Thực tiến nước ta và kinh ngiệm quốc tế những năm vừa qua cho thấy giá, chính sách tỷ giá với tư cách là công cụ điều chỉnh vĩ mô có vai trò ngày càng lớn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, nhất là trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Là một quốc gia đang tiến hành cải cách mở cửa kinh tế ( trong đó chỉ riêng kim ngạch buôn bán với nước ngoài đã đạt tới gân 60% GDP) và hội nhập ngày càng đầy đủ vào hợp tác kinh tế quốc tế, chúng ta không thể không quan tâm đúng mực với vấn đề tỷ giá hối đoái.
39 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1625 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chính sách tỷ giá và tác động của nó tới hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à việc nâng giá sức mua của đồng tiền bản tệ .Việc nâng giá sức mua của bản tệ với ngoại tệ thường xảy ra trong các trường hợp sau :
-Giá hàng hoá và dịch vụ trong xuất khẩu được xác định thấp so với giá trên thị trường thế giới .
Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nước bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng trong thương mại quốc tế .
-Tăng khả năng nhập khẩu và kiềm chế lạm phát
Việc nâng giá đồng bản tệ cũng có thể xuất phát từ tình trạng phải tiếp nhận các ngoại tệ đang bị mất giá và trở thành một công cụ hữu hiệu để ngăn ngừa các ngoại tệ đang bị mất giá chạy vào nước mình .
2\ Các nhân tố tác dộng vào quá trình hình thành tỷ giá .
Trên thực tế , sự hình thành quan hệ tỷ giá là quá trình tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan … Tuy có những mâu thuẫn trong phương pháp nghiên cứu , tiếp cận và đánh giá vai trò , tính chất , phương thức , cường độ ,tốc độ , tác động của các yếu tố cụ thể song nhìn chung , giữa các nhà kinh tế , các lý thuyết hiện đại vẫn có sự thống nhất trong việc thừa nhận các yếu tố quan trọng , trực tiếp cấu thành nội dung và tác động lên quá trình hình thành tỷ giá hối đoái ,đó là:
sức mua của các đơn vị tiền tệ và tốc độ lạm phát ở các nước hữu quan.
Trạng thái cán cân thanh toán quốc tế trực tiếp ảnh hưởng đếncung cầu ngoại tệ , thông qua đó tác động lên mức tỷ giá và kéo theo sự giao động của tỷ giá , lệch khỏi sức mua của đồng tiền .
Chênh lệch mức lãi suất giữa các nước , giữa thị trường tín dụng nội địa và quốc tế .
Các tính toán theo lý thuyết kinh tế cho thấy khi lãi suất ở Mỹ tăng 1%/ năm thì đòi hỏi lãi suất ở các nước có đồng tiền yếu phải tăng cao hơn nhiều nhằm đối phó với tình trạng chuyển đổi tài sản sang USD . Trong khi lãi suất tiền gửi USD ở trong nước thấp hơn so với mặt bằng lãi suất quốc tế , chính điều này làm cho việc đầu tư tại nước ngoài với các ngân hàng trở nên vô cùng hấp dẫn .Điều này dẫn tới chiến dịch chạy đua nâng lãi suất huy động USD cuả ngân hàng khiến cho việc nắm giữ đồng USD càng trở nên hấp dẫn hơn và tất yếu đồng nội tệ sẽ giảm giá so với USD .
Thực trạng hoạt động của các thị trường tài chính , ngoại hối và xu hướng , nghiệp vụ đầu cơ ảnh hưởng đến tỷ giá
Hệ số tín nhiệm đối với đồng tiền trên thị trường tài chính trong nước cà quốc tế .
Các công thức , công cụ diều chỉnh can thiệp của nhà nước .
Các cú sốc kinh tế , chính trị ,xã hội và các quyết sách lớn của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế , tài chính tiền tệ .
Sự phức tạp của vấn đề tỷ giá trên phương diện nghiên cứu , điều hành không phải ở việc xem xét , xử lý các yếu tố biệt lập trạng thái tĩnh mà trong một chỉnh thể thống nhất ở trạng thái động và mối quan hệ qua lại giữa các quốc gia trong bối cảnh xu hướng quốc tế hoá ,toàn cầu hoá đời sống kinh tế ngày càng gia tăng và sâu sắc , nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ . Vì vậy , TGHĐ ở một thời điểm cụ thể chính là véctơ tổng hợp của nhiều véctơ bộ phận khác .
3\ Phân loại chế độ tỷ giá .
Nhìn lại quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá cho thấy có hai loại chế độ tỷ giá cơ banr như sau :
Chế độ cố định tỷ giá : những nước áp dụng chế độ tỷ giá này thường gắn đồng tiền nước mình vào một đồng tiền quốc tế chủ chốt hoặc vào một rổ các loại đồng tiền ( có thể là rổ đồng tiền giao dịch chính hoặc hỗn hợp các đồng tiền tiêu chuẩn như đồng tiền Châu Âu hay quyền rút vốn đặc biệt ).
Chế độ thả nổi tỷ giá : trong chế độ này , tỷ giá thường có sự điều chỉnh và linh hoạt . Nếu tỷ giá hoàn toàn do thị trường và các lực lượng thị trường quyết định , thì nó là dạng thả nổi tự do . Còn nếu tỷ giá thường xuyên được điều chỉnh trên cơ sở đánh giá diễn biến của các biến số như tinhf hình dự trữ , thanh toán thì đó lad dạng thả nổi có quản lý .
Hiện nay , trên thế giới đã và đang tồn tại nhiều loại chế độ TGHĐ biến tướng từ hai loại hình thức cơ bản này .
Trong thế giới mà sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng , việc lựa chọn một chế độ ngoại hối phù hợp với bối cảnh quốc tế , điều kiện cụ thể từng nước và đáp ứng yêu cầu điều chỉnh kinh tế vĩ mô , nhất là đối với các nước đang thực hiện chuyển đổi cơ chế thực sự là vấn đề nan giải .
Có nhiếu cơ sở để dùng làm căn cứ lựa chọn chế độ tỷ giá , mà một trong số đó có cai trò cực kì quan trọng mang tính chất quyết định đó là : sự can thiệp của nhà nước để điều chỉnh TGHĐ dựa vào những công cụ gì ?
II\ Lý thuyết can thiệp của nhà nước vào tỷ giá hối đoái .
Ngân hàng trung ương là người thay mặt nhà nước can thiệp và điều chỉnh thị trường ngoại tệ tỷ giá ngoại hối .NHTƯ đóng vai trò rất lớn trong lĩnh vực tỷ giá , trên thị trường ngoại hối NHTƯ đóng vai trò kép : ngân hàng mua và bán ngoại tệ, ngoài ra NHTƯ còn sử dụng hàng loạt công cụ khác để can thiệp khi cần .
1\ Các loại hình can thiệp của ngân hàng trung ương :
Sự can thiệp của NHTƯ thường tác động có tính chất quyết định và nhiều khi còn ấn định mức tỷ giá hối đoái . Trước tiên là các loại hình can thiệp :
+Can thiệp theo trách nhiệm .
Theo lý thuyết khi tỷ giá của một đồng tiền trong hệ thống tỷ giá cố định đạt tới cận điểm hoặc đỉnh điẻm quy định can thiệp thì cần phải can thiệp .Điều này áp dụng cho tỷ giá cố định .
+Can thiệp tự do (ngược lại với can thiệp trách nhiệm ).
Có thể xảy ra không chỉ trong hệ thống tỷ giá cố định mà ngay cả trong hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi .
Xét về mặt kinh nghiệm thông thường NHTƯ phải can thiệp trước khi sự giao động của tỷ giá hối đoaí đạt tới những điểm cần can thiệp , nhằm giảm bớt sự căng thẳng của tình hình . Sự can thiệp của NHTƯ có thể là sự can thiệp hữu hình hay vô hình .
-Là sự can thiệp vô hình khi có sự can thiệp này chỉ có được nếu những thay đổi khối lượng tiền tệ do ảnh hưởng của can thiệp được khắc phục bằng những biện pháp của các ngân hàng phát hành khác .
Là sự can thiệp hữu hình khi khối lượng tiền tệ quốc gia được thay đổi một cách công khai .
Sựcan thiệp của NHTƯ vào thị trường ngoại hối gây ra hai hiệu ứng chính sau :
Thứ nhất tác động trực tiếp đến khối lượng ngoại tệ
Thứ hai trực tiếp gây ra biến đọng mức lãi suất trong nước
2\Mục đích và khả năng can thiệp của ngân hàng trung ương.
Mục đích can thiệp của NHTƯ là không hoàn toàn giống nhau , điều nay phụ thuộc vào tình hình , ý đồ , chiến lược cửa mỗi nước . Có những quốc gia mục đích can thiệp của NHTƯ là nhằm duy trì một cách đúng đắn các quan hệ thị trường có tổ chức , không đối phó với các xu hướng bản năng của thị trường . Do đó sự can thiệp là nhằm duy trì một cách hợp lý các quan hệ thị trường có tổ chức mà khắc phục những biến động dữ dội của tỷ giá .
Có thể nhận thấy ngay rằng , ngày nay các nước công nghiệp hoá đang hoạt động trong một cơ chế TGHĐ được thả nổi và được điều tiết – một hệ thống mà trong đó chính phủ có thể cố gắng điều hoà sự vận động của TGHĐ mà khong hề giữ chúng một cách cứng nhắc .
Để minh hoạ , xin nêu trường hợp cảu nước Đức 1974 : về nguyên tắc ngân hàng liên bang chỉ can thiẹp nhằm duy trie một cách đúng đắn các quan hệ thị trường có tổ chức . Hơn nữa , cần phải tìm cách tạo thế ổn định tỷ giá danh nghĩa với USĐ với sau những biến động mạnh trong thời gian dài.
Trong khi đó , một số nước lại đưa ra mục tiêu tạo ra cho được tỷ giá hối đoái phù hợp , đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước và giảm đến mức thấp nhất rủi ro thiệt hại trong lĩnh vực tỷ giá có thể gây ra .
Nhà nước và thị trường là hai lực lượng chủ yếu quyết định sự vận động của TGHĐ . Bên cạnh việc thừa nhận vai trò quan trọng của cung – cầu đối với tỷ giá hối đoái , cũng phải thấy khả năng chi phối rất lứon của ngân hàng nàh nước , khả năng này bắt nguồn từ tính độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý ngoại tệ . tuy vậy nếu nhà nước can thiệp một cách thô bạo vào thị trường thì lại có hại , ngược lại nếu can thiệp một cách đúng đắn thì thị trường ngoại tệ sẽ ;ành mạnh .
Khả năng thành công trong can thiệp của nàh nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố , tuy nhiên quan trọng nhất là :
Phạmvi hoạt động mua bán ngoại tệ .
Mức độ tác động vào những dự tính về sự biến động tỷ giá trong tương lai .
Bên cạnh đó vấn đề quyết định là sẽ sử dụng những công cụ nào của chính sách tiền tệ .
3\ Hệ thống công cụ can thiệp .
Việc áp dụng phương pháp can thiệp nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố (mục đích , thực trạng thị trường …) song trước hết phu thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành đang áp dụng .
+Phương pháp lãi suất chiết khấu .
Đây là phương pháp thường sử dụng để điều chỉnh TGHĐ trên thị trường . Với phương pháp này , khi TGHĐ đạt đến mức báo động cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu . Do lãi suất chiết khấu tăng , kết quả là vay vốn ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ bị dồn vào để thu lãi cao hơn . Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ sẽ bớt đi , làm cho tỷ giá không còn có cơ hội tăng nữa .
Vào những năm 1971 đến năm 1973 USD rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng , tổng thống Mỹ Nixon đã phải áp dụng những biện pháp khẩn cấp để cứu nguy cho USD bằng cách tăng lãi suất chiết khấu lên cao hơn để thu hút vốn ngắn hạn trên thị trường quốc tế .
Tuy nhiên vấn đề là : lãi suất do quan hệ cung cầu của vốn vay quyết định . Nó có thể biến động trong phạm vi lợi nhuận binh quân , và chỉ trong những trường hợp thật đặc biệt nó có thể vượt quá tỷ suất lợi nhuaanj bình quân . Còn tỷ giá thì do quan hệ cung cầu về ngoại tệ quyết định . quan hệ này bị chi phối chủ yếu bởi tình hình của cán cân thanh toán . Điều này có nghĩa là các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá không giống nhau , do vậy mà biến động cuả lãi suất không nhất thiết kéo theo sự biến động của tỷ giá . Vậy cho nên trong thời kì khủng hoảng USD thời kì 1971 – 1973 mặc dù lãi suất trên thị trường NewYork cao gấp rưỡi thị trường London nhưng vốn vay ngắn hạn lại được chuyển tới Tây Đức và Nhật Bản .
+Các nghiệp vụ thị trường hối đoái .
Đây là biên pháp trực tiếp tác động vào TGHĐ . Thông qua các nghiệp vụ mua bán ngoại tệ , điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp quan trọng của nhà nước để giữ vững sự ổn định cuat sức mua đồng tiền quốc gia .
Tuỳ từng quốc gia mà việc lựa chọn quy mô là khác nhau , việc mua bán ngoại tệ được thực hiện trên nguyên tắc diễn biến giá cả ngoại tệ trên thị trường và ý đồ can thiệp mang tính chất chủ quan của nhà nước . Việc lựa chọn các thời điểm cần mua , cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỷ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định .
Đẻ nắm được một cách đầy đủ tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường , ngày nay , nhiều nước trên thế giới đã và đang tổ chức các thị trường ngoại tệ liên ngân hàng – là nơi tốt nhất để khai thác các thông tin cần thiết cho nghiệp vụ thị trường ngoại hối .
Tuy nhiên việc áp dụng phương pháp này , chính phủ thường gặp phải những phản ứng trái ngược nhau từ phía các doanh nghiệp cũng như các taàng lớp dân cư khác nhau trong xã hội bắt nguồn từ lợi ích kinh tế . Mâu thuẫn này thường xảy ra giữa các doanh nghiệp nhập khẩu và xuất khẩu , giữa những người đang nắm trong tay số lượng lớn ngoại tệ với những người trong túi chỉ có nội tệ . Giải pháp là mỗi quốc gia phải có một lượng dự trữ ngoại tệ dư sức để can thiệp vào thị trường khi cần .
+Lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái .
Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định thậm chí xảy ra những biến động lớn , các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một công cụ để điều chỉnh TGHĐ .
Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái là :
phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (Anh , Hà Lan ) . khi ngoại tệ vào nhiều thì sử sụng vốn từ quỹ dự trữ này để mua nhằm hạn chế mất giá của ngoại tệ . Ngược lại trong trường hợp vốn chạy ra nước ngoài , quỹ bình ổn hối đoái tung ngoại tẹ ra bán và tiếp tục mua các trái khoán đã phát hành để ngăn chặn giá ngoại tệ tăng lên .
Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (Pháp , Mỹ …). Theo phương pháp này khi cán cân thanh toán quốc tế bị thâm hụt , quỹ dự trữ bình ổn hối đoái sẽ đưa vàng ra bán thu ngoại tệ về để cân bằng cán cân thanh toán . Trường hợp khi ngoại tệ vào nhiều , quỹ sẽ tung vàng ra bán thu về đồng tiền quốc gia để mua ngoại tệ nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái .
Hạn chế của phương pháp này là nó chỉ có tác dụng lớn khi khủng hoảng về ngoại tệ nghiêm trọng . Hơn nữa việc tạo lập được quỹ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất địnhvề kinh tế .
III\Chính sách tỷ giá hối đoái – nguyên tắc lựa chọn
Tỷ giá hối đoái là một khâu xung yếu , là cầu nối quan trọng để một nền kinh tế hội nhập với nền kinh tế thế giới . Có một chính sách tỷ giá đúng đắn sẽ góp phần quan trọng trong việc ổn định nền kinh tế vĩ mô , thúc đẩy sản xuất phát triển .
1\ Về chính sách tỷ giá tối ưu
Nhìn lại quá trình phát triển của hệ thống tỷ giá cho thấy có hai loại chế độ tỷ giá cơ bản là chế độ tỷ giá cố định và chế độ tỷ giá thả nổi bao gồm thả nổi tự do , và thả nổi có quản lý .
Khó có câu trả lời đúng , dứt khoát về việc một nước nhỏ sẽ có lợi khi áp dụng tỷ giá hối đoái cố định hay linh hoạt . Nói chung sự quản lý tối ưu TGHĐ phụ thuộc vào các mục tiêu kinh tế của các nàh hoạch định chính sách , vào nguồn gốc của các cơn sốc đối với nền kinh tế và vào đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế đang xét .
Một kết quả quan trọng của nghiên cứu lý thuyết là nói chung tỷ giá hối đoái cố định cực đoan lẫn tỷ giá hối đoái hoàn toàn linh hoạt đều không phải là tối ưu đối với ổn định kinh tế vĩ mô . Thật vậy , một mức độ tương đối của linh hoạt lại nhiều khả năng thành công hơn trong việc ổn định nền kinh tế , khi cần phản ứng lại với các cú sốc ngẫu nhiên . Chính vì vậy nó đã trở thành cơ chế tỷ giá phổ biến nhất ở các nước đang phát triển . Câu hỏi đặt ra là chấp nhận tới mức độ nào của sự linh hoạt trong các trường hợp cụ thể .
* Như vậy là loại cơn sốc mà nền kinh tế thị trường phải đối phó trở thành vấn đề cốt lõi cần xem xét khi định liệu tỷ giá hối đoái cố định hay điều chỉnh .
Có quan điểm cho rằng TGHĐ linh hoạt sẽ có tác dụng hơn về khả năng che chở của điều chỉnh tỷ giá hối đoái trước các cơn sốc bên ngoài , tức là đứng trước biến động của mặt bằng giá quốc tế , các giá cả nội địa có thể được ổn định bằng sự điều chỉnh thích đáng .
Như vậy là khi có cơn sốc từ bên ngoài thì sự linh hoạt trong quản lý TGHĐ được coi là phù hợp . Còn đối với các cơn sốc nội địa việc áp dụng chế độ tỷ giá vào sẽ phụ thuộc vào tính chất của cơn sốc,đó là cơn sốc tiền tệ hay cơn sốc thực tế (xuất phát từ thị trường hàng hoá ).
Khi cơn sốc là tiền tệ thì quan điểm xưa nay là duy trì tỷ giá cố định sẽ có hiệu lực hơn trong việc ổn định tổng sản phẩm vì cung tiền tệ là một biến nội sinh dưới chế đodọ tỷ giá cố định các đột biến trong thị trường tiền tệ nội địa đơn giản sẽ được hấp thụ bởi thay đổi của dự trữ ngoại tệ mà không ảnh hưởng đến điều kiện của cung cầu hàng hoá .
Đổi lại khi cơn sốc là thực tế thì TGHĐ cần phải được điều chỉnh để ổn định tổng sản phẩm bằng cách tạo nên (hoặc giảm )cầu bên ngoaì .
Tóm lại , theo mục tiêu của chính sách nhằm ổn định tổng sản phẩm trước các cơn sốc tạm thời , TGHĐ càn phải được điều chỉnh khi cơn lốc xuất phát từ bên ngoài hoặc từ thị trường hàng hoá .
* Mặt khác tính chất , cơ cấu cảu nền kinh tế , ví dụ như mở cửa đối với thương mại , mức độ tự do giao lưu vốn nước ngoài và độ cứng nhắc của thị trường lao động , sẽ ảnh hưởng đến tính bảo vệ trung lập của các chế độ TGHĐ.
Thoạt tiên có thể lập luận rằng nền kinh tế cùng mở cửa thì càng chứng minh cho sự cần thiết áp dụng tỷ giá cố định , vì tồn tại cái giá phải trả tiềm tàng cho các giao dịch quốc tế do thường xuyên điều chỉnh tỷ giá gây nên . Hơn thế nữa , một sự mở cửa như vậy làm cho tỷ giá cố định có hiệu lực hơn trong việc đẩy một cơn sốc tiền tệ trong nước ra nước ngoài . Mặt khác thì trong nền kinh tế mở việc điều chỉnh tỷ giá giúp cho sự ổn định tổng sản phẩmảtước các cơn sốc bên ngoài và cơn sốc nội địa . Khi mở cửa làm cho nền kinh tế bất ổn hơn trước các cú sốc bên ngoài thì có thể phải thường xuyên điều chỉnh tỷ giá hối đoái .
* Ngoài ra còn có các nguyên nhân khác xác định chế độ tỷ giá như mức độ giao lưu vốn , liên kết trực tiếp lãi suất nội địa và lãi suất quốc tế , ví dụ như xét sự tăng lên của cầu bên ngoài do chính sách tiền tệ bành trướng và việc giảm lãi suất quốc tế gây nên . Dưới chế độ tỷ giá cố định và trong điều kiện tự do giao lưu vốn thì lãi suất nội địa giảm làm taưng thêm tác động mất ổn định từ phía cầu bên ngoài thông qua cán cân vãng lai .Trong trường hợp này TGHĐ phải giảm để ổn định tổng sản phẩm nội địa . Vởy bản chất của cơn sốc bành trướng bên ngoài sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn chính sách tỷ giá cụ thể .
Thêm nữa , mức độ cứng nhắc của tiền lương cũng tác động đến tính hiệu lực của chính sách TGHĐ . Tác động của phá giá danh nghĩa lên các biến kinh tế vĩ mô phụ thuộc chủ yếu vào tiền lương và giá cả phản ứng như thế nào đối với phá giá . Tiền lương danh nghĩa càng tăng cao để phản ứng lại với phá giá thì tiền lương thực tế thay đổ ít .ảnh hưởng của chỉ số hoá tiền lương lên sự lựa chọn mong muốn của tỷ giá linh hoạt vì vậy là lớn .
2\ Nguyên tắc lựa chọn chế độ tỷ giá .
Các nghiên cứu trên gợi một số tiêu chuẩn quy định tỷ giá phụ thuộc vào bản chất của cơn sốc lên nền kinh tế cũng như đặc trưng cơ cấu của nền kinh tế .
Tuy vậy , trên thực tế áp dụng cũng gặp phải những khó khăn trong những trương hợp cụ thể , ví như trong thực tế , sự nhận biết nguồn gốc các cơn sốc , bản chấtcủa các cơn sốc là rất khó . Thêm nữa lại còn tồn tại những mâu thuẫn tiềm tàng giữa các mục tiêu lựa chọn .
Nhận biết được nguồn gốc của các cơn sốc là khó vì nền kinh tế thường chịu đồng thời tác động của nhiều cơn sốc từ nhiều nguồn khác nhau , do đó không thể nhận biết được chính xác nếu định lượng chúng riêng biệt . Các nhân tố gây giảm sút hoạt động kinh tế có thể là : cầu nội nhập thấp , các điều kiện tiền tệ thắt chặt , cầu bên ngoài giảm .
Do đó trong quá trình xem xét lựa chọn chế độ tỷ giá phải xem xét tổng thể các nhân tố tác động đến sự ổn định hay mất ổn định của kinh tế vĩ mô. Có thẻ nói chế độ tỷ giá là véctơ tổng hợp của nhiều véctơ khác nhau .
Mặt khác tiêu chuẩn để lựa chọn một chế độ tỷ giá hối đoái thích hợpcòn phụ thuộc vào các mục tiêu chính sách do chính phủ đặt ra . Mục tiêu đó có thể là mục tiêu ổn định tổng sản phẩm . Trong trường hợp này mục tiêu ổn định cán cân thanh toán quốc tế là phải từ bỏ . Vì tổng sản phẩm sẽ ổn định khi cán cân thanh toán quốc tế làm chức năng hấp thu các cơn sốc , để triệt tiêu tác động của các thay đổi đột biến trên tổng sản phẩm . Tuy nhiên mâu thuẫn của các chính sách có thể xảy ra khi một cán cân thanh toán quốc tế cũng đưọc coi là mục tiêu chính sách .
Thật vậy, sẽ là rất khó khăn khi cùng một lúc lựa chọn một chế độ tỷ giá để cơ chế đạt được nhiều mục tiêu kinh tế khác nhau , ví dụ : sử dụng TGHĐ để đẩy cơn sốc tiền tệ thuận chiều ra nước ngoài có thể là không khả thi nếu dự trưc ngoại tệ ở dưới mức cần thiết . Cũng như vậy , việc giảm TGHĐ nhằm trung lập hoá sự tăng lên trong cầu nội địa sẽ làm xấu đi cán cân thanh toán quốc tế .
Tất nhiên việc đạt được đồng thời các mục tiêu là cũng có thể đạt được thí dụ như , một cơn lốc nội địa không thuận lợi đòi hỏi phải phá giá tỷ giá để ổn định tổng sản phẩm và đồng thời cả thiện cán cân thanh toán quốc tế .
Do đó trong quá trình lựa chọn chế độ tỷ giá phải có sự cân nhắc , xem đâu là mục tiêu cơ bản trước mắt để có quyết định cho phù hợp . Ví dụ , khi cán cân thanh toán có vấn đề thì TGHĐ được sử dụng như một công cụ đạt mục tiêu . mặt khác khi lạm phát là vấn đề nổi lên hàng đầu thì TGHĐ làm chức năng hõ trợ cho việc ổn định mặt bằng giá cả .
3\ Một số kết luận .
Những phân tích trên đây giúp chúng ta phần nào hiểu được tính chất phức tạp khi lựa chọn một chế độ tài chính để thoả mãn những mục tiêu khác nhau .
Lập luận truyền thống trước đây cho rằng cách chấp nhận chế đọ tỷ giá linh hoạt , chính phủ sẽ được tự do lựa chọn chính sách tiền tệ của mình theo đúng các múc tiêu trong nước , cho phép TGHĐ tự điều chỉnh cân bằng cán cân thanh toán quốc tế . Tuy vậy cho đến nay hai lập luận này đang có vấn đề :
Thứ nhất , ngày càng thấy rõ ràng với tỷ giá linh hoạt chính phủ không thể tự do lựa chọn các chính sách kinh tế trong nước mà không phụ thuộc vào hạn chế bên ngoài . Trong điều kiện tự do hoá các luồng vốn , các chính sách trong nứơc chịu ảnh hưởng lớn bởi sự vận động của TGHĐ , cán cân vãng lai …
Thứ hai , liên quan đến một giả thiết then chốt của quan điểm truyền thống trước đây , là chính phủ có thể sử dụng hiệu quả tính độc lập của họ trong việc ra quyết định chính sách để ddạt các mục tiêu trong nước .
Những người ủng hộ TGHĐ cố định giữ quan điểm cho rằng , tiếp nhận chế độ tỷ giá như vậy sẽ đặt ra một mức độ kỷ luật tài chính mà không có dưới chế độ tỷ giá linh hoạt . Khi đó tạo thuận lợi để đạt được giá dựa trên kinh nghiệm . Sự tranh cãi trong vấn đề lựa chọn chế độ tỷ giá sẽ tiếp tục mãi nếu chúng ta khong nghiên cứu chúng dựa vào sự phát triển gần đây của lý thuyết kinh tế học vĩ mô.
Trước hết việc áp đặt chế độ tỷ giá cố định sẽ đặt ra những yêu cầu sau : tỷ lệ lạm phát thế giới quy định tỷ lệ làm phát nội địa , một tỷ lệ nào đó của cung tiền phải được bảo đảm bằng dự trữ ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá so sánh cố định nếu không tỷ giá so sánh cố định không duy trì được . Từ đó tốc độ tăng tín dụng nội địa không thể cao hơn tốc độ tăng cầu tiền tệ danh nghĩa trong dài hạn . Thời kì chuyển tiếp bành trướng nhanh tín dụng là khong thích hợp với duy trì tỷ gia so sánh cố định .
Để làm cho chế độ TGHĐ có được lòng tin , chính phủ bỏ quyền thay đổi tỷ giá , điều này có thể đạt được bằng cách tham gia khối tiền tệ .
Tuy vậy sẽ tồn tại cái giá phải trả nếu hoàn toàn áp dụng chế độ TGHĐ cố định . Như là : sẽ là tối ưu nếu thay đổi tỷ giá để phản ứng lại các cơn sốc dài hạn bên ngoài . Bỏ qua công cụ tỷ giá chính phủ buộc phải dựa vào các chính sách tài chính có thể dẫn tới việc thu hẹp tổng sản phẩm và giảm phát do có sự thay đổi dài hạn điểm cân bằng của TGHĐ thực , dẫn đến việc phải điều tiết lại giá cả giữa hàng hóa thương mại và hàng hóa không thương mại . điều này được chứng minh là đắt giá hơn một lần điều chỉnh giá .
Tóm lại , việc diều hành tỷ giá ở các nước đã trải qua nhiều thay đổi trong thập kỷ rưỡi qua . Sự biến động của các đồng tiền chính , lạm phát đòi hỏi việc điều chỉnh tỷ giá thường xuyên hơn . Rồi các cơn sốc kinh tế bên ngoài cũng đưa đến việc chuyển đổi chế độ tỷ giá từ cố định sang linh hoạt . Việc lựa chọn chế độ tỷgiá tối ưu cũng phải dựa trên một số tiêu chuẩn gồm : mục tiêu của chính phủ , bản chất của các cơn sốc ngoại sinh và đặc trưng cơ cấu của nền ki nh tế .
Chương II : Việt nam với tiến trình
cải cách tỷ giá hối đoái
I \ Lịch sử tỷ giá hối đoái
1\ Tổng quan về lịch sử
nhìn lại lịch sử các chế độ tỷ giá của Việt nam trong những thập niên qua chúng ta thấy đã có nhiêù thay đổi , từ một chế độ tỷ giá bao gồm : tỷ giá kết toán nội bộ , (áp dụng cho hàng hóa xuất nhập khẩu ) , tỷ giá chính thức ( áp dụng cho trao đổi phi mậu dịch ), tỷ giá kiều hối …
Từ 25/11/1995 tỷ giá chính thức giữa đồng Việt nam và NDT của trung quốc được quy định là 1NDT =1470 VND , lúc đó 1 Rúp =0,5NDT . Sau đó tỷ giá VND với NDT và Rúp có nhiều thay đổi . Bên cạnh tỷ giá trên , nhà nước còn dùng nhiều tỷ giá thanh toán nội bộ để thanh toán giữa các tổ chức và đơn vị có chi thu ngoại tệ với ngân hàng ngoại thương .Từ chế độ tỷ giá trên đây có thể rút ra một số nhận xét .
Tỷ giá được xác lập theo ý đồ phục vụ cho kế hoạch do nhà nươc quy định , không xuất phát từ yêu cầu thực tại cuả nền kinh tế thị trường trong và ngoài nước . TGHĐ giữ vai trò thụ động ( chủ yếu làm chức năng thanh toán , công cụ để lập kế hoạch ), chưa phải là công cụ điều chỉnh vĩ mô thực thụ .
Do việc xác lập TGHĐ duy ý chí , không tuân thủ quy luật kinh tế , các quy trình kinh tế ngay cả với kinh tế kế hoạch . Vì vậy nó không chỉ cản trở các quan hệ kinh tế của ta với khối SEV , mà còn gây nhiều khó khăn trong trao đổi thanh toán nội bộ , trong công tác quản lý , điều hành của nhà nước , đặc biệt là thủ tiêu động lực đối với hoạt động xuất khẩu .
Do sử dụng tỷ giá kết toán , nội bộ trong quản lý ngân sách nàh nước , đã làm cho việc tính toán và phán ánh thu chi ngân sách nhà nước bị sai lệch nghiêm trọng , công tác điều hành ngân sách nhà nước khó khăn , làm giảm hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân sách nhà nước , đặc biệt là khâu sử dụng vốn và quản lý .
Sau khi có chủ trương thu hút vốn nước ngoài (1985) đặc biệt là sau khi thông qua luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987 , luồng ngoại tệ bằng USD lần lượt vào Việt nam . Chúng ta chỉ dùng tỷ giá chính thức do ngân hàng trung ương áp đặt nên vẫn còn khoảng cách khá xa so với sức mau thực tế của USD và thị trường chợ đen .
Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường
1985 15 115
1986 680 425
1987 368 1270
1988 3000 5000
1989 3900 4100
Tuy nhiên , mức chênh lệch giữa hai loại tỷ giá tính theo tỷ lệ % cũng giảm rất rõ: Năm 1985 là : 666,6%
Năm 1986 là : 431,2%
Năm 1987 là : 245, 1%
Năm 1988 là : 66,6 %
Tóm lại , trước cải cách nước ta có hệ thống tỷ giá khá phức tạp được xác lập theo quan điểm kinh tế cũ không còn phù hợp với thực tế đời sống kinh tế đang biến đổi sâu sắc .Hệ thống tỷ giá này đã gây không ít khó khăn cho quản lý , điều hành trong lĩnh vực tài chính , tiền tệ , kinh tế đối ngoại , đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế . Chính vì vậy nhu cầu đổi mới trong lĩnh vực tỷ giá nói riêng , tài chính – tiền tệ nói chung trở thành vấn đề cấp bách .
2\ Bối cảnh kinh tế – chính trị của cuộc cải cách tỷ giá hối đoái .
Từ đại hội lần thứ VI của Đảng CS Việt nam công cuộc cải cách kinh tế của Việt nam được tiến hành một cách toàn diện với những mục tiêu cụ thể .
Đổi mới cơ bản nội dung và phương thức vận hành các chính sách kinh tế , tăng cường sự phối hợp đồng bộ chặt chẽ ,các chính sách kinh tế khó khăn thủ tiêu tình trạng tình trạng siêu lạm phát , thâm hụt ngân sách
Cải cách , thiết lập và hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế mới ( đặc biệt là hệ thống ngân hàng – tài chính )để nền kinh tế dần bước vào ổn định và tăng trưởng .
Công cuộc cải cách kinh tế cũng xác định một số khâu đột phá và một số lĩnh vực cụ thể mà trong đó cần quan tâm đến lĩnh vực tài chính tiền tệ , trong đó coi vấn đề TGHĐ chính là một trong những khâu đột phá , có vai trò cực kì quan trọng với quá trình cải cách .
Tuy vậy , nhưng trong quá trình cải cách kinh tế chúng ta phải đối mặt với những khó khăn to lớn như : hậu quả chiến tranh làm cho kinh tế trì trệ , những sai lầm trong lĩnh gvực tiền tệ – tín dụng làm cho lưu thông tiền tệ rối loạn , lạm phát bùng nổ làm nhà nước bất lực giai đoạn 1981- 1984 tốc độ lạm phát bình quân là 70% , nền tài chính eo hẹp ốm yếu phụ thuộc nặng nề vào tài trợ bên ngoài . Thêm nữa , sự tan rã và sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu đã tác động vào đời sống kinh tế – xã hội . Có thể nói chưa bao giờ chúng ta phải đối mặt với khó khăn chồng chất như thế .
Trước tình hình đó con đường giải pháp duy nhất cho chúng ta là phải cải cách .
3\Một số giải pháp cải cách liên quan đến tỷ giá hối đoái .
Thứ nhất, không thể duy trì chế độ tỷ giá cũ vì vừa phức tạp lại không có khả năng quản lý ngoại hối , bù lỗ xuất khẩu , nhập khẩu vượt quá khả năng chịu đựng của ngân sách nhà nước . hơn nữa , nếu cố định tỷ giá trong bối cảnh lạm phát rất cao thì nó tiếp tục là trở ngại lớn cho xuất khẩu .
Thứ hai , khi chính phủ có chính sách hỗ trợ đúng đắn thì phá giá trở thành xung lực tạo ra sự đột phá mạnh trong xuất khẩu , nhất là cho việc thâm nhạp vào thị trường khu vực .
Thứ ba, phá giá một mặt sẽ tạo cho chính phủ có thêm dự trữ ngoại tệ phục vụ cho điều chỉnh vĩ mô , có khả năng can thiệp giảm áp lực đàu cơ ngoại tệ , giảm áp lực cầu ngoại tệ , kìm hãm xu hướng gia tăng quá mức nhập khẩu .
Bên cạnh giải pháp tỷ giá còn phải cải cách các chính sách tài chính tiền tệ nhằm đồng thời thực hiện 2 nhiệm vụ lớn là ổn định nền tài chính và khong cho phép thu hẹp sản xuất . Mặt khác , do tỷ giá rất nhạy cảm với các sự kiện kinh tế , chính trị , vì vậy nguy cơ tạo ra các cú sốc vẫn còn lớn . Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế , một mặt tăng cường công khai hoá kịp thời các chỉ số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức , tỷ giá thị trường , tốc độ lạm phát , chỉ số biến động của vàng , nhờ vậy giảm căn bản sự “phao tin “ của tầng lớp đầu cơ , giảm tâm lý hoang mang .
II\ Thực trạng chế độ tỷ giá - định hướng điều chỉnh
1\ Thực trạng :
Từ sự phân tích ở trên về toàn cảnh cơ chế tỷ giá hối đoái giai đoạn trước đổi mới (1986) ta thấy hệ thống tỷ giá của ta còn khá phức tạp . Tỷ giá được xác lập theo quan điểm kinh tế cũ không phù hợp gây ra những tác động tiêu cực :
+ Tác động tới vấn đề ngân sách
Mọi sự biến động của các loại tỷ giá đều tác động trực tiếp đến thu chi ngân sách . Trước 1990 nhà nước thực hiện chính sách tỷ giá kết toán nội bộ , mức tỷ giá nhà nước công bố thường cố định trong thời gian dài gây tác động tiêu cực .
Đối với hàng nhập khẩu , khi nguyên vật liệu về nước , nhà nước đứng ra phân phối với mức giá thấp . Như vậy các ngành địa phương được phân phối thì được hưởng phần giá thấp còn ngân sách phải bù lỗ . Thêm nữa việc thực hiện cơ chế tỷ giá kết toán nội bộ trong thanh toán hàng xuất – nhập khẩu đã làm nảy sinh 2 khuynh hướng :
Thứ nhất, nếu ta giao hàng xuất khẩu cho nước bạn để có hàng nhập khẩu thì mức bù lỗ cho hàng xuất khẩu quá lớn .
Thứ hai , nếu ta không giao hàng đúng thời hạn , tiến độ thì ta lại tăng nghĩa vụ nợ với nước bạn .
Một vấn đề nữa là các tổ chức cá nhân do tỷ giá thấp , sẽ không bán ngoại tệ cho ngân hàng hoặc thanh toán ngoại tệ cho ngân hàng , vì làm vậy sẽ mất lãi … Do đó sơ chế tỷ giá của thời kì này đã trở thành một yếu tố tạo cho ngoại tệ bị thả nổi , mua bán trên thị trường trong nước gây thiệt hại cho nhà nước , làm cho tỷ giá giữa đồng nội tệ với ngoại tệ thêm phức tạp .
Như vậy việc tạo ra một tỷ giá chính thức tưởng là giữ giá trị đồng Việt nam so với ngoại tệ kế hoạch hóa và ổn định nền kinh tế nhưng thực chất là đẩy xuất khẩu Việt nam vào ngõ cụt , khong khuyến khích sản xuất hàng hoá xuất khẩu . Hệ quả là cán cân thương mại bị nhập siêu nghiêm trọng . Ngân sách nhà nước phải gánh chịu thua thiệt . Khi đó buộc phải thả nổi và phá giá đã làm cho chi phí của các doanh nghiệp tăng lên đáng kể và lợi nhuận bị giảm .
+ Tác động đến nợ nước ngoài .
Tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nợ nứơc ngoài và công tác quản lý nợ . Thiếu vốn vay , nhưng vay của ai và điều kiện vay như thế nào thì phải xem xét kỹ . Một thực tế là nếu TGHĐ đồng Việt nam hạ , động ngoại tệ tăng , thì khoản trả nợ ngân sách nhà nước của doang nghiệp tăng , nhưng xuất khẩu hàng hóa , dịch vụ lại có lợi đó là một bài toán khó .
Có thể đưa ra đây một ví dụ để minh chứng cho tác động của TGHĐ với nợ nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn này .
Trước năm 1979 , Việt nam có sử dụng 20 tỷ yên Nhật tương đương với 92 triệu USD . Ngày 6/11/1992 chính phủ Nhật lại cho Việt nam vay 20 tỷ yên tương đương với 159 triệu USD . Đầu năm 1995 đồng yên lên giá , 1USD là 90 yên ( trước đây là 216 yên = 1USD; 160 yên = 1USD ).Như vậy là về góc độ tỷ giá thì trong thời gian qua sự tăng giá cảu đồng yên Nhật , đã làm tăng thêm gánh nặng nợ gốc quy ra USD .
Trên đây là những phân tích tổng quan về tác động của chế độ tỷ giá cũ với các mặt của nền kinh tế vĩ mô .
Để có được cái nhìn rõ ràng về lịch sử chế độ tỷ giá của Việt nam , chúng ta sẽ nhìn lại từng giai đoạn phát triển chế độ tỷ giá VN để có được sự nhận thức đúng đắn về sự đổi mới từ trong quản lý về vấn đề tỷ giá hối đoái .
+ Giai đoạn 1955- 1989 :
Mặc dù nhiều nước trên thế giới đang áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý nhưng các nước trong hệ thống XHCN với cơ chế kế hoạch hoá tập trung , nhà nước luôn can thiệp mạnh vào mọi hoạt động kinh tế thì quả thực cơ chế hối đoái thả nổi không thể tồn tại và phát huy tác dụng thay vào đó là tỷ giá cố định .
Tỷ giá này được xác định bằng cách so sánh giá bán lẻ của 34 mặt hàng tiêu dùng tại thủ đô và một số tỉnh biên giới nhằm giải quyêt nhu cầu thanh toán giữa hai nước trong những năm kháng chiến chống Pháp . N hư vậy chế độ tỷ giá này đã gây khong ít khó khăn cho quản lý điều hành của nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ , kinh tế đối ngoại , đồng thời để lại hậu quả nghiêm trọng cho nềnkinh tế . Chính vì vậy , nhu cầu đổi mới cơ chế tỷ giá nói riêng , đổi mới lĩnh vực tài chính nói chung trở thành vấn đề cấp bách .
+ Thời kỳ “thả nổi” tỷ giá hối đoái 1989- 1992
Trong giai đoạn này TGHĐ VND/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng USD tăng liên tục kèm theo các cơn sốt .
Tỷ giá hối đoái VND /USD từ năm 1989 đến năm 1992
Tháng 1 Tháng3 Tháng 6 Tháng 9 Tháng12 1989
-Ngân hàng 3500 4200 4350 4100 4200
-Tư nhân 5200 5350 4400 4225 4575
1990
- Ngân hàng 4300 4300 4800 5750 6650
-Tư nhân 4650 4450 5600 6300 7050
1991
-Ngân hàng 7000 7400 8300 10700 12900
-Tư nhân 7400 7900 8830 11050 12550
1992
- Ngân hàng 11880 11550 11285 10950 10720
-Tư nhân 12200 11550 11290 10980 10650
Trong thời kỳ này nhà nước đã có nhiều thay đổi trong quản lý tỷ giá , từ hình thức quản lý theo tỷ giá kết toán nội bộ bình quân cho tất cả các nhóm hàng sang tỷ giá theo nhóm hàng hóa và duy trì tương đối ổn định tỷ giá này . Nhưng chúng ta thấy vẫn còn có sự chênh lệch lớn giữa nhà nước và thị trường trong vấn đề tỷ giá . những quan điểm về quản lý của chính phủ không có kết qủa , ngân hàng không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ .
Như vậy , mặc dù trên danh nghĩa nhà nước thi hành cơ chế quản lý chặt chẽ tỷ giá bị thả nổi do cơ chế quản lý tỷ giá chậm sửa đổi .
Từ tình hình trên đã tác động nghiêm trọng đến xuất khẩu – nhập khẩu :
1986 1989 1990 1991 1992
Xuất khẩu 282,5 548,6 214,5 214,5 119
Nhập khẩu 1434,2 1209.5 357 357 91,1
Cân đối -1151,7 -319,8 -319,8 -124,5 27,9
Tình trạng giá USD leo thang,đồng Việt nam mất giámạnh và giá nhập khẩu tăng nhanh đã thúc đẩy lạm phát . Trướctình hình đó từ năm 1992 chính phủ đã chọn con đường thay đổi cách quảnh lý ngoại tệ và đổi mới cơ chế điều hành TGHĐ VND/USD với nội dung là :
Thay thế biện pháp hành chính , bắt buộc các đơn vị KTQD có ngoại tệ phải bán cho ngân hàng theo tỷ giá ấn định , bằng biện pháp kinh tế: mở trung tâm giao dịch ngoại tệ cho các doanh nghiệp và các ngân hàng trao đổi mua bán ngoại tệ với nhau , trung tâm giao dịch tại TP HCM được mở từ 8/1991
Bãi bỏ hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh toán ngoại thương giữa ngân sách với các tổ chức kinh tế tham gia xuất – nhập khẩu.Thay vào đó trên cơ sở tỷ giá hình thành tại các phiên giao dịch ngoại tệ , ngân hàng nhà nước công bố tỷ giá chính thức .
Cơ chế hình thành và quản lý TGHĐ mềm dẻo như trên cộng với sự can thiệp điều tiết của nhà nước đối với lượng ngoại tệ mua bán tại các phiên giao dịch đã giải toả được tâm lý đầu cơ ngoại tệ ngaưn được xu hướng tăng quá mức giá USD Mỹ trên thị trường . Từ tháng 3/1992 chỉ còn 11550VND/USD .
+ Quá trình đi tới một cơ chế tỷ giá xác định trên cơ sở thị trường giai đoạn sau 1992 :
Sau giai đoạn 1989- 1992 , phương pháp “ đồng sức mua” được loại bỏ , thay vào đó ngân hàng nhà nước xây dựng tỷ giá chính thức dựa trên một loạt các yếu tố :
Biến động cua chỉ số giá cả
Tình hình cán cân thanh toán
Mục tiêu của chính sách tiền tệ
Biến động tỷ giá ngoại tệ ở thị trường tự do
Cũng từ đó , giá chính thức được điều chỉnh một cách linh hoạt khong còn cố định trong mọt thời gian dài như trước đây nữa . Từ đó tỷ giá VND/USD dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ của các doang nghiệp được giải toả khỏi yếu tố đầu cơ , hướng mạnh vào kinh doanh xuất khẩu . Đồng thời , lượng ngoại tệ từ bên ngoài vào nhiều nên tình hình cung cầu ngoại tệ có nhiều biến động , cung lớn hơn cầu .
Cuối năm 1992 trên thị trường ngoại tệ diễn ra tình trạng cung lớn hơn cầu làm giá USD giảm mạnh , điều này tác động xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức , nên ngân hàng nhà nước phải can thiệp nhằm tăng giá USD
2\ Đánh giá chế độ tỷ giá hiện hành .
Việc theo đuổi một cơ chế điều tiết tỷ giá phản ánh đúng giá trị là mục tiêu của quản lý vĩ mô . Việt nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó , chính vì vậy kể từ khi tỷ giá hối đoái được ngân hàng trung ương công bố vào năm 1955 tới nay tỷ giá đã trải qua rất nhiều lần điều chỉnh với các chế độ tỷ giá khác nhau nhằm hoàn thiện dần .
Lần đầu tiên tỷ giá được điều chỉnh vào 5/1987 đã rút ngắn khoảng cách chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường xuống còn 2,1 lần . Thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán vãng lai được cải thiện . Xuất khẩu tăng 10% , nhập khẩu chi tăng 2,8% , thâm hụt thương mại so với xuất khẩu giảm từ 47,6% năm 1986 còn 8,1% năm 1987 .
Tiếp theo lần điều chỉnh tỷ giá vào tháng 1/1988 đã có những tác động tích cực đến hoạt động xuất khẩu , cán cân thương mại . Lần điều chỉnh này đã rút ngắn khoảng cách chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường xuống còn 1,6 lần . Đến tháng 5/1989 chênh lệch tỷ giá giữa ngân hàng thương mại VN và thị trường chỉ còn 10%– 15% , và đến cuối năm 1991 , đầu năm 1992 , tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường gần sát nhau . Do đó tình hình ngoại thương đã được cải thiện đáng kể : thâm hụt thương mại năm 1989 chỉ còn 0,8% , năm 1990 là 2,5% , năm 1991 là 3,2% và năm 1992 là 2,4% so với xuất khẩu , tăng trưởng kinh tế cao : 6% năm 1991 và 8,6% năm 1992.
Trong suốt 5 năm ( 1992- 1996 ) thế giới gần như bị đóng băng và tình hình thương mại và cán cân thanh toán lại xấu đi : thâm hụt thương mại trong những năm này đã lên mức hai con số , năm 1993 là 18,2% , năm 1994 là 29,5% , năm 1995 là 45,1% , năm 1996 là 43% , tổng thâm hụt thương mại từ năm 1994 – 1997 khoảng 8 tỷ USD .
Những lần điều chỉnh tỷ giá vào những năm 1997,1998 và việc thay đổi cơ chế xác định tỷ giá đã làm cho tỷ giá trở nên linh hoạt hơn và thâm hụt thương mại giảm đáng kể .Sự thay đổi cơ chế xác định tỷ giá giai đoạn 1997 – 1999 được đánh dấu bởi quyết định số 64/ 1999/QĐ - NHNN về cơ chế xác định tỷ giá . Theo đó NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất.
Như vậy dưới cơ chế này , tỷ giá được công bố thực sự phản ánh trung thực tình hình thị trường ngoại tệ gần nhất trước đó . Qua đây cũng thấy được vai trò chủ động kiểm soát tỷ giá của ngân hàng nhà nước đã được khẳng định
Mặt khác NHNN còn công bố biên độ dao động tỷ giá , thiết nghĩ là rất cần thiết , khoảng dao động này là 0,1%.
Bằng các biện pháp và cơ chế trên đã làm cho tỷ giá trở nên kinh hoạt hơn , thâm hụt thương mại giảm đi đáng kể , tốc độ tăng trưởng xuất khẩu được duy trì : năm 1997 thâm hụt thương mại là 15,2% , năm 1998 là 8,5% , năm 1999 là 1% . tốc độ tăng trưởng xuất khẩu năm 1997 là 26,6% , năm 1988 là 19% , năm 1999 là 23,3% và năm 2000 là 25% .
+ Tác động tới các doanh nghiệp Việt nam :
Kể từ đợt điều chỉnh tỷ giá tháng 8/ 1998 cho tháy xuất khẩu của một số mặt hàng đã tăng so với tháng 7/ 1998 như : gạo tăng 75% , cà phê tăng 43% , cao su tăng 73% , hạt điều tăng 24% , che tăng 20% , than đá tăng 3% …
Ngoài ra điều chỉnh tỷ giá còn làm giảm lỗ , và một số mặt hàng đang bị lỗ chuyển sang có lãi . Đối với nhập khẩu , việc giảm giá đồng nội tệ đã có tác dụng làm giảm nhập khẩu 8% trong tháng8/1998 . Trong số 33 danh mục hàng nhập thì có tới 21 mặt hàng giảm nhập so với tháng 7/1998 .
Nhưng mặt khác , việc điều chỉnh tỷ giá đã làm tăng chi phí sản xuất đối với nhiều doanh nghiệp , đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng vật tư , nguyên liệu ngoại nhập trong đó phải kể đến ngành xang dầu ,sản phẩm đều phải nhập bằng ngoại tệ bán trong nước thu VND mà giá lại không được phép tăng .
Nhiều doanh nghiệp ngành dệt may cũng bị thua thiệtdo giá nguyên liệu tăng cao. Đối với ngành sản xuất đường, chi phí đã tăng 1,5%, chi phí xi măng tăng từ 1,7% từng nhà máy , giá thành điện tăng0,78%….Tính chung , giá thành sau một tháng chuyển đổi tăng 1,1%( số liệu 8/1998 ).
Qua xem xét quá trình điều hành tỉ giá giai đoạn trước đây kết hợp với kinh nghiệm của các nước đang phát triểnkhu vực Đông nam á trong thời gian gần 30 năm, căn cứ vào thực trạng và điều kiện cụ thể của nước ta thì chế đọ tỷ giá hối đoái hiện hành của nước tavề cơ bản đều được thống nhất là phù hợp.
Tuy nhiên, đi sâu vào phân tích vẫn còn có những quan điểm khác nhau về chế độ tỷ giá hiện nay ở Việt Nam.
Mặc dù thời gian gần đây, hoạt động xuất khẩu của chúng ta được chính phủ đặc biệt quan tâm và có nhiều giải pháp hỗ trợ song vẫn còn gặp khó khăn… Nhiều nhà kinh tế đã cho rằng, mức tỷ giá hối đoái hiện nay là chưa hợp lý, đồng tiền Việt Nam được định giá quá cao so với thực tế.Về nguyên tắc, nếu đồng nội tệ được đánh giá quá cao so với đồng ngoại tệ thường tạo ra các xu hướng:
+ Xuất khẩu sẽ không có lợi do đó không khuyến khích xuất khẩu, làm triệt tiêu các ý tưởng đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu, do đó khó chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất phuc vụ xuất khẩu.
+ Nhập khẩu có cơ hội mở rộng gây tình trạng nhập khẩu tràn lan.
+ Dễ gây tình trạng nhập siêu, thâm hụt cán cân thương mại và cán cân tài khoản vãng lai.
+ Các khoản vay nợ nước ngoài sẽ không được chú trọng sử dụng hiệu quả, không tính đúng giá trị của các khoản đi vay, hay giá trị thực của các khoản đi vay bị đánh giá thấp gây lãng phí, tạo gánh nặng nợ nần cho các thế hệ sau.
Đối với nhận định cho rằng đồng Việt Nam được đánh giá quá cao so với giá trị thực của nó. Nếu xét trên phương diện lý thuyết thuần tuỷtong phạm vi ngoại thương thì đúng làVND lên giá khá nhanh. Tuy nhiên, nếu xét trên phương diện kinh tế vĩ mô và từ góc độ thực tiễn thì sự khẳng định trên có những điểm không chắc chắn:
Thứ nhất: Cơ sở để đưa ra kết luận VND lên giá nhanh là thuyết ngang giá sức mua và biểu hiện VND được địng giá trên giá trị là thâm hụt cán cân thương mại. Tuy nhiên, còn một điều là ngoại thương Việt Nam có mức tự do còn thấp, việc luân chuyển vốn còn bị khống chế khá chạt chẽ, ngoại hối còn bị kiểm soát, đặc biệt là cơ cấu giá của Việt Nam còn khác biệt so với các nước trong khu vực và các nước phát triển trên thế giới. Vì vậy, việc ứng dụng thuyết ngang giá sức mua là không hợp lý. Từ đó, kết quả tính toán chỉ cho phép xác định xu hướng phát triển chứ không cho phép khẳng định là nhanh hay chậm. Còn về quan hệ với cán cân thương mại thì thực tế là còn có nhiều yếu tố khác có tầm quan trọng lớn hơn, trực tiếp hơn tỷ giá.
Thứ hai: Giả sử thừa nhận mô hình tính toán là hợp lývà số liệu tính toán là khả thi thì việc kết luận VND lên giá nhanh hay chậm còn phụ thuộc vào thời điểm so sánh.
Nhưng nếu như dựa vào phương pháp đồng sức mua để tính toán và đưa ra kết luận là đồng Việt Nam được đánh giá cao hơn giá trị thực của nó thì có thể có một chỉ số đáng tin cậy về mức độ đánh giá cao hơn giá trị của VND bằng cách so sánh diễn biến tỷ giá hối đoái thực tại một số nước tronh khu vực ĐNá kể từ khoảng giữa năm 1997. Tính từ khi sảy ra cuộc khủng hoảng tài chính Châu á cho đến cuối tháng 2/1998 VND đã được lên giá khoảng 15% tính theo tỷ giá hối đoái thực , trong khi các đồng tiền của một số nước láng giềng đã bị giảm giá khoảng 25%-35%. Đồng tiền của nhiều nước trong khu vực so với USD đã bị mất giá mạnh, chíng vì thế đồng tiền của ta so với các nước này vô hìng chung đã tăng giá lên đáng kể.
Bảng sau cho ta thấy rõ hơn sự thay đổi giá trị của một số đồng tiền trong khu vực so với Đô-la Mỹ và so với đồng Việt Nam :
Thay đổi tỷ giá hối đoái trong khủng hoảng tài chính Châu á đến tháng 1/2001
So sánh với đồng USD So sánh với đồng Việt Nam
(% thay đổi giá trị ) ( %thay đổi giá trị )
12/96 – 1/01 7/97 – 1/01 12/96 – 1/01 7/97 – 1/01
Việt Nam - 24 -20
Philippin - 48 -48 - 31 -35
Malaixia - 33 -34 - 13 -17
Thái Lan - 40 -41 - 22 -27
Singapore - 19 -17 + 6 +3
Indonexia - 75 -74 - 67 -68
Hongkong - 1 -1 + 30 +24
(Nguồn số liệu: UNDP)
Tóm lại: Đồng tiền Việt Nam đươc đánh giấ cao hơn giá trị thực của nó đối với các đòng tiền trong khu vực gây tác động bất lợi cho xuất khẩu.
*Vậy có nên phá giá vào thời điểm này?
Trong những năm qua, nền kinh tế của chúng taphát triển tương đối ổn định và bền vững. Có được kết quả đó là nhờ chính phủ có những chính sách điều tiết nền kinh tế vĩ mô hết sức hiệu quả. Trong đó có biện pháp khuyến khích xuất khẩu của chính phủ. Điều này chỉ làm được khi hàng hoá của Việt Nam tăng được khả năng cạnh tranh với hàng ngoại. Do đó, chính phủ đã sử dụng biện pháp điều chỉnh tỷ giá theo hướng đánh giá thấp đồng bản tệ. Mặc dù biện pháp này có thể dễ gây ra lạm phát, chi phí đấu vào của các doanh nghiêp có thể tăng, nợ nước ngoài tính bằng nội tệ tăng lên, thu nhập của người lao động qua đổi rs ngoại tệ giảm… song đó là điều kiện cần thiêt để chuyển dịng cơ cấu kinh tế sang hướng xuất khẩu, phát triển nền kinh tế theo hướng mở cửa và hội nhập quốc tế . Hơn nữa, trong vài năm trở lại đây, lạm phát không phải là mối lo ngại của chúng ta, bởi xu hướng giảm phát đang sảy ra trong nền kinh tế. Đồng thời, khối lượng nợ nước ngoài của ta tính đến cuối năm 2000 là gần 9 tỷ USD ( khoảng 30% GDP ) là nằm trong phạm vi cho phép.
Đối với Việt Nam, việc giảm giá đồng tiền sớm muộn cũng diễn ravà sẽ nhất tác động thuận và không thuận đến nền kinh tế. Nhưng nếu ta chọn đúng thời điểm thì kết quả mang lại sẽ cao.
Còn về vấn đề phá giá đồng Việt Nam, nhóm chuyên gia cố vấn của Ngân hàng Pháp tại Việt Nam sau khi phân tích tình hình kinh tế tài chính đã cho rằng:” Không có lý do gì mà lại nghĩ tới phá giá VNĐ “ vì:
+Sự gần gũi và hoà quyện vào nhau giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường phi chíng thức chính là thức đo tuyệt vời về giá trị của đòng tiền.
+Việt Nam với thị trường tài chính vận hành tốt đã tạo dụng hình ảnh tốt đẹp thuyết phục các tổ chức tài chính quốc tế( IMF, ADB….) nếu ta phá giá sẽ có tác động xấu khó lườngcả trong và ngoài nước, làm cho quá trình đô-la-hoá nền kinh tế thêm trầm trọng.
+Với cơ cấu, chất lượng, mẫu mã hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam như hiện nay, trong tương lai gần thì sự phá giá sẽ chẳng đem lại lợi ích gì ngoài sự bất ổn ra tăng của môi trường kinh tế vĩ môvà dù sự phá giá của đồng Việt Nam đến mức nào chăng nữa cũng chẳng có tác động đến thị trường quốc tế và cầu về hàng hoá Việt Nam không vì thế mà tăng lên
Một số giải pháp về cơ chế mới về tỷ giá hối đoái:
Để cơ chế mới vể tỷ giá có thể phát huy được tác dụng cần thiết phải có các giải pháp.
+ Thứ nhất : Ngân hàng Nhà nước phải có dự trữ ngoại tệ đủ mạnh.
Khi cung cầu ngoại tệ trên thị trường thay đổi thì tỷ giá trên thị trường cũng thay đổi,nếu Ngân hàng Nhà nước muốn giữ tỷ giá ổn định thì buộc phải can thiệp.Nếu cung lớn hơn cầu Ngân hàng Nhà nước chỉ việc tung VNĐ ra mua ngoại tệ làm tăng dự trữ ngoại tệ của mình.Nhưng ngược lại nhu cầu ngoại tệ cao hơn cung ngoại tệ thì không còn cách nào khác để giữ tỷ giá NHNN buộc phải tung ngoại tệ ra bán.Không hẳn như vậy,việc dự trữ ngoại tệ còn phải đủ mạnh để sẵn sàng đối phó với những âm mưu kích động yếu tố đầu tư trên thị trường.Nếu dự trữ ngoại tệ không đủ mạnh để can thiệp những lúc cần thiết thì hoặc là phải quy lại điểm xuất phát-dùng biện pháp hành chính để giữ tỷ giá hoặc là thả cho tỷ giá tự do trôi nổi.Thái Lan là một thí dụ.
+ Thứ hai: Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá.
Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ ràng buộc khá chặt chẽ,nếu tỷ giá có xu hướng giảm thì người ta bắt đầu quan tâm đến lãi suất nếu lãi suất có xu hướng giảm thì ngược lại người ta lại quan tâm đến tỷ giá.Vì vậy quan tâm đến tỷ giá thì không thể không quan tâm đến lãi suất và ngược lại.
+ Thứ ba: Hoàn thiện cơ chế quản lí ngoại hối.
Để NHNN có được lượng dự trữ đủ mạnh thì cần có biện pháp hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối.
Hiện nay chính phủ đã đưa ra một số văn bản điều chỉnh lĩnh vực quản lý ngoại hối rất cơ bản như :Nghị định số 63/1998/NĐ ngày 17/8/98;quyết định số 173/1998/QD-TTg ngày 12/9/98 trong đó có những quy định thông thoáng hơn về quản lý ngoại tệ như là: Các doanh nghiệp phải thực hiện kết hối thay vì chỉ được để số dư tối thiểu tiền gửi ngoại tệ trên tài khoản,đó là phải bán ngay cho ngân hàng số ngoại tệ có được trong một khoảng thời gian xác định,tỷ giá kết hối lúc đầu là 100% sau giảm xuống còn 80% và hiện nay là 40%;quy định về giới hạn tối đa ngoại tệ cá nhân mang theo khi xuất cảnh không phải khai báo là 3000USD.
+Thứ tư: Khống chế mức lạm phát trong nước.
Lạm phát là nhân tố ảnh hưởng cùng chiều với tỷ giá hối đoái danh nghĩa của đồng nội tệ kéo theo sự giảm giá của đồng nội tệ (tỷ giá hối đoái tăng). Nếu không khống chế được lạm phát thì những diễn biến trên thị trường ngoại hối vàtỷ giá hối là khó kiểm soát được, dẫn đến những diễn biến ngoài mong muốn của chính phủ trong việc quản lý ngoại hối và tỷ giá hối đoái.
+Thứ năm: Xây dựng thị tiền tệ , tài chính và hệ thống ngân hàng đủ mạnh để đảm bảo khả năng hoà nhập của Việt Nam vào cộng đồng tài chính khu vực và thế giới.
Trên đây là một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý hối đoái . Hy vọng là chúng sẽ góp phần vào sự hoàn thiện cơ chế tỷ giá hối đoái của Việt Nam đáp ứng được sự vận hành của thị trườngTC-TT trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế.
Phần III : Kết luận
Thực tiến nước ta và kinh ngiệm quốc tế những năm vừa qua cho thấy giá, chính sách tỷ giá với tư cách là công cụ điều chỉnh vĩ mô có vai trò ngày càng lớn đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia, nhất là trong quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế. Là một quốc gia đang tiến hành cải cách mở cửa kinh tế ( trong đó chỉ riêng kim ngạch buôn bán với nước ngoài đã đạt tới gân 60% GDP) và hội nhập ngày càng đầy đủ vào hợp tác kinh tế quốc tế, chúng ta không thể không quan tâm đúng mực với vấn đề tỷ giá hối đoái.
Hy vọng với đề tài” Chính sách tỷ giávà tác động của nó tới hoạt động của các doanh nghiệp ở Việt Nam”chúng tôi có thể góp một phần nhỏ để hoàn thiện cơ chế tỷ giá của Việt Nam.
Hà Nội ngày 15 tháng 4 năm 2002
Nhóm sinh viên lớp TC 42C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32344.doc