Chính sách tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt nam nói riêng.Nó được Chính phủ mà trước hết là ngân hàng trung ương các nước sử dụng làm công cụ tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Bước sang thế kỷ XXI-Mở ra một kỷ nguyên mới trong tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện và thực thi chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả nhất.
Để hoàn thiện chính sách tiền tệ, trước hết phải xác định đúng mục tiêu và định hướng của nó trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Từ đó có những giải pháp đồng bộ vừa cải tiến, hoàn thiện những yếu tố sẵn có, vừa phát triển bổ sung những yếu tố mới, chấn chỉnh, loại bỏ những yếu tố cũ, lạc hậu. Quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu kiên trì không những của ngân hàng nhà nước mà của cả hệ thống ngân hàng.
Đồng thời đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành có liên quan trong quá trình thực hiện những mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đặc biệt việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hiện nay.
Có thể nói nghiên cứu đề tài về chính sách tiền tệ là một vấn đề rất rộng lớn và nó liên quan đến nhiều khía cạnh của các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này em không thể chi tiết hết được các nội dung của CSTT mà chỉ nêu lên moọt số hiểu biết của mình và ý kiến đề xuất về việc hoàn thiện chính sách tiền tệ
Do đây là một lĩnh vực lớn và phức tạp nên bài viết của em có thể gặp nhiều hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để em cô điều kiện nâng cao kiến thứcvà hoàn thiện bài viết của mình hơn. Qua đây em xin cảm ơn cô giáo Vũ thị Lợi- người trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngân hàng trung ương, đã giúp em có vốn kiến thức để hoàn thành bài viết này.
53 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1313 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách tiền tệ- Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất tái chiết khấu tác động vào giá tín dụng nên khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác đôngj vào mặt bằng giá vốn đầu vào của NHTM,gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của NHTM, làm cho hệ số tạo tiền giảm và ngược lại.
Đi kèm với lãi suất tái chiết khấu, NHTƯ còn quy định hạn mức tái chiết khấu tức là quy định mức cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất đã quy định để gây ảnh hưởng về lượng vốn mà các TCTD vay của NHTƯ
Ưu, nhược điểm của công cụ này:
*Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu là công cụ có khả năng tác động vào các mục tiêu trung gian của CSTT. NHTƯ chủ động sử dụng công cụ này thể hiện qua việc chủ động quy định lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu cho từng đối tượng cụ thể.
Chính sách tái chiết khấu là công cụ linh hoạt, sự nhạy cảm của CSTT với lãi suất sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ cơ cấu cho vay của các TCTD với hiệu ứng thông báo mạnh có tác động đến nền kinh tế. NHTƯ có thể dùnh chính sách này để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng cung cấp dự trữ cho hệ thống NHTM khi nó thiếu vốn khả dụng, nhất là trong điều kiện xảy ra khủng hoảng ngân hàng, lúc này cửa sổ chiết khấu giống như cái van an toàn cho hệ thống tiền tệ của quốc gia.
*Nhược điểm: Công cụ này không phát huy hiệu quả khi các điều kiện tái chiết khấu không đảm bảo. Nhiều khi NHTƯ không thể chủ động chi phối được số tiền tái chiết khấu vì nó còn phụ thuộc vào nhu cầu vốn của TCTD. Mặt khác, công cụ này còn có ý nghĩa tác động một chiều, khi cần tăng lượng tiền cung ứng thì NHTƯ sẽ điều chỉnh lãi suất thấp để các NHTM có nhu cầu vay và sẽ gặp khó khăn khi cần thu tiền về vì bị ràng buộc bởi thời gian. Hơn nữa, chính sách tái chiết khếu có thể làm lẫn lộn những ý định của NHTƯ do việc thay đổi lãi suất, vì thế để khắc phục phải biết kết hợp công cụ này với các công cụ khác như công cụ dự trữ bắt buộc.
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở là thị trường tiền tệ mà ở đó người ta thực hiện việc mua-bán các công cụ tài chính ngắn hạn.
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua- bán các chứng từ có giá ngắn hạn của NHTƯ trên thị trường mở.
ởViệt nam, sau nhiều năm tích cực chuẩn bị triển khai, tới ngày 12/7/2000, nghiệp vụ thị trường mở do NHNN chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong điều hành CSTT của NHTƯ theo phương pháp gián tiếp.
ở đây ta trình bày vài nét về mục tiêu và nhiệm vụ của CSTT-Xuất phát điểm để NHTƯ đưa ra các công cụ điều hành.
ỏ góc độ khái quát, CSTT là những mục tiêu và những giải pháp đồng bộ mà NHTƯ sử dụng trong điều hành nhằm tác động vào khả năng sẵn có và giá của vốn khả dụng, qua đó ảnh hưởng lên toàn bộ các hoạt động tiền tệ, tín dụng trong nền kinh tế. Nói cách khác, CSTT phải nhằm vào mục tiêu bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và an toàn hệ thống tín dụng bằng cách kiểm soát các kênh bơm và rút tiền NHTƯ trong lưu thông.
Theo thuật ngữ tiền tệ, đây là nhiệm vụ kiểm soát lượng tiền cung ứng được điều tiêt qua hai kênh bao gồm kênh tín dụng và kênh mua bán. Các tăng hay giảm tiền cung ứng qua các kênh này đều có những ưu nhược điểm khác nhau phụ thuộc vào điều kiện khách quan của nền kinh tế và khả năng cho phép của NHTƯ.
Theo đánh giá của các chuyên gia NHTƯ, điều tiết lượng tiền cung ứng qua nghiệp vụ thị trường mở có nhiều ưu thế hơn các kênh khác. Tại đây NHTƯ đóng vai trò người chủ trì có điều kiện thực hiện ý đồ kiểm soát của mình một cách chủ động. Thông qua việc mua bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ cấp giữa một bên là NHTƯ với một bênkhác là các TCTD, làm lượng tiền biến thiên chỉ theo một chiều hoặc tăng giảm phù hợp với yêu cầu can thiệp của NHTƯ.
Hoạt động thị trường mở bao quát toàn bộ những nội dung quyết định tính hiệu quả của nó.
Nội dung đầu tiên được đề cập đến hoạt động nghiệp vụ thị trường mở là phạm vi thành viên tham gia nghiệp vụ này.
Có 3 điều kiện để xem xét phạm vi thành viên
Thứ nhất: NHTƯ muốn can thiệp trực tiếp vào lượng tiền cung ứng bao gồm cả tiền mặt và tiền gửi, về lý thuyết thành viên tham gia mua bán trong trường hợp này được mở rộng không những chỉ gồm các TCTD mà còn các tổ chức khác, thậm chí cả các cá nhân miễn là họ có tiền mặt và tiền gửi
Thứ hai: Nừu cơ sở pháp lý cho phép các TCTD hoạt động đa năng như hệ thống TCTD của VN hiện nay thì phạm vi thành viên tham gia mở rộng đến TCTD là đủ.
Thứ ba: Theo quyết định số 85/2000 ban hành quy chế nghiệp vụ thị trường mở thì thành viên tham gia trước hết phải là TCTD có đủ các điều kiện mở tài khoản tiền gửi tại NHTƯ, có hệ thống mạng vi tính kết nối với NHTƯ vay phải được NHTƯ cáp giấy công nhận thành viên.
Nội dung thứ hai: Là phạm vi hàng hoá được sử dụng giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở, về nguyên tắc mọi tài sản có thể mua bán trên nghiệp vụ này vì chúng đều là những tài sản thế chấp. Tuy nhiên khác với tái cấp vốn là thông qua hình thức cho vay có bảo đảm ở chỗ, tài sản thế chấp trên nghiệp vụ thị trường mở phải là tài sản có khả năng thanh khoản cao, đảm bảo quản lý dễ dàng đồng thời đáp ứng yêu cầu điều hành nghiệp vụ này nhanh nhạy, chính xác và đạt được ý mong muốn. Tài sản hội tụ đủ các điều kiện như vậy chỉ có thể là các giấy tờ có giá. Hiện nay các công cụ được sử dụng để giao dịch trên thị trường mở là các tín phiếu kho bạc nhà nước, tín phiếu NHNN, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Về lâu dài, khi điều kiện pháp lý cho phép phạm vi giấy tờ có giá sẽ được mở rộng không chỉ bao gồm các loại ngắn hạn mà cả các loại trung, dài hạn có thể được xem xét làm công cụ giao dịch với điều kiện công cụ đó có khả năng thanh khoản cao.
Nội dung thứ ba: Là vấn đề giá và lãi suất bao gồm giá mua, bán trên nghiệp vụ thị trường mở. Giá và lãi suất là hai đại lượng ngược chiều nhau. Khi mua giấy tờ có giá, người mua cần mua với loại có giá thấp tức lãi suât cao, còn khi bán người bán muốn bán với giá cao tức lãi suất thấp. Giá của giấy tờ có giá hay lãi suất giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy lãi suất cũng là một mục tiêu mà NHTƯ cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở.
Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng trên nghiệp vụ này tuỳ thuộc vào mục tiêu của NHTƯ. Muốn can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng ở đó lãi suất cố định do NHTƯ chỉ đạo. Khi mục tiêu của CSTT nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một khối lượng mong muốn thì thực hiện theo phương thức đấu thầu lãi suất, ở đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu của thị trường còn lãi suất trúng thầu sẽ được xác định tại điểm đạt được khối lượng tiền cần bơm vào hoặc rút bớt tiền khỏi lưu thông.
Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng và lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá. Giá của giấy tờ có giá.
Có 3 khái niệm: Giá tại thời điểm mua bán gọi là giá hiện tại
Giá sau một thời gian được bán/mua lại theo hợp đồng mua lại gọi là giá tương lai và mệnh giá của giấy tờ có giá đó.
Giá của giấy tờ có giá được tính theo hình thức chiết khấu như sau:
_GiáGiá hiện tại = Mệnh giá: ( 1+ thời gian còn lại x lãi suất)
365
_Giá tương lai =Giá hiện tại x(1+ thời hạn hợp đồng x lãi suất)
365
Nội dung thứ tư: Là phương thức giao dịch thể hiện tính linh hoạt của công cụ nghiệp vụ thị trường mở mà các công cụ khác không thể có được.
Nghiệp vụ thị trường mở cho phép mua hoặc bán với số lượng, thời gian giao dịch và một phương pháp giao dịch tuỳ ý, phù hợp với yêu cầu của CSTT.Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng không thay đổi biểu hiện mộy sự trì trệ trong lưu thông tiền tệ thì sẽ áp dụng phương thức giao dịch là mua hoặc bán hẳn giấy tờ có giá nhằm tạo ra một sự chuyển ddộng tiền tệ ban đầu cần thiết.
Khi dự báo cho thấy vốn khả dụng thay đổi thất thường do nhiều nguyên nhân để đảm bảo hạn chế sai sót trong việc cung ứng tiền, phương thức giao dịch được áp dụng trên nghiệp vụ thị trường mở sẽ là phương thức mua bán có kỳ hạn gọi là hợp đồng mua lại.
Nội dung thứ năm: ảnh hưởng tới hiệu quả của nghiệp vụ thị trường mở đó là trình độ phối hợp giữa các công cụ trong điều hànhCSTT, đặc biệt là giữa nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ cho vay tái cấp vốn không có bảo đảm bằng giấy tờ có giá hoặc giấy tờ có giá chất lượng thấp, thực chất là cho vay tái cấp vốn theo chỉ định của ta hiện nay là một loại tín dụng không phải ai cũng được quyền vay. Vì vậy TCTD được vay sẽ có nhiều lợi thế trong giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở một khi tổ chức đó tìm được nguồn vay với giá rẻ có thể sử dụng để mua giấy tờ có giá với lãi suất có lợi hơn trên nghiệp vụ thị trường mở. Điều này không những tạo ra một sân chơi thiếu bình đẳng giữa các thành viên mà còn làm cho mục tiêu kích cầu tín dụng không thực hiện được. Để chống sự lạm dụng này, NHTƯ các nước thường xét đơn xin vay rất nghiêm ngặt, mặt khác áp dụng cơ chế nâng lãi suất ở thị vay để kích thích các TCTD ơu tiên bán giấy tờ có giá trên nghiệp vụ thị trường mở. Khi lượng giấy tờ có giá không còn để bán lúc đó NHTƯ mới giảm dần lãi suất vay đến mức ngang băngf lãi suất trên thị trường mở.
Nội dung cuối cùng góp phần không nhỏ để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động có hiệu quả đó là công nghệ thông tin và hệ thống thanh toán. Việc kết nối theo một chương trình phần mềm hiện đại trong nội bộ NHTƯ với các ban điều hành, các uỷ viên và người trực tiếp điều hành sàn giao dịch để bảo đảm thực hiện các công đoạn giao dịch.
Tóm lại, nghiệp vụ thị trường mở là công cụ gián tiếp của CSTT hoạt động thông qua việc mua hoặc bán các giấy tờ có giá trên thị trường thứ cấp giữa NHTƯ và các TCTD nhằm bơm vào hoặc rút tiền khỏi lưu thông theo mục tiêu mở rộng hay thu hẹp tín dụng, từ đó tác động gián tiếp lên mặt bằng lãi suất trên thị trường vốn ngắn hạn.
Sự lựa chọn công cụ trong việc điều hànhCSTT:
Đối với bất kỳ một NHTƯ nào, việc bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền bao giờ cũng là chức năng quan trọng nhất.Muốn hoàn thành tốt trọng trách này, NHTƯ phải điều hành CSTT thông qua các chính sách và công cụ. Ngoài các chính sách vĩ mô, thông thường NHTƯ các nước thường sử dụng 3 công cụ quan trọng nhất đó là: Nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu và dự trữ bắt buộc, trong đó nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ quan trọng nhất.
Sở dĩ nghiệp vụ thị trường mở được coi là quan trọng nhất trong điều hành CSTT của NHTƯ bởi vì nó là nhân tố quyết định đầu tưiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở của tiền tệ, ngoài ra nó còn thể hiện nhỡng ưu điểm nổi bật sau:
-Nghiệp vụ thị trường mở phát sinh theo ý tưởng chú đạo của NHTƯ trong đó NHTƯ hoàn toàn chủ động kiểm soát được khối lượng giao dịch. Tuy nhiên việc kiểm soát này là gián tiếp không nhận thấy được.
-Nghiệp vụ thị trường mở cũng có thể đạt được bằng cách mua hoặc bán một lượng nhỏ chứng khoán. Ngược lại, nếu có yêu cầu thay dổi dự trữ hoặc cơ sở tiền tệ ở quy mô lớn NHTƯ cũng có đủ khả năng đáp ứng được.
-Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng đảo chiều: Nếu NHTƯ có mắc phải sai sót nào đó trong qua trình thực hiện nghiệp vụ thị trường mở thì có thể ngay tức khắc sữa chữa sai sót đó.
-Nghiệp vụ thị trường mở có tính an toàn cao. Giao dịch trên thị trường mở hầu như khômg gặp rủi ro, xét trên góc độ của cả NHTƯ lẫn các NHTM bởi vì cơ sở bảo đảm cho các giao dịch trên thị trường mở đều là những giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao, không có rủi ro tài chính.
-Nghiệp vụ thị trường mở có thể thực hiện một cách nhanh chóng không vấp phải sự chậm trễ của các thủ tục tài chính.
Hiện nay, ở VN nghiệp vụ thị trường mở mới đi vào hoạt động chưa lâu, hàng hoá trên thị trường này còn rất hạn chế. Tuy nhiên việc xuất hiện nghiệp vụ thị trường mở là một bước tiến quan trọng trong tiến trình tới tự do hoá lịch sử ở nước ta. Từ nay, NHNN Việt nam có thêm một công cụ mới-công cụ quan trọng nhất trong điều hành chính sách tiền tệ ở nước ta.
III-Vai trò của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của CSTT:
1-Về lãi suất:
Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất ở VN có thể chia thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1986-1990, 1991-1995, 1996-8/2000, 8/2000 trở đi:
Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tiến tới tự do hoá lãi suất. Do trước đây chưa có mức lãi suất nào đóng vai trò chủ đạo, định hướng cho các TCTD ấn định mức lãi suất kinh doanh vì thế 5/8/2000 theo QĐ 241 của Thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng cơ chế lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có sự quản lý đối với cho vay bằng ngoại tệ.
Với cơ chế điều hành lãi suất mới này, về mặt bản chất cũng giống như cơ chế lãi suất trần bởi vì lãi suất cho vay bị khống chế bởi lãi suất cơ bản cộng với biên độ. Chỉ khác là nó mang tính hướng dẫn, chỉ đạo cho cácTCTD hình thành lãi suất hoạt động cho mình một cách dễ dàng hơn.
Ngày 29/5/2001 Thống đốc NHNN ra quyết định 718 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ. Theo đó các TCTD được quyền chủ động ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ trong nước. Đây là một bước đi tự tin, táo bạo và sáng suốt-đặt tiền đề hết sức quan trọng cho quá trình tự do hoá lãi suất ở Việt nam.
2-Về tỷ giá hối đoái:
Giai đoạn: Trước 3/1989, 3/1989-8/1981, 8/1981-1994, 10/1994-2/1999, từ 25/2/1999 đến nay.
Về bản chất thì chính sách tỷ giá hối đoái giai đoạn này cũng giống nhơ giai đoạn trước 2/1999, tuy nhiên điểm khác biệt ở đây là biên độ được điều chỉnh giảm từ7% xuống còn 0,1% và hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá liên ngân hàng của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các TCTD quy định tỷ giá mua và bán. Tức là tỷ giá liên NH mà NHNN công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN.
3-Về dự trữ bắt buộc:
Giai đoạn 3/1991-9/1995 và từ 9/1995 trở đi.
Kể từ khi ban hành QĐ240ngày19/9/1995 mức DTBB được tính chung cho tất cả các loại tiền gửi không phân biệt tiền gửi không kỳ hạn hay tiền gửi có kỳ hạn <12 tháng. Nếu so sánh các lần tăng giảm tỷ lệ DTBB với các mức lạm phát và lãi suất qua các năm ta thấy thời kỳ có lạm phát cao hay lãi suất cao cũng là lúc tỷ lệ DTBB được qua định ở mức cao,điều này cho thấy đã có sự phối hợp vận dụng công cụ tỷ lệ DTBB với các công cụ khác của CSTT trong điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước.
4-Về tái cấp vốn:
Trong giai đoạn trước 3/1997, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn theo lãi suất cho vay trên từng khế ước xin tái cấp vốn. Cính vì vậy mà lãi suất tái cấp vốn mang tính bị động và có sự phân biệt giữa các ngân hàng.
Kể từ 3/1997 cùng với việc hoàn thiện cơ chế lãi suất, lãi suất tái cấp vốn đã được xác lập một cách độc lập và đã thực sự trở thành công cụ tiền tệ được NHNN quan tâm trong việc điều tiết cung ứng tiền.
5-Về nghiệp vụ thị trường mở:
Thị trường mở ở nước ta chính thức hoạt động từ ngày 12/7/2000, tham gia thị trường này là NHNN, các TCTD. Tuy nhiên đến nayNHNN chỉ cấp phép hoạt động cho 12 thành viên, hàng hoá cho nghiệp vụ này còn rất hạn chế chủ yếu là tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN, tổng khối lượng của 2 loại tín phiếu này đang được các NHTM nắm giữ khoảng 3000 tỷ đồng trong có 1000tỷ là tín phiếu của NHNN, trong phiên giao dịch đấu thầu đầu tưiên đã có 300 tỷ đồng tín phiếu được mua-bán.
Trên thị trường mở, NHTƯ đặt ra yêu cầu mua-bán nên hoàn toàn chủ động tuỳ theo ý đồ can thiệp của họ. Ngoài ra thị trường mở còn cho phép không chỉ cung cấp vốn khả dụng cho giới NH mà còn rút ra khỏi thị trường tiền tệ. Điều đó cho phép NHTƯ kiểm soát tốt hơn lượng vốn khả dụng ngân hàng cũng như lãi suất trên thị trường.
PHẦN III : THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VIỆT NAM
Kể từ thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang hoạt động theo cơ chế thị trường, toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của NHNN đã được đổi mới sâu sắc và đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện CSTT từ hoạch định đến chỉ đạo thực hiện, bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu, đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ, lạm phát bị đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phục vụ phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Để có được kết quả đó, bản thân công tác hoạch định cà điều hành CSTT cũng trải qua không ít khó khăn, không ngừng được đổi mới để hoàn thiện.
I-Những thành quả đạt được từ hoạt động của chính sách tiền tệ:
1-Góp phần tăng trưởng kinh tế:
Để tăng trưởng kinh tế, tránh nguy cơ tụt hậu thì một trong những điều kiện cơ bản là các ngành kinh tế phải có vốn đầu tưư để phát triển sản xuất, kinh doanh. Kể từ khi có hai pháp lệnh ngân hàng cho đến nay, hệ thống ngân hàng đã không ngừng tăng cường và mở rộng nguồn vốn tín dụng để cung cấp vốn đầu tưư cho các DN và các hộ gia đình. Điều đó đã giúp nền kinh tế Việt nam nói chung cũng như từng ngành sản xuất nói riêng đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định trong nhiều năm. Xét trên giác độ vĩ mô thì thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ, NHNN đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tês ở hai khía cạnh:
Thứ nhất: Chính sách tiền tệ đã góp phần tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổ định để thu hút được nguồn vốn ddáng kể cho đầu tưư.
Thứ hai: Gián tiếp tạo vốn và kích thích đầu tưư để phát triển kinh tế.
Vai trò tạo vốn một cách gián tiếp của NHNN thể hiện như sau:
Do nguồn vốn trong nước để cung cấp cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng lấy từ hai nguồn vốn: Nguồn vay từ NHNN và nguồn huy động từ nền kinh tế.
Với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ của NHNN Việt nam những năm qua là “thắt chặt” cung tiền để chống lạm phát cho nên lãi suất cho vay chiết khấu thường ở mức cao buộc các TCTD phải có nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt để huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế. Bên cạnh đó, với việc sử dụng linh hoạt và mềm dẻo chính sách lãi suất trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, NHNN thực sự đã thành công trong vai trò người “cầm chịch” để các tổ chức tín dụng điều chỉnh mức lãi suất huy động một cách hợp lý. Mức lãi suất huy động trong từng thời kỳ có thể tăng giảm tuỳ theo diễn biến của nền kinh tế, nhưng cũng vừa đủ cho các TCTD có lợi nhuận trong kinh doanh tiền tệ đồng thời vẫn đủ hấp dẫn đối với người gửi tiền trong nước.
Nhờ những cố gắng đó của hệ thống ngân hàng mà nguồn vốn huy động từ trong nước đã tăng liên tục trong nhiều năm. Cùng với sự tăng lên của nguồn vốn huy động trong nước, nguồn vốn huy động từ nước ngoài cũng được hệ thống ngân hàng khai thác triệt để, nhằm đáp ứng chiến lược vốn phục vụ tăng trưởng kinh tế và CNH - HĐH đất nước.
Sau khi nhà nước ban hành luật đầu tưư nước ngoài ( tháng 12 - 1987 ) đã mở ra một triển vọng mới trong việc thu hút nguồn vốn đầu tưư trực tiếp của nước ngoài. Đặc biệt từ năm 1993 đến nay, nhờ khai thông tín dụng với quỹ tiền tệ quốc tế và các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới, NHNN Việt nam đã đàm phán, ký kết được nhiều hiệp định tín dụng quan trọng cho các dự án phát triển kinh tế.
Có thể nói rằng: Những thành tựu đổi mới của nền kinh tế nói chung và của hệ thống ngân hàng nói riêng đã đủ sức thuyết phục các tổ chức tiền tệ ngân hàng thế giới mở rộng quan hệ hợp tác với Việt nam. Nhờ đó mà trong nhiều năm qua nền kinh tế Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Riêng năm 1998, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà nền kinh tế Việt nam đạt tỷ lệ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 1992 đến nay, sau năm 1999 tốc độ tăng trưởng có xu hướng chậm lại ở một số ngành. Đặc biệt nền kinh tế có dấu hiệu giảm phát. Đây là một nguy cơ kìm hãm sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy liên tiếp trong những tháng gần đây, Thống đốc NHNN Việt nam đã ra các quyết định, chỉ thị nhằm hạ trần lãi suất, giảm lãi suất cho vay chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD. Mục đích của các biện pháp này là nhằm ‘ nới lỏng’ cung tiền để khuyến khích đầu tưư, từ đó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng trở lại.
2- Góp phần làm giảm lạm phát:
Trước hết phải thừa nhận một sự thật là: trong nhiều năm qua NHNN Việt nam đã đóng vai trò chủ chốt trong việc ổn định sức mua đối nội và đối ngoại của đồng tiền Việt nam, góp phần ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát, phục vụ sự tăng trưởng kinh tế.
Trong thời kỳ 1986 - 1988, nền kinh tế Việt nam lâm vào tình trạng lạm phát phi mã, lòng tin của nhân dân vào đồng tiền - biểu tượng cho uy tín của chính phủ bị giảm sút. Nhưng cho đến nay, sau gần một thập kỷ tiến hành đổi mới bằng việc áp dụng một loạt các biện pháp tích cực ( thực hiện hai pháp lệnh ngân hàng, thực thi các công cụ của CSTT một cách linh hoạt, phù hợp với từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể ). NHNN đã dần dần lấy lại lòng tin của nhân dân vào đồng Việt nam, vào công cuộc đổi mới của Đảng. Có được lòng tin đó là nhờ nền kinh tế Việt nam đang đi dần vào thế ổn định. Tỷ lệ lạm phát trong nhiều năm liền được kiềm chế ở một con số ( từ năm 1992 - 1998: bình quân là 9,6%/năm ), giá trị của Việt nam đồng được coi là khá ổn định trong khu vực. Chính sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô như trên, một mặt đã thu hút được nguồn vốn đáng kể từ trong nước và nước ngoài, mặt khác cũng khuyến khích các nhà đầu tưư mở rộng sản xuất kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế.
Như vậy việc đổi mới hệ thống ngân hàng đã tạo điều kiện cho ngân hàng nhà nước thông qua các công cụ của CSTT để chỉ đạo, hướng dẫn toàn bộ hệ thống ngân hàng thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động vốn phục vụ cho quá trình phát triển nền kinh tế đất nước, góp phần quan trọng vào việc đưa nền kinh tế Việt nam cùng một lúc đạt được hai chỉ tiêu kinh tế vĩ mô lớn là đẩy lùi lạm phát mà vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng cao. Đây là một minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối đổi mới kinh tế nói chung và vận hành có hiệu quả CSTT của hệ thống ngân hàng nói riêng.
3-Góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác:
Ngoài những thành tựu kể trên, quá trình thực thi CSTT của hệ thống ngân hàng Việt nam những năm qua còn góp phần đáng kể vào qúa trình thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội khác như: chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm...
Trong những năm qua cơ cấu kinh tế Việt nam đã và đang chuyển dịch theo chiều hướng tiến bộ. Xét về cơ cấu kinh tế thì các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng mở rộng, trong khi thành phần kinh tế nhà nước vẫn giữ vị trí quan trọng ở các ngành, các khâu then chốt. Xét về cơ cấu ngành thì tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong tổng GDP của xã hội, trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp ngày càng giảm một cách tương đối. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói trên có sự đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng. Bởi vì ở thời kỳ bao cấp, nguồn vốn đầu tưư cho nền kinh tế của ngân hàng tập trung tới > 90% cho kinh tế quốc doanh, 10% cho kinh tế tập thể và hầu như không cho vay cá thể. Nhưng đến nay hoạt động tín dụngđã có sự thay đổi lớn. Bằng việc ban hành các văn bản pháp quy, NHNN đã hướng dẫn các TCTD thực hiện cho vay đối vơi mọi thành phần kinh tế không phân biệt đối xử. Tỷ trọng cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng dần. Bên cạnh đó NHNN còn có văn bản hướng dẫn các TCTD ưu tiên đầu tưư tín dụng vào các ngành trọng điểm, mũi nhọn có lợi thế nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành.
Việc mở rộng vốn đầu tưư cho mọi thành phần kinh tế không những thúc đẩy nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong khoảng thời gian dài, mà còn tạo ra nhiều việc làm cho xã hội. Theo báo cáo thống kê thì những năm gần đây, Việt nam có tỷ lệ tạo việc làm nhanh hơn tốc độ tăng dân số, vì vậy tỷ lệ thất nghiệp có chiều hướng giảm đi.
Rõ ràng, thông qua việc mở rộng đầu tưư tín dụng cho các thành phần kinh tế, tạo điều kiện để mở rộng sản xuất kinh doanh thì hệ thống ngân hàng đã gián tiếp tạo công ăn việc làm cho người lao động.
II- Những khó khăn và tồn tại từ hoạt độngcủa chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ giữ vai trò quan trọng trong việc quản lý, điều tiết nền kinh tế thị trường.Trong những năm qua,việc quản lý,điều hành CSTT có nhiều chuyển biến tích cực,góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy kinh tế tăng trởng và phát triển nhất là trong điều kiện tác động nhiều mặt của cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực vào nền kinh tế nước ta.Tuy nhiên, bên cạnh những mặt được việc quản lý, điều hành CSTT trong thời gian qua ở nước ta đang nổi lên một số vấn đề cần được quan tâm giải quyết.
Mặc dù không nằm trong “tâm điểm” của cơn bão tiền tệ Đông Nam á, nhng thời gian gần đây diễn biến kinh tế phức tạp và ảm đảm của hàng loạt các nước trong và cận kề ngoài khu vực cho phép khẳng định Việt Nam cũng khó có thể thoát khỏi vòng xoáy tụt dốc “đô mi nô” về tăng trởng kinh tế đang diễn ra ít nhất là trong vòng 2-3 năm kể tờ cuối năm 1997
1) Biểu hiện của sự khó khăn đó được thể hiện:
Thứ nhất: Tổng nguồn vốn huy động và mức dư nợ cho vay nền kinh tế tăng chậm, tốc độ huy động vốn tăng nhanh hơn dư nợ
Vốn giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, đổi mới kỹ thuật và công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.Có tới 70% sản lượng vốn đầu tưư nước ngoài và 60% kim ngạch thương mại của Việt nam là nhờ quan hệ với các quốc gia Châu á.Việt nam đang chịu ảnh hưởng chủ yếu bởi sự sụt giảm đáng kể trong đầu tưư nước ngoài trực tiếp và tụt giảm nhu cầu xuất khẩu chung
Ngoài nguyên nhân do ảnh hưởng khủng hoảng tiền tệ, sự sụt giảm đầu tưư nước ngoài vào Việt nam còn bắt nguồn sâu xa từ môi trường đầu tư chưa đủ hấp dẫn, trong khi rủi ro đầu tư tiếp tục gia tăng cùng với mức độ khắc phục chậm về hiệu quả thấp và sức cạnh tranh yếu tố của sản xuất kinh doanh nội địa.Hiện tượng thiếu lành mạnh trong hệ thống tài chính-tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính sách vĩ mô trong đó CSTT cũng bộc lộ khá sớm, đe doạ sự ổn định kinh tế về trung,dài hạn ngay cả trước khi khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực chưa nổ ra.
Thứ hai: Tỷ lệ tín dụng trung,dài hạn tăng và không tương xứng với tốc độ tăng nguồn huy động các loại vốn này.
Vốn trung, dài hạn giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong việc gia tăng đầu tư, tăng năng lực sản xuất-kinh doanh trong nền kinh tế.Năm 1998,tỷ lệ cho vay trung, dài hạn của hệ thống ngân hàng nước ta tăng nhanh, chiếm 42% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế, chủ yếu tập trung đầu tư cho các công trình thực hiện theo kế hoạch nhà nước. Việc sử dụng một phần vốn vay ngắn hạn để cho vay trung,dài hạn là cần thiết, đáp ứng một phần nhu cầu vốn đầu tư trong nền kinh tế nhưng tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung dài hạn phải được tính toán cân nhắc thận trọng, bảo đảm khả năng thanh toán,an toàn hoạt động của từng ngân hàng cũng như của toàn hệ thống
Thứ ba: Việc xử lý mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái
Các công cụ điều hành CSTT chưa được hoàn chỉnh theo cơ chế thị trường và còn ở dạng sơ khai, yêu cầu kiện toàn chính sách lãi suất trong mối tương quan chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp vẫn chưa được xử lý tốt.
Việc quy định “trần” lãi suất đã và đang gây trở ngại cho mở rộng tín dụng một cách tích cực.Vẫn còn nhiều mức lãi suất “trần” và mặt bằng lãi suất chung chưa phản ánh linh hoạt quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế,chưa bao quát đủ mức rủi ro tiền tệ thông thường. Lãi suất cho vay cuối cùng còn cao,kinh doanh của hầu hết các NHTM bị gò bó, thiếu chủ động tự chủ. Nguồn vốn tín dụng còn hạn hẹp,mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng,cho vay còn rải mảnh,phân tán dẫn đến hiệu quả thấp.
Hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển sôi động, chưa trở thành giao điểm hội đủ và định hướng chuyển dịch các dòng vốn nhàn rỗi giữa các NHTM. Chưa có những điều kiện căn bản để từng bước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái. NHNN chưa thực sự là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế,các giao dịch ngoại tệ chính thức bị gò bó,chi phối chưa mạnh và kịp thời với biến động tỷ giá hối đoái thị trường.
Thứ tư: Mặc dù chính phủ đã thực hiện nhiều giải pháp để tăng cường quản lý,kiểm soát hoạt động ngân hàng,xử lý nợ quá hạn nhưng chất lượng tín dụng vẫn ở mức thấp.
Việc nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng có ý nghĩa sống còn trong cạnh tranh,trong việc củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng,không ngừng nâng cao vai trò của nó trong việc góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã hội.
Đến ngày 31/12/1998, tổng dư nợ quá hạn chiếm 12,5% tổng dư nợ cho vay, trong đó nợ quá hạn của một số NHTM cổ phần chiếm tỷ lệ cao có nguy cơ gây mất an toàn trong hệ thống ngân hàng và tác động xấu đến đời sống kinh tế-xã hội.
Mặt khác,sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng nợ nước ngoài chồng chất như:bội chi ngân sách còn cao luôn tạo ra những áp lực từ nhiều phía đe doạ tính ổn định,độc lập tương đối của CSTT mà bước đầu đã tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây.
Thâm hụt cán cân vãng lai chủ yếu phải bù đắp bằng “nhập khẩu” vốn là nguyên nhân chính gây ra nạn “đô la hoá” khiến VND bị định giá quá cao,kích thích tâm lý tích trữ giá trị dưới dạng ngoại tệ,không gian tiền tệ bị méo mó.
Trong khi đó,sự nôn nóng uốn nắn một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng,qua lãi suất ưu đãi. Đó là những trở ngại không dễ dỡ bỏ trong quá ttrình hoàn thành CSTT hiện nay.
Thứ năm: Quá ttrình thực thi CSTT còn thiếu sự kết hợp giữa hệ thống ngân hàng và các cơ quan hữu quan khác.
Là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô,CSTT có liên quan trực tiếp tới nhiều biến số kinh tế thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau.Điều đó đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa hệ thống ngân hàng với cơ quan hữu quan khác trong quá trình hoạch định và thực thi CSTT
Ở Việt nam,quá trình thực thi CSTT những năm vừa qua của hệ thống ngân hàng vẫn còn thiếu sự hợp tác của các cơ quan hữu quan hay các bộ, ngành liên quan. Chính điều này đã phần nào hạn chế hiệu lực của CSTT đối với quá trình điều tiết kinh tế vĩ mô.
Để có thể thiết kế CSTT một cách khoa học và phù hợp với điều kiện thực tế, trước hết các số liệu thông tin về tình hình kinh tế của đất nước phải được cung cấp đầy đủ,kịp thời và chính xác. Ở Việt nam,các số liệu mà các ngành, các cơ quan cung cấp thiếu thống nhất và nhiều khi chưa chính xác, đặc biệt là những số liệu phục vụ cho việc lập và dự báo cán cân thanh toán quốc tế.
Những năm vừa qua, nguồn vốn tín dụng cung cấp cho nền kinh tế của hệ thống ngân hàng còn bị thất thoát nhiều. Một phần do thiếu sót chủ quan của ngành ngân hàng, mặt khác do các bộ, ngành liên quan còn buông lỏng vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh cuả ngành mình.Ngoài ra,cũng có trường hợp những văn bản điều hành hoạt động tiền tệ tín dụng của ngân hàng và những văn bản khác của các bộ, ngành có liên quan có những sự chồng chéo,mâu thuẫn tạo ra những lực cản vô hình đối với quá trình thực thi CSTT những năm vừa qua.
2) Những tồn tại khác trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ:
Trong quá trình đổi mới kinh tế nói chung và chính sách tài chính-tiền tệ nói riêng,thu chi ngân sách của chính phủ Việt nam đã có những cải thiện đáng kể.Tuy nhiên,thâm hụt ngân sách vẫn triền miên và ở mức cao.Nguồn bù đắp thiếu hụt ngân sách từ việc vay dân rất hạn chế.Phần còn lại, chính phủ phải vay từ nước ngoài và vay từ NHNN Việt nam.
Trong những năm qua,căn bệnh giảm phát đã tăng mạnh.Từ đầu năm1999 với triệu chứng rõ nhất là sức mua nội địa giảm sút, hàng hoá tồn đọng lớn, xuất khẩu tăng chậm lại,chỉ số giá cả xuống rất thấp(suốt 9 tháng đầu năm 1999 chỉ tăng 0,2%) trong lúc tăng trởng kinh tế giảm mạnh, đang đặt ra những thử thách lớn cho việc tìm đối sách đồng bộ, hữu hiệu để khắc phục những khó khăn nội tại và đối phó với ảnh hưởng khủng hoảng từ bên ngoài dội vào.
Ngoài ra quá ttrình thực thi CSTT của hệ thống ngân hàng đôi khi còn thiếu tính tự chủ. Là cơ quan của chính phủ đóng tại các địa phương,các ngân hàng phần nào đó phải chịu sự giám sát của cơ quan chính quyền địa phương.Cũng có nhiều trường hợp,vì lợi ích của địa phương nên chính quyền sở tại có thể can thiệp vào hoạt động của ngành ngân hàng,đặc biệt là trong công tác thẩm định dự án đầu tư tại địa phương, chính sự “nhợng bộ ngầm” này nhiều khi làm cho ngân hàng đầu tư vào các dự án không có hiệu quả làm hạn chế phần nào hiệu lực điều hành CSTT của NHNN
Những hạn chế trên đây chứng tỏ quá trình thựcthi CSTT của Việt nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn cần phải tiếp tục bổ sung và hoàn thiện.Có như vậy thì CSTT mới thực sự phát huy được vai trò điều tiết vĩ mô trong nền kinh tế thị trường.
PHẦN IV: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
I- Những quan điểm định hướng hoàn thiện:
Là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước,là linh hồn của hoạt động NHNN,mục tiêu lâu dài của CSTT là duy trì sự ổn định và nâng cao dần giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt nam,tiến tới đa đồng Việt nam trở thành đồng tiền có khả năng chuyển đổi,từ đó tạo sự ổn định trong hệ thống tài chính của việt nam.
Để khắc phục những khó khăn tồn tại nhằm thực hiện được các mục tiêu trớc mắt cũng nh lâu dài, việc hoàn thiện CSTT cần đi theo các định hớng sau:
Việc hoạch định và thực thi CSTT một mặt phải hoà nhập và thích nghi nhanh với cơ chế thị trường,đồng thời phải nhanh chóng hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế,với những thông lệ chung của thế giới.Mặt khác,quá trình hoạch định và thực thi CSTT vẫn phải giữ gìn tính độc lập,tính đặc thù của Việt nam là vận động theo định hớng XHCN, theo đờng lối đổi mới mà Đảng và nhà nước đã vạch ra.
Chủ động hoạch định và thực thi CSTT trong mối quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác nh: chính sách tài chính,chính sách thu nhập,chính sách thơng mại…để các chính sách này thực sự bổ sung,hỗ trợ lẫn nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp trong quá trình thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô
Đặc biệt,trong hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô,phải đảm bảo CSTT và chính sách tài chính luôn thống nhất với nhau về mục tiêu và đồng bộ với nhau về phơng pháp điều hành.Có nh vậy thì các chính sách này mới thực sự trở thành công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô hữu hiệu.
Điều tiết và kiểm soát có hiệu quả khối lợng tiền cung ứng,đảm bảo cung cấp đầy ẩu phơng tiện thanh toán cho nền kinh tế tức là đảm bảo sự thích ứng giữa tổng cung và tổng cầu về tiền tệ.
Tại hội nghị TƯ làn thứ nhất,Ban chấp hành TƯ Đảng CSVN đã có sự điều chỉnh nhất quán về sách lợc, biện pháp chỉ đạo nền kinh tế với nhiệm vụ xuyên suốt là phát triển nông nghiệp-nông thôn,coi đây là bệ phóng để đẩy tới một bớc CNH-HĐH nền kinh tế ở thập niên 2000-2010 với tầm nhìn 2020.Theo đó sẽ có sự chuyển dịch căn bản về cơ cấu đầu tư,dành vốn u tiên đầu tư nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt,mũi nhọn của nền kinh tế.
Để tiếp tục ổn định tiền tệ trong điều kiện lạm phát thấp,trớc hết cần có sự tập trung cải thiện cơ bản NSNN, giảm thiểu mức thâm hụt, tiết kiệm triệt để tiêu dùng phi sản xuất để tăng tỷ phần tích luỹ, dành vốn đầu tư phát triển kinh tế ở tát cả các khu vực nhà nước,doanh nghiệp và dân c.
Khẩn trơng chấn chỉnh hệ thống ngân hàng,nâng cao chất lượng và đảm bảo an toàn hoạt động tín dụng.Chủ động hoàn thiện tiếp chế độ tỷ giá hối đoái và lãi suất ngân hàng thao hớng từng bớc thả nôỉ có điều tiết và tự do hoá có chọn lọc.Có phơng án bảo toàn giá trị tiền gửi gắn liền với kiện toàn hệ thống thanh toán qua ngân hàng.Hoàn thành dứt điểm xở lý nợ nần dây da khu vực tài chính công,giải toả tài sản thế chấp vay ngân hàng đóng băng,đẩy mạnh cơ cấu vốn, tài sản ngân hàng.Bên cạnh đó nhà nước sẽ hỗ trợ vốn ban đầu tưhành lập quỹ bảo lãnh tín dụng và các hình thức bảo đảm đầu tư khác để tạo thuận lợi cho mọi DN vừa và nhỏ,các hộ nông dân dễ dàng tiếp cận các nguồn vay và sử dụng vốn một cách an toàn, hiệu quả.
Thờng thì các vấn đề liên quan đến CSTT hiếm khi giải quyết được triệt để,đặc biệt đối với nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi nh Việt nam.Sự đan xen phức tạp của CSTT với các chính sách kinh tế vĩ mô khác trong bối cảnh nền kinh tế khó khăn hơn trớc có thể đa đến những thay đổi về ngắn hạn,kèm theo những thoả hiệp, nhân nhợng tình thế trong điều hành chính sách.Tuy nhiên về trung-dài hạn,mục tiêu cuối cùng và mục tiêu trung gian vẫn phải được tuân thủ nghiêm ngặt.Đặc biệt là việc hoàn thiện chính sách tiến tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hế thống các công cụ thực thi CSTT của NHNN, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh,đổi mới,hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hiện nay.
Giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ:
Để hoàn thiện chính sách tiền tệ theo các định hướng đã đề ra phải thực hiện đồng thời nhiều giải pháp và ta có thể chia thành hai nhóm sau:
Nhóm giải pháp liên quan đến thể chế:
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống ngân hàng:
Việc hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt nam trong thời gian tới không thể tách rời quá trình hoàn thiện hệ thống ngân hàng nói chung và bộ máy tổ chức, điều hành của ngânhàng nhà nước nói riêng. Bởi lẽ, hệ thống ngân hàng- trước hết là bộ máy tổ chức ngân hàng trung ương tương đối độc lập, lành mạnh và vững chắc- là yếu tố đầu tưiên đảm bảo tính hiệu lực của chính sách tiền tệ.
Mục tiêu xuyên suốt trong chiến lược đổi mới và hòan thiện hệ thống ngân hàng những năm cuối thế kỷ XX đầu tưhế kỷ XXI là “phải tạo lập được một hệ thống ngân hàng đủ mạnh cả về năng lực hoạch định và thực thi chính sách, năng lực quản lý, năng lực điều hành kinh doanh,đủ mạnh về trình độ công nghệ và kỹ thuật hiện đại để thích ứng với cơ chế thị trường, trở thành công cụ phục vụ đắc lực cho mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước và sớm hội nhập vào cộng đồng tài chính quốc tế.
Trong quá trình điều hành chính sách tiền tệ, ngân hàng nhà nước cần tìm ra điểm dung hoà giữa các mục tiêu của chính sách tiền tệ,để đi đến chỗ kết hợp hài hoà các mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Do giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô như: Tăng trưởng, lạm phát và công ăn việc làm đôi khi có mâu thuẫn với nhau. Vì vậy trong quá trình điều hành kinh tế vĩ mô nói chung và chính sách tiền tệ nói riêng, không nên cực đoan một phía, nhấn mạnh một chiều. Nếu có sự ổn định giá cả, ổn định tiền tệ mà nền kinh tế chỉ dậm chân tại chỗ, không phát triển được thì sự ổn định đó coi như vô nghĩa, lại rất mong manh và sẽ mất đi nhanh chóng.
Ngược lại, nếu tăng trưởng mà không ổn định thì sẽ mất đi điều kiện để phát triển, sẽ dẫn đến tình trạng kinh tế hỗn loạn và thậm chí còn thụt lùi. Vì vậy tìm ra điểm dung hoà giữa các mục tiêu không chỉ là kỹ thuật, mà còn là nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước.
Việt nam là một nước nghèo quá độ lên sản xuất lớn. Tăng trưởng nhanh và bền vững là lối thoát duy nhất để tránh nguy cơ tụt hậu, nhưng bên cạnh đó nền kinh tế Việt nam vừa đi qua cuộc khủng hoảng, còn nhiều bất ổn và tiềm ẩn lạm phát cao, thì ổn định cũng là mục tiêu rất quan trọng. Vấn đề đặt ra là trong quá trình thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ, ngânhàng nhà nước phải tìm ra điểm dung hoà để vừa đảm bảo kiềm chế lạm phát, vừa đưa nền kinh tế Việt nam tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao.
Để tìm được điểm dung hoà thì cần phải có sự điều chỉnh của ngân hàng nhà nước ở bình diện vĩ mô. Tuỳ từng thời gian, hoàn cảnh cụ thể mà sự điều chỉnh từng mục tiêu là cần thiết và không đồng đều như nhau.Nhưng phải quán triệt nguyên tắc: Các mục tiêu ngắn hạn phải phục vụ cho mục tiêu dài hạn, còn mục tiêu dài hạn phải chi phối các mục tiêu ngắn hạn. Ngân hàng nhà nước phải tập trung vào việc nhấn mạnh tăng trưởng kinh tế và toàn dụng nhân công, tuy nhiên vẫn chú ý đến việc kiềm chế lạm phát. Đây chính là điểm dung hoà giữa các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều này chứng tỏ nghệ thuật điều hành chính sách tiền tệ là làm sao tạo ra sức tác động tối đa ddến mục tiêu chủ yếu nhất, trong khi không làm tổn hại quá mức đến mục tiêu khác của toàn bộ hệ thống kinh tế vĩ mô.
Sử dụng linh hoạt và mềm dẻo các công cụ điều tiết của chính sách tiền tệ. Nói đến công cụ của chính sách tiền tệ thì dù ở nước nào cũng đều có các công cụ giống nhau, cũng là: Lãi suất, cho vay chiết khấu, dự trữ bắt buộc và nghiệp vụ thị trường mở…Sự khác nhau chỉ là ở cách sử dụng các công cụ linh hoạt và mềm dẻo ở mức độ nào để đối phó với những biến động bất thường của nền kinh tế. Mục đích chủ đạo, lâu dài của Việt nam trong kinh tế vĩ mô là hướng tới sự tăng trưởng cao và bền vững.
Các công cụ của chính sách tiền tệ thường được sử dụng là: Duy trì nguyên tắc lãi suất thực dương, quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc phù hợp đối với các tổ chức tín dụng, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái ổn định…Tuy nhiên nếu những công cụ trên được sử dụng một cách cứng nhắc sẽ gây tác động xấu đối với những mục tiêu ngắn hạn và những biến động bất thường có thể xảy ra. Vì vậy, lãi suất dương đến mức độ nào để hiệu quả chống lạm phát không ảnh hưởng đến đầu tưư của đất nước hoặc tỷ giá hối đoái ổn định nhưng khi cần thiết thì phải phá giá để tạo động lực kích thích xuất khẩu…Là thể hiện sự mềm dẻo, linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ. Làm được như vậy, ngân hàng nhà nước sẽ thực sự thành công trong vai trò người điều tiết kinh tế vĩ mô.
Nâng cao hơn nữa tính độc lập tương đối của ngân hàng nhà nước Việt nam trong việc họach định và thực thi chính sách tiền tệ.
Thể hiện ở sự thống nhất và đồng bộ của các bộ luật, văn bản pháp quy có liên quan mà chính phủ đã ban hành, từ đó đảm bảo tính hiệu lực của hai Bộ luật ngân hàng cũng như toàn bộ hệ thống văn bản pháp quy của ngành.
Việc xây dựng và ban hành các văn bản dưới luật bổ sung cho hai luật cần được thực hiện nhanh chóng và kịp thời. Điều này cũng không kém phần quan trọng, bởi lẽ sau khi hai Bộ luật ngân hàngcó hiệu lực thì không những hai pháp lệnh ngân hàng mà cả một số văn bản pháp luật kèm theo cũng hết hiệu lực. Tuy ngân hàng đã có nhiều văn pháp quy mới ban hành nhưng chưa đầy đủ. Vì vậy, hiện nay trong hệ thống văn bản pháp luật ngân hàng vẫn có nhiều chỗ bị “bỏ ngỏ” bởi chưa có văn bản thay thé hoặc nếu có thì cũng chưa có nghị định, hướng dẫn cụ thể.
Khi hành lang pháp lý chưa đầy đủ thì hoạt động tiền tệ- ngân hàng nói chung và quá trình thực thi chính sách tiền tệ nói riêng vẫn nằm trong thế bất ổn. Vì vậy, trong những năm trước mắt, việc hoàn thiện bổ sung triển khai có hiệu quả hệ thống văn bản pháp luật của ngành ngân hàng là những việc cần làm ngay, góp phần nâng cao hiệu lực điều tiết vĩ mô của chính sách tiền tệ quốc gia.
Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ:
Yêu cầu nâng cao hiệu lực và chất lượng của quá trình thực thi chính sách tiền tệ đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ. Những năm trước mắt, phải tạo ra được hệ thống công cụ bám sát và phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới chính sách tiền tệ.
Để thực hiện được việc này,nhà nước cần kiên trì với chủ trương sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ theo định hướng thị trường, tức điều tiết các hoạt động kinh tế qua thị trường hay nói cách khác là nhà nước can thiệp thị trường đẻ thị trường điều tiết các hoạt động kinh tế, Muốn vậy:
+ Cần theo dõi, bám sát diễn biến thị trường để có sự điều chỉnh lãi suất cơ bản và biên độ phù hợp làm cho lãi suất cơ bản thực sự đóng vai trò là tín hiệu để điều tiết lãi suất thị trường. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết để bỏ biên độ của lãi suất cơ bản, tiến tới tự do hoá lãi suất đồng Việt nam.
+ Thực hiện điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn phù hợp với diễn biến thị trường. Về nguyên tắc lãi suất tái cấp vốn phải là lãi suất cao nhất và lãi suất tiền gửi của các ngân hàng thương mại phải là lãi suất thấp nhất. Bên cạnh đó cần sử dụng linh hoạt lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất đấu thầu trái phiếu và tín phiếu.
+ Cần sử dụng một cách linh hoạt tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo tín hiệu thị trường nhằm tác động tới việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán và kích thích tăng trưởng tín dụng tác động tới diễn biêns lãi suất thị trường theo định hướng điều hành chính sách tiền tệ. Thời gian tới ngân hàng nhà nước cần giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với đồng ngoại tệ để tăng nguồn huy động ngoại tệ đối với các ngân hàng thương mại, nhằm giảm tình trạng găm giữ ngoại tệ trong dân và các tổ chức kinh tế.
+ Cần hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở bằng việc rà soát lại quy chế về nghiệp vụ thị trường mở nhằm mở rộng thời hạn còn lại của các chứng từ có giá, từ đó tạo điều kiện để cung ứng vốn cho các tổ chức tín dụng, qua đó các tổ chức tín dụng có điều kiện can thiệp tốt hơn vào thị trường để ổn định tỷ giá.
Mặt khác, ngân hàng nhà nước cũng cần thay đổi quy chế đẻ mở rộng đối tượng nhằm tăng số lượng thành viên tham gia, đa dạng hoá hàng hoá được mua-bán trên thị trường để nghiệp vụ thị trường mở hoạt động sôi động hơn.
+ Theo dõi sát các diễn biến trên thị trường tiền tệ để có biện pháp xử lý kịp thời. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ cần hướng tới: “phối hợp hài hoà các công cụ trực tiếp và gián tiếp theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, có tác động tích cực tới thị trường nhằm hạn chế những tác động tiêu cực do ảnh hưởng của thị trường tài chính quốc tế”.
Như vậy, từ thực tế hoạt động của chính sách tiền tệ Việt nam, với những định hướng và giải pháp đồng bộ, có hiệu quả nhằm giúp ngân hàng nhà nước điều hành, thực thi các công cụ của chính sách tiền tệ nhằm đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tưư phát triển. Từ đó bảo đảm cho sự phát triển an toàn, lành mạnh của thị trường tài chính- tiền tệ trong toàn bộ nền kinh tế.
KẾT LUẬN:
Chính sách tiền tệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt nam nói riêng.Nó được Chính phủ mà trước hết là ngân hàng trung ương các nước sử dụng làm công cụ tác động vào các biến số kinh tế vĩ mô nhằm đạt được những mục tiêu nhất định.
Bước sang thế kỷ XXI-Mở ra một kỷ nguyên mới trong tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế. Yêu cầu đặt ra là phải hoàn thiện và thực thi chính sách tiền tệ một cách có hiệu quả nhất.
Để hoàn thiện chính sách tiền tệ, trước hết phải xác định đúng mục tiêu và định hướng của nó trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Từ đó có những giải pháp đồng bộ vừa cải tiến, hoàn thiện những yếu tố sẵn có, vừa phát triển bổ sung những yếu tố mới, chấn chỉnh, loại bỏ những yếu tố cũ, lạc hậu. Quá trình này đòi hỏi sự nỗ lực, phấn đấu kiên trì không những của ngân hàng nhà nước mà của cả hệ thống ngân hàng.
Đồng thời đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành có liên quan trong quá trình thực hiện những mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Đặc biệt việc hoàn thiện chính sách tiền tệ sẽ lệ thuộc nhiều vào khả năng tiếp cận và vận dụng hệ thống các công cụ thực thi chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, gắn liền với quá trình tiếp tục đẩy mạnh, đổi mới, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng hiện nay.
Có thể nói nghiên cứu đề tài về chính sách tiền tệ là một vấn đề rất rộng lớn và nó liên quan đến nhiều khía cạnh của các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Vì vậy, trong phạm vi bài viết này em không thể chi tiết hết được các nội dung của CSTT mà chỉ nêu lên moọt số hiểu biết của mình và ý kiến đề xuất về việc hoàn thiện chính sách tiền tệ
Do đây là một lĩnh vực lớn và phức tạp nên bài viết của em có thể gặp nhiều hạn chế. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn để em cô điều kiện nâng cao kiến thứcvà hoàn thiện bài viết của mình hơn. Qua đây em xin cảm ơn cô giáo Vũ thị Lợi- người trực tiếp giảng dạy bộ môn Ngân hàng trung ương, đã giúp em có vốn kiến thức để hoàn thành bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
Giáo trình môn học Ngân hàng trung ương
( Học viện ngân hàng )
Tạp chí tài chính số 2, 4 năm 2000
Tạp chí ngân hàng số 9, 14 năm 1999
số 9 năm 2000
số 4, 5, 6, 8 năm 2001
Chính sách tiền tệ và sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng trung ương ở các nước đang phát triển
( Lê Vinh Danh)
LỜI MỞ ĐẦU: 1
PHẦN I: 2
VAI TRÒ CỦA NHNN TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ. 2
I-MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 2
1/ KHÁI NIỆM: 2
2/ CÁC MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 3
2.1:MỤC TIÊU CUỐI CÙMG: 3
2.1.1: ỔN ĐỊNH GIÁ CẢ: 3
2.1.2: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CAO: 3
2.1.3 TẠO CÔNG ĂN VIỆC LÀM: 5
2.1.4) ỔN ĐỊNH THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH 5
2.2) MỤC TIÊU TRUNG GIAN: 6
2.3) MỤC TIÊU HOẠT ĐỘNG 7
II- VAI TRÒ CỦA NHTƯ TRONG XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN CSTT: 7
III- SỰ LỰA CHỌN GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 10
1/ CSTT LẤY TỈ GIÁ HỐI ĐOÁI LÀM MỤC TIÊU: 10
2/ CSTT LẤY CÁC ĐẠI LƯỢNG TIỀN TỆ LÀM MỤC TIÊU: 11
3/ CSTT LẤY LẠM PHÁT LÀM MỤC TIÊU: 12
4/ CHÍNH SÁCH VỚI MỘT MỐC NEO DANH NGHĨA ẨN: 14
PHẦN II : VẬN DỤNG HỆ THỐNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ HIỆN NAY 15
I/ CÔNG CỤ TRỰC TIẾP: 16
1-HẠN MỨC TÍN DỤNG: 16
2- CÔNG CỤ LÃI SUẤT: 18
II. CÔNG CỤ GIÁN TIẾP: 18
1-DỰ TRỮ BẮT BUỘC: 19
2-CÔNG CỤ CHO VAY CHIẾT KHẤU: 21
3. CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ: 22
II) SỰ LỰA CHỌN CÔNG CỤ TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNHCSTT: 26
III-VAI TRÒ CỦA NHNN TRONG VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CỦA CSTT: 28
1-VỀ LÃI SUẤT: 28
2-VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI: 28
3-VỀ DỰ TRỮ BẮT BUỘC: 29
4-VỀ TÁI CẤP VỐN: 29
PHẦN III : THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG TỒN TẠI TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VIỆT NAM 31
I-NHỮNG THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TỪ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 31
1-GÓP PHẦN TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ: 31
2- GÓP PHẦN LÀM GIẢM LẠM PHÁT: 33
3-GÓP PHẦN THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ XÃ HỘI KHÁC: 34
II- NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ TỒN TẠI TỪ HOẠT ĐỘNGCỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 35
1) BIỂU HIỆN CỦA SỰ KHÓ KHĂN ĐÓ ĐƯỢC THỂ HIỆN: 35
2) NHỮNG TỒN TẠI KHÁC TRONG QUÁ TRÌNH ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 39
PHẦN IV: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 40
I- NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HưỚNG HOÀN THIỆN: 40
II- GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 42
1- NHÓM GIẢI PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN THỂ CHẾ: 42
2- NHÓM GIẢI PHÁP LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ: 45
KẾT LUẬN: 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO: 49
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0642.doc