt Nam có văn phòng đại diện nước ngoài. Bởi lẽ, vừa qua Tổng cục du lịch có đưa ra “phương án nâng cấp một số văn phòng đại diện du lịch tại nước ngoài của doanh nghiệp thành đại diện du lịch Việt Nam”. Đây mới chỉ là phương án dự thảo để lấy ý kiến tham gia trong ngành nhưng nếu được phê duyệt và thông qua thì vai trò của các doanh nghiệp du lịch có văn phòng đại diện nước ngoài sẽ rất quan trọng. Đối với du lịch quốc gia, nếu đặt được cơ sở đại diện trong thời gian tới sẽ là một bước khởi đầu tốt cho chiến lược phát triển du lịch Việt Nam trong thiên niên kỳ mới.
III- Thực trạng hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch ở Việt Nam.
1. Khái quát chung về du lịch Việt Nam.
Việt Nam, đất nước có bề dày hơn bốn ngàn năm lịch sử đã tạo dựng lên một nền văn hoá truyền thống mang đậm bản sắc dân tộc , với tính độc đáo cao. Hệ thống tài nguyên du lịch dồi dào với nhiều đền, chùa, miếu mạo, phong cảnh thiên nhiên hữu tình thể hiện mối quan hệ hoà quyện giữa con người và thiên nhiên đã tạo nên một sức hấp dẫn lớn đối với du khách. Chính những yếu tố trên đã giúp cho ngành du lịch Việt Nam tuy mới non trẻ (được thành lập từ năm 1960) gặp nhiều trở ngại trong quá trình phát triển song đã gặt hái được những sự thành công góp phần vào quá trình xây dựng đất nước.
Trong những năm gần đây, cùng với xu thế chung của thế giới, du lịch Việt Nam đã có những bước trưởng thành quan trọng, được Đảng và Nhà nước luôn chú ý và coi phát triển phát triển du lịch là định hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội, nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: Đại hội Đảng lần thứ VIII đã xác định: “phát triển nhanh du lịch, dịch vụ … từng bước đưa nước ta thành một trung tâm du lịch, thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực”.
Nhận thức được vai trò, nhiệm vụ của mình, du lịch Việt Nam trong những năm gần đây đã đạt được những kế quả bước đầu quan trọng, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, hoạt động du lịch trong thời gian qua cũng còn bộc lộ những yếu kém, tồn tại cần khắc phục.
1) Những kết quả đạt được.
Thứ nhất, nhận thức về du lịch trong các cấp, các ngành và các tầng lớp xã hội chuyển biến tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch phát triển theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Kết quả này do ngành du lịch đã có những biện pháp quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về du lịch bằng cách nâng cao hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngành, tổ chức nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tuyên truyền mang tính chuyên môn sâu. Mặt khác, do nhận thức được hiệu quả về mặt kinh tế mà du lịch đem lại đã tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức về việc bảo vệ, giữ gìn và phát triển tài nguyên du lịch và môi trường sinh thái, nâng cao tình yêu đối với quê hương đất nước, thu hút được sự tham gia đông đảo của các thành phần kinh tế, tạo ra thị trường kinh doanh dịch vụ lành mạnh và có hiệu quả.
Thứ hai, cơ chế chính sách về du lịch được bổ sung, bộ máy quản lý Nhà nước được kiện toàn và sắp xếp lại từng bước, hoạt động quản lý chuyên ngành thích nghi dần với cơ chế mới.
Trên cơ sở thực hiện đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, Tổng cục du lịch đã cùng phối hợp với các ban ngành liên quan khác, bổ sung, rà soát và hoàn thiện lại các cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy du lịch phát triển. Điều này được thể hiện cụ thể là sự ra đời của pháp lệnh du lịch - một văn bản pháp luật đã được Quốc hội thông qua. Việc ra đời của pháp lệnh du lịch đã tạo ra hành lang pháp lý tốt nhằm điều chỉnh các mối quan hệ trong ngành cũng như ngành du lịch đối với các bộ ban ngành khác. Đồng thời, pháp lệnh du lịch góp phần vào việc thúc đẩy nhận thức về du lịch đối với toàn xã hội diễn ra nhanh hơn, rộng hơn và có hiệu quả hơn. Song song với việc xây dựng cơ chế chính sách về du lịch, tạo điều kiện thúc đẩy du lịch phát triển thì quá trình điều chỉnh xắp xếp lại một bước các hoạt động kinh doanh du lịch cũng được thực hiện nhằm tạo ra sự thích nghi dần với cơ chế kinh tế mới (chẳng hạn việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh du lịch, việc từng bước áp dụng thực tế những tiêu chuẩn quản lý hoạt động trong doanh nghiệp). Bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch, kế hoạch phát triển ngành.v.v. cũng được điều chỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước về du lịch và những đòi hỏi chuyên môn của ngành.
Thứ ba, giữ được nhịp độ tăng trưởng khá đối với các chỉ tiêu cơ bản trong ngành về khách du lịch, doanh thu, cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động.
Lượng khách du lịch quốc tế tăng từ 669 ngàn lượt năm 1993 lên 1,7 triệu lượt năm 1997, trung bình mỗi năm tăng 26,5%
Đơn vị tính: Người
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số khách đến
669.862
1.018.244
1.351.296
1.607.155
1.715.637
1.520.000
1.758.000
Nguồn: Tổng cục Du lịch.
Tuy năm 1998 lượng khách có giảm xuống nhưng đến năm 1999 lượng khách lại tăng lên vàđạt được như sau năm 1997.
Do lượng khách tăng nhanh nên doanh thu từ du lịch cũng tăng. Hàng năm doanh thu từ du lịch đóng góp vào ngân sách Nhà nước một khoản không nhỏ so với các ngành kinh tế khác, đặc biệt khoản thu này làm tăng thêm nguồn ngoại tệ cho ngân sách quốc gia.
Đơn vị tính: tỷ VND
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Lượng đóng góp
400
800
780
740
840
720
960
Nguồn: Tổng cục du lịch
Tuy nhiên, bước sang năm 1998, do bị ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực nên số lượt khách du lịch quốc tế tới Việt Nam đã giảm đi rõ rệt. Theo thống kê của Tổng cục du lịch thì số lượt khách quốc tế đến Việt Nam năm 1998 chỉ còn thuần tuý đạt 6.400 tỷ, giảm 9% so với năm 1997.
Đối với khách du lịch nội địa, theo thống kê của tổng cục du lịch thì số khách du lịch nội địa liên tục tăng trưởng với tỷ lệ cao.
Đơn vị tính: nghìn người
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Số lượt khách
2.700
3.500
5.500
6.500
8.500
9.600
10.300
Nguồn: Tổng cục du lịch
Năm 1998 số lượtkhách đi du lịch là 9.600 (lượt) tăng 13% so với năm 1997. Để đáp ứng được số khách du lịch ngày càng tăng thì cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đã phát triển với tốc độ nhanh cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Hàng loạt các khách sạn, nhà hàng cao cấp đã được khai thác phục vụ khách.
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
Số khách sạn
1.462
1.928
2.318
2.700
3.050
Số buồng
28.989
36.000
42.388
50.000
55.600
Nguồn: tổng cục du lịch
Ngoài ra các cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch khác cũng không ngừng phát triển như: phương tiện vận tải, các khu du lịch, khu vui chơi giải trí… đã đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch nội địa và quốc tế.
Cùng với sự tăng nhanh về số lượng khách du lịch và hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch thì lực lượng lao động trong ngành cũng phát triển cả về mặt lượng lẫn mặt chất, số lao động trong ngành tăng trung bình hàng năm là 28,1%.
Đơn vị tính: Người
Năm
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
Số lao động
43.210
51.510
81.760
98.700
150.000
180.000
230.000
Thứ tư, sản phẩm dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, chất lượng từng bước được nâng cao, công tác quy hoạch đầu tư phát triển ngành đã đươợ triển khai và có nhiều thay đổi. Căn cứ vào nguồn tài nguyên du lịch sẵn có, du lịch Việt Nam đã có những thay đổi trong việc đa dạng hoá sản phẩm theo hướng phát triển du lịch văn hoá và du lịch sinh thái.
Thứ năm, trong những năm gần đây, hoạt động hợp tác quốc tế về du lịch, xúc tiến quảng bá du lịch đã được tăng cường, góp phần nâng cao vị thế của du lịch Việt Nam. Hoạt động hợp tác quốc tế về du lịch được mở rộng theo hướng đa phương hoá, đa dạng hoá . Ngành du lịch Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia trong khu vực, quan hệ tốt với Trung Quốc; tăng cường hợp tác với Lào; xây dựng và giữ quan hệ tốt với Campuchia; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với tất cả các nước thành viên ASEAN; khôi phục và củng cố quan hệ hợp tác du lịch truyền thống với liên bang Nga, các nước trong cộng đồng các quốc gia độc lập; phát triển quan hệ hợp tác du lịch với các nước có nền kinh tế phát triển, các nước sử dụng tiếng Pháp… Ngoài ra, ngành du lịch còn mở rộng và tích cực tham gia vào các tổ chức quốc tế trong khu vực cũng như toàn thế giới như PATA, ASEANTA, WTO… Chính vì vậy, vai trò và vị thế của du lịch Việt Nam đã phần nào được khẳng định trên trường quốc tế, góp phần thúc đẩy du lịch Việt Nam phát triển và tăng cường mối quan hệ giao lưu văn hoá, kinh tế Với các nước trên thế giới, tạo ra cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước, mở rộng cửa đón nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
* Đối với hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch, ngành du lịch Việt Nam đã có những việc làm cụ thể, thiết thực thể hiện bằng việc tổ chức các cuộc hội thảo, hội nghị... Bàn về chiến lược xúc tiến quảng bá du lịch Việt Nam. ở tầm thấp hơn, các doanh nghiệp cũng đã có sự liên kết với nhau để thực hiện việc tuyên truyền, quảng cáo sản phẩm du lịch của mình. Đặc biệt, trong các cuộc hội chơ du lịch quốc tế, số lượng doanh nghiệp tham gia ngày càng lớn, điều này chứng tỏ các doanh nghiệp đã chú trọng tới công tác xúc tiến quảng bá du lịch.
Ngoài việc tuyên truyền, quảng bá du lịch bằng những công cụ trên, ngành du lịch còn sử dụng một số công cụ khác như: Văn phòng đại diện du lịch, các phương tiện thông tin gồm sách hướng dẫn du lịch, tạp chí du lịch...đặc biệt việc nối mạng thông tin du lịch trên Internet đã tạo điều kiện thuận lợi đưa thông tin du lịch Việt Nam ra nước ngoài.
* Xét trên phương diện tổng thể, những kết quả mà ngành du lịch Việt Nam đã đạt được trong những năm vừa qua so với tiềm năng, thế mạnh của du lịch nước ta thì du lịch Việt Nam còn tồn tại những yếu kém, khó khăn vướng mắc cần được khắc phục để tạo ra bước đột phá cho du lịch Việt Nam. Những yếu kém có thể đề cập gồm: nhận thức của mọi tầng lớp nhân dân chưa đầy đủ và nhất quán về du lịch. Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp, tuy nhiên đã có lúc chúng ta chỉ coi nó đơn thuần là một ngành phục vụ. Trong mấy năm trở lại đây, nhận thức được tầm quan trọng của du lịch trong việc phát triển kinh tế thì một số nơi, một số cấp, ngành đã khai thác tài nguyên du lịch một cách bừa bãi, phục vụ cho lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài. Trong quần chúng nhân dân nhận thức của họ về du lịch còn nhiều hạn chế do vậy dẫn đến việc không có ý thức giữ gìn phát huy truyền thống dân tộc, huỷ hoại môi trường sinh thái, làm giảm tính hấp dẫn của khu du lịch.
- Công tác quản lý Nhà nước về du lịch còn nhiều vấn đề bất cập cần sớm được giải quyết.
Do đặc điểm của ngành du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp do vậy phải có sự thống nhất trong quản lý Nhà nước về du lịch, giữa ngành du lịch với một số bộ ngành hữu quan như: hàng không, hải quan, công an, tài chính,... nhằm tạo ra những hoạt động thông thoáng và thống nhất.
Xét trên phương diện quản lý ngành dọc thì do bộ máy quản lý ngành từ trung ương đến địa phương mới được thiết lập lại; do đó đội ngũ cán bộ quản lý chuyên môn nghiệp vụ còn thiếu và yếu, dẫn đến quản lý không đồng bộ nhất quán.
- Chất lượng sản phẩm du lịch còn thấp, chưa đa dạng phong phú chưa có khả năng cạnh tranh cao, giá cả nhiều khi không phù hợp với chất lượng sản phẩm. Vì sản phẩm du lịch là loại sản phẩm tổng hợp, gắn liền với nhiều yếu tố vô hình nên chất lượng của sản phẩm du lịch bị tác động bởi nhiều yếu tố như cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, cơ sở vật chất hạ tầng xã hội, chất lượng đội ngũ lao động trong ngành...Xuất phát từ thực trạng các yếu tố trên ở Việt Nam, ta có thể khẳng định một điều rằng chất lượng sản phẩm du lịch còn thấp.
Sản phẩm du lịch Việt Nam chưa có khả năng cạnh tranh cao do sự không đa dạng trong chủng loại sản phẩm cùng với chất lượng thấp. Do vậy làm giảm sức hấp dẫn của sản phẩm đối với du khách.
- Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch còn nhiều hạn chế. Như chúng ta đã biết, để hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đạt được kết quả tốt thì công tác Marketing là một công việc rất quan trọng. Hoạt động này không chỉ đơn thuần giúp chúng ta định hướng, lựa chọn được thị trường mục tiêu mà còn giúp chúng ta trong việc thiết kế sản phẩm, định giá sản phẩm, có định hướng kinh doanh tốt.
Đặc biệt, đối với ngành du lịch thì công tác quảng bá, tiếp thị được coi là một trong những việc quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường thu hút khách du lịch. Tuy nhiên, cho tới nay các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch còn rất non kém, chưa mang tính chiến lược tầm cỡ quốc gia. Trên thực tế, kinh phí dành cho hoạt động này còn rất hạn chế, các cơ quan truyền thông của ngành như các báo, các tạp chí, các đài...chưa phát huy triệt để tác dụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34971.doc