Đề án Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm tạo việc làm cho ngư dân ven biển miền Trung giai đoạn 2006 - 2010

Có thể nói rằng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong các lựa chọn hiệu quả đã với các nước đang phát triển mà đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải được nhận thức, thực hiện từ mọi ngành, mọi cấp, là công việc thường xuyên và liên tục. Trên tinh thần đó, các địa phương trên cả nước cũng cần có những bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hợp lý, hiệu quả góp ph ần phát triển nahnh kinh tế nước nhà. Để làm sao nền kinh tế có thể nắm bắt tổng hợp tốt nhất tất cả các nguồn lực, các cơ hội từ trong và ngoài nước tạo ra. Đối với các tỉnh duyển hải miền Trung với nguồn lực và ưu thế của vùng chắc chắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế. theo hướng ưu tiên giải quyết việc làm sẽ giúp vùng phát triển nhanh hơn, sớm góp phầnn đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ đã dạy.

doc41 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm tạo việc làm cho ngư dân ven biển miền Trung giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngành tăng trưởng. Ngược với quan điểm phát triển nên kinh tế theo một cơ cấu kinh tế kín nêu trê,lý thuyết phát triển cơ cấu không cân đối cho rằng không thể và không nhất thiết phải đảm bảo tăng trưởng bền vững duy trì cơ cấu cân đối liên nghành đối với mọi quốc gia, với những luận cứ chủ yếu sau: -Việc phát triển cơ cấu không cân đối gây nên áp lực, tạo ra sự kích thích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. -Trong mỗi giai đoạn phát triển của thời kỳ công nghiệp hoá, vải trò “cực tăng trưởng” của các nghành trong các nền kinh tế là không giống nhau. Vì thế cần tập trung nguồn lực khan hiếm cho một số lĩnh vực trong một thời điểm nhất định. -Do trong thới kỳ tiến hành công nghiệp hoá, các nước đang phát triển rất thiếu vốn, lao động kỹ thuật, công nghệ và thị trường nên không đủ điều kiện để cùng một lúc phát triển đồng bộ tất cả các nghành hiện đại. 2. Nhân tố ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh 2.1. ảnh hưởng của điều kiện quốc tế Điểm nổi bật của điều kiện quốc tế hiện nay là xu thế toàn cầu hoá và cuộc cách mạng công nghệ diễn ra sôi động với tốc độ nhanh. Xu hướng toàn cầu hoá bộc lộ trên các mặt; - Tự do hoá thương mại mà việc giảm và đi đến loại bỏ thuế quan đã và đang trở thành vấn đề thời sự trong quan hệ quốc tế. Thuế quan trên toàn thế giới giảm đi nhanh chóng và còn tiếp tục giảm do vai trò của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và các tổ chức mậu dịch tự do khu vực. - Các hướng di chuyển tư bản qua biên giới giữa các quốc gia có xu hướng ra tăng mạnh mẽ làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế ở mức toàn cầu đanng được xúc tiến. Khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam á nhanh chóng lan rộng đến các nước Đông á và các khu vực khác trên thế giới như một ví dụ rõ rệt. - Đầu tư trực triếp nước ngoài (FDI) đã tăng mạnh và có xu hướng tiếp tục ra tăng. Đặc biệt trong các nước đang phát triển, trong khi viện trợ phát triển chính thức có xu hướng chững lại thậm, chí giảm sút. - Các thị trường tài chính, đặc biệt tất cả các thị trường lớn đã trở nên gắn bó chặt chẽ và xu hướng này sẽ tiếp tục. Chính thị trường tài chính sẽ có ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện nhất đối với chính sách tầi chính quốc gia của cả nước. - Với sự hỗ trợ của công nghệ và quá trình tự do các công ty xuyên quốc gia có thể thực hiện đầu tư cứ ở nơi nào họ muốn và khả năng của chính phủ các nước qua việc điều chỉnh các chính sách Nhà nước để giữ và hấp dẫn chúng. Có thể nói với quá trình toàn cầu hoá thế giới đang bước vào giai đoạn mới về chất trong hệ thống quốc tế với một tương lai chưa thể nhìn rõ. Cách mạng công nghệ - lực lượng đứng sau và khiến cho các lực lượng toàn cầu hoá trở thành hiện thực - đang làm thay đổi một cách căn bản và nhanh chóng mọi mặt của hoạt động kinh doanh công nghệ và chế tạo. Hạt nhân của nó là các công nghệ thông tin và truyền thông mới (ICT3) đã mang lại những cải tiến to lớn về thành tựu kỹ thuật, cũng như việc giảm đáng kể chi phí sảnxuất và chúng đang làm thay đổi bản chất công nghiệp, kinh tế, xã hội. Trong những năm gần đây Việt Nam đã bắt đầu bước vào quá trình hội nhập quốc tế ở mức độ khác nhau đối với các tổ chức khác nhau, tạo điều kiện để Việt Nam nơng cao vị trí quốc tế và tạo thế đứng vững chắc hơn trong quan hệ chính trị; tạo điều kiện thuận lợi hơn trong hoạt động thương mại quốc tế, thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, tri thức và kinh nghiệm quản lý từ bên ngoài. Tuy vậy với xuất phất thập về kinh tế và trình độ công nghệ, lại trong giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế, bước đầu bứơc vào hội nhập, hiểu biết và chuẩn bị cho hội nhập còn nhiều hạn chế khiến cho Việt Nam đứng trước thách thức hết sức nghiêm trọng: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, ạnh tranh quốc tế không những trong lĩnh vực hàng hoá, dịch vụ mà cả đầu tư, không chỉ diễn ra ở thị trường bên ngoài, mà cả thị trường trong nước và ngày càng quyết liệt hơn khi tham gia đầy đủ vào tổ chức khu vực và quốc tế. Nhiều quy định có tính chất quốc tế và công nghệ (ISO 9000) và môi trường (ISO 1400) lại trở thành thử thách trong quan hệ thương mại quốc tế đối với Việt Nam. Những yếu tố quốc tế trên đây nếu không đưa vào trong việc lựa chon chính sách cơ cấu thì Việt Nam khó có thể đạt được phát triển kinh tế với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. 2.2. Các nguồn lực kinh tế Các nguồn lực kinh tế bao ngồm: các nguồn lực tài nguuyên thiên nhiên- của cải do thiên nhiên ban tặng; nguồn lao động - một loại nguồn lực gắn với thân thể con người; nguồn lực do con người tạo ra hiện thân ở các loại vốn và khoa học công nghệ. Đây là các nguồn lực tác động đến khả năng cung của nền kinh tế. Xuất phát từ đặc điểm của từng nguồn lực; quy mô cơ cấu và chất lượng của chúng mà vai trò và cách thức tác động vào khả năng cung của nền kinh tế, do đó vào cơ cấu kinh tế và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo những cách thức khác nhau. Mỗi một quốc gia trong mỗi giai đoạn nhất định thường có quy mô và chất lượng của từng loại nguồn lực khác nhau, phản ánh những mặt lợi thế và hạn chế khác nhau của từng loại nguồn lực. Do vậy một mặt phải có phương án phối hợp tối ưu nhằm phát huy các nguồn lực có lợi thế so sánh trong nước; đồng thời phải tính đến khả năng huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Phương ánn khác nhau trong việc sử dụng phối hợp các nguồn lực sẽ dẫn đến sự lựa chọn khác nhau trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong điều kiện nước ta hiện nay vốn là nguồn lực rất khan hiếm, trình độ khoa học và công nghệ qua một số năm đổi mới tuy có nâng nên nhưng vẫn lạc hậu. Trong mối tương quan giữa các nguồn lực, thì nguồn lực lao động và nguồn lực taìi nguyên thiên nhiên là có lợi thế so sánh hơn, mặc dù chất lượng lao động còn hạn chế và Việt Nam không phải là nước giàu tài nguyên tính trên mức bình quân đầu người. Trong bối cảnh như vậy việc chuyểnn dịch cơ cấu kinh tế tầm ngắn và trung hạn cần phải hướng vào các ngành khai thác lợi thế so sánh tài nguyên và lao động. 2.3. Nhu cầu của thị trường Dung lượng cơ cấu và sự đòi hỏi về chất lượng của hàng hoá có tác động đến sự biến động về sản lượng và cơ cấu sản xuất ccủa nền kinh tế. Trên quan điểm chiến lược dài hạn tác động vào sự phát triển của nền kinh tế thường chú trọng vào cung làm gia tăng khả năng sản xuất. Tuy vậy sự tác động đó nếu được căn cứ vào nhu cầu thị trường và sự cạnh tranh, không dự báo được nhu cầu dài hạn để hướng dẫn sự lựa chọn chuyển dịch cơ cấu sẽ dẫn đến thất baị. Tạo ra những năng lực sẩn xuất mới không tính đến dung lượng thị trường khiến cho cung nhanh chóng vượt cầu, không tính đến chi phí sản xuất và chất lượng sản phẩm trong điều kiện cạnh tranh, sản xuất sẽ không tiêu thụ được, doanh nghiệp bị lỗ sẽ không tái tạo được vốn (chưa nói đến gia tăng tích luỹ) thì đầu tư như vậy sẽ dẫn đến sói mòn lượng vốn. Việt Nam với quy mmô khoảng 80 triệu dân hiện nay, nếu tiếp tục có tăng trưởng kinh tế cao và lâu dài sẽ có quy mô thị trường đủ lớn để phát triển kinh tế và là thị trường “dễ tính hơn so với thị trường quốc tế”. Tuy vậy đánh giá về cơ cấu thị trường có thể đưa ra nhận xét: Do sự thấp kém của nền kinh tế nên sản phẩm chủ yếu của Việt Nam hiện nay là các sản phẩm thô từ khoáng sản, nông, lâm, thuỷ sản và mmột số sản phẩm tiêu dùng. Nhiều sản phẩm loại này dễ bảo hoà đối với thị trường trong nước. Ngược lại ngững nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền, cao cấp và những tư liệu sản xuất (máy móc hàng hoá trung gian) do chưa sản xuất được trong nước, nên thị trường trong nước ở mảng này “bị bỏ trống” dành cho hàng hoá bên ngoài. - Đa số dân cư thuộc khu vực nông nghiệp, nông thôn có thu nhập thấp nên sức mua bị hạn chế rất nhiều và cơ bản chỉ tập trunng vào các hangf hoá thuộc nhu cầu cơ bản ro nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cung cấp. Nhu cầu về tư liệu sản xuất trong nông nghiệp còn ở mức khiêm tốn. - Quá trình tự do hoá và toàn cầu hoá cho cả thị trường trong và ngoài nước bị cạnh tranh gay gắt, nhất là nhiều loại hàng hốa xuất khẩu của Trung Quốc và các nước Đông Nam á giống với Việt Nam trong khi hành hoá của họ có sức cạnh tranh lớn hơn. Từ đánh giá trên việc sản xuất các sản phẩm có lợi thế lao động và tài nguyên có liên quan mật thiết đến việc lựa chọn thị trường xuất khẩu. Đồng thời phải tận dụng thị trường trong nước để phát triển các ngành mà thị trường Việt Nam có điều kiện và có khả năng sản xuất có hiệu quả. Bài toán hướng ra xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu cần phải xác định cho từng ngành trong giai đoạn cụ thể. 2.4. Sự lựa chọn mục tiêu Lựa chọn mục tiêu là tham số quan trọng trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Những mục tiêu lựa chọn vừa không thoát ly thực trạng kinh tế - xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế, vừa phải dự báo được tình hình phát triển ở tầm trung vầ dài hạn. Đồng thời phải căn cứ vào nnhững yêu cầu về kinh tế - chính trị - xã hội đặt ra cần giải quyết. Mục tiêu thiếu căn cứ thực tế và dự báo sẽ trở nên viễn vông, thiếu cân nhắc các yêu cầu trong việc giải quyết nhưnngx vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra sẽ trở nên phiến diện. Việc lựa chọn mục tiêu chung này cùng với việc đánh giá đặc điểm, thực trạng và vai trò của từng ngành trong quá trình phát triển knh tế - xã hốĩe là căn cứ để xác định mục tiêu của quá trình cơ cấu kinh tế. 2.5. Đặc điểm, trình độ và vai trò của các ngành kinh tế Mọi phân tích về bối cảnh quốc tế, nguồn lực, thị trường và các mục tiêu kinh tế - xã hội để đè xxuất chiến lược cuối cùng phải được thực hiện thực hoá vào các ngành trong quấ ỷtinhf phát triển kinh tế.Do đó đặc điểm, trình độ và vai trò cuẩ từng ngành kinh tế là nhân tố quan trọng để cân nhắc lựa chọn chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Nông nghiệp là ngành sản xuất gắn với đất đai và đặc điểm sinh hoạt của cây, con, là ngành thu hút tương đối nhiều lao động và không đòi hỏi cao về trình độ công nghệ đối với giai đoạn hiện nay của phát triển. Nông nghiệp cũng là ngành đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, tạo cơ sở nguyên liệu, lao động và thị trường cho phát triển công nghiệp; sản phẩm cho xuất khẩu. Với đặc điểm đất đai, rừng, biển khí hậu thời tiết và tính đa dạng sinh học của động thực vật, Việt Nam có đủ diều kiện phát triển nông lâm ngư nghiệp toàn diện. Vì vậy tuy tỷ trọng của GDP có thể giảm đi, song nông nghiệp vẫn có vị trí hết sức quan trọng thuộc hướng ưu tiên trong quá trình phát triênnr kinh tế - xã hội ở tầm gắn và trung hạn. - Công nghiệp bao gồm cả một hệ thống rộng lớn hơn các ngành sản xuất, mà mỗi ngành có những yêu cầu khác nhau về tài nguyên, lao động vốn và công nghệ; cũng như những đòi hỏi khác nhau ccủa thị trường. Đứng ở góc độ phát huy lợi thế so sánh về các nguồn lực, Việt Nam có thể cần phát triển các ngành công nghiệp khai thác các lợi thế tài nguyên và lao động bao gồm các ngành công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, sản xuaats hàng tiêu dùng thông thường, một số ngành khai thác để tạo vốn cho công nghiệp háo. Một số ngành công nghiệp cao sử dụng nhiều lao động, phù hợp với điiêù kiện trí tuệ và tính năng động Việt Nam cũng có thể trở thành hướng ưu tiên nngay từ thời điểm hiện nay. Đồng thời lựa chọn một số ngành sản xuất tư liệu sản xuất mà Việt Nam có điều kiện cũng là cần thiết hiện nay và trong tương lai, đảm cảo sự phát triển bền vừngcủa đất nước. - Sự phát triển của các ngành du lịch, một mặt là kết quả tất yếu của phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển công nghiệp; mặt khác nó cũng có ý nghĩa rất lớn đối với tăng trưởng, tạo việc làm tăng thu nhập. Nhiều ngành du lịch do ý nghĩa của nó - tạo ra cơ sở cho kết cấu hạ tờng kinh tế - xã hội của quá trình phát triển, đảm bảo nơng cao năng xuất lao động xã hôi; thúc đẩy quá trình giao lưu giữa các khu vực trong nước và quốc tế - đang trở thành những ngành được ưu tiên đi trước với tốc độ tăng trưởng cao, làm cho cơ cấu kinh tế biến đổi nhanh theo hướng gia tăng tỷ trọng của cá ngành công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm trong nước. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành công hay không chỉ phụ thuộc vào tính đúng đắn của sự lựa chọn các ngành ưu tiên, mà còn ở hệ thống chính sách nhằm tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để chúng dược phát triển. Về mặt lý thuyết một nền kinh tế hoạt động có hiệu quả phài là một nền kinh tế thị trường mang tính cạnh tranh. Song ngay cả trong trường hợp đó vẫn có sự thất bại của thị trường, do đó đòi hỏi phải có sự can thiệp của Nhà nước, đặc biệt đối với những ngành cần được ưu tiên. Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường; mặt khác, thích ứng với tính quá độ của nền kinh tế. Từ lôgíc đã nêu, các giải pháp về mặt chính sách để thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần phải bao gồm: - Đảm bảo sự ổn định kinh tế, xã hội. - Cung cấp cơ sở hạ tờng kinh tế, xã hội (kể cả giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ đảm bảo cho quá trình phát triển, đặc biệt theo hướng ưu tiên). - Thúc dẩy sự hình thành và phảt triển của thị trường; đảm bảo cho thị trường mang tính cạnh tranh. - Cung cấp những thông tin và đưa ra những chỉ dẫn đối với hoạt động của doanh nghiệp (đặc biệt hiện nay cần quan tâm đến các thông tin thương mại tài chính, khoa học và công nghệ; các thông tin gắn với quá trình hoà nhập quốc tế của Việt Nam, các thông tin xâm nhập thị trường quốc tế ). - Khắc phục những khuyết tật của thị trường và đưa ra những khuyết khích phù hợp với các ngành ưu tiên chẳn hạn, các công cụ chính sách đảm bảochiến lược ưu tiên theo xuất khẩu hoặc những chính sách bảo hộ hợp lý (đối với các hàng sản xuất để bán ở thị trường trong nước) song phải luôn tính đến những yêu cầukhi tham gia AFTA, APEC, WTO... mà kgông gây ra bóp méo quá mức, đồng thời phải linh hoạt để thích ứng với những điều kiện đã thay đổi trong nước và quốc tế. Một cách tiếp cận khác cũng rất bổ ích trong việc lựa chọn các giải pháp để thực hiện thành công quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH là đánh giá đứng đắn vai trò của Chính phủ và các doanh nghiệp. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 đã bày tỏ như sau: “quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế dưới tác động của cơ chế thị trường được Nhà nước hướng dẫn và thúc đẩy bằng các cộng cụ quản lý vĩ mô và bằng chương trình đầu tư dựa vào nguồn vốn tập trung ” (chiến lược ... Nxb Sự Thật, HN. 1991, tr12). Có thể nói các doanh nghiệp trực tiếp đóng góp tham gia quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Hoạt động của doanh nghiệp vì thế quan trọng biết nhường nào, mọi giải pháp cần phải đảm bảo cho doanh nghiệp làm tốt chức năng đó, Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ chứ không thể làm thay. Trên đây chỉ là những cơ sở để định hướng và giải pháp hyển dịch cơ cấu kinh tế. Phân tích sâu sắc những cơ sở đó trong điều kiện Việt Nam hiện nay chúng ta có thể chỉ ra được định hướng và giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành ở tầm ngắn và trung hạn của Việt Nam. Tuy nhiên cũng còn phải có tầm nhìn dài hạn để có định hướng và những chính sách tác động mang tính chuuyển tiệp liên tục để có thể đạt được những mục tiêu dài hạn mong muốn. 3. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngtành kinh tế có thể xem xét trên nhiều góc độ. Với việc xem xét các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kỹ thuật. Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là khi thu nhập đầu người tăng lên thì tỷ trọng trong nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỷ trọng của dịch vụu sẽ tăng nhanh hơn tỷ trọng của công nghiệp. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E. Engel và A.Fisher nghiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chỉ tiêu và sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19 E.Engel đã nhận thấy rằng khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chỉ tiêu cho lương thực, thực phẩm giảm đi là tất yêu sẽ dẫn đến tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E.Engel được nghiên cứu cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực thực phẩm là sản phẩm thiết yếu hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền và cung cấp các dịch vụ cao cấp. Thực tế ở các nước phát triển đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hành tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn khi tiêu dùng cho hành tiêu dùng cao cấp có tôc độ tăng nhanh hơn. Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E.Engel, quy luật tăng năng xuất lao động của A.Fister ông làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế qua việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nơng coa năng xuất lao động. Kết quả là, để đẩm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến lực lượng lao động như cũ có nghĩa là tỷ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm. Ngược lại tỷ lệ lao động thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và có khả năng hạn chế hơn trong việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để thay thế lao động, đặc biệt là hoạt động dịch vụ. chương II: thực trạng cơ cấu kinh tế khu vực ven biển các tỉnh miền trung giai đoạn 2006-2010 I. Giới thiệu về các tỉnh miền Trung 1.Giới thiệu chung. Các tỉnh duyên hải miền trung từ Quảng Bình đến Khánh Hoà có diện tích 5.091.800 ha, trong đó đất nông nghiệp 747.100 ha, đất lâm nghiệp 2.094.700 ha, đất chuyêndùng 382. 100 ha, đất ở 46.200 ha. Đến hết năm 2003, dân số 9.428.500 người, trong đó na, 4.616.600 người, nữ 4.711.700 người. Khu vực thành thị 2.563.900 người nông thôn 6.764.600 người. Khu vực ven biển miền Trung đang hình thành, phát triển hệ thống đô thị với sự tập trung dân cư khá lớn. Đây là vùng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, và an ninh quốc phòng. 2. Các chỉ tiêu tăng trưởng đã đạt được Trong quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nhát là CNH, HĐH công nghiệp, nông thôn, các tỉnh ven biển miền Trung đã đạt được những thành tựu đáng kể. Giai đoạn 1996 - 2000 tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,5%/ GDP/ năm. Giai đoạn 2001 - 2004 đạt 8,5%/GDP năm (cao hơn mức tăng của cả nước 7,2%). Năm 2004, kinh tế các tỉnh ven biển miền Trung phát triển khá cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt trên 10% trong đó thành phố Đà Nẵng 13,3%, Thừa Thiên Huế 9,1%, Quảng Nam 11,5%, Phú Yên 11,2% các tỉnh Quảng Trị, Quảng Bình, Khánh Hoa đạt trên 10/%2. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, dịch vụ phát triển khá, tăng trưởng cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng 20%. Thành phố Đà Nẵng năm 2004 đạt giá trị xuất khẩu 400 triệu USD thu ngân sách tăng khá, năm 2004 có 3 tỉnh thuộc duyên hải Miền Trung đạt 1000 tỷ đồng trở lên là thành phố Đà Nẵng. Khánh Hoà, Thừa Thiên - Huế. Cơ cấu kinh tế đã có chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ. Công nghiệp đang phát triển mạnh, nhiều khu, cụm công nghiệp hình thành, thu hút và giải quyết việc làm khá lớn cho người lao động. Thu nhập và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên so với hai đầu đất nước, các vực chậm phát triển. Cơ cấu kinh tế nặng về thuần nông, mất cân đối, phân công lao động chưea phát triển, nhất là khu vực ven biển. II. Thực trạng cơ cấu kinh tế ngành vùng duyên hải miền trung Các tỉnh miền Trung có bờ biển dài hơn 1000km. Đây là vùng đất hẹp nhất nước nên diện tích vùng ven biển rất nhỏ, chỉ chiếm 1/4 so với tổng diện tích toàn vùng. Tuy nhiên ở đây lại tập trung một qui mô dân số khá lớn, chiếm 2/3 dân số toàn vùng. Về cơ cấu kinh tế, vùng này vẫn là nông nghiệp, ngư nghiệp - công nghiệp - dịch vụ, nhưng trong từng lĩnh vực có sự khác nhau. 1. Cơ cấu ngành, lĩnh vực kinh tế 1.1 Nông nghiệp. 1.1.1.Ngành trồng trọt. Đến năm 2002, tổng diện tích đất nông nghiệp của các tỉnh ven biển miền Trung là 747.100 ha, thì diện tích đất nông nghiệp vùng ven biển dưới 100.000 ha. Đất ở vùng ven biển độ màu thấp, chủ yếu là đất pha cát, đất nhiễm mặn. Vì vậy không thuận lợi cho ngành trồng trọt lương thực. Hiện tại có một phần diện tích đất trồng lúa ở ven sông các vùng đồng bằng ven biển, một phần diện tích ở các vùng gò đồi cát trồng khoai, sắn, cây ăn quả, cây lương thực. Nhìn chung, ngành trồng trọt lương thực ở ven biển Miền Trung có năng suất, hiệu quả thấp, tự cung tự cấp là chính. 1.1.2. Ngành chăn nuôi Chăn nuôi chủ yếu trong các hộ gia đình gắn với ngành trồng trọt. Đối với ngư dân nghề biển, chăn nuôi lợn tập trung vào những hộ gia đình chế biến thuỷ sản. Một bộ phận dân cư ven biển chăn nuôi trâu, bò dùng làm sức kéo, chăn nuôi dê và các loại gia cầm quy mô nhỏ, chủ yếu tự cung tự cấp. Một số nơi nuôi gà công nghiệp, nuôi chim cút, nuôi vịt đàn nhưng vài năm gần đây do ảnh hưởng dịch cúm gia cầm nên bị thu hẹp đáng kể. 1.1.3.Ngành thuỷ sản. Thuỷ sản là ngành truyền thống của ngư dân ven biển miền Trung, ngày nay được nhà nước xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế chung của nền kinh tế. Ngành thuỷ sản ở Miền Trung có sự phát triển đáng kể. + Về nuôi trồng thuỷ sản. Biển và ven biển miền Trung có nhiều cửa sông, vũng vịnh, đầm phá có thể nuôi trồng thuỷ sản cả nước mặn, nước lợ, nước ngọt. Biểu 1: Diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản phân theo địa phương (Đơn vị tính: 1000 ha)3. 1995 2000 2001 2002 2003 2004 Quảng Bình 0,6 1,4 1,6 2,0 2,7 3,2 Quảng Trị 0,7 0,9 1,1 1,2 1,4 1,5 Thừa Thiên - Huế 1,5 2,7 3,6 3,9 3,6 3,7 Đà Nẵng 0,5 0,7 0,7 0,8 0,6 0,9 Quảng Nam 4,3 5,9 5,2 5,6 6,0 6,0 Quảng Ngãi 0,4 0,5 0,8 1,3 1,3 1,4 Bình Định 3,8 3,7 4,2 4,1 4,2 4,0 Phú Yên 0,9 2,8 3,1 2,7 2,6 3,2 Khánh Hoà 3,7 4,6 5,1 6,0 5,7 5,8 Cộng 16,7 23,2 25,4 27,6 28,1 29,7 Biểu 1 cho thấy, từ năm 1995 - 2003 các tỉnh ven biển miền Trung đã tăng diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm sau cao hơn năm trước. Năm 1995 diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 16.400 ha, đến năm 2003 tăng lên 28.100 ha. Những năm gần đây, phong trào nuôi tôm trên cát ở các tỉnh miền Trung phát triển mạnh, đã có hàng ngàn ha đất cát được sử dụng nuôi tôm đạt năng suất cao. Nhiều hộ đã làm giàu nhờ nuôi tôm trên cát. + Về khai thác thuỷ sản. Sản lượng khai thác thuỷ sản ở các tỉnh ven biển Miền Trung ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng thuỷ sản cả nước. Biểu 2: Sản lượng thuỷ sản phân theo địa phương Đơn vị: tính tấn4 Địa phương 1995 2000 2004 Cả nước 1.584.361 2.794.569 3476.320 Quảng Bình 13.076 26.506 41.257 Quảng Trị 7.622 14.696 25.325 Thừa Thiên - Huế 12.186 24.088 38.152 Đà Nẵng 18.920 35.690 48.723 Quảng Nam 25.333 45.854 62.195 Quảng Ngãi 38.500 79.193 103.253 Bình Định 59.822 90.099 123.762 Phú Yên 21.928 34.660 52.586 Khánh Hoà 59.087 68.840 79.350 Cộng 256.484 419.616 574.603 Biểu 2 cho thấy, sản lượng thủy sản ở các tỉnh Miền Trung tăng từ 256.484 tấn năm 1995 lên 419.616 tấn năm 2003, chiếm 18% tổng sản lượng thuỷ sản cả nước. Lĩnh vực khai thác thuỷ sản đã trang bị thêm phương tiện, máy móc, tàu thuyền. Số tàu có công suất lớn được tăng lên, nhiều địa phương thực hiện chương trình đánh bắt xa bờ, khai thác cá ngư đại dương có hiệu quả như Bình Định, Phú Yên, Khánh Hoà. Ước tính đến năm 2004, số lượng tàu đánh bắt cá có từ 20cv/ chiếc trở lên ở các tỉnh ven biển Miền trung khoảng 25.000 chiếc. Trong đó, một số tỉnh có lượng tàu nhiều như Bình Định 5.900 chiếc, tổng cộng suất 230.200cv, Quảng Nam 3450 chiếc và 66.000cv, Đà Nẵng 2023 chiếc và 71.500cv, Quảng Ngãi có 400 chiếc công suất từ 45cv/chiếc trở lên và hàng nghìn tàu công suất từ 20 - 30cv/chiếc. 1.2. Công nghiệp Từ Quảng Bình đến Khánh Hoà đã xây dựng 13 khu công nghiệp tập trung dọc theo bờ biển, thu hút và tạo việc làm cho hàng nghìn lao động. Trong đó có nhiều khu công nghiệp lớn như: Phú Bài, Chân Mây, Liên Chiểu - Hoà Khánh, Điện Nam - Điện Ngọc, Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội… Ngoài ra có nhiều cụm, khu công nghiệp nhỏ ở các địa phương. Đến nay có hơn 25 sản truyền thống ở ven biển miền Trung phong phú, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng tốt như; nghề làm nước mắm, mắm tôm, mắm cá, mắm mực, cá khô, tôm khô, tép khô… Công nghiệp đóng, sửa chữa tàu thuyền: các tỉnh miền Trung có 2 nhà máy đóng tàu lớn, thu hút hàng nghìn lao động và 13 xưởng đóng tàu nhỏ ở các địa phương cùng với một số cơ sở sửa chữa tàu thuyền tập trung ở Khánh Hoà, Bình Định, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Riêng thành phố Đà Nẵng có 6 cơ sở, năng lực đóng mới 120 chiếc/ năm, công suất lên đến, sửa chữa 2500 lượt chiếc/ năm. Ven biển miền Trung còn có một số loại tài nguyên khoáng sản làm cơ sở cho việc phát triển công nghiệp khai thác, chế biến. Đã có xí nghiệp khai thác cát thủy tinh ở Khánh Hoà, xí nghiệp khai thác cát thuỷ tinh và Ilmenit ở Quảng Nam, xí nghiệp khai thác Ti - tan khai thác nước khoảng ở Bình Định. 1.3.Dịch vụ Hệ thống dịch vụ cảng biên. Từ Quảng Bình đến Khánh Hoà có 18 cảng biển, trong đó có 6 cảng lớn hoạt động dịch vụ tổng hợp thu hút hàng vạn lao động. Dịch vụ hậu cần nghề cá được đầu tư nâng cấp, phát triển cơ sở sửa chữa tàu thuyền, dịch vụ cung ứng vật tư, cơ sở thu mua, chế biến, xây dựng hệ thống trại giống, chế biến thức ăn nuôi tôm… Dịch vụ du lịch bước đầu phát triển nhiều tỉnh đã tổ chức phát triển mạnh du lịch biển, du lịch sinh thái như Khánh Hoà, Quảng Nam, Đà Nẵng. III. Nhận xét chung về cơ cấu kinh tế ngành vùng ven biển miền trung 1. Thành tựu - Cơ cấu ngành bước đầu có sự chuyển dịch đúng hướng. Đã gắn sản xuất nông nghiệp với phát triển ngành nghề, dịch vụ, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản. Nhiều nơi đã chuyển một số diện tích đất nhiễm mặn sang nuôi trồng thuỷ sản. Tận dụng vùng đất cát để nuôi tôm công nghiệp, từ đó các dịch vụ hậu cần phát triển như: sản xuất nước đá, cung cấp nhiên liệu, sản xuất thức ăn nuôi tôm, xây dựng các chợ thuỷ sản…. Ngành thuỷ sản đã chuyển từ nuôi quảng canh sang thâm canh, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ mới. Phát triển nuôi trồng ở các vùng nước mặn, nước lợ, nước ngọt và trên cát. Chuyển mạnh theo hướng đánh bắt xa bờ khai thác cá ngừ đại dương với các phương tiện hiện đại. Bước đầu gắn được nuôi trồng khai thác, chế biến, tiêu thụ thành chu trình khép kín trong ngành thuỷ sản. Các khu công nghiệp, các ngành dịch vụ được xây dựng, phát triển hầu hết các tỉnh đã tác động mạnh mẽ đến nông nghiệp, nông thôn, góp phần phá vỡ tính tự túc, khép kín, phân công lao động xã hội theo hướng sản xuất hàng hoá. Nhiều hộ gia đình, một số ngành nghề truyền thống đã trở thành vệ tinh của các nhà máy, xí nghiệp. Một bộ phận diện tích đất nông nghiệp được chuyển sang trồng rau quả cung cấp cho các thành phố, các khu công nghiệp. Du lịch dịch vụ phát triển tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân ven biển góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng khai thác tiềm năng, lợi thế mỗi vùng bảo đảm sự phát triển bền vững. Nhiều tỉnh đã chuyển hưởng mạnh về du lịch biển gắn với bảo vệ môi trường sinh thái như Khánh Hoà tập trung đầu tư khai thác các đảo, các tua du lịch biển. Quảng Nam gắn chặt chẽ tiềm năng du lịch đô thị cổ hội an với du lịch sinh thái biển đảo Cù Lao Chàm. Thành phố Đà Nẵng quy hoạch quần thể du lịch Sơn Trà - Non Nước gắn với xây dựng con đường du lịch Sơn Trà Non Nước Hội An. Di chuyển các nhà máy, xí nghiệp lên khu công nghiệp Liên Chiểu - Hoà Khánh. - Các thành phần kinh tế được phát triển năng động, khai thác các nguồn lực về vốn lao động, đất đai, mặt nước ao hồ phát triển ngành nghề tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, chi phối mạnh mẽ quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước đã đầu tư nguồn vốn lớn cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật và kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình và kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình, nhà máy ,các khu công nghiệp, hệ thống dịch vụ cảng biển, du lịch thương mại… bảo đảm sự điều tiết nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế phát triển năng động dưới nhiều hình thức, đặc biệt là kinh tế hộ, kinh tế trang trại. Nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của cá nhân, gia đình chiếm 70 - 80% vay mượn người thân, vay ngân hàng khoảng 20 - 30%. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã thu hút và tạo việc làm khá lớn cho người lao động ở khu vực nông thôn, ven biển, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tỷ suất hàng hoá nâng lên, tính chất thị trường được hình thành rõ nét. Nhu cầu về vốn, lao động, đất đai, dịch vụ và tư liệu sản xuất tăng lên, đòi hỏi xã hội phải cung cấp, phải đáp ứng. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng thông thoáng, năng động làm tăng thêm nhiều mối quan hệ về kinh tế, xã hội, đồng thời cơ chế thị trường càng sàng lọc khắt khe, đòi hỏi chất lượng hàng hoá, dịch vụ ngày càng cao. Đó là một trong những động lực thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển. - Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng khu vực ven biển được phát triển một bước, tạo môi trường cho phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Tỉnh Quảng Nam thực hiện các dự án 773, các dự án nuôi tôm công nghiệp đã xây dựng những khu tập trung ở Hội An, Duy Xuyên, Núi Thành, xây dựng 4 cảng cá ở Hội An, Cù Lao Chàm, Núi Thành, Tam Kỳ. Xây dựng các nhà máy chế biến thuỷ sản ở Núi Thành, Điện Nam - Điện Ngọc tạo điều kiện thu hút đầu tư phát triển ngành thuỷ sản. Thành phố Đà Nẵng đã xây dựng 6 cơ sở đóng tàu thuyền, 15 cơ sở sản xuất nước đá. Xây dựng cảng cá Thuận Phước có năng lực bốc dỡ 45.000 tấn/ năm. Xây dựng Âu Thuyên Thọ Quang để trú bão qui mô 64 hạ và hạ tầng dịch vụ thuỷ sản 60 ha. Hệ thống giao thông được chỉnh trang, nâng cấp, mở rộng. Tỉnh Khánh Hoà đầu tư nâng cấp các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, xây dựng chợc á thu mua thuỷ sản. Tỉnh Bình Định đầu tư nâng cấp các cảng cá, xây dựng các trại giống và cơ sở chế biến thức ăn nuôi tôm, xây dựng các cơ sở đóng, sửa chữa tàu thuyền, nâng cấp hệ thống giao thông đường biển từ Bắc đến Nam và các đường xương cá từ biển nối với quốc lộ I. Những điều kiện vật chất, kỹ thuật góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Quan hệ sản xuất ở nông thôn ven biển được từng bước củng cố, hoàn thiện, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện, nâng cao. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, liên kết, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế khác phát triển ổn định dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Nhờ thực hiện các chương trình phát triển kinh tế thuỷ sản, các dự án phát triển kết cấu hạ tầng ven biển, các chính sách đầu tư, chính sách xoá đói, giảm nghèo, đến nay bộ mặt nông thôn có sự thay đổi, đời sống nhân dân được cải thiện, nâng cao. Tuỷ lệ hộ nghèo giảm, tỷ lệ hộ giàu tăng lên, nh iều hộ gia đình nhờ nuôi trồng thuỷ sản mà giàu lên nhanh chóng. Số hộ dân mua sắm tư liệu sinh hoạt đắt tiền tăng lên. Tình hình chính trị, xã hội ổn định. Nhân dân tin tưởng vào đường lối, chính sách cảu Đảng và Nhà nước. 2. Hạn chế - Cơ cấu kinh tế ngành chuyển dịch chậm. Ngành nông, lâm, thuỷ sản còn chiếm tỷ trọng lớn, xấp xỉ 80%. Các ngành công nghiệp, dịch vụ còn nhỏ bé. Thuỷ sản là ngành mũi nhọn của vùng biến nhưng cơ cấu ngành còn hạn chế. Ngành khai thác còn chiếm tỷ trọng lớn. Trong khai thác thì tập trung trong lòng gần bờ, ra khơi đánh bắt xa bờ còn hạn chế. Phương tiện kỹ thuật thăm do định vị, thông tin còn lạc hậu. Tàu thuyền công suất thấp, công cụ đánh bắt thủ công, lạc hậu nên hiệu quả thấp. Việc đa dạng hoá các phương tiện khai thác còn hạn chế, chủ yếu theo lối truyền thống. Công nghiệp chế biến còn ít, công nghệ lạc hậu, chưa tạo ra nhiều loại sản phẩm đa dạng, nhất là sản phẩm cho tiêu dùng nội địa. Các ngành nghề truyền thống còn nhỏ lẻ, tự phát, kỹ thuật thủ công, chất lượng sản phẩm chưa cao, còn ở dạng tự cung tự cấp là chính. - Các thành phần kinh tế tuy có năng động chưa còn phân tán, rời rạc, tự phát, chưa gắn kết chặt chẽ với nhau trong một cơ cấu thống nhất. Chưa có quan hệ gắn bó giữa nuôi trồng, khai thác, chế biến, tiêu thụ, giữa sản xuất với lưu thông. Mối quan hệ giữa nhà nông, ngư, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, Nhà nước còn rời rạc, ngẫu nhiên. Những người nuôi trồng, khai thác thuỷ sản nbán sản phẩm chủ yếu ở thị trường tự do nên độ rủi ro cao, bị tư nhân ép giá. Các nhà máy thu mua sản phẩm qua đầu nậu trung gian nên chi phí tăng lên. Nhà nước thiếu cơ chế, chính sách, tổ chức, chỉ đạo chưa chặt chẽ nên hoạt động của các thành phần kinh tế còn tự phát. - Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng khu vực ven biển còn nhiều hạn chế. Hệ thống dịch vụ hậu cần, kho tàng, bến bãi còn bất cập, yếu kém. Kỹ thuật phòng chống dịch bệnh còn hạn chế. Cơ sở cung ứng vật tư, nguyên, nhiên liệu và thu mua sản phẩm chưa được hình thành đồng bộ gắnhà nước với các vùng nuôi trồng, khai thác và sản xuất lớn. Hệ thống điện, đường, trường, trạm, thông tin liên lạc yếu kém. Hầu hết vùng ven biển, đường giao thông cấp phối, đường đất đi lại giao lưu khó khăn. - Phần lớn dân cư có đời sống khó khăn, thiếu việc làm. Vùng viểnn có số lượng và mật độ dân số lớn, trong khi đó ngành nghề chưa phát triển. Hoạt động của ngành thuỷ sản còn khó khăn, vốn đầu tư lớn, độ rủi ro cao. Đại bộ phận dân cư thiếu việc làm, thu nhập thấp, tích luỹ ít, không có vốn đầu tư. Điều này tạo nên vòng luẩn quẩn khó có lối ra. - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ven biển chưa gắn với sự phát triển bền vững. Việc khai thác, đánh bắt bừa bãi, gần bờ, đánh bắt bằng lưới mắt nhỏ, bằng các chất nổ…làm cho các loại sinh vật biển bị tiêu diệt, làm cạn kiệt các loài thuỷ sản quý hiếm. Việc nuôi trồng thuỷ sản tự phát, thiếu quy hoạch, nuôi trồng trên cát, phá rừng ngập mặn để nuôi tôm làm phá vỡ môi trường tự nhiên, làm cho nguồn nước ngầm bị cạn kiệt, các chất thải khong được xử lý gây ô nhiễm môi trường. Hiện tại một số cửa sông, đàm phá, vùng rừng ngập mặn đã bị ô nhiễm làm huỷ diệt nhiều loài thuỷ sinh. Tình trạng thiết việc làm, đói kém là mầm mống cho các tiêu cực và tệ nạn xã hội xảy ra gây mất ổn định chính trị, xã hội. chương III: định hướng chung và những giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nhằm giải quyết việc làm cho ngư dân ven biển miền trung giai đoạn 2006-2010 I.Định hướng chung về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001-2010 được trình bày trong báo cáo chíng trị trình Đại hội IX của Đảng là: “ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết đế trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng dể đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công ngiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cua nhân dân được nâng lên đáng kể” 1. Phát triển nhanh và bền vững Phát triển, hội nhập và đổi mới có quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau trong đó phát triển là mục tiêu, hội nhập la hướng về xuất khẩu vừa la điều kiện vừa là động lực cho sự phát triển. Phát triển nhanh va bền vững phải bao trùm mọi mặt của đời sống xã hội. Phát triển kinh tế la nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời phải gắn kết với thực hiện công bằng xã hội, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, đảm bảo an ninh xã hội. Phát triển nhanh và bền vững sẽ đưa lại kết quả chuyển dịch cơ cấu nhanh và môi trường trong sạch, nâng cao chất lượng cuộc sống. 2. Chủ động thưc hiện hội nhập quôc tế để tranh thủ cơ hội về vốn, công nghệ và thị trường thế giới, chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiện đại hoá Chủ động hội nhập quốc tế phải đặt trên cơ sở giữ vững độc lâp, tự chủ, bảo vệ lợi ích dân tộc, bản sắc văn hoá và định hướng XHCN, không bỏ lỡ thời cơ song phải chủ động về lộ trình, khắc phục, hạn chế các mặt bất lợi. Thách thức lớn nhất trong hội nhập quốc tế là phải tăng được sức cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của hàng hoá dịch vụ trên thị trường quốc tế và thị trường trong nước thì mới đứng vững và phát triển được trong môi trường cạnh tranh quyết liệt toàn cầu. Đồng thời phải tạo lập các yếu tố bảo đảm sự ổn định kinh tế vĩ mô, tăng cường khả năng ứng phó với tác động bất lợi về kinh tế từ bên ngoài. 3. Gắn chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế với việc thực hiện chiến lược hội nhập hướng mạnh về xuất khẩu trong tiến trình đảy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Phát triển các ngành nghề có lợi thế nhằm thoả mãn nhu cầu của thị trường nội địa trên cơ sở tiềm năng, điều kiện va nguồn lực trong nứoc. Đồng thời căn cứ vào nhu cầu thị trường quốc tế, yêu cầu của hội nhập va tính hiệu quả của phân công lao động quốc tế đòi hỏi ta phải xác định đúng và tập trung vào ngành trọng điểm, mũi nhọn hướng tới xuất khẩu. Phát triển các ngành này không chỉ tạo ra thế và lực cho nền kinh tế mà còn là yếu tố cơ bản đảm bảo sự bền vững của quá trình phát triển. Lựa chọn va phát triển đúng đắn các ngành mũi nhọn hướng về xuất khẩu sẽ góp phần khẳng định các lợi thế so sánh của Việt Nam, tạo tiềm lực kinh tế mạnh để giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội cốt lõi của mỗi thời kỳ phát triển. Thực chất của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế là tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho các ngành và sản phẩm có tỷ trọng xuất khẩu cao có tốc độ tăng trưởng cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Thêm vào đó, sự xuất hiện của các ngành và sản phẩm mới có hàm lượng xuất khẩu cao và phát triển nhanh chóng cả về sản lượng sản xuất và cả về khối lượng xuất khẩu của những sản phẩm mới đó sẽ vừa đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hướng về xuất khẩu vừa tăng mạnh kim ngạch xuất khẩu, làm cho tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sẽ gấp 2-3 lần tăng trưởng kinh tế nói chung. II. Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế ven biển các tỉnh miền trung 1. Tiến hành quy hoạch lại vùng biển Vùng ven biển có diện tích mặt nước biển và vùng bờ biển. Vùng này chưa được quy hoạch chi tiết, cụ thể. Vì vậy phải quy hoạch cho phù hợp với quy hoạch cung của cả khu vực miền Trung, đồng thời làm cơ sở vật cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đối với vùng mặt nước biển, quy hoạch vùng gần bờ để hạn chế đánh bắt mà bảo tồn, nuôi dưỡng các nguồn lợi thuỷ sản là chính, nhất là phải quy hoạch lại hệ thống vũng, vịnh, đàm phá để nuôi trồng thuỷ sản gắn với đặc điểm từng vùng. Vùng biển khơi dành cho các đội tàu lớn, các hợp tác xã khai thác những loại thuỷ sản có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho xuất khẩu. Khu vực bờ biển, cần điều tra, quy hoạch lại diện tích đất đai, mặt nước ao hồ. Chuyển một số diện tích trồng lương thực ít hiệu quả, diện tích bị nhiễm mặn sang nuôi trồng thuỷ sản. Quy hoạch, giữ gìn, phát triển rừng đước, rừng ngập mặn ở cửa sông bảo vệ môi trường sinh thái. Quy hoạch diện tích đất cát hợp lý cho sản xuất công nghiệp, nuôi tôm công nghiệp và không ảnh hưởng đến môi trường. Xây dựng các vành đai xanh, trồng rừng, trồng cây chắn gió chông sa mạc hoá vùng biển. Công tác quy hoạch phải đảm bảo kết hợp giữa các ngành nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và thuỷ sản, tạo điều kiện để thu hút và giải quyết việc làm cho dân cư ven biển. 2. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng ven biển thì xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng là rất quan trọng. Phát triển các trung tâm kỹ thuật nghiên cứu, lai tạo, chọn nhân giống các loại thuỷ sản, xây dựng các cơ sở sản xuất giống, chế biến thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản, các cơ sở phòng chống dịch bệnh. Xây dựng các cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá đồng bộ, đều khắp các địa phương, nhất là những vùng trọng điểm về nuôi trồng, khai thác, đánh bắt thuỷ sản. Xây dựng thêm nhà máy chế biến công nghệ hiện đại ở các tỉnh Phú Yên, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quảng Trị, Quảng Bình. Đồng thời đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, đáp ứng được tiêu chuẩn chất lượng quốc tế. Phát triển mạng lưới giao thông đều khắp ở ven biển các tỉnh, đầu tư nâng cấp các con đường đất ở nông thôn. Phát triển nvà mở rộng mạng lưới đường xương cá từ quốc lộ I xuống biển trong từng huyện theo hướng kiên cố. Trên cơ sở đó đưa điện về nông thôn, tiết tới điện khí hoá toàn bộ vùng biển, tạo điều kiện cho mở mang ngành nghề, phát triển kinh tế, xã hội. Xây dựng các trung tâm bưu điện, chợ, cửa hàng, trường học vùng ven biển. Đây là vấn đề khó khăn, lâu dài, đòi hỏi nguồn vốn lớn, tuỳ vào điều kiện mỗi địa phương mà có phương thức khai thác, phát triển khác nhau, nhưng ở vùng biển thì Nhà nước phải dùng ngân sách để đầu tư trước mới có thể huy động vốn của nhân dân, của các thành phần kinh tế, của nước ngoài để phát triển kết cấu hạ tầng. 3. Thu hút đầu tư, mở rộng thị trường trong và ngoài nước Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế tạo việc làm cho dân cứ ven biểnn cần phải thu hút đầu tư cả trong nước và ngoài nước. Một số lĩnh vực có thể thu hút vốn đầu tư trong những như: xây dựng chợ, trường học, phát triển giao thông nông thôn…Các lĩnh vực có thuỷ huy động vốn nước ngoài như: xây dựng nhà máy chế biến thuỷ sản, các dự án nuôi trồng thuỷ sản, nhà máy đóng tàu, các cơ sở du lịch, dịch vụ, chương trình nước sạch ở nông thôn ven biển. Để huy động các nguồn vốn đầu tư phải có cơ chế, chính sách phù hợp với khu vực, với cả nước, đồng thời có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Nhà nước phải đầu tư ngân sách, các ngành kinh tế của trung ương đầu tư tạo môi trường năng động để thu hút các thành phần kinh tế khác đầu tư. Phải xây dựng các chương trình, dự án có tính khả thi để thu hút vốn đầu tư, nhất là vốn nước ngoài. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng gọn nhẹ, một cửa, giảm thủ tục phiền hà, tạo ra sự cởi mở, thông thoáng, thuận lợi cho các nhà đầu tư. Mở rộng thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản phẩm. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có nghĩa là tạo ra nhiều nghề mới, thu hút lao động giải quyết việc làm, tạo ra nhiều sản phẩm, vì vậy phải có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Trước hết, cần mở rộng thị trường trong nước, nhất là thị trường khu vực miền núi, Tây Nguyên, các đô thị và các khu công nghiệp. Vùng ven biển có thể trồng hoa, rau quả cung cấp cho các đô thị, các khu công nghiệp. Đặc biệt hàng thuỷ sản là hàng tiêu dùng thiết yếu ở mọi vùng, các loại hàng như nước mắm, cá khô, muối…có nhu cầu cao và được ưa chuộng ở vùng núi, Tây Nguyên. Đối với thị trường nước ngoài, cùng với việc mở rộng thị phần ở các thị trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản cần phát triển ra nhiều khu vực khác như châu Phi, Mỹ - Latinh. Đa dạng hoá các mặt hàng đồng thời nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Vùng biển có thể sản xuất nhiều mặt hàng như đồ gỗ, thêu ren, mây tre, chiếu cói, dệt thảm, vỏ trai, sò…đồng thời tạo thêm nhiều mặt hàng thuỷ sản chủ lực xuất khẩu sang các nước. Để mở rộng thị trường, phải tổ chức, sắp xếp và đầu tư phát triển ngành nghề. Khuyến khích phát triển các nghề truyền thống, cải tiến đổi mới công nghệ cho ngành thuỷ sản. Có kế hoạch và chương trình tiếp thị, giới thiệu sản phẩm, đặt mối quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng, tổ chức mạng lưới chế biến, bảo quản, vận chuyển, lưu thông, phân phối sản phẩm đồng bộ. Đối với thị trường nước ngoài, cần có chương trình marketing và chiến lược thị trường bài bản. Quảng bá, giới thiệu sản phẩm, đồng thời tăng cường quan hệ buôn bán trên mạng. Cần đăng ký nhãn hiệu hàng hoá, tạo thương hiệu cho các sản phẩm nổi tiếng ở miền Trung như: áo dài Hội An, mộc Kim Bồng, nước mắm Nam Ô, mắm tôm Huế, và các loại sản phẩm khác. Thị trường mở rộng sẽ thúc đẩy sản xuất phát triển, cơ sấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ. 4. Phát triển các thành phần kinh tế Thực hiện nhất quan chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng ở khu vực ven biển cần vận dụng cho phù hợp. Thành phần kinh tế nhà nước chỉ tập trung trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, các dịch vụ công, một số xí nghiệp cơ khí, chế biến thuỷ sản. Còn lại các thành phần kinh tế khác làm. Kinh tế hợp tác xã nên phát triển trong một số dịch vụ hậu cần nghề cá, đóng tàu, thuyền công suất vừa, nhỏ như một số tỉnh đã làm. Phát triển các loại hợp tác xã tín dụng, hợp tác xã vận tải, hợp tác xã dệt thảm, thêu ren, mây tre, hợp tác xã đánh bắt thuỷ sản. Kinh tế tư nhân phát triển trong các lĩnh cực đóng tàu,sửa chữa tàu biển, trong nuôi trồng, khai thác thuỷ sản, chế biến, xuất khẩu. Phát triển kinh tế cá thể, tiểu chủ dưới dạng kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại. Hộ gia đình chuyên canh trồng hoa, trồng rau quả, hộ gia đình đánh bắt, chế biến thuỷ sản, hộ gia đình chế biến thuỷ sản kết hợp chăn nuôi lợn, hộ gia đình khai thác kiêm nghề tiểu thủ công nghiệp, hộ gia đình kết hợp nông nghiệp với ngư nghiệp. Khuyến khích phát triển trang trại chăn nuôi, trang trại nuôi trồng thuỷ sản. Tận dụng mặt nước ao hồ, cửa sông, đầm vịnh, diện tích đất cát ven biển để nuôi trồng thuỷ sản, nuôi tôm công nghiệp. Để tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển, Nhà nước có cơ chế, chính sách cởi mở, thông thoáng. Miễn giảm thuế 5 năm đầu cho việc tận dụng mặt nước ao hồ, đất đai, đầm vịnh để nuôi trồng thuỷ sản. Cho vay vốn để thực hiện các chương trình dự án, mua sắm công cụ, tàu thuyền, đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. Khó khăn nhất hiện nay ở vùng biển là nhân dân thiếu vốn để đầu tư phát triển ngành nghề, mở rộng sản xuất kinh doanh, vì vậy cần có chính sách tín dụng hợp lý, tạo điều kiện cho nhân dân làm ăn. Thực hiện chính sách xoá đói, giảm nghèo hỗ trợ vốn cho các hộ nghèo thông qua Ngân hàng Chính sách để họ phát triển ngành nghề, nuôi trồng thuỷ sản. 5. Đào tạo nguồn nhân lực Dân cư ven biển miền Trung có số lượng động, cơ cấu trẻ nhưng trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp kém, tỷ lệ lao động được đào tạo thấp hơn các vùng khác, vì vậy phải đào tạo nguồn nhân lực theo một kế hoạch và chiến lược dài hạn. Trước mắt, cần xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến tới phổ cập giáo dục phổ thông. Hướng lớp trẻ vào học tập ở các trường trung học chuyên nghiệp, các trường đại học; có chính sách thu hút họ về làm việc ở địa phương. Tập trung đào tạo nghề cho người lao động bao gồm: đào tạo công nhân kỹ thuật ở các trường chuyên nghiệp, đào tạo ngành nghề truyền thống ở các làng nghề. Đồng thời tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các ngành, lĩnh vực như: cơ khí, đóng, sửa chữa tàu biển, bưu chính viễn thông, dịch vụ hàng hải, thương mại, du lịch, bảo hiểm, ngân hàng. Có kế hoạch đào tạo cả ở trong và ngoài nước. Nhà nước phải đầu tư vốn xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo. Vùng ven biển cần xây dựng trường cấp I, II đều khắp các xã, trường cấp III ở cụm xã. Khu vực ven biển đông dân nhưng không có trường cấp III, nên hầu hết học sinh chỉ học đến cấp II là bỏ học. Đào tạo và nâng cao trình độ cho đội ngũ thầy, cô giáo ven biển, có chính sách ưu đãi để thu hút thầy, cô giáo giỏi đến vùng này. Các địa phương ven biển cần có kế hoạch đào tạo và sử dụng nhân lực phù hợp trong các lĩnh vực, ngành nghề; đồng thời tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho công tác giáo dục, đào tạo ở địa phương. Nhà nước các cấp quan tâm đầu tư vốn cho công tác giáo dục, đào tạo, đồng thời huy động vốn của các thành phần kinh tế, vốn nước ngoài, xã hội hoá công tác giáo dục, đào tạo. Tăng cường giáo dục, vận động, thuyết phục nhân dân cho con em học tập, đào tạo ngành nghề, xoá bỏ tập quán lạc hậu của dân cư ven biển là chỉ cần có sức khoẻ cơ bắp mà không cần học tập, đào tạo. Ngày nay vùng biển phải phát triển các ngành kinh tế tổng hợp, xây dựng một cơ cấu kinh tế đa dạng, nếu chất lượng nguồn nhân lực thấp kém thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu. Quy cho cùng, nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản nhất quyết định trình độ phát triển kinh tế, xã hội của một quốc gia. ở nước ta, vùng núi, ven biển kinh tế, xã hội kém phát triển hơn khu vực đồng bằng, thành thị, không phải vì thiếu vốn và tài nguyên thiên nhiên và chủ yếu là thiếu một nguồn nhân lực có chất lượng cao. Kết luận Có thể nói rằng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong các lựa chọn hiệu quả đã với các nước đang phát triển mà đặc biệt là chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Tuy nhiên, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành phải được nhận thức, thực hiện từ mọi ngành, mọi cấp, là công việc thường xuyên và liên tục. Trên tinh thần đó, các địa phương trên cả nước cũng cần có những bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành hợp lý, hiệu quả góp ph ần phát triển nahnh kinh tế nước nhà. Để làm sao nền kinh tế có thể nắm bắt tổng hợp tốt nhất tất cả các nguồn lực, các cơ hội từ trong và ngoài nước tạo ra. Đối với các tỉnh duyển hải miền Trung với nguồn lực và ưu thế của vùng chắc chắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế. theo hướng ưu tiên giải quyết việc làm sẽ giúp vùng phát triển nhanh hơn, sớm góp phầnn đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp và có thể sánh vai cùng các cường quốc năm châu như lời Bác Hồ đã dạy. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh tế phát triển. 2. Giáo trình kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. 3. Giáo trình dự báo phát triển kinh tế - xã hội. 4. Văn kiện đại hội Đảng VII, VIII, IX. 5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi n họn ở Việt Nam - Đỗ Hoài Nam. 6. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ 21 - TS Nguyễn Trần Quế. 7. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân - Ngô Đình Giao. 8. Tạp chí Đảng cộng sản. 9. Tạp chí phát triển kinh tế. 10. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 325, 327. 11. Niên giám Thống kê 2003, Nxb Thống kê, 2004. 12. Báo Thương mại số 1 + 2, 1 - 10/1/2005 13. Kết quả sơ bộ tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001. Ban chỉ đạo tổng điều tra, Hà Nội 4 - 2002. 14. Tư liệu kinh tế, xã hội chọn lọc từ kết quả điều tra của các cuộc điều tra quy mô lớn những năm 1990 - 1996, Nxb Thống kê, Hà Nội 1998. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28137.doc
Tài liệu liên quan