Đề án Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại, với Việt Nam đã trở thành nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế nhất là trong điều kiện đất nước đang thực hiện quá trinh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thực tế cho thấy, những gì mà nước ta đạt được từ qua trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu kinh tế to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong thời gian qua. Tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều điều bất cập, thiếu sót trong tiến trình hội nhập. Từ những gì đã đạt được cho thấy Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có đủ bản lĩnh và khả năng khai thác lợi thế, đồng thời đối phó với thách thức của quá trình hội nhập quốc tế. Truyền thống kiên cường của dân tộc đã đánh thắng các thế lực xâm lược có tiềm lực quân sự hùng mạnh và thành tựu vượt bậc trong hơn mười năm thực hiên công cuộc đổi mới là hai tiền đề quan trọng để ta hoàn toàn hy vọng và quyết tâm vươn lên trong hội nhập kinh tế quốc tế.

doc30 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1464 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tính toàn cầu này đã thể hiện ngay từ khâu sản xuất đến khâu phân phối. Nhiều công nghệ ngay từ khi mới ra đời đã có tính toàn cầu như công nghệ vệ tinh viễn thông ... đang bắt đầu xuất hiện. Chính công nghệ toàn cầu phát triển này là cơ sở quan trọng đầu tiên, đặt nền móng cho sự đẩy mạnh quá trình toàn cầu hoá. b. Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển Một nền công nghệ toàn cầu là cơ sở cho các quan hệ kinh tế toàn cầu phát triển. đầu tiên là các quan hệ thương mại. Chi phí vận tải, liên lạc càng giảm đi thì khả năng bán hàng đi các thị trường xa càng tăng lên, quan hệ thương mại toàn cầu ngày càng phát triển. Đồng thời quá trình phân công, chuyên môn hoá sản xuất càng có thể diễn ra giữa các quốc gia và châu lục. Các linh kiện của máy bay, ô tô, máy tính... đã có thể sản xuất ở hàng chục nước khác nhau. Các quan hệ sản xuất, thương mại có tính toàn cầu đã kéo theo các dòng tiền tệ, vốn, dịch vụ... vận động trên phạm vi toàn cầu. Ngày nay lượng buôn bán tiền tệ toàn cầu một ngày đã vượt quá 1500 tỷ USD . thương mại điện tử xuất hiện với kim ngạch ngày càng tăng và đang trở thành một loại hình buôn bán toàn cầu đầy triển vọng. c. Những vấn đề toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc và ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia Chúng ta có thể kể ra hàng loạt các vấn đề toàn cầu như : thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường... Môi trường toàn cầu ngày càng trở nên ô nhiễm trầm trọng; các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị cạn kiệt; dân số thế giới gia tăng một cách chóng mặt trở thành một thách thức toàn cầu; các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở châu Âu, châu Mỹ, châu á trong thập kỷ 90. Chính vì vậy mà cần có sự phối hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. Ngoài ba căn cứ chính trên đây thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá phát triển, còn có thể kể đến các căn cứ khác như: chiến tranh lạnh chấm dứt đầu thập kỷ 90 đã kết thúc sự đối lập giữa các siêu cường, tạo ra một thời kỳ hoà bình hợp tác và phát triển mới. Như vậy toàn cầu hoá là xu thế tất yếu biểu hiện sự phát triển nhảy vọt của quan hệ sản xuất do phân công lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi toàn cầu dưới tác động của cách mạng khoa học công nghệ và tích tụ tư bản. còn hội nhập kinh tế quốc tế là một nội dung cơ bản của quá trình toàn cầu hoá có xu hướng hình thành nền kinh tế toàn cầu thống nhất. 2. Tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế Như chúng ta đã biết toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế phát triển tất yếu của thế giới và nó đã, đang có những tác động ngày càng rõ ràng, sâu rộng, mà biểu hiện tập trung ở hai phương diện : kinh tế và chính trị. Thứ nhất toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới lên mức cao ( vào nửa đầu thế kỷ XX, GDP của thế giới tăng 2,7 lần, đến nửa cuối tăng 5,2 lần). Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tác ( chiếm 21,4% ) và các dịch vụ ( 62,4% ) trong cơ cấu kinh tế thế giới. Thứ hai, dưới tác động của toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, các thị trường thế giới từng bước được thống nhất và ngày càng phát triển. Với xu thế đó, nó sẽ tạo ra một sự loại bỏ các rào cản và có một sự điều chỉnh trong quy tắc vận hành. Trước hết khi thị trường thế giới thống nhất và phát triển thì các rào cảc thương mại sẽ từng bước bị loại bỏ, một trong những thành công trong phương diện này là sự ra đời của tổ chức thương mại thế giới (WTO) ngày 1/1/1995 và tiếp theo là giảm thuế quan giữa các thành viên WTO xuống mức bình quân là 3% đối với các nước phát triển và dưới 15% đối với các nước đang phát triể. Đồng thời do giá thành vận tải thưong mại quốc tế liên tục hạ, hiện nay chỉ còn chiếm khoảng 2% giá trị sản phẩm trong khi tỷ lệ xuất khẩu vẫn không ngừng tăng, năm 1998 là 24,3%, dự đoán đến năm 2005 sẽ là 28%. Theo thống kê cuả bộ kinh tế Pháp cùng với công ty Anđasen và hội nghị phát triển thương mại liên hợp quốc tiến hành từ năm 1996 đến năm 2002 với 300 công ty lớn đã cho thấy, tỷ trọng buôn bán của các công ty con đặt tại nước ngoài trong tổng kim ngạch của các công ty mẹ tăng từ 47% lên 56%, tỷ trọng giá trị sản phẩm từ 35% lên 45%. Mạng lưới sản xuất mang tính toàn cầu đang và sẽ thực sự “kết nối” thế giới.Thương mại phát triển khiến thị trường thế giới thống nhất hơn, xu thế thống nhất lại đòi hỏi loại bỏ các hàng rào thương mại. Thứ ba, toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình nhất thể hoá kinh tế phát triển nhanh chóng, trao đổi kinh tế giữa các khu vực ngày càng quan trọng, tăng thêm sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế và các khu vực kinh tế. Theo thống kê của Liên hợp quốc trong những năm 60 có khoảng 19 tổ chức nhất thể hoá kinh tế khu vực, những năm 70 có 28 tổ chức, những năm 80 con số này là 32 và những năm 90 đã lên tới gần 60 tổ chức với hơn 160 nước tham gia với các loại hình và mức độ khác nhau. Sự gia tăng các tổ chức nhất thể hoá kinh tế đã góp phần thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế, việc giao lưu trao đổi các hoạt động kinh tế để tìm kiếm lợi ích giữa các nền kinh tế, các khu vực kinh tế ngày một gia tăng, khiến cho nền kinh tế mỗi quốc gia, mỗi khu vực trở thành một bộ phận của kinh tế thế giới, hình thành một cục diện kinh tế thế giới mới. Một cục diện trong đó các thành viên tồn tại trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau, cùng phát triển. Nó cho phép giảm thiểu các chướng ngại trong việc lưu chuyển vốn, hàng hoá, dịch vụ, nguồn nhân lực ... giữa các nền kinh tế, các khu vực kinh tế, làm tăng vai trò kinh tế đối ngoại, mậu dịch và đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của mỗi nước, làm cho việc phân bố các nguồn lực trên thế giới hợp lý và có hiệu quả hơn. Thứ tư, với sự gia tăng của quá trình toàn cầu hoá kinh tế, hàng rào phi thuế quan sẽ thịnh hành hơn. trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, mỗi nền kinh tế phải tính toán chiến lược để đẩm bảo an toàn vế kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh quốc gia, vì thế hàng rào phi thuế quan sẽ là công cụ được ưa chuộng hơn cả. hiện nay đã có hơn 1000 loại hàng rào phi thuế quan. Song theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế, loại hình hàng rào phi thuế quan sẽ còn phát triển mạnh trong thập kỷ tới, mà chủ yếu tập trung trên các phương diện như : hàng rào bảo vệ môi trường ; hàn rào thông tin; hàng rào công nghệ thương mại... Thứ năm, toàn cầu hoá sẽ làm gia tăng tỷ trọng các loại hình đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ. Đầu những năm 90, có khoảng 50,17% vốn đầu tư nước ngoài của các nước phát triển dành cho các ngành dịch vụ, tỷ trọng đó của các nước đang phát triển cũng là 29,5%. Sở dĩ như vậy vì các ngành công nghiệp hiện nay phần lớn đã ở tình trạng bão hoà, ít không gian mới, trong khi đó các ngành dịch vụ được xây dựng trên nền tảng vốn doanh nghiệp, chu kỳ kinh doanh ngắn, hiệu quả kinh doanh cao nên các nhà đầu tư thích bỏ vốn vào lĩnh vực này. Trong hội nghị tổ chức thương mại thế giới, thương mại dịch vụ là một trong ba đề tài lớn, điều đó đủ thấy sự phát triển của nó, vì vậy xu thế đầu tư và các ngành dịch vụ sẽ có thể tăng khá nhanh trong những thập kỷ tới. Trong điều kiện hiện nay, có thể nói toàn cầu hoá phát triển chưa đầy đủ, nhà nước dân tộc vẫn là chủ thể trong cộng đồng quốc tế. Một số nước lớn và một số tập đoàn kinh tế của các nước lớn, xuất phát từ việc duy trì lợi ích quốc gia và lợi ích tập đoàn có thể có những can thiệp xuyên quốc gia đối với các nước khác; hay nói cách khác trong quá trình bành trướng ra toàn cầu, các nước và các công ty xuyên quốc gia, vì lợi ích của mình có thể lợi dụng sức mạnh kinh tế để thực hiện nhưng can thiệp chính trị đối với các nước khác. Như vậy toàn cầu hoá cũng có những ảnh hưởng đến chính trị, ta có thể thấy những xu hướng sau: Thứ nhất, cán cân sức mạnh của các nước lớn, các tập đoàn kinh tế mạnh sẽ quyết định cục diện chính trị toàn cầu. Bằng sức mạnh kinh tế của mình, họ sẽ chi phối phần lớn thị trường thế giới, nắm vị trí chủ yếu trng việc tổ chức sản xuất, phân luồng và giao lưu hàng hoá trên phạm vi toàn cầu. Do đó với danh nghĩa phát triển quá trình toàn cầu hoá và dưới chiêu bài bình đăng, tự do, các nước có tiềm lức kinh tế mạnh sẽ áp đặt chủ nghĩa bá quyền về chính trị trên phạm vi toàn cầu. Nhìn lại lịch sử thế giới, nhất là lịch sử thế giới cận đại và hiện đại, chúng ta đều thấy phát triển kinh tế bao giờ cũng có ảnh hưởng tới chính trị và ngược lại. Toàn cầu hoá kinh tế không nằm ngoài sự vận động đó. Sự thực trong quá trình toàn cầu hoá, Mỹ và phương Tây vẫ luôn hô hào toàn cầu hoá, thông thoáng thị trường thế giới, nhưng chính Mỹ và một số nước khác lại đồng loã, thậm chí lôi kéo cả các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc vào việc sử dụng các chính sách và các vũ khí như cấm vận, tẩy chay, làm “băng giá” các quan hệ, sử dụng vũ khí lương thực, công nghệ, tài chính, tiền tệ... chính trị hoá các vấn đề kinh tế. Theo thống kê của chính phủ Mỹ, kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay Mỹ đã thực hiện 115 lần cấm vận đối với các nước khác. Hiện nay có 75 nước với 52% dân số thế giới chịu cấm vận của dưới nhiều hình thức khác nhau mà phần lớn trong đó do Mỹ đơn phơng cấm vận. Nước Mỹ dựa vào sức mạnh kinh tế để xâm phạm chủ quyền các nước, mà gần đây nhất là chính quyền của tổng thống Bush phát động cuộc chiến tranh chống Irăc dù không hề có một bằng chứng rõ ràng nào về việc Irăc sản xuất vũ khí hạt nhân. Như vậy trong quá trình toàn cầu hoá Mỹ, Nhật Bản và một số nước châu Âu với vị thế là cường quốc kinh tế các nước này có thể áp đặt nhiều quy tắc chuẩn mực buộc các nước khác phải tuân theo. Thứ hai, độc lập chủ quyền quố gia chỉ là tương đối, nhượng bộ chủ quyền là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, mức độ và phạm vi nhượng bộ sẽ khác nhau, tuỳ điều kiện và quan điểm của từng nước. Các nước đang phát triển, do yếu kém về kinh tế, để nhận được viện trợ buộc phải nhượng bộ một phần chủ quyền. Thứ ba, những nhân tố không ổn định trên phạm vi thế giới có thể sẽ gia tăng. Lợi ích của các nước nhỏ, nước yếu bị tổn hại, vì vậy các hình thức phản đối toàn cầu hoá ngày một gia tăng nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Các nhân tố không ổn điịnh trong các nước nghèo như nội chiến, đảo chính, biến động chính trị, bạo lực, tội phạm ... khó có thể được giải quyết triệt để. Hơn nữa, sức mạnh kinh tế bên ngoài chi phối, và sự tranh giành kiếm lời của các thế lực càng tạo thêm những khó khăn ngày một nhiều hơn.Chúng ta có thể thấy rõ biểu hiện này qua các cuộc biểu tình của các tổ chức phản đối toàn cầu hoá với đông đảo thành viên tham gia, những hành động khủng bố, mà tiêu biểu là vụ khủng bố ngày 11/9/2001 tại toà nhà thương mại thế giới (WTC) NewYork – Mỹ. Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng ngoài những yếu tố tích cực, toàn cầu hoá cũng là một quá trình chứa đầy những nguy cơ: xu hướng thống trị thế giới của một nhóm nhỏ các nước đang ngày một hiện rõ. Trước tình hình đó, toàn thế giới phải có được quan niệm mới về phát triển, một sự phát triển bền vững trong đoàn kết. 3. Các hình thức hội nhập Những hình thức hội nhập quốc tế hiện tại đang phát triển rất đa dạng. Ta có thể kể ra các hình thức chủ yếu sau: a. Các hiệp nghị thương mại song phương Cho đến nay các hiệp nghị thương mại song phương vẫn là hình thức hội nhập quốc tế phổ biến nhất và quan trọng nhất đối với cả các nước phát triển cũng như đang phát triển. Mỹ là nước có nền kinh tế phát triển nhất, đã hội nhập vào kinh tế thế giới với vai trò chi phối, nhưng chủ yếu vẫn dựa trên các hiệp nghị kinh tế hai bên như Mỹ – Nhật, Việt- Mỹ ... Nhật Bản – nước có vị trí kinh tế đứng thứ hai trên thế giới cũng vậy, các nước NIC cũng hội nhập kinh tế quốc tế chủ yếu trên cơ sở các hiệp nghị kinh tế song phương. Những quan hệ hai bên của những quốc gia này cũng đã đủ sức tạo ra lợi thế so sánh. Tuy vậy những hiệp nghị kinh tế dù có rộng lớn đến đâu vẫn có những hạn chế khi phải đối diện với các vấn đề kinh tế toàn cầu, những khối kinh tế hùng mạnh. b. Các khối kinh tế khu vực Cho đến nay đã có hàng chục khối kinh tế khu vực ở khắp năm châu. Những khối kinh tế hoạt động nổi bật hơn cả là EU, NAFTA, AFTA, APEC. Tuy nhiên mức độ hợp tác của các khối kinh tế này cũng rất khác nhau. Có khi chỉ dừng lại ở thoả thuận buôn bán ưu đãi trong khối, có khối đã thoả thuận xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong khối, có khối đã thành lập liên minh thuế quan, hặc đã tạo lập cả một thị trường chung cho phép tự do thương mại hàng hoá, dịch vụ, lao động... Liên minh kinh tế hiện nay là nấc thang của các khối kinh tế. Liên minh châu Âu (EU) bắt đầu hoạt động từ năm 1992 với các chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại, công nghệ, an ninh, chính trị chung ; có quốc hội chung, toà án chung, đồng tiền chung... Các khối kinh tế khu vực ra đời đã có những tác động quan trọng; thúc đẩy tự do hoá thương mại đầu tư; thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường các quốc gia, tạo lập ra những thị trường khu vực rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiến triển. c. Những tổ chức kinh tế toàn cầu Các tổ chức kinh tế có tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế toàn cầu có: Tổ chức thương mại thế giới(WTO), Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF), Ngân hàng thế giới(WB) và một số tổ chức kinh tế của liên hợp quốc như UNDP, G8 ... Tuy nhiên phải thừa nhận rằng cho đến nay mới chỉ có những cam kết quốc tế về mặt thương mại là có tương đối có hiệu lực hơn cả, còn nhiều lĩnh vực cần có những luật lệ toàn cầu hữu hiệu như: chính sách tiền, đầu tư chu chuyển vốn, bảo vệ môi trường, các tiêu chuẩn về lao động và di chuyển lao động quốc tế... hiện nay chưa có các cam kết toàn cầu mang tính luật pháp. Những hoạt động của IMF và WB mới chỉ kiểm soát được phần nào dòng, vốn, tiền tệ chính thức của Nhà nước còn các dòng vốn tư nhân vẫn vận động bên ngoài các vòng kiểm soát. Các tổ chức kinh doanh toàn cầu hiện nay là những công ty xuyên quốc gia đang mở rộng hoạt động khắp các châu lục với số lượng ngày một tăng. Hiện có 60.000 công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh , nắm 25% sản xuất thế giới, kiểm soát 50% mậu dịch quốc tế ; trên 90% vốn đầu tư trực tiếp, trên 80% bản quyền kỹ thuật và công nghệ mới. Có thể nói nếu các nước không có các công ty xuyên quốc gia của mình thì sự hội nhập quốc tế sẽ bị hạn chế chỉ ở hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút các công ty nước ngoài vào nước mình. Sự khiếm khuyết này sẽ làm giảm lợi thế so sánh của các quốc gia. Có thể dự báo là trong một nền kinh tế toàn cầu thống nhất trong tương lai các công ty xuyên quốc gia sẽ là hình thức doanh nghiệp cơ bản. Ngoài những hình thức hội nhập quốc tế trên, người ta còn thấy ngững tam giác, tứ giác vùng ; những thành phố cảng tự do như Hồng Kông, Singapo... là những khu vực mở cửa tự do cho tất cả các công ty của mọi nước đến hoạt động v.v.. II > Việt nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 1. Tính tất yếu phải hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Việt Nam là một trong những nước nghèo nhất trên thế giới, sau mấy chục năm liên tiếp bị chiến tranh tàn phá, nước ta bắt đầu bước vào thực hiện chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, trong điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều thử thách khắc nghiệt. Từ một nền kinh tế tự túc, tự cấp, nghèo nàn lạc hậu bắt đầu mở cửa tiếp xúc với một thị trường rộng lớn – nơi có nhiều quan hệ kinh tế quốc tế cạnh tranh khốc liệt, đang có nhiều quốc gia, tập đoàn kinh tế tư bản giầu mạnh luôn gây sức ép, muốn thao túng cả nền kinh tế tài chính thế giới. Song đứng trước xu thế phát triển tất yếu, là một bộ phận của nền kinh tế thế giới, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác không thể khước từ hội nhập, nước nào đống cửa với thế giới là đi ngược lại xu thế của thời đại và khó tránh khỏi bị rơi vào lạc hậu. Hiện nay đã chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh, một thế giới hoà bình đòi hỏi các nước xích lại gần nhau hợp tác cùng phát triển. Trên thế giới hiện nay quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra hết sức mạnh mẽ, nếu chúng ta có những bước đi hợp lý thì Việt Nam có thể tận dụng những thời cơ thuận lợi để có thể đi tắt, đón đầu, từng bước tiếp cận với nền kinh tế tri thức, từ đó đưa kinh tế đất nước phát triển nhanh và bền vững. 2. Những thời cơ và thách thức đối với Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế a. Những thời cơ mà hội nhập quốc tế mang lại Thực tế cho thấy, tuy mới chỉ ở giai đoạn đầu và thực sự chưa đi vào chiều sâu, nhưng tiến trình hội nhập kinh tế khu vức và quốc tế cùng với quá trình đổi mới trong nước, đã góp phần đưa Việt Nam lên một tầm cao mới, thu được nhiều kết qủa đáng khích lệ trên nhiều lĩnh vực. Đó là do nước ta đã biết khai thác những thời cơ thuận lợi mà toàn cầu hoá mang lại. Hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần mở rộng thị trường xuất, nhập khẩu của Việt Nam , quan hệ bạn hàng được mở rộng. Việc được hưởng những ưu đãi về thuế quan và xoá bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác như tối huệ quốc và đối xử quốc gia, đã tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Chỉ tính trong phạm vi khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) kim ngạch xuất khẩu của ta sang các nước thành viên cũng đã tăng lên đáng kể. Nếu như xuất khẩu sang các nước ASEAN của ta năm 1990 đạt 348,6 triệu USD thì năm 1996 đạt 1777,5 triệu USD và năm 1998 đạt 2349 triệu USD. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước thành viên APEC, ASEM tăng lên đáng kể. Đến nay, ta đã mở rộng quan hệ thương mại với trên 150 nước và lãnh thổ trên thế giới. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần tăng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế. Hiện đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào Việt Nam, trong đó có nhiều công ty và tập đoàn lớn có công nghệ tiên tiến. Điều này góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trông nước theo hướng công nghiệp, phát triển lực lượng sản xuất và tạo thêm công ăn việc làm. Vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 1991-1995 chiếm 25,7% và từ năm 1995 đến nay chiếm gần 30% tổng vốn đầu tư xã hội. Hội nhập kinh tế quốc tế còn góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ nước ngoài của Việt Nam. Trong những năm qua, nhờ phát triển tốt các mối quan hệ đối ngoại song phương, đa phương các khoản nợ nước ngoài cũ của Việt Nam về cơ bản đã đựơc giải quyết thông qua câu lạc bộ Paris, London và đàm phán song phương. điều đó góp phần ổn định các cân thu chi ngân sách, tập trung nguồn lực cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội trong nước. Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế cũng tạo điều kiện cho ta tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến, đào tạo cán bộ quản lý và cán bộ kinh doanh. Trong những thập niên qua, cuộc cách mạng khoa họ kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin và viễn thông phát triển mạnh, làm thay đổi bộ mặt kinh tế thế giới và đã tạo điều kiện để Việt Nam tiếp cận những phát triển mới này. Sự xuất hiện và đi vào hoạt động của nhiều khu công nghiệp mới và hiện đại như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng... và những liên doanh trong ngành công nghiệp dầu khí đã minh chứng điều đó. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trong nhiều lĩnh vực. Phần lớn cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, các nhà kinh doanh đã được đào tạo cả ở trong nước và ngoài nước. Chỉ tính riêng trong các công trình đầu tư nước ngoài đã có khoảng 30 vạn lao động trực tiếp, 6000 cán bộ quản lý, và 25000 cán bộ khoa học kỹ thuật đã được đào tạo. Trong lĩnh vực xuất khẩu lao động tính đến năm 1999 Việt Nam đã đưa trên 7 vạn người đi lao động ở nước ngoài. Hiện nay nước ta đã có quan hệ hợp tác giáo dục và đào tạo với rất nhiều quốc gia, nhiều trường đại học uy tín và danh tiếng hàng đầu thế giới nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đưa đất nước bắt kịp thời đại bước vào nền kinh tế tri thức. b. Những thách thức Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, cơ hội luôn đi liền với thách thức và khó khăn. Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và rỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hoá sẽ ồ ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hậu quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trung bình, yếu kém thường đòi hỏi Nhà nước thi hành chính sách bảo hộ lâu dài. Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài mà xem xét thì Nhà nước không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi trên của các doanh nghiệp. Bởi lẽ, một là Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hoá thương mại vào các mốc 2006 và 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO. Hai là việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là “ con dao hai lưỡi”. Một chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì sẽ có thể dẫn tới “gậy ông đập lưng ông” gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội, không những làm giảm sức cạnh tranh của các doanh nghiệp đó mà còn gây ra thất nghiệp, đời sống người lao động không dược đảm bảo, từ đó có thể gây các tệ nạn làm mất ổn định trật tự xã hội. Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho biết: việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi mang nhập khẩu chưa có thuế là 50% ( khoảng 20- 22 USD/tấn). Toàn xã hội phải trả thêm 220 triệu USD (11 triệu tấn x 20 USD) năm 1999 để bảo hộ cho ngành xi măng, trong đó có gần một nửa số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền đó tương đương với khoảng 40% ngân sách giáo dục của cả nước. Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế khu vực và thế giới tương đối chậm. Trong khi xu hướng nhiều nước muốc đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư với quy mô sâu, rộng hơn thì Việt Nam lại rất cần đủ thời gian để có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nước. Đây thực sự là một mâu thuẫn cần được xử lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó kiến thức và sự hiểu biết của ta về hội nhập kinh tế quốc tế cũng như các vấn đề liên quan còn nhiều hạn chế, bất cập. Hệ luỵ của nó là công tác chuẩn bị của ta, nhất là của các doanh nghiệp cho việc chủ động tham gia hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế cũng chưa thật đầy đủ và mang tính lâu dài. Tư tưởng trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước ở nhiều doanh nghiệp còn khá nặng nề. Một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra là phải làm sao giữ được độc lập, tự chủ trong tiến trình hội nhập kinh tê quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng nước ta hiện nay với xuất phát điểm rất thấp, nền kinh tế đang trong qua trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hoá nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi các nước đi trước nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt, do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó thì nước ta khó tránh khỏi bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc về kinh tế mà có thể dẫn đến không giữ được độc lập, tự chủ nữa. Để hoá giải vấn đề này cần có nhìn nhận theo quan điểm mới : trước hết phải nhận thức rõ độc lập, tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển riêng của mình, tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế-xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện các mục tiêu đó. độc lập tự chủ không phải là hoàn toàn đống cửa với thế giới. Quan điểm độc lập tự chủ theo kiểu tự túc tự cấp, xây dựng cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh, hướng nội đã được kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và kinh nghiệm của nước ta chứng minh là không phù hợp với xu thế chunh của thời đại và không hiệu quả, đẩy đất nước vào tình trạng chậm phát triển. Và một khi tình trạng chậm phát triển về kinh tế không được khắc phục thì sẽ làm mất lòng tin của nhân dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, tạo nguy cơ từ bên trong đối với trật tự, an toàn xã hội. Trái lại việc mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế thì sẽ tạo nên một hình thái tương tuỳ, đan xen lợi ích, do đó mà chúng ta có những thế và lực để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước. Một thách thức nữa không kém phần quan trộng là làm thế nào giữ gìn được bản sắc văn hoá dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế, làm sao đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đây không phải là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ thông qua các siêu lộ thông tin với mạng Internet, xu thế toàn cầu hoá một mặt tạo điều kiện chưa rừng có để mọi dân tộc, mọi cộng đồng trên thế giới có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hoá, dịch vụ, kiến thức, phát minh sáng chế... qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ, mở mang hiểu biết về các nền văn hoá của nhau. Mặt khác quá trình trên cũng nẩy sinh mối nguy cơ ghê gớm về “ sự đồng nhất hoá các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hoá, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại đối với sự tồn tại của nhân loại”. Nguy cơ nói trên lại càng tăng lên gấp bội khi một siêu cường nào đó tự xem các giá trị văn hoá của mình là ưu việt, là tối thượng, từ đó nảy sinh thái độ ngạo mạn và ý đồ áp đặt các giá trị của mình cho các dân tộc khác bằng một chính sách có thể gọi là “ xâm lược văn hoá” với nhiều biện pháp trắng trợn và tinh vi. đứng trước tình hình đó, chúng ta không thể lui về chính sách đóng cửa, khước từ giao lưu, trao đổi, đối thoại với bên ngoài. Trái lại với bản lĩnh dân tộc trong quá trình giao lưu với văn hoá thế giới suốt mấy ngàn năm, chúng ta có thể vững tin và chủ động lựa chọn, tiếp thu các yếu tố nhâm bản, hợp lý, khoa học, tiến bộ của văn hoá các nước – cả phương Đông và phương Tây, để làm giàu thêm bản sắc văn hoá dân tộc, xem đó là nhân tố cực kì quan trọng khơi dậy các tiềm năng sáng tạo, làm nên những giá trị vật chất và tinh thần mới trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đồng thời chúng ta cũng kiên quyết phản đối sự tiếp nhận xô bồ mọi thứ gọi là “tân kỳ” của văn hoá ngoại lai mà không phân biệt hay dở, tốt xấu để đi đến chỗ lai căng và mất gốc về văn hoá, gây hậu quả xấu về tư tưởng, đạo đức, lối sống của các tầng lớp dân cư. Chỉ có trên cơ sở giữ gìn và phát huy những giá trị ưu tú của văn hoá dân tộc, đi dôi với tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại thì văn hoá Việt Nam mới có thể đóng vai trò vừa là mục tiêu vừa là động lực và hệ điều tiết của sự phát triến xã hội. Mặt khác hệ thống pháp luật, chính sách liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam còn đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nên trước mắt khó có thể tránh khỏi còn những lỗ hổng trong luật pháp của ta, tạo điều kiện cho lực lượng phản động khai thác để tiến hành các hoạt động chống phá. Như vậy bên cạnh những thời cơ thuận lợi, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế còn đưa lại nhiều thách thức yêu cầu Việt Nam cần có những bước hội nhập thật đúng đắn nhằm khai thác các thời cơ và loại bỏ các thách thức. 3. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam a. Diễn biến quá trình hội nhập Sau khi đã khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như IMF, WB năm 1992, tháng 10/1992 Việt Nam đã chính thức gửi đơn xin gia nhập hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN). Tháng 7/1995 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức này. Và tháng 11/1996 nước ta đã ký hiệp định ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung, cơ sở của việc thiết lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEP/AFTA). Tháng 12/1994 Việt Nam đã gửi đơn cin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về buôn bán và thuế quan(GATT), tiền thân của tổ chức thương mại thế giới(WTO). Tiếp đó tháng 3/1996 Biệt Nam đã tham gia với tư cách thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác á- âu(asem). Tháng 6/1996 Việt Nam cũng đã xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á- Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/1998, cùng với Nga và Pêru đã trở thành thành viên chính thức của diễn đàn này. Đây là những bước đi khởi đầu quan trọng trong tiến trình gắn kết kinh tế nước ta với kinh tế khu vực và thế giới. Tổ chức thương mại thế giới hiện có trên 130 nước thành viên, có cơ chế, thể lệ và luật chơi chung trong quan hệ thương mại quốc tế làm cơ sở để thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư. Từ khi xin gia nhập đến nay, Việt Nam đã xây dựng xong và gửi tới các nước thành viên báo cáo về hệ thống chính sách kinh tế thương mại của mình, đã tiến hành 4 phiên họp về minh bạch hoá chính sách với nhóm công tác về Việt Nam gia nhập WTO để làm rõ các vấn đề về hệ thống luật pháp và chính sách của ta. Đến nay, giai đoạn đàm phán về minh bạch hoá các chính sách đã cơ bản hoàn tất. Giai đoạn sắp tới là đi vào đàm phán thực chất về mởt cửa thị trường, tập trung vào thuế quan và các biện pháp phi thuế quan, sau đó sẽ đàm phán về dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Gia nhập ASEAN từ 1995, Việt Nam đã chủ động tham gia hầu hết các lĩnh vực hợp tác trong tổ chức này. bên cạnh lĩnh vực chính trị và an ninh, Việt Nam đã tham gia hầu hết các lĩnh vực khác như kinh tế, thương mại hàng hoá, nông và lâm nghiệp, giao thông vận tải, sở hữu trí tuệ... Trong lĩnh vực kinh tế nổi lên là việc tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), khu vực đầu tư ASEAN(AIA), hiệp định khung về dịch vụ(AFAS) và gần đây nhất tháng 11/2000, Việt Nam đã cùng các nước ASEAN ký hiệp định khung về côgn nghệ thông tin(e-ASEAN), đặt cơ sở và định hướng cho việc phát triển công nghệ thông tin và viễn thông, nhân tố cấu thành, có vị trí tối quan trộng trong nền kinh tế mới kinh tế tri thức. Là một thành viên của diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC) từ tháng 11/1998, một tổ chức gồm 21 thành viên, chiếm 52% diện tích lãnh thổ, 59% dân số và 70% nguồn tài nguyên thiên nhiên trên thế giới, đống góp 57% GDP cho toàn thế giới. Việt Nam đã thẹc hiện tốt các nghĩa vụ vủa mình bao gồm việc công bố chương trình hành động quốc gia(IAP), kế hoạch hành động tập thể(CPA) và tham gia các chương trình hợp tác kỹ thuật(ECOTECH). Việt Nam cũng đãc đề xuất những sáng kiến thiết thực như “ đào tạo thế hệ trẻ hướng tới nền kinh tế tri thức” và dự án “Hệ thống cảnh báo và quy hoạch bản đồ các khu vực mất an ninh lương thực”, được các nước thành viên đánh giá cao. Tuy nhiên, về lĩnh vực tự do hoá mậu dịch, những cam kết của ta mới chỉ dừng ở mức minh bạch hoá chính sách. Là một trong 25 thành viên sáng lập ra diễn đàn hợp tác á-âu (ASEM) từ năm 1996, Việt Nam đã tham gia hầu hết các chương trình chủ yếu của tổ chức này. Đó là các kế hoạch hành động thuận lợi hoá thương mại(TFAP), kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (IPAP) và hợp tác các doanh nghiệp á-âu và hiện đang cùng các nước thành viên xây dựng viễn cảnh á-âu 2020 để đưa các hoạt động của hợp tác á-âu lên một tầm cao mới. b. Một số kết quả của quá trình hội nhập kinh tế Mở rộng mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương với nhiều nới trên toàn thế giới đã góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội nước ta trong thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI. Nếu như trước những năm 90, tốc độ tăng GDP bình quân ở nước ta chỉ đạt khoảng 2-3%/năm thì ở thập niên cuối của thế kỷ XX mức tăng GDP bình quân đạt 6-8%/năm. Sau 10 năm tổng sản phẩm xã hội tăng thêm 18 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp hơn 2 lần. Nhiều mặt hoạt động sản xuất và đời sống xã hội đã có những bước phát triển tương đối nhanh. Riêng tốc độ tăng xuất nhập khẩu hàng năm thường cao hơn 2-3 lần tốc độ tăng GDP. Nếu năm 1991, thị trường Liên Xô và các nước Đông Âu bị cắt giảm đột ngột, kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam giảm 15,1% thì ngay sau đó, từ năm 1992-1995 đã vươn lên giữ mức tăng 25-30%/năm. Năm 1998 không tăng do khủng hoảng kinh tế châu á, nhưng năm 1999 tiếp tục vươn lên, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt hơn 11,5 tỷ USD, gấp hơn 5 lần năm 1991. Từ chỗ là nước chỉ nhập hàng viện trợ và xuất hàng trả nợ mỗi năm vài trăm triệu USD, đến nay chúng ta đã có nhiều mặt hàng đạt xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD/năm như: đầu thô, hàng dệt may, giày dép... Một số hàng nông sản Việt Nam đã và đang vươn lên thứ hạng cao ở thị trường thế giới : gạo đứng thứ hai, hạt điều và cà phê đứng thứ ba thứ tư. Thuỷ sản chế biến và trên 200 mặt hàng tiêu dùng Việt Nam xuất khẩu đang tiếp tục tăng, chiếm lĩnh nhiều nơi trên thị trường quốc tế, kể cả những thị trường khó tính như Nhật Bản, Tây Âu, Bắc Mỹ. ở giai đoạn đầu, tốc độ tăng trưởng và hội nhập kinh tế kinh tế của Việt Nam có nhiều tiến bộ nhưng trên thực tế vẫn chưa cho phép chúng ta thật sự lạc quan. Bởi vì, so với nhiều nước trong khu vực, giá trị kim ngạch xuất khẩu tính bằng USD bình quân đầu người ở nước ta còn thấp. Năm 1997 Việt Nam chỉ đạt 149 USD/ người trong khi đó Indônêxia là 316, Philipin: 545, Thái Lan: 1087, Malaixia: 4222, Xingapo: 52.484. Trong tổng lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam, chủ yếu vẫn ở dạng nguyên liệu thô, trình độ kỹ thuật công nghệ chế biến thấp, mẫu mã chủng loại sản phẩm chưa phong phú nên giá trị thấp, sức cạnh tranh yếu. Phần lớn ta mới ta mới chỉ tăng số lượng để tăng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế ở nhiều mặt hàng xuất khẩu, khối lượng lớn mà hiệu quả kinh tế thấp, kể cả những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, dầu thô, cao su, nông, lâm, thuỷ sản. Đó là những dấu hiệu về sự kém cỏi cần sớm khắc phục, nếu không sẽ bị tụt hậu trong tiến trình hội nhập, bởi vì các lợi thế về tài nguyên và lao động rẻ đang bị giảm dần, kỹ thuật và công nghệ cao sẽ là những ưu tiên phát triển ở những giai đoạn tiếp theo. Những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế việt Nam bắt đầu có xu thế chậm lại, nhiều chỉ tiêu tăng trởng không đạt kế hoạch dự kiến. Nếu mức tăng GDP thời kỳ 1986-1995 là 8,2%/năm thì đến thời kỳ 1996-2000 chỉ đạt khoảng 6,8%/năm, bằng 2/3 của dự kiến kế hoạch. Vốn đầu tư nứoc ngoài (FDI) chỉ đạt 4 tỷ USD/năm, chưa bằng 30% kế hoạch(13-15 tỷ), viện trợ phát triển (ODA) chỉ khoảng 5 tỷ/năm so với kế hoạch 7-8 tỷ... Mặt khác hiệu quả sử dụng vốn vay và viện trợ này chưa cao, tốc độ giải ngân còn thấp. Khoảng cách về trình độ phát triển của chúng ta so với nhiều nước trong khu vực không chỉ chậm mà còn có những biểu hiện nguy cơ tụt hậu. Sau khi khắc phục khủng hoảng, động thái phát triển GDP 2 năm (1998-2000) của nhiều nước có tốc độ phát triển rất nhanh : Philipin từ –0,5% lên 3,1%; Malaixia từ –7,5% lên 4,7% ; Thái Lan từ –10% lên 3,7%; Hàn Quốc từ –5,8% lên 9,1%... trng khi đó tốc độ tăng GDP của Việt Nam liên tục giảm từ 9,4% năm 1995 xuống 9,34%(1996), 8,5% (1997), 5,8%(1998) và 4,8%(1999). Một số tài liệu nghiên cứu tổng hợp khác cho thấy: bản thân nội tại nền kinh tế nước ta vẫn tồn tại những dấu hiệu của sự yếu kém, ngày càng bộc lộ rõ nét: cung lớn hơn cầu, cơ cấu ngành, địa phương chưa hợp lý, nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả thấp; các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, buôn lậu chậm được khắc phục. Nhiều cơ chế chính sách và bộ máy hành chính cải cách chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới, ảnh hưởng không nhỏ đến nhiều mặt hoạt động kinh tế xã hội. Thời kỳ 1994-1998, Diễn đàn kinh tế thế giới xếp môi trường cạnh tranh của Việt Nam đứng thứ 49 trong 53 nước xem xét, đến thời kỳ 1999-2003 hộ đánh tụt xuông 3 bậc. Phải chăng đó là những dấu hiệu báo động cần xem xét một cách nghiêm túc để tất cả các ngành,các cấp có quyết tâm lớn, sớm tìm ra giải pháp khắc phục những khó khăn thiếu sót, nếu không sẽ khó tránh khỏi những nguy cơ dẫn đến tụt hậu. Đến nay, khi cả thế giới tích cực chuẩn bị sức mạnh bước vào thiên niên kỷ mới, nền kinh tế quốc tế đã có nhiều dấu hiệu về những yếu tố phát triển ổn định. Nhiều nước ASEAN và các nước châu á đã khắc phục hậu quả khủng hoảng để quay trở lại tốc độ phát triển nhanh; các nước EU, Mỹ la tinh cũng đang có những chuyển động tích cực.Vì thế Việt Nam cần tranh thủ mọi cơ hội thuận lợi, khắc phục khó khăn, đẩy nhanh hơn nữa quá trình đổi mới toàn diện; tạo điều kiện cần thiết để phát triển và hội nhập có hiệu quả. III > Một số giải pháp nâng cao hiêu quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở việt nam 1. Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của hội nhập kinh tế quốc tế Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam bắt đầu vận hành có hiệu quả, đồng thời đứng trước thực tế các nước XHCN Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trượt dài tới bờ vực của sự tan rã, Đại hội Đảng VII của Đảng(6/1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo tổng quát cho việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi ở nước ta: “ Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” ; “Đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi”. Đại hội VIII của Đảng (6/1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm nêu trên. Gần đây, Đại hội IX của Đảng (4/2001) lại nhấn mạnh thêm: “ Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường”. Thật ra chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là điều gì hoàn toàn mới đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo vào hoàn cảnh hiện nay của đất nước, những luận điểm mà chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời sau cách mạng tháng 8/1945. Trong bài trả lời phỏng vấn của các báo ngày 23/10/1945 chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Chúng ta hoan nghênh những ngưòi Pháp muốc đem tư bản vào xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác... Chúng ta sẽ mời những nhà chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong công cuộc kiến thiết quốc gia”. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo hành động của Đảng, 15 năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước ta đã thi hành hàng loạt các biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. 2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình hội nhập a. Một số quan điểm Từ những phân tích trên, chúng ta có thể khái quát và nhấn mạnh một số quan điểm chủ yếu cần quán triệt trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta như sau: Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế phải dựa trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN. Đây là yêu cầu chính trị cao nhất, đồng thời là nhân tố cơ bản bảo đảm cho sự kết hợp hài hoà giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiên tiến bộ và công bằng xã hội trong phát triển. Chúng ta không chấp nhận hội nhập theo quan điểm tự do mới, nghĩa là hội nhập kinh tế theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế đơn thuần, nhưng phải hy sinh tiến bộ và công bằng xã hội. Sự hy sinh này tất sẽ dẫn đến triệt tiêu động lực phát triển kinh tế- xã hội bền vững, và như thế, rốt cuộc đất nước sẽ không tránh khỏi lại rơi vào vòng lệ thuộc của một thứ chủ nghĩa thực dân mới nào đó. Thứ hai, phát huy tối đa mọi nguồn lực nội sinh mà trung tâm là nguồn lực con ngườivới trí tuệ và bản lĩnh văn hoá dân tộc, đồng thưòi ra sức khai thác nguồn lực ngoại sinh, tạo thành một hợp lực mạnh để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong thế giới cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, không thể có ảo tưởng chỉ dựa một chiều vào các nguồn lực ngoại sinh để phát triển. Thứ ba, chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế với hình thức và bước đi phù hợp. Vừa không chần chừ, do dự để lỡ thời cơ, vừa không nóng vội, chủ quan mở cửa hội nhập tràn lan mà thiếu sự chuẩn bị cần thiết. Thứ tư, trong quá trình hội nhập phải kiên trì giữ giữ vững phương châm bình đẳng, cùng có lợi, bảo vệ lợi ích chính đáng của quốc gia. Theo phương châm này, một mặt, cần thông minh và nhạy bén xử lý mọi tình huống, kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích kinh tế xã hội mà lẽ ra được hưởng; mặt khác, phải chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các đối tác. Muốn vậy, phải biết sử dụng nhuần nhuyễn nguyên tắc vừa hợp tác vừa đầu tranh. b. Một số giải pháp Thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của tất cả các ngành các cấp có liên quan, trong đó hoạt động của các doanh nghiệp và Nhà nước có vai trò quan trọng đặc biệt. Trước hết, doanh nghiệp phải là chủ thể trực tiếp của quá trình hội nhập kinh tế với thế giới. Sức mạnh kinh tế của mỗi nước được quy định bởi tổng thể năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. ở nước ta hiện nay, trừ một số tổng công ty như bưu chính viễn thông, điện lực, dầu khí... có quy mô vừa so với các nước trong khu vực, đa số còn lại thuộc loại doanh nghiệp nhỏ. Kể từ khi đất nước ta chuyển sang áp dụng cơ chế thị trườngvà mở cửa, không ít các doanh nghiệp đã nỗ lực vươn lên, trưởng thành nhanh chóng, có thể đương đầu với thách thức, tranh thủ được cơ hội trong hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp trong nước vẫn còn nhiều hạn chế khá cơ bản, đó là: công nghệ lạc hậu , quản lý yếu kém, chất lượng và mẫu mã sản phẩm chưa đáp ứng được nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng, giá thành lại cao, vì vậy sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước rất thấp. Từ đó đặt ra yêu cầu là các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của mình thông qua một loạt các biện pháp đồng bộ cả về kinh tế và xã hội như: Nhanh nhạy nắm bắt và vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học và công nghệ mới vào quy trình sản xuất kinh doanh. Thường xuyên theo dõi, tìm hiểu đánh giá thực trạng của thị trường trong và ngoài nước, dự báo được chiều hướng thay đổi cung – cầu, để vạch ra kế hoạch hành động phù hợp. Coi trọng cải tiến quản lý tài chính để mỗi đồng vốn bỏ ra đều mang lại hiệu quả mà không xảy ra tham ô, lãng phí. Đặc biệt quan tâm đến đời sống vất chất, tinh thần của người lao động, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ hiểu biết và tay nghề, khơi dậy và phát huy tinh thần trách nhiệm, ý thức tự giác của họ trong việc làm ra những sản phẩmcó chất lượng tốt,hình thức đẹp, giá thành hạ, đáp ứng yêu cầu của thị trường, giữ được chữ tín đối với bạn hàng gần xa. Trải qua nhiều bước thăng trầm trong quá rình phát triển, một số doanh nghiệp dần dần đã rút ra những phương châm có ý nghĩa triết lý để chỉ đạo cho mọi hoạt động của mình. Có thể lấy nhà máy bóng đèn, phích nước Rạng Đông – một nhà máy vừa đạt danh hiệu đơn vị anh hùng lao động - làm ví dụ. Hơn mười năm trước đây, nhà máy này đứng trên bờ vực phá sản, thế mà sau khi có một ban giám đốc mới gồm những người vừa có tài, vừa có tâm, thì nhà máy đã không những trụ vững mà còn làm ăn ngày càng phát đạt. doanh thu tăng từ 7,37 tỷ năm 1988 lên 151 tỷ năm 1999. Sản phẩm của nhà máy không chỉ có tín nhiệm đối với khách hàng trong nước mà còn có thể thâm nhập mạnh vào các tỉnh phía nam Trung Quốc và lần lượt mở oọng ra nhiều thị trường khác ở Đông Nam á, Hàn Quốc và Trung Cận Đông. Nếu doanh nghiệp có vai trò quyết định trực tiếp trong hội nhập kinh tế quốc tế ở cấp vi mô, thì Nhà nước phải đóng vai trò quyết định trong việc định hướng, tổ chức, chỉ đạo cho sự hội nhập đó ở tầm vĩ mô. Trên lĩnh vực thương mại: Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách bảo hộ có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện các mặt hàng của ta để kích thích các nhà sản xuất tích cực vươn lên cạnh tranh trên thị trường. Lộ trình giảm thuế nhập khẩu và giảm dần hàng rào phi thuế quan theo cam kết với AFTA và APEC cần được công bố rõ để các doanh nghiệp trong nước có kế hoạch phấn đấu cụ thể. Chủ động chuẩn bị điều kiện cần thiết về cán bộ, luật pháp và nhất là những sản phẩm mà chúng ta có khả năng cạnh tranh để tăng cường hội nhập thị trường quốc tế. Tiếp tục đàm phán về việc Việt Nam gia nhập WTO. Giữ vững và mở rộng thị trường đã tạo lập với các nước trong khu vực, các nước thuộc liên minh châu âu, nước Nga, các nước SNG khác và Đông Âu; phát triển quan hệ buôn bán với Trung Quốc, ấn Độ; đẩy mạnh việc tìm thị trường mới ở Trung Cận Đông, châu Phi, châu Mỹ La-tinh. Kiên trì thực hiện quan điểm có ý nghĩa triết lý chỉ đạo hành động là: “ đa dạng hoá quan hệ thương mại, giảm sự tập trung vào một vài đối tác”. Trên lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp: Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế – xã hội do Đại hội IX của Đảng vừa thông qua, Nhà nước cần tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh quy chế tổng thể, quy hoạch chi tiết cho từng ngành và từng lãnh thổ, chủ động đặt ra một danh mục các dự án, các địa bàn khuyến khích và đặc biệt khuyến khích nước ngoài đầu tư. Đứng từ góc độ mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội mà xét, trước mắt cần khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào các ngành chế biến xuất khẩu, nhất là chế biến nông - lâm - thuỷ sản xuất khẩu – lĩnh vực có quan hệ đến công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống của gần 70% lực lượng lao động xã hội hiện nay. Đồng thời coi trọng thu hút vốn đầu tư vào các ngành công nghiệp cơ khí, điện khai thác than và chế biến dầu khí, vật liệu xây dựng, hoá chất –phân bón, luyện kim…là những ngành có thế mạnh về nguyên liệu và nguồn lao động. Có chính sách ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào những vùng còn chậm phát triển, qua đó vừa góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vừa tạo điều kiện sử dụng lao đông tại chỗ giảm bớt sự chênh lệch về sự phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng các miền ở nước ta. Đi đôi với thu hút thêm vốn đầu tư, cần cải tiến và tăng cường công tác quản lý các dự án đă được cấp giấy phép các dự án đă đi vào hoạt động theo hướng vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, vừa yêu họ chấp hành tốt luật pháp Việt Nam, nhất là Luật Lao động, Luật bảo vệ môi trường…đồng thời làm tròn nghĩa vụ nộp thuế và thực hiện đúng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Trên các lĩnh vực tài chính- tiền tệ, ngân hàng: đây là những lĩnh vực mà thực lực của chúng ta còn yếu, do đó cần có bước đi và biện pháp thận trọng trong việc mở cửa thị trường vốn sao cho phù hợp với tiến trình chấn chỉnh, cải tiến, củng cố hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng ở trong nước. áp dụng từng bước và có mức độ, được quản lý và giám sát chặt chẽ các hình thức đầu tư gián tiếp như nước ngoài góp cổ phần mua cổ phiếu của các cơ sở trong nước. Kinh nghiệm của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở các nước châu á vừa qua cho thấy nếu hệ thống quản lý tài chính ngân hàng của một nước nào đấy còn nhiều sơ hở, yếu kém mà đã mở toang cửa cho tự do lưu chuyển, trao đổi, buôn bán tiền tệ, chứng khoán, trái phiếu…thì khó tránh khổi những đòn tấn công ác hiểm của các tập đoàn tư bản tài chính đầu cơ, là những kẻ chỉ nhằm mục đích kiếm tỷ suất lợi nhuận tối đa trong một thời gian ngắn nhất. Và tương phản với sự phất lên nhanh chóng của một số trùm sỏ tư bản tài chính trên thế giới là hàng triệu, hàng chục triệu người lao động ở các nước ấy bị sa thải, mất công ăn việc làm, rơi vào tình trạng cùng quẫn. Xét cho cùng, vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất đối với việc nâng cao hiệu quả của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế là Đảng và nhà nước phải có chiến lược mới về con người, phải tập trung đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và phẩm chất trong tất cả các lĩnh vực nói trên. C : Phần kết luận Hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế tất yếu của thời đại, với Việt Nam đã trở thành nhu cầu cấp thiết của nền kinh tế nhất là trong điều kiện đất nước đang thực hiện quá trinh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Thực tế cho thấy, những gì mà nước ta đạt được từ qua trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần xứng đáng vào những thành tựu kinh tế to lớn, có ý nghĩa quan trọng trong thời gian qua. Tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều điều bất cập, thiếu sót trong tiến trình hội nhập. Từ những gì đã đạt được cho thấy Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có đủ bản lĩnh và khả năng khai thác lợi thế, đồng thời đối phó với thách thức của quá trình hội nhập quốc tế. Truyền thống kiên cường của dân tộc đã đánh thắng các thế lực xâm lược có tiềm lực quân sự hùng mạnh và thành tựu vượt bậc trong hơn mười năm thực hiên công cuộc đổi mới là hai tiền đề quan trọng để ta hoàn toàn hy vọng và quyết tâm vươn lên trong hội nhập kinh tế quốc tế. Trong những thập kỷ tới đây, quá trình toàn cầu hoá sẽ tiến triển mạnh mẽ hơn trước với những thời cơ và thách thức mới đòi hỏi đất nước ta phải có những chính sách và bước đi phù hợp để thích ứng với điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, đưa đất nước phát triển: Dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng, phát triển và văn minh, sánh vai với các cường quốc trên thế giới như Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã mong muốn./. Danh mục các tài liệu tham khảo Nguyễn Hoàng Giáp – Khai thác môi trường kinh tế quốc tế cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá - tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 267- tháng 8/2000. Đinh Nguyên Khiêm và Trần Trọng Toàn – Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế của Việt Nam – NXB Chính Trị Quốc Gia – 1999. Nguyễn Luyện – Việt Nam trên đường hội nhập kinh tế thế giới – tạp chí Xây Dựng – số 6/2000. TS. Võ Đại Lược- Toàn cầu hoá và vấn đề hội nhập quốc tế của nước ta – Những vấn đề kinh tế thế giới – số 1(63) – 2000. GS.TS. Phạm Xuân Nam – Chủ động hội nhập quốc tế hướng tới tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội – tạp chí nghiên cứu kinh tế số 278 – tháng 7/2001. Đặng Văn Thắng – Việt Nam trong quá trình hội nhập – tạp chí Kinh tế và Phát triển. Phạm Thị Tuý – Toàn cầu hoá và những tác động – tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 290 – tháng 7/2002. Đậu Ngọc Xuân – Về hội nhập kinh tế quốc tế – tạp chí Nghiên cứu-Trao đổi số 15 – tháng 8/2000. Đảng Cộng Sản Việt Nam – Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX – NXB Chính Trị Quốc Gia – 2001. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35387.doc
Tài liệu liên quan