Theo các số liệu chưa đầy đủ thì trong 5 năm (2003-2007) Việt Nam đầu tư cho phát triển nông nghiệp (NN) chỉ đạt 113 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới chỉ đáp ứng 17% nhu cầu của khu vực NN. Đầu tư cho khuyến nông chỉ là 0,13% GDP (trong khi các nước khác tỷ lệ này là 4%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào NN, nông thôn mới chiếm 3% tổng nguồn FDI Là khu vực sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách hàng thấp ) nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại không đổ vào nhiều. Chính vì vậy Nhà nước cần phải có nhiều chính sách về vốn , đầu tư vào khu vực nông nghiêp , nông thôn để thúc đấy phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp các giải pháp cần đư ra là :
- Tăng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn;
- Tiến hành đầu tư theo chương trình;
- Mở rộng phân cấp đầu tư cho địa phương;
- Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu đầu tư theo hướng tăng mạnh cho việc đầu tư các công trình thuỷ lợi tưới cho cây công nghiệp, cây ăn quả; xây dựng các cơ sở hạ tâng phục vụ thương mại, bao gồm đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ, trung tâm buôn bán hàng hoá nông sản, kho tàng, bến cảng, phương tiện vận tải chuyên dùng, cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng.
- Dành kinh phí thoả đáng cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1603 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Chuyển địch cơ cấu Nông nghiệp ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hoá, dịch vụ, thông tin... tạo cơ sở và động lực cho tăng trưởng kinh tế. Nhưng nông nghiệp Việt Nam cũng đang phải đối mặt trước những thách thức lớn về sự cạnh tranh trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp trong môi trường tự do thương mại, mà trên thực tế Việt Nam chưa có mấy lợi thế, nhiều mặt còn yếu kém: về chất lượng, cơ cấu sản phẩm không phù hợp với thị trường thế giới... kinh nghiệm và uy tín trên thị trường. Bên cạnh đó năng suất lao động xã hội và nông nghiệp còn thấp.
Với 80% dân số sống trong khu vực nông nghiệp và trên 70% lao động xã hội đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông - lâm - nghiệp. Nên vấn đề phát huy các lợi thế và tiềm năng trong sản xuất nông nghiệp và đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, không chỉ là yêu cầu đối với sự nghiệp phát triển của nền kinh tế nông nghiệp, mà còn là vấn đền có tính chiến lược, nhằm giải quyết có tính tổng thể về các quan hệ kinh tế - xã hội... trong nông thôn và nông nghiệp
Tiếp tục đổi mới cơ cấu nông nghiệp và thể chế, chính sách, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hàng hoá nông nghiệp trên thị trường trong nước và thị trường thế giới là nội dung có tính cơ bản để Việt Nam hội nhập một cách có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Do vậy, em xin nghiên cứu đề tài: "Chuyển địch cơ cấu Nông nghiệp ở Việt Nam , thực trạng và pháp .’’ với phạm vi nghiên cứu trên toàn bộ nền nông nghiệp Việt Nam .
Đây là một đề tài có nội dung phong phú và phức tạp . Trong quá trình làm bài mặc dù đã cố sự hướng dẫn nhiệt tình của thày giáo _Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Sơn nhưng trong điều kiện hạn chế về thời gian và kiến thức , kinh nghiệm nên bài viết không thể tránh khỏi nhưng thiếu sót , em rất mong sự góp ý của thày cô để bài viết được hoàn thiện hơn !
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG1:CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG VẬT NUÔI
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp.
1. Các khái niệm.
1.1. Khái niệm cơ cấu ngành
Trước khi đi đến khái niệm cơ cấu ngành của nền kinh tế, cần làm rõ nội dung của thuật ngữ “cơ cấu”. “ Cơ cấu” là cách tổ chức các thành phần nhằm thực hiện một chức năng của chỉnh thể (tr 233, Từ điển Tiếng Việt- Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội).
“Cơ cấu ngành của một nền kinh tế là tổ hợp các ngành, hợp thành tương quan tỷ lệ, biểu thị mối liên hệ giữa các ngành đó của một nền kinh tế quốc dân. Định nghĩa trên đã nêu được nội dung cơ bản của cơ cấu ngành. Tuy nhiên, do lệ thuộc vào cách xác định cơ cấu ngành hiện nay trong định nghĩa mới mô tả mối quan hệ ngành ở một phạm vi hẹp và không đầy đủ: chỉ nói đến tương quan giữa các bộ phận.
Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống, Cơ cấu ngành của một nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền kinh tế và các mối quan hệ ổn định giữa chúng.
Có thể có nhiều cách phân ngành khác nhau khi nghiên cứu về chuyển dịch cơ cấu ngành. Song cho đến nay chính thức tồn tại hai hệ thống phân ngành kinh tế theo hệ thống "Sản xuất vật chất"(Material Production System-MPS). Và hệ thống phân ngành theo Hệ thống tài khoản quốc gia (System of National Accounts-SNA).
Trong hệ thống sản xuất vật chất, các ngành kinh tế được phân làm hai khu vực: Sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất. Khu vực sản xuất vật chất và không sản xuất được chia thành các ngành cấp I như công nghiệp, nông nghiệp... Các ngành cấp I được chia thành các ngành cấp II, chẳng hạn ngành công nghiệp lại bao gồm các ngành sản phẩm như điện năng, nhiên liệu... Đặc biệt trong các ngành công nghiệp, người ta còn phân ra thành nhóm A và nhóm B (nhóm A là các ngành công nghiệp nặng, nhóm B là các ngành công nghiệp nhẹ).
Theo hệ thống Tài khoản quốc gia các ngành kinh tế được phân chia thành 3 nhóm ngành lớn là Nông nghiệp , Công nghiệp- Xây dựng và dịch vụ. Ba ngành này bao gồm 20 ngành cấp I như: Nông nghiệp và lâm nghiệp, Thuỷ sản (nuôi trồng và khai thác), Khai mỏ và khai khoáng, chế biến... Các ngành cấp I lại chia nhỏ thành các ngành cấp II. Các ngành cấp II lại được phân nhỏ thành càc ngành sản phẩm.
Có nhiều mức phân ngành khác nhau, tuỳ theo mức độ gộp hay chi tiết hoá đến chừng nào mà có được một tập hợp các ngành tương ứng. Ngoài ra, một số tác giả còn đưa ra các cách phân ngành riêng tuỳ theo mục đích nghiên cứu.
Với một cách phân ngành hợp lý và một đại lượng giá trị được chọn thống nhất, có thể xác định được chỉ tiêu định lượng phản ánh một mặt của cơ cấu ngành, đó là tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. Loại chỉ tiêu định lượng thứ nhất này đã được sử dụng trong các nghiên cứu về phát triển liên quan đến cơ cấu ngành của nền kinh tế . Các chỉ tiêu loại một này chỉ cho biết số ngành kinh tế và quy mô của chúng trong sự so sánh tương đối với nhau và với tổng thể. Chỉ tiêu định lượng thứ hai có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng cân đối liên ngành ( của hệ MPS ) hay bảng Vào-Ra (I/O) (của hệ SNA). Các hệ số về liên hệ phía “ thượng lưu ”-CLAM CLAM- Viết tắt của: Coefficient de liaison en a mont
và các hệ số liên hệ phía “hạ lưu”-CLAV CLAV- Viết tắt của: Coefficient de liaison en aval
cũng là một trường hợp của loại chỉ tiêu này.
Như vậy, theo định nghĩa cơ cấu ngành đưa ra và xét về mặt định lượng, ít ra phải có hai loại chỉ tiêu trên đây mới cho ta có được một sự hiểu biết đầy đủ hơn về cơ cấu ngành của một nền kinh tế.
1.2. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu ngành.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế (trong đó có cơ cấu ngành) đã được định nghĩa như sau: “là quá trình cải biên kinh tế xã hội từ nền kinh tế lạc hậu, mang tính chất tự cấp, tự túc bước vào chuyên môn hoà hợp lý, trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại, trên cơ sở tạo ra năng suất lao động cao và nhịp độ tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế nói chung ”. Định nghĩa này mang nhiều tính chủ quan, mong muốn hơn là mô tả bản chất của sự việc, và thiếu một sự khái quát nhất định. Vì rằng không chỉ có nền kinh tế lạc hậu, kém phát triển (tự túc, tự cấp) mới có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Ngày nay, chính các nền kinh tế công nghiệp phát triển cũng phải thường xuyên điều chỉnh cơ cấu kinh tế để tiếp tục phát triển.
Kết hợp với ý nghĩa của thuật ngữ “chuyển dịch” có thể định nghĩa chuyển dịch cơ cấu ngành như sau: Chuyển dịch cơ cấu ngành là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với một thời điểm trước đó. Theo định nghĩa này, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chỉ xẩy ra sau một khoảng thời gian nhất định (vì nó là một quá trình) và sự phát triển của các ngành phải dẫn đến thay đổi mối quan hệ tương đối ổn định vốn có của chúng (ở thời điểm trước đó)
Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến chuyển dịch cơ cấu ngành trong mỗi nền kinh tế. Cho nên, chuyển dịch cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá trình phát triển. Đó là quy luật tất yếu từ xưa đến nay trong hầu hết mọi nền kinh tế (xét ở mức độ phân ngành nào đó). Vấn đề đáng quan tâm là ở chỗ: sự chuyển dịch cơ cấu ngành diễn ra theo chiều hướng nào và tốc độ chuyển dịch nhanh chậm ra sao, có những quy luật gì?.
Có rất nhiều nền kinh tế đã đạt được thành công trong sự phát triển nhờ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đặc thù phù hợp với điều kiện cụ thể. Việc tìm ra một xu hướng và giẩi pháp cho chuyển dịch cơ cấu ngành ở nước ta không đơn thuần là áp dụng kinh nghiệm có được, mà là sự phát triển những đặc thù của đất nước, của môi trường trong nước và thế giới nay để làm thích ứng những bài học đã có cho hoàn cảnh Việt Nam.
2. Cơ sở khoa học chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
2.1. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel.
Ngay từ cuối thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng, khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên.
Quy luật của E.Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăng nhanh hơn tốc độ tăng thu nhập.
Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong quá trình phát triển.
2.2. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher.
Năm 1953, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kĩ thuật”, A.Fisher đã giới thiệu khái niệm về việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai và thứ ba. A.Fisher quan sát thấy rằng, các nước có thể phân loại theo tỷ lệ phân phối tổng số lao động của từng nước vào 3 khu vưc. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp,lâm nghiệp và theo một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin, thương nghiệp, dịch vụ Nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kĩ thuật đã có tác động đến sự thay đổi phân bố lao động vào 3 khu vực này. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương pháp canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để đảm bảo lượng lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào các số liệu thống kê thu nhập được, A.Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể từ 80% đối với các nước chậm phát triển nhất xuống 11-12%, ở các nước công nghiệp phát triển và trong những điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được thu hút vào khu vực thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của 2 khu vực này và khả năng hạn chế hơn của việc áp dụng tiến bộ kĩ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba.
2.3. Lý thuyết về các giai đoạn phát triển kinh tế của W.Rostow.
Năm 1960 cuốn “Các giai đoạn phát triển kinh tế” của nhà kinh tế học Mỹ W.Rostow đã tạo ra sự quan tâm lớn về nghiên cứu qúa trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của các nước. Theo W.Rostow nhìn chung quá trình phát triển kinh tế của một nước có thể chia ra 5 giai đoạn: Xã hội truyền thống; chuẩn bị cất cánh; cất cánh; trưởng thành và mức tiêu dùng cao. Việc xem xét các giai đoạn phát triển của W.Rostow tập chung làm rõ các vấn đề.
- Dưới tác động nào mà xã hội nông nghiệp truyền thống đã bắt đầu quá trình hiện đại hoá.
- Những lực lượng nào đã thúc đẩy quá trình tăng trưởng.
- Những đặc chưng cơ bản của từng giai đoạn.
- Những lực lượng nào tác động đến mối quan hệ giữa các khu vực trong quá trình tăng trưởng.
Các giai đoạn phát triển của W.Rostow có thể minh họa bằng đường cong ở sơ đồ 1
Thu nhập
1 2 3 4 5 Thời gian
Với các mốc thời gian ứng với các giai đoạn :
1_ Xã hội truyền thống
2_Giai đoạn chuẩn bị cất cánh
3_Giai đoạn cất cánh
4_Giai đoạn trưởng thành
5_Giai đoạn mức tiêu dung cao
3. Cơ cấu nông nghiệp và sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp.
3.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp:
Cơ cấu ngành nông nghiệp của một nền kinh tế là tập hợp tất cả các nhóm ngành nông nghiệp (hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành: nông-lâm-ngư nghiệp; theo nghĩa hẹp bao gồm: trồng trọt và chăn nuôi) và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Nói cách khác giữa các ngành nông nghiệp gồm các yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau cùng phát triển trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế nhất định.
Cơ cấu ngành nông nghiệp luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Đó là sự thay đổi quan hệ tỷ lệ giữa các ngành (tỷ lệ giữa ngành trồng trọt và chăn nuôi; giữa nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản ), các vùng, các thành phần (do sự xuất hiện một số ngành ngoài nông nghiệp như: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, dich vụ nông thôn...) hay do sự gia tăng hoặc giảm sút tốc độ tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành cơ cấu ngành nông nghiệp là không đồng đều. Sự thay đổi của cơ cấu ngành nông nghiệp từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được gọi là sự chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp.
Mặt khác trong thực tế cũng như trong lý luận, cơ cấu nông nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của cơ cấu đầu tư và cơ cấu lao động.
3.2. Sự cần thiết phải chuyển dich cơ cấu nông nghiệp.
Trong hơn 10 năm phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã và đang đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng bắt đầu xuất hiện những vấn đề đáng lo ngại. Những năm gần đây, tỷ suất hàng hoá trong nông nghiệp của nước ta có xu hướng ngày càng nâng cao. Nông nghiệp Việt Nam ngày càng có nhiều mặt hàng tham gia vào thị trường thế giới, trong đó có một số mặt hàng có thứ hạng cao trong thị phần như cà phê, gạo, hồ tiêu, điều...Có thể thấy, tăng trưởng của nông nghiệp nước ta ngày càng tuỳ thuộc vào kinh tế và thị trường thế giới
Thế nhưng kinh tế thế giới và khu vực trong những năm qua vẫn đang nằm trong chu kỳ suy thoái, thậm chí dường như nằm ở đáy của chu kỳ này. Do vậy, những nỗ lực gia tăng sản lượng đã không đủ bù đắp lại thiệt hại về giá cả trên thị trường thế giới.( xem biểu đồ)
Những con số trên đây một mặt thể hiện nổ lực to lớn của những người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Mặt khác cũng cho thấy những khó khăn không kém trong lĩnh vực này. Một số mặt hàng nông sản xuất khẩu quan trọng như cà phê, gạo...phải thực hiện bù lỗ xuất khẩu dưới nhiều hình thức. Không ít hộ nông dân lâm vào tình trạng điêu đứng.
Tình trạng “ bí đầu ra” thị trường thế giới đã tác động ngay đến thị trường nông sản trong nước, một thị trường mà như nhiều năm gần đây, người nông dân trong tình thế bất lợi. Năm nay, hàng bán ra thị trường thế giới lỗ lãi, tồn đọng ở thị trường trongnc nhiều. Độ co dãn về cầu trong nước của những mặt hàng này lại thấp. Những tín hiệu trên đây của thị trường mách bảo điều gì?.
Ít nhất thì cũng có hai điều có thể nhận biết từ động thái của thị trường trong những năm gần đây, nhất là từ năm 2002. Một là, cần phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn cho thích ứng với đòi hỏi thị trường. Hai là, tổ chức lại nền nông nghiệp, kinh tế nông thôn nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và nắm bắt thông tin thị trường thế giới cũng như trong nước.
II. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Mỗi giai đoạn phát triển nông nghiệp đều chịu tác động của rất nhiều yếu tố, trong đó có nhân tố chủ quan do nhà nước tạo ra và những yếu tố khách quan của môi trường đã được hình thành và thay đổi theo thời gian.
1. Vấn đề quy hoạch ,chính sách của nhà nước
Việc đưa ra các chính sách và quy hoạch cửa Nhà nước có tác động lớn tới việc chuyển dịch cơ cấu .Về vấn đề này trong thời gian tới nhà nước ta đã có địng hướng phat triển nông nghiệp với nội dung như sau :
Định hướng phát triển nông nghiệp Việt Nam đầu thế kỷ 21.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra mục tiêu chiến lược về CNH-HĐH đất nước là: từ nay (1996) đến năm 2020 phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất… Trong cơ cấu kinh tế, tuy nông nghiệp tiếp tục phát triển mạnh, song công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GNP và trong lao động xã hội. Đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản… Hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, đảm bảo an toàn về lương thực cho xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hoá, cơ giới hoá, sinh học hoá…
Nước ta là một nước đang phát triển, nông nghiệp mới bắt đầu có sự chuyển dịch từ sản xuất tự cấp tự túc lên sản xuất hàng hóa. Là nước đi sau, chúng ta có thuận lợi là có điều kiện tham khảo kinh nghiệm của những nước đi trước trong khu vực và trên thế giới về con đường phát triển nông nghiệp trong thời đại hiện nay, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm tốt, tránh được những sai lầm của các nước đi trước trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp.
Bước vào thế kỷ 21, nông nghiệp Việt Nam phải phát triển theo con đường nào để thu hút được hiệu quả kinh tế- xã hội tối ưu, với tốc độ nhanh trong điều kiện điểm xuất phát thấp và cơ sở vật chất kỹ thuật hạn chế, trình độ sản xuất nông sản hàng hoá chưa cao?
Qua đúc kết kinh nghiệm trong nửa sau của thế kỷ 20 và tham khảo kinh nghiệm một số nước trong khu vực và thế giới, chúng ta có thể khẳng định con đường phát triển nông nghiệp Việt Nam từ thế kỷ 20 bước vào thế kỷ 21 là: nông nghiệp sản xuất hàng hoá trên cơ sở CNH-HĐH với mức độ phù hợp yêu cầu của nông nghiệp bền vững.
Những ngành sản xuất hàng hoá quan trọng của nông nghiệp 10 năm tới:
Ngày 15/06/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quuyết về một số chủ trương chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Theo đó, trong 10 năm tới, những ngành sản xuất hàng hoá quan trọng của nông nghiệp nước ta cần phát triển theo định hướng sau:
- Về sản xuất lương thực: lúa gạo là ngành sản xuất có thế mạnh. Mức sản lúa ổn định khoảng 33 triệu tấn/năm, trong đó lúa gạo để ăn và dự trữ khoảng 25 triệu tấn/năm. Giữ ổn định khoảng 4 triệu ha đất có điều kiện tưới tiêu chủ động để sản xuất lúa. Cây màu lương thực chủ yếu là ngô, cần phát triển đạt mức 5-6 triệu tấn/năm đủ nguyên liệu để làm thức ăn chăn nuôi.
- Về cây công nghiệp ngắn ngày : Không xây dựng thêm các nhà máy đường mới, phát triển mạnh các loại cây có dầu như lạc (đậu phụng), đậu tương (đậu nành), vừng (mè), hướng dương…để cung cấp dầu ăn, các loại cây có sợi như bông, dâu tằm gắn với ngành ươm tơ, dệt lụa phát triển thuốc lá nguyên liệu để giảm lượng thuốc lá nhập khẩu.
- Những cây công nghiệp lâu năm truyền thống có giá trị kinh tế cao là: cà phê với mức 400.000 ha cà phê với hiện có, tập trung phát triển cà phê chè, sản lượng cà phê trong tương lai giữ mức khoảng 600.000 tấn/năm. Phát triển mạnh cây điều ở miền Trung, tăng diện tích lên 500.000 ha, sản lượng khoảng 100.000 tấn nhân điều/năm. Hồ tiêu là cây lâu năm có hiệu quả kinh tế cao, cần nâng diện tích lên 50.000 ha, sản lượng 100.000 tấn/năm. Tập trung thâm canh 400.000 ha cao su hiện có, mở rộng vườn cây cao su để đạt 600.000 tấn cao su mủ khô/năm. Bên cạnh đó phát triển công nghiệp chế biến các sản phẩm từ mủ cao su, gỗ cao su. Chè là cây dài ngày chủ lực ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Cần mở rộng 100.000 ha với công nghệ thâm canh để đạt sản lượng 100.000 tấn chè các loại/năm.
- Về rau, hoa quả và cây cảnh, ngoài các loại rau truyền thống, phát triển các loại rau cao cấp mới như: các loại đậu rau, ngô rau, măng, nấm ăn, nấm dược liệu…là những loại rau có giá trị dinh dưỡng cao, có thị trường tiêu thụ, tiếp tục phát triển các loại cây ăn quả có khả năng xuất khẩu: vải, nhãn, dứa, thanh long…
- Về lâm nghiệp: ngoài việc bảo vệ, khoanh nuôi, tái sinh, trồng rừng phòng hộ, cần phát triển rừng sản xuất. Cụ thể: phát triển các loại tre, trúc, keo, thông, các loại bạch đàn…làm nguyên liệu phát triển ngành giấy. Tiếp tục phát triển các ngành sản xuất ván gỗ nhân tạo gồm ván ghép thành, ván dăm, ván sợi, công nghiệp chế biến và xuất khẩu đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ…Phát triển các loại quế, hồi…,các loại cây gỗ quý hiếm như giáng hương, sao, lim, lát, pơmu, tếch…các loại cây đặc sản, cây lấy gỗ làm nguyên liệu để chế biến sản phẩm thủ công, mỹ nghệ.
- Về chăn nuôi: phát triển đàn lợn phù hợp nhu cầu thị trường tiêu dùng trong nước, một số vùng nuôi lợn chất lượng cao để xuất khẩu, phát triển đàn bò thịt theo hướng bò Zêbu có năng suất cao, phấn đấu trong 10 năm tới có 200.000 con bò sữa, trong đó có 100.000 con bò cái vắt sữa với sản lượng 300.000 tấn sữa tươi/năm. Phát triển đàn gia cầm chủ yếu là gà vịt.
- Về thuỷ sản: Cùng với việc phát triển đánh bắt xa bờ, tập trung đầu tư phát triển bền vững ngành nuôi trồng thuỷ sản. Tôm là ngành chủ lực trong ngành nuôi trồng thuỷ sản gồm tôm nước lợ (tôm sú, tôm he) và tôm nước ngọt (tôm càng xanh). Diện tích nuôi thâm canh và bán thâm canh là 100.000 ha, sản lượng 300.000 tấn/năm. Đồng thời phát triển mạnh nuôi trồng các loại cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn và các loại đặc sản khác.
Theo định hướng trên, nền nông nghiệp Việt Nam đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia, đủ nguyên liệu cho công nghiệp, đồng thời nâng kim ngạch xuất khẩu lên khoảng 8-9 tỷ USD/năm. Bên cạnh đó, Chính phủ đã có chủ trương, chính sách để tăng khả năng tiêu thụ nông, lâm, thuỷ sản. Cụ thể, nhanh chóng ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Khoa học công nghệ phải phục vụ mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững, nâng cao năng xuất , chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm, tạo ra nhiều mặt hàng mới, quý hiếm, trái vụ để nâng cao sức cạnh tranh.
Trong thập kỷ tới, phải đưa trình độ khoa học công nghệ của nhiều ngành trong nông nghiệp Việt Nam đuổi kịp các nước trong khu vực, nâng mức đóng góp của khoa học công nghệ vào giá trị gia tăng của nông nghiệp từ 30% hiện nay lên trên 50%. Về giống, đảm bảo trên 70% giống được dùng trong sản xuất là giống tiến bộ kỹ thuật, đẩy mạnh việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ sinh học trong chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật nuôi. Về tưới tiêu nước và cơ giới hoá, đẩy mạnh nghiên cứu và áp dụng rộng rãi tưới phun, tưới nhỏ giọt, tưới thấm… cơ giới hoá khâu làm đất trên 70% khâu gieo hạt cây ngắn ngày.
2. Điều kiện tự nhiên và ảnh hưởng
Điều kiện tự nhiên (đất đai, nguồn nước, hải sản..) và các điều kiện thiên nhiên ( khí hậu, thời tiết..) phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Tuy vậy, việc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp còn phụ thuộc vào yếu tố chủ quan và khách quan.
Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển người ta tập trung khai thác tài nguyên có lợi thế. Chẳng hạn để đạt được mục tiêu tăng sản lượng ngành trồng trọt cần khai thác lợi thế tăng phạm vi vốn đất đai phục vụ ngành trồng trọt, điều này có thể dẫn đến việc thu hẹp phạm vi của ngành chăn nuôi hoặc ngược lại. Rõ ràng việc đó đã tạo ra một sự chuyển dịch giữa trồng trọt và chăn nuôi.
Tóm lại sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên nhiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng tới quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp là nhân tố cần phải tính đến trong quá trình hoạch định cơ cấu.
3. Vốn và sự ảnh hưởng của vốn
Cho đến nay vấn đề về vốn trong sản xuất nông nghiệp vẫn làm đau đầu các nhà hoạch định chính sách. Không chỉ bởi sự phức tạp trong việc sử dụng hợp lý nguồn vốn mà còn bởi đối tượng đầu tư. Muốn tạo ra bước đột phá trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp cần phải có nguồn vốn lớn đầu tư vào các khâu quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế.
Tính đến nay đa số vốn đầu tư cho nông nghiệp đều tập trung cho cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp, tuy nhiên thực tế tính bền vững cũng như quy mô công trình chưa cao, (ví dụ: chỉ riêng cơn bão số 5 đã khiến 33 vạn ha lúa bị hư hại). Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật nông nghiệp, thuỷ lợi còn thấp khả năng chống đỡ diễn biến phức tạp của thời tiết còn yếu, chưa đảm bao an ninh lương thực.
Huy động vốn bằng nhiều cách, đáp ứng nhu cầu vốn trong khu vực nông nghiệp là mục tiêu hàng đầu cần phải giải quyết thoả đáng trong thời gian tới.
4. Khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học.
CNH-HĐH trong nông nghiệp đã đem lại bộ mặt mới cho nông thôn Việt Nam, sản lượng lương thực không ngừng tăng, vấn đề tăng năng suất cây trồng, vật nuôi không còn chịu phụ thuộc quá nhiều vào điều kiện tự nhiên mà chịu tác động trực tiếp của con người với các ứng dụng của khoa học công nghệ.
Khoa học công nghệ không chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới trong nông nghiệp mà còn đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp.
Trong điều kiện mở cửa hội nhập, tiến bộ khoa học công nghệ cho phép tạo ra sản phẩm nông sản với chất lượng cao, giảm chi phí sản xuất, do đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả làm chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng xuất khẩu.
Đẩy nhanh tốc độ ứng dụng khoa học công nghệ trong ngành nông nghiệp tất yếu sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp có hiệu quả.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM
I. T ổng quan về thực trạng kinh tế Việt Nam
1. Tình hình phát triển kinh t ế xã hội Việt Nam
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,5%/năm (đạt kế hoạch đề ra). Năm 2005, GDP theo giá hiện hành ước đạt 838 nghìn tỉ đồng, bình quân đầu người trên 10,0 triệu đồng (tương đương khoảng 640 USD
Nông nghiệp tiếp tục phát triển khá; giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5,4%/năm (kế hoạch 4,8%), giá trị tăng thêm tăng khoảng 3,8%/năm. Năng suất, sản lượng và hàm lượng công nghệ trong sản phẩm nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản tăng đáng kể; an ninh lương thực quốc gia được bảo đảm; một số sản phẩm xuất khẩu chiếm được vị trí cao trên thị trường thế giới. Trồng rừng, chăm sóc và bảo vệ rừng đã có bước tiến; độ che phủ rừng từ 33,7% năm 2000 tăng lên 37,4% năm 2005.
Kết cấu hạ tầng tiếp tục được đầu tư nhiều hơn. Bộ mặt nông thôn, đời sống nông dân, kể cả ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số, có bước được cải thiện. Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư và nhà ở vượt lũ ở đồng bằng sông Cửu Long đạt được kết quả bước đầu.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, giá trị tăng thêm tăng 10,2%/năm. Công nghiệp có bước chuyển biến tích cực về cơ cấu sản xuất, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 16%/năm (kế hoạch 13,1%), cao hơn 1,9%/năm so với 5 năm trước. Cả nước đã có trên 100 khu công nghiệp, khu chế xuất, nhiều khu hoạt động có hiệu quả; tỉ lệ công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hoá sản phẩm tăng. Công nghiệp ở nông thôn và miền núi tăng trưởng cao hơn tốc độ trung bình của cả nước. Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài nước. Ngành xây dựng tăng trưởng 10,7%/năm, năng lực xây dựng tăng khá nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng hiện đại; việc xây dựng đô thị, xây dựng nhà ở đạt nhiều kết quả, hàng năm đưa thêm vào sử dụng khoảng 20 triệu m2.
Dịch vụ có bước phát triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và có tiến bộ về hiệu quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất của các ngành dịch vụ tăng 7,6%/năm (kế hoạch 7,5%); giá trị tăng thêm tăng gần 7%/năm (kế hoạch 6,8%). Riêng năm 2005, giá trị tăng thêm tăng 8,5%, cao hơn mức tăng GDP.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá bán lẻ tăng khoảng 15%/năm (kế hoạch 11 - 12%). Ngành du lịch phát triển khá, cả về lượng khách, loại hình và sản phẩm du lịch. Dịch vụ vận tải tăng nhanh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu. Bưu chính - viễn thông phát triển nhanh theo hướng hiện đại, đến cuối năm 2005 đạt 19 máy điện thoại và 3,2 thuê bao Internet trên 100 dân; 100% xã có điện thoại, hầu hết các xã có điểm bưu điện - văn hoá hoặc điểm bưu điện. Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn, tin học, kỹ thuật, y tế, giáo dục, đào tạo, văn hoá... đều có bước phát triển.
2. Tình hình phát triển nông nghiệp Việt Nam
C ùng v ới s ự phat tri ển cua n ền kinh t ế , N ônng nghi ệp trong tho ăi gian qua c ũng đ ã đ óng g óp v ào nh ững gi á tr ị quan tr ọng .K ết qu ả đ ạt đ ư ợc c ủa n ông nghi ệp đ ư ợc th ể hi ện ở b ảng s ố li ệu sau :
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam GDP trong nông nghiệp được tính toán có kết quả
1. Tốc độ tăng giá trị sản xuất (%) các khu vực kinh tế qua các thời kỳ (đơn vị: %)
GDP NLTS Công nghiệp Dịch vụ
1990-1995 8,19 4,1 12,02 8,6
1995-2000 6,96 4,42 10,63 5,72
2001-2005 7,51 3,42 10,25 6,97
2006-2007 8,36 3,55 10,49 8,49
2. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản (%) qua các thời kỳ(đơn vị: %)
Tốc độ tăng giá trị tổng sản lượng nông , lâm , thuỷ sản Nông nghiệp Trong đó
Nông nghiệp
Lâm nghiệp
Thuỷ sản
Trồng trọt
Chăn nuôi
1990-1995
6,51
5,9
5,9
-
10,9
1995-2000
7,87
6,4
6,5
-
8,1
2001-2005
5,44
4,1
3,5
1,4
9,7
2006-2007
4,78
3,5
2,9
1,5
9,8
3. Trình độ khoa học kỹ thuật nông nghiệp, mức độ cơ giới hoá nông nghiệp
+ Khoa học kỹ thuật được áp dụng khá rộng rãi
Trong trồng trọt, việc áp dụng giống mới và các quy trình canh tác tiên tiến, chương trình “3 giảm, 3 tăng”, IPM, GAP được đẩy mạnh. Trong chăn nuôi, giống mới, thức ăn công nghiệp và phương pháp chăn nuôi kiểu công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn sinh học được phổ biến ngày càng rộng hơn.
Trong thuỷ sản, công nghệ sinh sản nhân tạo một số loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao (tôm sú, tôm he, cá tra, ba ba, cua, nhuyễn thể 2 vỏ...) đã tạo nên cuộc cách mạng thực sự trong nuôi trồng thuỷ sản. Công nghệ mới cũng được áp dụng trong các nghề khai thác như câu vàng cá ngừ, câu cá mực, điều chỉnh kích thước mắt lưới trong khai thác để bảo vệ nguồn lợi; áp dụng công nghệ làm lạnh nước biển để bảo quản cá, tôm và các sản phẩm khai thác sau thu hoạch...
Trong lâm nghiệp nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, nhất là trong tuyển chọn, tạo giống mới, nhân nhanh giống bằng công nghệ mô, hom được đưa vào sản xuất, góp phần cải thiện năng suất, chất lư¬ợng rừng. Hiện nay, nhiều diện tích rừng kinh tế được trồng bằng giống tiến bộ kỹ thuật. Tỷ lệ thành rừng đối với rừng trồng tăng từ 50% bình quân vào những năm 1990 lên trên 80%, nhiều nơi năng suất rừng trồng đã đạt 15 – 20m3/ha/năm.
Trong chế biến nông, lâm, thuỷ sản, ngoài việc chủ động đổi mới công nghệ, thiết bị, đa dạng hoá sản phẩm, còn tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm tại vùng nguyên liệu và các cơ sở sơ chế, bảo đảm chất lượng nguyên liệu và sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.Trong thuỷ lợi, nhiều công nghệ mới được áp dụng trong xây dựng và quản lý, như công nghệ bê tông đầm lăn, kè bản nhựa, van nhựa tổng hợp, đập xà lan di động, đập cao su, bơm di động trên ray, công nghệ điều khiển từ xa trong quản lý, điều hành các công trình thuỷ lợi...
+ Cơ khí hoá nông nghiệp có bước tiến bộ
Đến năm 2007, nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp đạt tỷ lệ cơ giới hoá cao, như: làm đất đạt 70%, tưới tiêu nước 85%, tuốt lúa 83,6%; xay xát lúa gạo đạt 95%; phát triển mạnh máy gặt đập liên hợp phục vụ thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long (trong năm 2005, 2006 tăng trên 10%). Tổng công suất tàu, thuyền đánh bắt thuỷ sản năm 2006 đạt 5,8 triệu CV; công suất trung bình máy tàu tăng từ 17,5 CV/tàu (năm 1990) lên 60,6 CV/tàu (năm 2006).
4. Mức thu nhập của nông dân
Đời sống vật chất, tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; xoá đói giảm nghèo đạt thành tựu to lớn Do sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống nông dân ở đa số các vùng được cải thiện rõ rệt. Từ năm 1996 đến nay, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng lên hơn 2,7 lần (năm 2006 thu nhập bình quân là 6,1 triệu/người theo giá hiện hành; thu nhập bình quân 1 hộ nông thôn đạt 26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng (tăng 75,8% so với năm 2002). Nhờ thu nhập của hộ nông dân tăng, nên vốn tích luỹ trong dân tăng khá; năm 2006 vốn tích luỹ bình quân 1 hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng (tăng 3,5 triệu đồng, gấp 2,1 lần so với 2001)
Nông nghiệp vẫn là nguồn thu lớn nhất của hộ gia đình ở nông thôn; năm 2006 có đến 68% hộ ở nông thôn dựa chủ yếu vào sản xuất nông, lâm, thủy, sản, tiếp đến là các hộ làm dịch vụ và công nghiệp, xây dựng tương ứng là 15% và 11%. Nhờ thu nhập của người dân tăng nên điều kiện sinh hoạt của hộ nông thôn ngày càng được cải thiện, nhất là về nhà ở, mua sắm vật dụng lâu bền, phương tiện đi lại và các vật dụng đắt tiền.
II. Đánh giá chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp Việt Nam thời gian qua
1. Những thành tựu đạt được:
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đẩy mạnh sản xuất các loại nông sản hàng hóa có nhu cầu thị trường và có giá trị kinh tế cao. Tiếp tục bảo đảm tốt an ninh lương thực quốc gia, tuy diện tích trồng lúa giảm (khoảng hơn 300 nghìn ha), để chuyển sang nuôi trồng thủy sản và các cây trồng khác có giá trị cao hơn, nhưng sản lượng lương thực vẫn tăng từ 34,5 triệu tấn (năm 2000) lên 39,12 triệu tấn (năm 2004), trong đó, sản lượng lúa tăng từ 32,5 lên 35,8 triệu tấn, bình quân mỗi năm lương thực tăng hơn một triệu tấn. Hàng năm vẫn xuất khẩu khoảng 3,5-4 triệu tấn gạo.
Sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả có sự điều chỉnh mạnh theo nhu cầu thị trường để xuất khẩu và thay thế hàng nhập khẩu, hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với công nghiệp bảo quản, chế biến. Diện tích, sản lượng cây công nghiệp tăng nhanh so với năm 2000, cao-su diện tích tăng 9,5%, sản lượng tăng 37,6%; hồ tiêu diện tích tăng 83,2%, sản lượng tăng 87,8%; hạt điều diện tích tăng 44,3%, sản lượng tăng 205,3%; chè diện tích tăng 35,3%, sản lượng tăng 54,9%; diện tích cây ăn quả tăng 1,4 lần; bông vải diện tích tăng 42,5%, sản lượng tăng 57,4%; đậu tương diện tích tăng 47,1%, sản lượng tăng 62,2%. Các loại cây công nghiệp có lợi thế xuất khẩu hầu hết đều tăng về diện tích, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
Chăn nuôi tăng bình quân 10%/năm; tỷ trọng giá trị chăn nuôi trong nông nghiệp tăng từ 19,3% lên 21,6%. Ðàn bò, nhất là bò sữa tăng nhanh, đạt 95 nghìn con, sản lượng sữa tươi tăng gấp 3 lần. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng 2,0 lần, sản lượng khai thác tăng 1,2 lần.
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản và ngành nghề nông thôn: Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản tăng trưởng bình quân 12-14%/năm. Sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và ngành nghề nông thôn tăng bình quân 15%/năm. Hiện cả nước có 2.971 làng nghề, khoảng 1,35 triệu cơ sở ngành nghề nông thôn, với khoảng 1,4 triệu hộ, thu hút hơn 10 triệu lao động (trong đó có khoảng 1,5 triệu người làm hàng mỹ nghệ).
Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng trưởng liên tục và đạt mức cao (5,4%/năm, chỉ tiêu Ðại hội Ðảng toàn quốc lần thứ IX đề ra là 4,8%/năm). Tổng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2004 đạt gần 7 tỷ USD, tăng 1,5 lần so với năm 2000, trong đó nông, lâm sản tăng gần 1,5 lần, thủy sản tăng 1,6 lần. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu đạt sản lượng và giá trị lớn như: gạo, cà-phê, cao-su, hạt điều. Ðặc biệt, xuất khẩu đồ gỗ gia dụng và lâm sản tăng mạnh, đạt hơn 1,2 tỷ USD, tăng gấp 3,3 lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. Năm 2004 trong tổng GDP của cả nước, tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản đã giảm từ 24,53% xuống 21,76%; lao động nông nghiệp giảm từ 59,04% xuống 57,9%, lao động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 17%, dịch vụ chiếm 25,1%. Năm 2003, hộ thuần nông đã giảm còn 68,8%, hộ kiêm nghề tăng lên, chiếm 12,7% và phi nông nghiệp 18,4%. Nguồn thu của hộ nông dân từ nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 77,5%; công nghiệp, xây dựng và dịch vụ nông thôn đã dần tăng lên, chiếm 22,5% tổng thu.
Trình độ khoa học, công nghệ trong sản xuất nông nghiệp, thủy sản từng bước được nâng cao theo hướng sử dụng giống mới, công nghệ sinh học, phương thức canh tác tiên tiến để nâng cao năng suất chất lượng nông sản, thủy sản. Ðến nay, có hơn 90% diện tích lúa, 80% diện tích ngô, 60% diện tích mía, 100% diện tích điều trồng mới... được sử dụng giống mới. Công nghệ sử dụng mô hom được đưa nhanh vào sản xuất giống cây rừng, nên năng suất chất lượng rừng được cải thiện. Ngành thủy sản đã sản xuất và đưa vào sản xuất một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa như: tưới nước, tuốt lúa, xay xát đạt hơn 80%, vận chuyển làm đất đạt hơn 60%. Trong ngành thủy sản, tổng công suất tàu thuyền đánh bắt đạt hơn 4 triệu sức ngựa, một số cơ sở nuôi trồng thủy sản được trang bị các máy móc, thiết bị bảo đảm cho công nghệ nuôi trồng tiên tiến.
Quan hệ sản xuất được xây dựng ngày càng phù hợp. Cả nước hiện có 72 nghìn trang trại, tăng bình quân 10%/năm, kinh tế trang trại đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Thành lập mới được 524 hợp tác xã nông nghiệp, chủ yếu hoạt động theo hướng dịch vụ, tiêu thụ sản phẩm, hiện có hơn 10 nghìn hợp tác xã ở nông thôn (9.255 HTX nông nghiệp, hơn 500 HTX thủy sản, 800 quỹ tín dụng nhân dân...) và hàng trăm nghìn tổ kinh tế hợp tác, so với năm 2000, số hợp tác xã hoạt động có lãi tăng từ 32% lên 35%, số HTX yếu kém giảm từ 22% xuống còn khoảng 10%.
Doanh nghiệp tư nhân tăng nhanh, năm 2004 có 15.600 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động trên địa bàn nông thôn, bình quân một doanh nghiệp thu hút khoảng 20 lao động, đang là nhân tố quan trọng trong phát triển kinh tế nông thôn.
Nông thôn có bước phát triển khá nhanh. Nhiều công trình thủy lợi đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thâm canh, tăng năng suất cây trồng đã bảo đảm tưới cho 90% diện tích lúa, hàng vạn ha hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả; hệ thống đê điều được củng cố. Ðến nay đã có 98% số xã có đường ô-tô tới khu trung tâm, hơn 90% số xã có điện, gần 88% số hộ dân nông thôn được sử dụng điện. Số thuê bao điện thoại ở khu vực nông thôn tăng nhanh, đạt 4 máy/100 người dân (cả nước là 12,56 máy/100 người dân); 58% số dân nông thôn được sử dụng nước sạch; xây mới 501 chợ, góp phần giảm bớt khó khăn về tiêu thụ nông sản cho nông dân.
Công tác xóa đói, giảm nghèo: Bình quân mỗi năm giảm 3% tỷ lệ hộ đói nghèo. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn giảm từ 19% năm 2000 xuống còn 11% năm 2004. Ðiều kiện về nhà ở, đi lại, học tập, chữa bệnh được cải thiện tốt hơn. Nhiều làng xã đã trở thành làng văn hóa, có kinh tế phát triển, bảo đảm môi trường sinh thái, văn hóa truyền thống mang đậm đà bản sắc dân tộc được phục hồi và phát triển, trình độ dân trí được nâng lên.
2. Những vấn đề tồn tại, cần tập trung sức giải quyết
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn ở nhiều nơi chuyển dịch chậm, chăn nuôi, công nghiệp, ngành nghề dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng… Cơ cấu lao động nông thôn chuyển dịch chậm, cơ bản vẫn là thuần nông (năm 2004 lao động nông nghiệp: 58,7%, năm 2001 là: 63,5%).
- Năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm còn thấp. Việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ vào sản xuất nông nghiệp còn chậm…
- Việc sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp và phát triển các thành phần kinh tế còn chậm. Hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước còn thấp. Doanh nghiệp tư nhân là nhân tố quan trọng trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động ở nông thôn, nhưng quy mô nhỏ bé, chủ yếu là dịch vụ (chỉ có 5% liên quan đến sản xuất) và chỉ phát triển mạnh ở ven đô thị, hoặc nơi có kết cấu hạ tầng tương đối phát triển.
- Chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng gia tăng. Nếu áp dụng chuẩn nghèo mới dự kiến tỷ lệ nghèo cả nước là 26-27%, riêng ở nông thôn lên 31%, miền núi lên hơn 50%, có nơi lên hơn 60% (vùng Tây Bắc)…
CHƯƠNG 3:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp đến năm 2020.
Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản cả nước đến năm 2010 và tầm nhìn 2020.
Về quy hoạch sử dụng đất, từ năm 2002 đến năm 2010, chúng ta sẽ khai hoang mở rộng đất nông nghiệp thêm 975 nghìn ha. Diện tích đất sản xuất nông nghiệp năm 2010 là 9,67 triệu ha. Trong đó: đất lúa 3,96 triệu ha, đất vườn 370 ngàn ha, đất cây lâu năm 2,9 triệu ha, đất đồng cỏ 300 ngàn ha.
Đảm bảo ổn định sản lượng lúa khoảng 40 triệu tấn, sản lượng ngũ cốc khoảng 45 triệu tấn, thực hiện chiến lược an ninh lương thực quốc gia, trên cơ sở cân đối đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước cho người và làm nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, mỗi năm xuất khẩu khoảng 3,5 - 4 triệu t n gạo. Sử dụng các giống lúa năng suất, chất lượng cao và áp dụng các biện pháp thâm canh và hạ giá thành, nhằm tăng nhanh năng suất và nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh sản phẩm lúa, gạo trên thị trường quốc tế.
Tại địa bàn miền núi, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng cao đầu tư thủy lợi nhỏ gắn với xây dựng ruộng bậc thang, tăng cường công tác khuyến nông và hỗ trợ nông dân sản xuất lương thực cho nhu cầu tại chỗ. Mở rộng diện tích và đầu tư thâm canh cây ngô, cây sắn đáp ứng nhu cầu nguyên liệu công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi. Đến năm 2020 có khoảng 1,5 triệu ha ngô. Đối với các loại cây công nghiệp, đảm bảo ổn định và tăng diện tích đối với những loại cây có lợi thế xuất khẩu và phù hợp với điều kiện khí hậu nước ta. Đến năm 2020 đất sản xuất nông nghiệp đạt 10,18 triệu ha.
Ngành chăn nuôi sẽ phát triển các loại gia súc, gia cầm theo hướng sản xuất hàng hóa, hình thành các vùng chăn nuôi tập trung hình thức trang trại, nuôi công nghiệp, gắn với các cơ sở chế biến và xử lý chất thải. Phát triển nuôi lợn chất lượng cao ở một số vùng có lợi thế theo hướng sản xuất công nghiệp, đảm bảo an toàn dịch bệnh, vệ sinh môi trường. Số lượng đàn lợn đến năm 2010 khoảng 35 - 40 triệu con. Phát triển đàn bò thịt có năng suất cao, thịt ngon, đáp ứng nhu cầu thịt và da. Đến năm 2010 tổng đàn bò từ 6,5 - 6,7 triệu con, đàn trâu từ 2,8 - 3 triệu con. Nâng cao chất lượng đàn bò sữa hiện có; phát triển đàn bò sữa chủ yếu ở địa phương có đủ điều kiện, đến năm 2010 đạt 200.000 con, trong đó 100.000 con bò cái vắt sữa, sản lượng sữa tươi 300.000 tấn/năm.
Phát triển đàn gia cầm để đáp ứng nhu cầu thịt, trứng cho tiêu dùng trong nước. Phát triển mạnh ngành chăn nuôi gà, vịt chất lượng cao để xuất khẩu thịt, trứng, lông. Đến năm 2010 số lượng gia cầm khoảng 380 - 390 triệu con. Tăng cường công tác thú y, từng bước cải tiến phương thức chăn nuôi để chống và ngăn ngừa dịch bệnh.
Quy hoạch diện tích rừng theo các loại rừng đến năm 2010 cả nước có 16,7 triệu ha; trong đó rừng phòng hộ 5,4 triệu ha, rừng đặc dụng 3,9 triệu ha, rừng sản xuất 7,4 triệu ha. Phát triển rừng kinh tế chất lượng và hiệu quả cao. Đối với rừng trồng hình thành các vùng rừng nguyên liệu gắn với cơ sở chế biến; khoanh nuôi tái sinh trồng bổ sung, bảo vệ và làm giầu rừng, quản lý khai thác rừng bền vững.
Đến năm 2010, định hướng năm 2020 diện tích sản xuất muối là 15.000 ha, sản lượng sản xuất 1,5 triệu tấn; đầu tư theo hướng hiện đại hóa, sản xuất muối chất lượng cao, đáp ứng nguyên liệu cho công nghiệp hóa chất và tiêu dùng trong nước.
Đất nuôi trồng thủy sản đến năm 2010 khoảng 1,44 triệu ha, trong đó nuôi trồng thủy sản nước ngọt: 640 ngàn ha, đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ: 800 ngàn ha. Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi trồng thủy sản nước lợ, nuôi biển; đồng thời phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt trong các ao, hồ nhỏ, sông và hồ chứa. Sản lượng nuôi trồng thủy sản đến năm 2010 khoảng 2 triệu tấn; sản phẩm chủ yếu nuôi nước ngọt: cá tra, cá ba sa, cá rô phi đơn tính, tôm càng xanh, sản phẩm chủ yếu nuôi nước mặn, nước lợ: tôm, cá biển, nhuyễn thể.
Chuyển dịch nhanh cơ cấu nghề nghiệp khai thác vùng ven bờ, ổn định sản lượng khai thác ven bờ, tăng tỷ trọng sản lượng khai thác hải sản xa bờ. Sản lượng hải sản khai thác đến năm 2010 khoảng 1,5 triệu tấn, trong đó sản lượng hải sản đánh bắt gần bờ khoảng 700 ngàn tấn, sản phẩm hải sản đánh bắt xa bờ khoảng 800 ngàn tấn.
Thực hiện phân chia tuyến biển để quản lý hoạt động khai thác hải sản các vùng biển; phân cấp quản lý khai thác; tập trung đầu tư có hiệu quả hệ thống cảng cá (trung tâm vùng lãnh thổ, địa phương, các tuyến đảo); hệ thống hậu cần dịch vụ đánh bắt tiêu thụ hải sản.
Năm 2020 đất nuôi trồng thủy sản khoảng 2,0 triệu ha, trong đó đất nuôi trồng thủy sản nước ngọt: 700 ngàn ha, đất nuôi trồng thủy sản nước mặn, nước lợ: 1,3 triệu ha.
Đến năm 2010, tốc độ tăng trưởng giá trị nông, lâm nghiệp và thủy sản đạt bình quân 4 - 4,5%/năm, trong đó thủy sản tăng trưởng bình quân 8 - 9%/năm; tốc độ tăng trưởng kinh tế nông thôn đạt bình quân 7,5 - 8%/năm; cơ cấu kinh tế nông nghiệp: trồng trọt 65%, chăn nuôi 30%, dịch vụ 5%; tỷ lệ che phủ của rừng đạt 43 - 44%; kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt: 11 tỷ USD, trong đó nông, lâm sản 7 tỷ USD, thủy sản 4 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn gấp 2 lần năm 2000.
II. Giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp
Với thực trạng về nền kinh tế , thực trạng nông nghiệp Việt Nam và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp để đạt được các mục tiêu đó cần thực hiện nhiều giải pháp .Song cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau :
1. Giải pháp về Quy hoạch
Nhà nước cần có các chính sách nhằm nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển vùng trong phạm vi cả nước, quan hệ kinh tế giữa các vùng trên cơ sở phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng. Phát triển các vùng nông thôn có lợi thế so sánh, có thế mạnh về tiềm năng tự nhiên cho phép tạo nhiều việc làm và tăng thu nhập như vùng duyên hải, biển đảo, vùng miền Đông và Tây Nam Bộ... Định hướng, quy hoạch phát triển mạnh hệ thống thị trường tiêu thụ các mặt hàng nông sản, nâng cao sức mua của thị trường trong nước, mà trọng tâm là khu vực thị trường nông thôn, kể cả hệ thống chợ nông thôn.
Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô như chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đất đai... nhất là hệ thống luật pháp kinh tế nhằm phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần. Khuyến khích và tạo điều kiện cho hội nông dân ở cơ sở hoạt động có hiệu quả. Tăng cường các hoạt động phổ biến, hướng dẫn, sử dụng và chuyển giao quy trình công nghệ mới với các hình thức thích hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của kinh tế hộ - với tư cách đơn vị sản xuất hàng hóa trong nền kinh tế thị trường. Khuyến khích phát triển các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ ở nông thôn - lực lượng này giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo ra việc làm mới thu hút một phần lao động nông nghiệp. Khuyến khích mô hình hợp tác xã kiểu mới - loại hình tổ chức kinh doanh thuộc thành phần kinh tế tập thể trong khu vực nông nghiệp. Sắp xếp lại và đổi mới doanh nghiệp nhà nước trong khu vực nông nghiệp, thực hiện đa dạng hóa hình thức sở hữu các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh; thay đổi cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động công ích thành những doanh nghiệp mạnh, đóng vai trò chủ đạo trong việc thực hiện dịch vụ kỹ thuật, cung ứng giống, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
2. Giải pháp về vốn
Theo các số liệu chưa đầy đủ thì trong 5 năm (2003-2007) Việt Nam đầu tư cho phát triển nông nghiệp (NN) chỉ đạt 113 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn đầu tư Nhà nước và mới chỉ đáp ứng 17% nhu cầu của khu vực NN.. Đầu tư cho khuyến nông chỉ là 0,13% GDP (trong khi các nước khác tỷ lệ này là 4%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào NN, nông thôn mới chiếm 3% tổng nguồn FDI… Là khu vực sinh lời thấp, chi phí cao, nhiều rủi ro khách quan (thiên tai, dịch bệnh, khả năng trả nợ của khách hàng thấp…) nên luồng vốn đầu tư, đặc biệt là vốn thương mại không đổ vào nhiều. Chính vì vậy Nhà nước cần phải có nhiều chính sách về vốn , đầu tư vào khu vực nông nghiêp , nông thôn để thúc đấy phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp các giải pháp cần đư ra là :
- Tăng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn;
- Tiến hành đầu tư theo chương trình;
- Mở rộng phân cấp đầu tư cho địa phương;
- Chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu đầu tư theo hướng tăng mạnh cho việc đầu tư các công trình thuỷ lợi tưới cho cây công nghiệp, cây ăn quả; xây dựng các cơ sở hạ tâng phục vụ thương mại, bao gồm đường xá, hệ thống thông tin liên lạc, các chợ, trung tâm buôn bán hàng hoá nông sản, kho tàng, bến cảng, phương tiện vận tải chuyên dùng, cơ sở kỹ thuật phục vụ công tác quản lý chất lượng.
- Dành kinh phí thoả đáng cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học
- Tăng vốn trung hạn và dài hạn cho các hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân vay vốn sản xuất kinh doanh ở nông thôn; ưu tiên cho vay đối với các sản phẩm mới chuyển đổi; vay phát triển ngành nghề mới.
3. Giải pháp về công nghệ
Tập trung nghiên cứu, áp dụng công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, để tạo ra các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, nhân nhanh các giống tốt đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Nghiên cứu và đẩy mạnh mẽ chuyển giao công nghệ mới về chế biến và bảo quản nông sản cũng như các tiến bộ kỹ thuật về trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp; trang thiết bị cơ khí hoá nông nghiệp, điện khí hoá nông thôn.
Tiếp tục sắp xếp và từng bước đầu tư nâng cấp, hiện đại hoá các cơ sở nghiên cứu khoa học. Có chính sách động viên các nhà khoa học,các cơ sở nghiên cứu của Nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp, hộ gia đình nông dân giỏi tham gia phát triển và chuyển giao công nghệ, đảm bảo cho công tác nghiên cứu trong nước và nhập nội các loại giống tốt, công nghệ tiên tiến của các nước ngoài để nông nghiệp nước ta sớm đạt tới trình độ công nghệ ngang bằng với các nước trong khu vực. Đầu tư nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ phải được coi là ưu tiên hàng đầu để thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn
Trên đây là một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp , song để đạt được mục tiêu chúng ta cần phải có sự kết hợp hiệu quả giữa các chính sách và sự phát triển toàn diện nền kinh tế .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế phát triển
2. Nguồn Internet
3. Nghị quyết của Đại hội X
4. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010
5. Các tài liệu khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22451.doc