Đề án Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010-2020

Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị tăng thêm trong sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cần nhận thức rằng mục tiêu đặt ra cho công nghiệp nước ta là phải thay đổi căn bản tỷ lệ của 3 nhóm sản phẩm công nghiệp phục vụ xuất khẩu, gồm: một, chế tạo, hai, gia công- chế biến và ba, nguyên liệu. Thay đổi tỷ lệ này là thay đổi đáng kể đến cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu và có tác động rất lớn đến cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp trong nước, cũng như cơ cấu nội bộ mỗi phân ngành công nghiệp. Theo đó, trước mắt tập trung nguồn lực vào phát triển nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có thị trường, gồm các ngành điện, than, dầu khí, hàng may mặc, giày dép, chế biến khoáng sản. và các ngành có thể nâng cao nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian ngắn, có khả năng chiếm lĩnh được thị trường về hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây là những ngành chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nhưng cũng cần lưu ý là những lợi thế này cũng đang có xu hướng giảm nhanh. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu và tạo ra những đột phá mới trong xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo hàng có hàm lượng khoa học công nghệ, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, giá trị gia tăng xuất khẩu cao. Chuyển xu hướng gia tăng mạnh xuất khẩu sản phẩm “thô” trong thời gian qua sang xu hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến trong kim ngạch xuất khẩu, phục vụ xuất khẩu trên cơ sở định hướng công nghiệp kỹ thuật cao. Hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và các mặt hàng chưa qua chế biến, thông qua việc thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng tăng giá trị hàng hóa là biện pháp vừa mang tính cơ bản vừa mang tính lâu dài.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1616 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơ cấu công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2010-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực công nghiêp. Khuynh hướng chuyển dịch tự giác và có chủ đích: Nhà nước với bộ máy quản lý, hệ thống pháp luật và chính sách cùng đầy đủ nguồn thông tin khởi xướng và chỉ huy quá trình chuyển dịch cơ cấu công nghiệp vì lợi ích toàn xã hội. 2.2. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của Việt Nam. Thứ nhất, sự chuyển dịch các ngành, nhóm ngành công nghiệp từ các quốc gia trong khu vực và quốc tế đến Việt Nam theo hiệu ứng “đàn sếu”. Chúng ta đều biết rằng, ở những trình độ nhất định của sự phát triển, xuất hiện những ngành kinh tế tương ứng. (Như ví dụ đã nêu về sự chuyển giao ngành dệt may của Nhật Bản vào những năm 60 của TK XX cho Hàn Quốc). Như vậy, sự chuyển dich cơ cấu công nghiệp của một quốc gia, đặc biệt là trong quá trình hội nhập, trước hết chịu ảnh hưởng của dòng chuyển dịch khu vực và quốc tế. Đây là một xu hướng mang tính khách quan mà chúng ta cần nhận thức để chủ động đón nhận. Thứ hai, cũng từ quá trình hội nhập, nền kinh tế cần có các tập đoàn mạnh làm đối tác trong các quan hệ kinh tế quốc tế. Bởi vậy, việc ra đời và phát triển các tập đoàn kinh tế mạnh sẽ là một yêu cầu khách quan. Xu hướng tập trung hoá vào một số tập đoàn kinh tế mạnh để làm trụ cột cho các nền kinh tế đang phát triển tham gia hội nhập đã được chứng minh thuyết phục ở các nền kinh tế NICs. Thứ ba, sự xuất hiện các đặc khu kinh tế, khu công nghệ cao là cửa ngõ, là trụ cột cho việc nắm bắt và chủ động hội nhập. Việc kêu gọi dòng chảy đầu tư để thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đặt ra một xu hướng rõ nét là, nền kinh tế cần các “điểm mở” để mở cửa với thế giới bên ngoài. Các điểm mở này sẽ là động lực, là chất xúc tác để thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Bài học của Trung Quốc sẽ mãi có giá trị về vấn đề này, chỉ tiếc là chúng ta đã chậm đón nhận xu hướng rất khách quan này. Thứ tư, khu vực dân hữu sẽ phát triển nhanh chóng hơn so với khu vực quốc hữu, dẫn đến tỷ trọng của khu vực dân hữu sẽ lớn hơn khu vực công hữu trong GDP là một xu hướng tất yếu, bởi yêu cầu của tính năng động kinh tế. Xu hướng này đòi hỏi phải được nhận thức để khu vực công hữu chỉ tham gia ở những nơi cần thể hiện vai trò của công hữu (những ngành mà dân hữu không được làm, không làm được và không muốn làm). Trong hoàn cảnh đó, Nhà nước sẽ chú trọng hơn đến chi tiêu công cộng chứ không phải là nhà đầu tư kinh doanh. Công thức: Dân hữu kinh doanh, Nhà nước thu thuế và chi tiêu công cộng, sẽ là xu thế tất yếu để phát triển lành mạnh nền kinh tế. Thứ năm, kiểu doanh nghiệp “tế bào” sẽ xuất hiện ở ngành Công nghiệp Việt Nam như dự báo chung của xu thế thế giới. Chỉ có điều khác về lý do là, trong khi các nước phát triển xuất hiện kiểu DN “tế bào”nhờ tiến bộ của công nghệ thông tin, thì ở Việt Nam, kiểu DN “tế bào” lại xuất hiện bởi tính tư hữu được khích lệ và còn vì nó phù hợp với những vùng sâu, vùng xa có trình độ tổ chức sản xuất còn manh mún. Cần nắm bắt xu hướng này để có chính sách thích hợp cho phát triển các vùng, tiến tới xoá dần khoảng cách giữa các vùng. 3. Các phương thức, công cụ đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Phương thức khai thác lợi thế so sánh. Chuyển dịch cơ cấu công nghiệp của mỗi quốc gia trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa, chỉ có thể thành công và tham gia vào nền công nghiệp khu vực và quốc tế khi biết dựa vào lợi thế so sánh. Phương thức này nhấn mạnh việc tận dụng và phát huy các lợi thế đã có và sẽ có về các nguồn lực trong so sánh với các nước, để chọn đúng vị thế của sự phân công khu vực và quốc tế. Suốt một thời gian dài, chúng ta ngộ nhận lợi thế về tài nguyên và sức lao động, nên đã nóng vội trong việc định hình CCCN đồng bộ, dẫn đến sự dàn trải, không có lợi thế so sánh. ở đây, cần thấy rằng, bản thân sự tụt hậu đi sau lại là một lợi thế so sánh nếu chúng ta biết rút ra những bài học từ các nước và từ chính chúng ta trong quá khứ để đẩy nhanh CDCCCN. Lợi thế so sánh bản thân là yếu tố động, cần phải phát hiện và có các chính sách kịp thời để hiện thực hoá nó, nhằm đẩy nhanh CDCCCN. Khai thác hợp lý quá trình CDCCCN trong điều kiện kinh tế mở. Thực tiễn phát triển công nghiệp thế giới cho thấy, giữa các quốc gia đã đang và sẽ diễn ra quá trình CDCCCN, thậm chí là chuyển dịch với tốc độ nhanh, mức độ khá triệt để. Sau khi khai thác triệt để các lợi thế so sánh, họ thường dịch chuyển các cơ sở sản xuất kinh doanh đến các nước có lợi thế tốt hơn để thu lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn ngành Dệt - May cực kỳ phát triển ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ XX, nhưng đến những năm 60, khi tiền công ở đây đã cao, ngành này dịch chuyển dần sang Hàn Quốc, đến lượt Hàn Quốc không còn “chịu đựng” nổi chi phí nhân công thì ngành này được chuyển đến các nước Đông Nam á (trong đó có Việt Nam). Như vậy, bên cạnh sự chủ động, chúng ta còn bị động đón nhận những ngành nghề mà các nước đi trước chuyển dịch sang làm thay đổi căn bản CCCN của đất nước. Theo dự báo, chừng 10 năm, nữa Việt Nam sẽ là “công trường” sản xuất và lắp ráp đồ điện tử gia dụng của Đông Nam á, thay chỗ cho Malaysia, Thái Lan ngày nay. Tạo ra các ngành công nghiệp dẫn đầu. Lợi thế so sánh và khai thác hợp lý quá trình CDCCCN quốc tế sẽ đòi hỏi chúng ta phải có những ngành công nghiệp mũi nhọn có trình độ công nghệ cao, dẫn đầu để vừa tham gia vào quá trình phân công kinh tế khu vực và quốc tế, vừa làm đầu tầu cho quá trình CNH, HĐH nền kinh tế. Tạo ra các đặc thù cho công nghiệp. Các nhóm hàng hoá công nghiệp còn được nhắc tới bởi cả khía cạnh nhân văn. Nếu như người Mỹ tạo dáng cho ô tô sự mạnh mẽ (đôi khi là hung dữ) thì người Nhật lại thân thiện hơn với sự sang trọng và tiết kiệm nhiên liệu. Nét đặc thù công nghiệp (nhìn cả dưới góc độ nhân văn) là một phương thức mà quá trình CDCCCN cần xem xét như một phương thức để tăng sức cạnh trạnh trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và trên thế giới. Thúc đẩy chuyên môn hóa để tham gia vào phân công lao động với khu vực và trên thế giới. Hiệu quả sản xuất kinh doanh trong công nghiệp đã chứng minh rằng, những sản phẩm lớn, nhiều chi tiết sẽ không hiệu quả, nếu tổ chức sản xuất khép kín trong một doanh nghiệp, trong một quốc gia. Như vậy có nghĩa là, sự phân công chuyên môn hóa là một yếu tố quan trọng để khai thác mọi lợi thế, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Để đẩy nhanh quá trình CDCCCN, chúng ta cần phải quán triệt vấn đề này hơn bao giờ hết, nhất là trong điều kiện hội nhập, chúng ta thường đề cao “tỷ lệ nội địa hoá” của một sản phẩm dịch vụ nào đó, mà không thấy được rằng, nếu tỷ lệ này thấp, nhưng những chi tiết mà chúng ta làm ra có thể bán ra khắp thế giới cho các hãng mua để lắp ráp vào sản phẩm của họ, thì chắc chắn hiệu quả kinh tế còn cao hơn nhiều. Thế giới đã có những khái niệm “vương quốc của trục cơ”, “xứ sở của vi mạch” hàm ý tính chuyên môn hoá cao (chuyên môn hoá chi tiết, bộ phận). Như vậy, CDCCCN cần tạo ra được các ngành, các chi tiết, bộ phận có thể tham gia vào phân công sản xuất công nghiệp khu vực và quốc tế. Có như vậy, CCCN của chúng ta mới bền vững, độc lập, chứ không phải ngược lại là làm mọi thứ, nhưng không thứ nào vào cuộc được với sự phân công kinh tế khu vực và quốc tế. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. Thực trạng cơ cấu công nghiệp trong nền kinh tế. 1. Tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc dân: Cơ cấu các ngành kinh tế trong GDP qua các năm đã có sự chuyển biến tích cực. Theo đó, tỷ trọng trong GDP của các ngành nông, lâm, ngư nghiệp có xu hướng giảm còn tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng dần, thể hiện nền kinh tế đang đi đúng hướng trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể, tỷ trọng nhóm ngành nông, lâm, ngư nghiệp trong 5 năm trở lại đây có xu hướng giảm dần – từ 21.06% năm 2003, 20,39% năm 2004, 19,56% năm 2005, 18,74% năm 2006, và đến năm 2007 là 17,86%. Trong khi đó, tỷ trọng của ngành công nghiệp có xu hướng tăng dần – từ 30,01% năm 2003, 30,78% năm 2004, 31,42% năm 2005, 31,98% năm 2006, 32,49% năm 2007. Nhóm ngành dịch vụ vẫn chiếm phần lớn trong tỷ trọng GDP nhưng lại bị sụt giảm về tỷ trọng vào năm 2004 – từ 40,46% xuống còn 40,26% - và đến năm 2007 vẫn chưa đạt được tỷ trọng như của năm 2003. Bảng 1: Cơ cấu ngành kinh tế trong GDP (theo giá so sánh 1994). Đơn vị: % Chỉ tiêu. 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng cộng. 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Nông nghiệp, lâm nghiêp, thủy sản. 21,06 20,39 19,56 18,74 17,86 Công nghiệp và xây dựng. 38,48 39,35 40,17 40,97 41,77 + Công nghiệp. 30,01 30,78 31,42 31,98 32,49 + Xây dựng. 8,47 8,57 8,75 8,99 9,28 Dịch vụ. 40,46 40,26 40,27 40,29 40,37 2. Tương quan giữa tăng trưởng công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế: Trong 5 năm trở lại đây, giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành liên tục tăng với tốc độ khá, bình quân từ 16 – 17%/ năm, trong đó kể từ năm 2005 tới nay tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp là trên 17%, vượt chỉ tiêu đề ra trong kế hoạch 5 năm 2006 – 2010(bình quân 15- 15,5%). Tuy nhiên, nhìn vào bảng 2 ta có thể thấy được rằng: trong 5 năm qua tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp trong GDP chỉ đạt khoảng 10,2%. Như vậy, có thể thấy được rằng mặc dù có sự tăng trưởng nhanh về lượng( biểu hiện ở giá trị sản xuất công nghiệp liên tục tăng ở mức cao), nhưng chưa có sự chuyển biến rõ nét về mặt chất( biểu hiện ở tăng trưởng của công nghiệp trong GDP tăng còn chậm). Các nhóm ngành nông, lâm, thủy sản và dịch vụ tốc độ tăng trưởng còn chậm, chưa đạt mục tiêu đề ra. Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng của các ngành trong GDP Đơn vị: % Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 GDP 7,34 7,79 8,44 8,23 8,48 Nông nghiêp, lâm nghiệp, thủy sản. 3,62 4,36 4,02 3,69 3,40 Công nghiệp. 10,38 10,62 10,64 10,20 10,21 Dịch vụ. 6,45 7,26 8,48 8,29 8,68 Tương quan giữa tăng trưởng công nghiệp với GDP của cả nước được minh họa bằng đồ thị dưới đây. Nhìn vào đồ thị ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng độ dốc của đường tăng trưởng của ngành công nghiệp trong GDP là thấp hơn so với độ dốc của đường tăng trưởng. Điều này cũng thể hiện được rằng giá trị gia tăng thực tế của công nghiệp còn thấp, chưa có sự chuyển biến về chất. II. Thực trạng cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp. 1. Cơ cấu công nghiệp phân theo nhóm ngành cấp 1. Theo phân ngành của Tổng cục Thống kê thì Việt Nam có 3 nhóm ngành cấp 1 như sau: - Công nghiêp khai thác (CNKT). - Công nghiệp chế biến (CNCB). - Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước (SXPPDDN). 1.1. Đánh giá chung. Nhìn chung, cơ cấu công nghiệp phân theo 3 ngành trên thay đổi theo xu hướng sau: - Ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm dần tỷ trọng trong cơ cấu công nghiệp, năm 2003 là 10,74%, năm 2004 là 10,53%, năm 2005 là 9,21%, năm 2006 là 7,76%, năm 2007 là 6,47%. - Ngành công nghiệp chế biến có xu hướng tăng dần tỷ trọng, năm 2003 chỉ là 82,89%, năm 2004 là 83,32%, năm 2005 là 84,78%, năm 2006 là 86,39%, và năm 2007 là 87,83%. - Ngành sản xuât và phân phối điện, khí đốt và nước có xu hướng giảm dần tỷ trọng, năm 2003 là 6,37%, năm 2004 là 6,15%, năm 2005 là 6,01%, năm 2006 là 5,85%, năm 2007 là 5,7%. Mặc dù có sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng ngành công nghiệp khai thác tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến, nhưng ta có thể nhận thấy rằng sự chuyển dịch này còn diễn ra chậm chưa phản ánh được xu hướng chuyển dịch vững chắc và lâu dài. Bên cạnh đó là sự xụt giảm trong tỷ trọng của ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước. Bảng 3: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp phân theo ngành (theo giá so sánh1994). Đơn vi: %. Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100 100 100 100 100 Công nghiệp khai thác 10,74 10,53 9,21 7,76 6,47 Công nghiệp chế biến 82,89 83,32 84,78 86,39 87,83 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước 6,37 6,15 6,01 5,85 5,7 1.2. Đánh giá cơ cấu 3 nhóm ngành cấp 1. 1.2.1 Nhóm công nghiệp khai thác. Theo sự phân ngành của Tổng cục Thống kê, nhóm ngành công nghiệp khai thác được chia ra thành các ngành công nghiệp cấp 2 như sau: - Khai thác than. - Khai thác dầu thô và khí tự nhiên. - Khai thác quặng kim loại. - Khai thác đá và mỏ khác. a. Về giá trị sản xuất: Giai đoạn 2003 – 2005 giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác tăng trưởng vào mức khá, đạt 38350,9 tỷ đồng vào năm 2005. Sự tăng trưởng trên xuất phát từ sự tăng trưởng của ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên, nếu như năm 2003 là 25132,4 tỷ đồng thì đến năm 2005 là 27410 tỷ đồng. Đến giai đoạn 2006 – 2007 tăng trưởng của ngành công nghiệp khai thác có xu hướng giảm dần, nếu như năm 2005 giá trị sản xuất toàn ngành là 38350,9 tỷ đồng thì đến năm 2006 đã giảm xuống chỉ còn 37803,5 tỷ đồng, và năm 2007 xuống còn 36902,5 tỷ đồng. Có điều trên là do sự sụt giảm của ngành công nghiệp khai thác dầu thô và khí tự nhiên( 25466,1 tỷ đồng vào năm 2006 và xuống đến 23986,6 tỷ đồng năm 2007). Còn xét về tỷ trọng công nghiệp khai thác trong toàn ngành công nghiệp thì tỷ trọng có xu hướng giảm dần. Bảng 4: Giá trị sản xuất ngành công nghiệp khai thác (theo giá so sánh 1994) Đơn vị: tỷ đồng Ngành cấp 2 2003 2004 2005 2006 2007 Toàn ngành công nghiệp 305080,4 355624,1 416612,8 487255,7 57077,7 Khai thác than 3688,6 4751,6 6111,4 6940,8 7631,5 Khai thác dầu thô và khí tự nhiên. 25132,4 28403,1 27410,0 25466,1 23986,6 Khai thác quặng kim loại 344,3 467,4 475,9 621,9 556,9 Khai thác đá và mỏ khác 3597,0 3842,0 4353,6 4774,7 4727,5 Tổng cộng CNKT 32762,3 37464,1 38350,9 37803,5 36902,5 Tỷ trọng CNKT so với toàn ngành (%) 10,74% 10,53% 9,21% 7,76% 6,47% b. Về cơ cấu các ngành trong công nghiệp khai thác: Trong nội bộ nhóm ngành công nghiệp khai thác, ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên chiếm tỷ trọng cao nhất, khoảng ¾ giá trị của toàn ngành công nghiệp khai thác, các ngành còn lại chiếm ¼ trong đó: - Ngành khai thác dầu thô và khí tự nhiên có xu hướng giảm dần từ 76,71% năm 2003 xuống còn 64,99% năm 2007. - Ba ngành còn lại có xu hướng tăng dần tỷ trọng trong giá trị sản xuất toàn ngành. Khai thác than là ngành có xu hướng tăng nhanh nhất, nếu như năm 2003 chiếm 11,26% trong toàn ngành thì qua các năm tỷ trọng của ngành khai thác than liên tục tăng, đến năm 2007 chiếm 20,68%. Hai ngành khai thác quặng kim loại và khai thác đá và mỏ khác thì sự tăng lên không đáng kể. Bảng 5: Tỷ trọng các ngành công nghiệp trong CNKT( theo giá so sánh 1994) Đơn vị: % Ngành cấp 2 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100 100 100 100 100 Khai thác than 11,26 12,68 15,94 18,36 20,68 Khai thác dầu thô và khí tự nhiên 76,71 75,81 71,47 67,36 64,99 Khai thác quặng kim loại 1,05 1,27 1,24 1,65 1,51 Khai thác đá và mỏ khác 10,98 10,24 11,35 12,36 12,82 1.2.2 Nhóm công nghiệp chế biến. Công nghiệp chế biến là một ngành lớn bao gồm 23 phân ngành khác nhau( theo sự phân loại của tổng cục thống kê). Bao gồm: - Sản xuất thực phẩm và đồ uống. - Sản xuất thuốc lá, thuốc lào. - Sản xuất sản phẩm dệt. - Sản xuất trang phục. - Sản xuất sản phẩm bằng da, giả da. - Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản. - Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy. - Xuất bản, in và sao bản ghi. - Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế. - Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất. - Sản xuất các sản phẩm cao su và plastic. - Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác. - Sản xuất kim loại. - Sản xuất sản phẩm bằng kim loại( trừ máy móc thiết bị). - Sản xuất máy móc thiết bị. - Sản xuất TB văn phòng, máy tính. - Sản xuất thiết bị điện. - Sản xuất radio, TV và thiết bị truyền thông. - Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang học và đồng hồ các loại. - Sản xuất, sửa chữa xe có động cơ . - Sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải khác. - Sản xuất giường, tủ, bàn ghế. - Sản xuất sản phẩm tái chế. Trong ngành công nghiệp của nước ta, công nghiệp chế biến chiếm một vị trí quan trọng thể hiện: a) Về giá trị sản xuất. Bảng 6: Một số chỉ tiêu đánh giá nhóm ngành công nghiệp chế biến. Đơn vị: tỷ đồng. Chỉ tiêu 2003 2004 2005 2006 2007 Giá trị sản xuất công nghiệp 305080,4 355624,1 416612,8 487255,7 570770,7 Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến 252886,1 296293,9 353214,6 420943,6 501301,0 Tốc độ tăng trưởng( %) 18,34% 17,16% 19,21% 19,17% 19,09% Tỷ trọng trong toàn ngành công nghiệp( %) 82,89% 83,32% 84,78% 86,39% 87,83% Giá trị sản xuất của nhóm ngành công nghiệp chế biến rất lớn , chiếm đa số trong ngành công nghiệp( trên 80%). Tỷ trọng của nhóm ngành công nghiệp khai thác trong giá trị sản xuất toàn ngành cũng ngày một tăng, năm 2003 chiếm 82,89% thì đến năm 2007 là 87,83% đạt 420943,6 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp chế biến cũng ở mức cao( khoảng 19%), tuy nhiên ta có thể nhận thấy được rằng tốc độ tăng trưởng của nhóm ngành công nghiệp chế biến không tăng đều đặn qua từng năm. Trong giai đoạn 2003 -2005 tăng trưởng của nhóm ngành bị sụt giảm năm 2004- 17,16% so với năm 2003 là 18,34%. Trong giai đoạn 2006 -2007 tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm nhưng không đáng kể. b) Về cơ cấu ngành trong công nghiệp chế biến. Trong ngành công nghiệp chế biến, thì nhóm các ngành chế biến nông, lâm, thủy sản chiếm tỷ trọng cao nhất( trên 30%), trong đó sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm đa số( 25% trong tỷ trọng công nghiệp chế biến). Về xu hướng thì có thể thấy nhóm các ngành chế biến nông, lâm, thủy sản có xu hướng giảm qua các năm, mỗi năm giảm khoảng 1%. Nhóm các ngành sản xuất cơ khí, thiết bị điện, điện tử- viễn thông chiếm tỷ trọng đứng thứ 3 trong ngành công nghiệp chế biến( khoảng 15-16%), trong đó sản xuất thiết bị điện, sản xuất sửa chữa phương tiện vận tải khác đóng góp lớn nhất và cũng là ngành có tốc độ tăng trưởng cao về mặt tỷ trọng. Nhóm ngành này có xu hướng tăng dần đều qua các năm. Nhóm ngành sản xuất sản phẩm dệt may, da dầy cũng là nhóm co tỷ trong cao trong công nghiệp chế biến( chiếm 15%) và có tốc độ tăng trưởng cao. Bảng 7: Tỷ trọng các ngành trong công nghiệp chế biến( theo giá so sánh 1994) Đơn vị: % Ngành công nghiệp chế biến 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Chế biến nông, lâm, thủy sản 33,58 33,27 32,31 31,47 31,04 Sản xuất thực phẩm và đồ uống 25,54 25,21 24,48 24,49 24,63 Sản xuất thuốc lá, thuốc lào 3,63 3,43 3,18 2,66 2,34 Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản 2,17 2,22 2,30 2,08 1,94 Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy 2,24 2,41 2,35 2,24 2,13 Sản xuất cơ khí, thiết bị điện, điện, điện tử- viễn thông 15,55 15,44 15,91 15,8 16,14 Sản xuất máy móc thiết bị 1,82 1,81 1,56 1,32 1,17 Sản xuất TB văn phòng, máy tính 0,61 0,62 0,91 1,24 1,52 Sản xuất thiết bị điện 2,95 3,05 3,39 3,76 4,10 Sản xuất radio, TV và thiết bị truyền thông 2,83 2,69 2,59 2,17 1,84 Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang học và đồng hồ các loại 0,23 0,23 0,22 0,17 0,12 Sản xuất, sửa chữa xe có động cơ 3,28 2,93 2,76 2,22 2,34 Sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải khác 3,83 4,11 4,48 4,92 5,05 Sản xuất sản phẩm hóa chất, dầu mỏ 11,04 11,69 12,08 12,02 11,87 Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất 6,45 6,42 6,75 6,82 6,80 Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế 0,13 0,15 0,17 0,12 0,09 Sản xuất các sản phẩm cao su và plastic 4,46 5,12 5,16 5,08 4,98 Sản xuất sản phẩm kim loại và phi kim loại 20,14 19,46 19,42 19,55 19,34 Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác 11,81 11,30 10,49 10,40 10,24 Sản xuất kim loại 4,12 3,79 3,95 3,73 3,68 Sản xuất sản phẩm bằng kim loại( trừ máy móc thiết bị) 4,21 4,37 4,98 5,42 5,42 Sản xuất sản phẩm dệt may, da giầy 15,11 15,34 15,09 15,53 15,93 Sản xuất sản phẩm dệt 5,62 5,61 5,40 5,64 5,74 Sản xuất trang phục 4,14 4,32 4,33 4,55 4,76 Sản xuất sản phẩm bằng da, giả da 5,35 5,41 5,36 5,34 5,43 Sản xuất khác 4,57 4,8 5,19 5,63 5,68 Xuất bản, in và sao bản ghi 1,39 1,27 1,31 1,24 1,10 Sản xuất giường, tủ, bàn ghế 3,10 3,44 3,80 4,31 4,50 Sản xuất sản phẩm tái chế 0,08 0,09 0,08 0,08 0,08 1.2.3 Nhóm ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước. Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước là ngành chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong cơ cấu công nghiệp nước ta( khoảng 6%), và đang có xu hướng giảm dần về tỷ trọng trong các năm qua. Một số chỉ tiêu cụ thể của ngành công nghiệp này như sau: a) Về giá trị sản xuất. Giá trị sản xuất của ngành này liên tục tăng qua các năm, năm 2003 là 19432,0 tỷ đồng, năm 2004 là 21866,1 tỷ đồng, năm 2005 là 25047,3 tỷ đồng, năm 2006 là 28508,6 tỷ đồng, năm 2007 là 32567,2 tỷ đồng. Sự tăng nhanh về giá trị sản xuất của ngành trên có được là nhờ sự giá trị sản xuất của ngành sản xuất phân phối điện, khí tăng nhanh, nếu như năm 2003 mới chỉ là 18071,3 tỷ đồng thì vào năm 2007 đã là 30546,0 tỷ đồng. b. Về cơ cấu trong ngành. Điều dễ dàng nhận thấy là trong cơ cấu ngành công nghiệp này sản xuất phân phối điện, khí chiếm đa số( trên 80%), qua các năm thì tỷ trọng cua công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí ngày một tăng dần. Bảng 8: Giá trị sản xuất ngành SXPPDKN( theo giá so sánh 1994) Đơn vị: tỷ đồng Ngành cấp 2 2003 2004 2005 2006 2007 Toàn ngành công nghiệp 305080,4 355624,1 416612,8 487255,7 570770,7 Sản xuất phân phối điện, khí 18071,3 20385,4 23477,4 26752,3 30549,0 Sản xuất và phân phối nước 1360,7 1480,7 1569,9 1756,3 2018,2 Tổng cộng ngành SXPPDKN 19432,0 21866,1 25047,3 28508,6 32567,2 Tỷ trọng so với toàn ngành( %) 6,37 6,15 6,01 5,85 5,7 2. Cơ cấu công nghiệp phân theo trình độ công nghệ. Cơ cấu công nghiệp phân theo trình độ công nghệ chỉ được áp dụng cho ngành công nghiệp chế biến, không áp dụng cho ngành công nghiệp khai thác và công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước. Căn cứ vào công nghệ sản xuất của các ngành sản phẩm, công nghiệp chế biến được chia thành ngành công nghiệp công nghệ cao, ngành công nghiệp công nghệ trung bình, ngành công nghiệp công nghệ thấp. Công nghệ sản xuất của một ngành công nghiệp được căn cứ vào công nghệ sản xuất ra sản phẩm, không căn cứ vào trình độ công nghệ cụ thể của từng doanh nghiệp trong ngành đó. Theo quy định của Tổ chức Phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc( UNIDO) thì: - Ngành công nghiệp công nghệ cao bao gồm: Sản xuất máy móc thiết bị thông dụng và chuyên dụng; Sản xuất thiết bị văn phòng, máy tính; Sản xuất thiết bị điện, điện tử; Sản xuất radio, tivi, thiết bị truyền thông; Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác; Sản xuất sửa chữa xe có động cơ; Sản xuất sửa chữa phương tiện vận tải khác. - Ngành công nghiệp công nghệ trung bình bao gồm: Sản xuất than cốc, dầu mỏ; Sản xuất hóa chất; Sản xuất sản phẩm cao su và plastic; Sản xuất sản phẩm chất khoáng phi kim loại; Sản xuất kim loại; Sản xuất sản phẩm bằng kim loại. - Ngành công nghiệp công nghệ thấp bao gồm: Sản xuất thực phẩm và đồ uống; Sản xuất thuốc lá, thuốc lào; Sản xuất sản phẩm dệt; Sản xuất trang phục; Sản xuất sản phẩm bằng da, giả da; Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản; Sản xuất giấy và các sản phẩm từ giấy; Xuất bản, in, sao và bản ghi; Sản xuất giường, tủ, bàn ghế; Sản xuất sản phẩm tái chế. Đánh gía cơ cấu công nghiệp theo trình độ công nghệ thông qua một số chỉ tiêu sau: a) Về giá trị sản xuất. Giá trị sản xuất cuả ngành công nghiệp chế biến liên tục tăng trong các năm qua là nhờ giá trị sản xuất của các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghệ trung bình, công nghiệp công nghệ thấp liên tục tăng trong 5 năm trở lại đây. Tuy nhiên, ta có thể thấy được rằng: - Công nghiệp công nghệ thấp đóng góp phần lớn trong gía trị sản xuất ngành công nghiệp chế biến, năm 2003 là 134693,6 tỷ đồng; năm 2004 là 158213,1 tỷ đồng; năm 2005 là 185754,5 tỷ đồng; năm 2006 là 222503,3 tỷ đồng; năm 2007 là 263930,0 tỷ đồng. - Công nghiệp công nghệ trung bình là ngành đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp chế biến đứng thứ 2 sau công nghiệp công nghệ thấp và công nghiệp công nghệ cao là ngành đóng góp vào giá trị sản xuất thấp nhất. Bảng 9: Giá trị sản xuất phân theo trình độ công nghệ( theo giá so sánh 1994) Đơn vị: tỷ đồng. Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Công nghiệp chế biến 252886,1 296293,9 353214,6 420943,6 501301,0 Công nghiệp công nghệ cao 39331,0 45764,1 56178,3 65534,1 80911,8 Công nghiệp công nghệ trung bình 78861,5 92316,7 111281,8 132906,2 156459,2 Công nghiệp công nghệ thấp 134693,6 158213,1 185754,5 222503,3 263930,0 Khi xét về tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp phân theo trình độ công nghệ trong vòng 5 năm trở lại đây ta thấy: - Công nghiệp công nghệ cao là ngành có tốc độ tăng trưởng cao và tăng trong khoảng 3 năm trở lại đây( năm 2007 là 23,47% trong khi công nghiệp công nghệ trung bình là 17,72%; công nghiệp công nghệ thấp là 18,61%). Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của ngành này là không ổn định, năm 2003 là 22,11%; năm 2004 là 16,36%; đến năm 2005 là 22,76%; nhưng năm 2006 lại tụt xuống còn 16,65%; năm 2007 là 23,47%. - Hai ngành công nghiệp công nghệ trung bình và công nghệ thấp có xu hướng giảm dần tốc độ tăng trưởng. Trong giai đoạn 2003- 2005 công nghiệp công nghệ thấp giảm từ 18,35% xuống còn 17,40%. Giai đoạn 2006- 2007 xu hướng giảm cũng được thể hiện rõ, năm 2006 la 19,78% thì năm 2007 là 18,61%. Đối với ngành công nghiệp công nghệ trung bình thì xu hướng giảm tốc độ tăng trưởng thể hiện trong giai đoan 2006- 2007( giảm từ 19,43% năm 2006 xuong còn 17,72% năm 2007). Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp phân theo trình độ công nghệ Đơn vị: % Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Công nghiệp chế biến 18,34 17,16 19,21 19,17 19,09 Công nghiệp công nghệ cao 22,11 16,36 22,76 16,65 23,47 Công nghiệp công nghệ trung bình 16,52 17,06 20,54 19,43 17,72 Công nghiệp công nghệ thấp 18,35 17,46 17,40 19,78 18,61 b) Về cơ cấu. Qua bảng dưới đây ta có thể nhận xét như sau: - Ngành công nghiệp công nghệ thấp chiếm phần lớn trong cơ cấu công nghiệp phân theo trình độ công nghệ( chiếm 52- 53%) và chiếm tỷ trọng ổn định trong 5 năm trở lại đây. - Ngành công nghiệp công nghệ trung bình chiếm khoảng 31% và có dấu hiệu giảm dần về mặt tỷ trọng trong cơ cấu. - Ngành công nghiệp công nghệ cao chiếm phần nhỏ trong cơ cấu và có xu hướng tăng dần về mặt tỷ trọng. Nhưng biểu hiện về mặt tỷ trọng còn chưa cao, chưa phản ánh một cách rõ nét( năm 2003 là 15,55% đến năm 2007 là 16,14%) Bảng 11: Tỷ trọng của các ngành công nghiệp theo trình độ công nghệ Đơn vị: % Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 Công nghiệp công nghệ cao 15,55 15,44 15,91 15,80 16,14 Công nghiệp công nghệ trung bình 31,18 31,15 31,50 31,57 31,21 Công nghiệp công nghệ thấp 53,27 53,39 52,59 52,86 52,65 Còn nếu xét về tỷ trọng trong nội bộ từng ngành công nghiệp ta thấy: - Ngành công nghiệp công nghệ cao: Về tỷ trọng các ngành trong công nghiệp công nghệ cao thì công nghiệp sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải khác là ngành chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng cơ cấu, tiếp đó là ngành công nghiệp sản xuất, sửa chữa xe có động cơ; công nghiệp sản xuất thiết bị điện; sản xuất radio, tivi và thiết bị truyền thông; sản xuất máy móc thiết bị; sản xuất thiết bị văn phòng, máy tính; và cuối cung là sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang học và đồng hồ các loại. Trong các ngành trên thì ngành sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải khác ngành sản xuất thiết bị văn phòng, máy tình và ngành sản xuất thiết bị điện có tốc độ tăng dần về tỷ trọng trong tổng cơ cấu. Các ngành còn lại thì xu hướng về tỷ trọng trong cơ cấu là không rõ ràng. Bảng 12: Tỷ trọng các ngành công nghiệp trong công nghiệp công nghệ cao. Đơn vị:% Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Công nghiệp công nghệ cao 15,55 15,44 15,91 15,80 16,14 Sản xuất máy móc thiết bị 1,82 1,81 1,56 1,32 1,17 Sản xuất thiết bị văn phòng, máy tính 0,61 0,62 0,91 1,24 1,52 Sản xuất thiết bị điện 2,95 3,05 3,39 3,76 4,10 Sản xuất radio, tivi và thiết bị truyền thông 2,83 2,69 2,59 2,17 1,84 Sản xuất dụng cụ y tế, chính xác, dụng cụ quang học và đồng hồ các loại 0,23 0,23 0,22 0,17 0,12 Sản xuất, sửa chữa xe có động cơ 3,28 2,93 2,76 2,22 2,34 Sản xuất, sửa chữa phương tiện vận tải khác 3,83 4,11 4,48 4,92 5,05 - Ngành công nghiệp công nghệ trung bình: Trong ngành công nghiệp có công nghệ trung bình thì ngành công nghiệp sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác chiếm tơi 1/3 tỷ trọng, và có xu hướng giảm dần tỷ trọng; bên cạnh đó còn có ngành sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế. Ngành công nghiệp sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất là ngành chiếm tỷ trọng lớn thứ 2 và có xu hướng tăng dần tỷ trọng của mình. Các ngành cũng có xu hướng tăng dần tỷ trọng như sản xuất sản phẩm cao su, plastic và sản xuất sản phẩm bằng kim loại. Bảng 13: Tỷ trọng các ngành trong công nghiệp công nghệ trung bình. Đơn vị:% Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Công nghiệp công nghệ trung bình 31,18 31,15 31,50 31,57 31,21 Sản xuất than cốc, dầu mỏ tinh chế 0,13 0,15 0,17 0,12 0,09 Sản xuất hóa chất và các sản phẩm hóa chất 6,45 6,42 6,75 6,82 6,80 Sản xuất sản phẩm cao su, plastic 4,46 5,12 5,16 5,08 4,98 Sản xuất các sản phẩm từ chất khoáng phi kim loại khác 11,81 11,30 10,49 10,40 10,24 Sản xuất kim loại 4,12 3,79 3,95 3,73 3,68 Sản xuất sản phẩm bằng kim loại (trừ máy móc thiết bị) 4,21 4,37 4,98 5,42 5,42 - Ngành công nghiệp công nghệ thấp : Trong ngành công nghiệp công nghệ thấp ta nhận thấy công nghiệp sản xuất thực phẩm và đồ uống chiếm tới ½ tỷ trọng trong ngành. Các ngành có xu hướng giảm tỷ trọng như sản xuất thực phẩm và đồ uống ; sản xuất thuốc lá, thuốc lào; sản xuất gỗ và lâm sản ; xuất bản, in và sao bản ghi. Các ngành có xu hướng tăng dần tỷ trọng như sản xuất sản phẩm dệt; sản xuất trang phục; sản xuất sản phẩm bằng da, giả da. Bảng 14 : Tỷ trọng các ngành trong công nghiệp công nghệ thấp. Đơn vị :% Ngành công nghiệp 2003 2004 2005 2006 2007 Công nghiệp công nghệ thấp 53,27 53,41 52,59 52,63 52,65 Sản xuất thực phẩm và đồ uống 25,54 25,21 24,48 24,49 24,63 Sản xuất thuốc lá, thuốc lào 3,63 3,43 3,18 2,66 2,34 Sản xuất sản phẩm dệt 5,62 5,61 5,46 5,64 5,74 Sản xuất trang phục 4,14 4,32 4,33 4,55 4,76 Sản xuất sản phẩm bằng da, giả da 5,35 5,41 5,36 5,34 5,43 Sản xuất sản phẩm gỗ và lâm sản 2,17 2,22 2,30 2,08 1,94 Sản xuất giấy và các sản phẩm bằng giấy 2,14 2,41 2,35 2,24 2,43 Xuất bản, in và sao bản ghi 1,39 1,27 1,31 1,24 1,10 Sản xuất giường, tủ , bàn ghế 3,10 3,44 3,80 4,31 4,50 Sản xuất sản phẩm tái chế 0,08 0,09 0,08 0,08 0,08 3. Đánh giá chung về thực trạng công nghiệp Việt Nam. Những năm qua, thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng và nhà nước, ngành công nghiệp Việt Nam đã nhanh chóng vượt qua khó khăn, dần đạt được những kết quả quan trọng. Những đổi mới trong chính sách phát triển công nghiệp đã đóng góp công chung của ngành công nghiệp. Bước đầu, chúng ta đã đạt được thành tựu trong một số ngành công nghiệp như dệt may, giầy dép, điện tử, dầu khí, điện, than… Những ngành này đã đóng góp một phần đáng kể vào GDP, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam, tạo được hình ảnh ban đầu về hàng hóa của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Lao động Việt Nam cũng được đánh giá là có kỹ năng, cần cù chịu khó và có khả năng sáng tạo, đây chính là lợi thế thu hút đầu tư nước ngoài. Công nghiệp Việt Nam cũng đã phần nào phát huy được nguồn lực trong và ngoài nước. Trong nước, chúng ta đã tận dụng được lợi thế về mặt địa lý, nguồn lao động dồi dào và có kỹ năng, nguồn tai nguyên đa dạng, phong phú, đồng thời Việt Nam cũng huy động một nguồn vốn lớn từ dân sau khi Luật doanh nghiệp ban hành. Cùng với hội nhập và mở cửa, Việt Nam đã kêu gọi được nguồn vốn dồi dào từ các nhà đầu tư nước ngoài, tiếp nhận chuyển giao nhiều công nghệ từ các nước tiên tiến để phát triển công nghiệp nên GDP và xuất khẩu đã tăng trưởng với tốc độ cao… Về quản lý nhà nước, Việt Nam có rất nhiều lỗ lực nhằm nâng cao năng lực quản lý Nhà nước thông qua việc xây dựng một khối lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật, thực hiện cải cách hành chính, áp dụng công nghệ thông tin và tiến tới xây dựng một chính phủ điện tử. Hệ thống quản lý với các nguồn lực tập trung cao tạo điều kiện thực hiện các dự án lớn cho phát triển hạ tầng công nghiệp và các ngành công nghiệp mũi nhọn. Các thể chế theo hướng thị trường đang được hoàn thiện để tham gia tích cực và chủ động hơn vào quá trình hội nhập. 3.1. Một số kết quả cụ thể: Sản xuất công nghiệp ngày càng phát triển, có sự tăng trưởng liên tục trong khoảng 17% và mở rộng thêm nhiều ngành nghề và lĩnh vực mới. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng trưởng cao nằm trong khoảng 16- 17%. Đến năm 2007 giá trị sản xuất toàn ngành đạt 570770,7 tỷ đồng. Nhiều sản phẩm công nghiệp chủ yểu phục vụ sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu có mức tăng khá trong nhiều năm; thị trường trong nước được đáp ứng đầy đủ hơn, thị trường nước ngoài được mở rộng. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng, kiểu dáng, mẫu mã đa dạng hơn. Tỷ trọng GDP trong công nghiệp đã có sự chuyển dịch tăng dần trong cơ cấu kinh tế, ngày càng đóng vai trò quyết định trong tăng trưởng kinh tế. Năm 2003 tỷ trọng công nghiệp- xây dựng trong nền kinh tế là 38,48%, đến năm 2007 tăng lên 41,77% chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế. Công nghiệp đã thực sự trở thành động lực trong tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát huy lợi thế cạnh tranh của từng ngành, từng sản phẩm, gắn sản xuất với thị trường. Trong giai đoạn 2003- 2007 đã có sự chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, từ 82,89% năm 2003 lên 87,83% năm 2007. Theo đó là sự giảm tỷ trọng của các ngành công nghiệp khai thác từ 10,74% năm 2003 xuống còn 6,47% năm 2007; công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước giảm từ 6,37% năm 2003 còn 5,7% năm 2007. Năm 2007, tỷ trọng của 3 nhóm này lần lượt là 87,83%; 6,47%; 5,7%. 3.2. Một số hạn chế. Chi phí sản xuất của Việt Nam vẫn còn cao, làm giảm sự cạnh tranh trong quá trình hội nhập. Các sản phẩm phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên, nhiên, vật liệu nhập khẩu( như: dệt may, da giầy, sản phẩm thép và kim loại mầu, máy móc thiết bị cơ khí…) . Việc đổi mới công nghệ và trình độ công nghệ của Việt Nam nhìn chung còn yếu. Trình độ công nghệ mới chỉ tập chung ở một số trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai… và ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của đất nước nói chung và ngành công nghiệp nói riêng. Bộ máy quản lý của các doanh nghiệp nhà nước còn công kềnh, kém hiệu quả, lại yếu về năng lực quản trị hiện đại, thiếu sự chuẩn bị để đối phó với những thách thức trong quá trình hội nhập. Trong những năm gần đây, Việt Nam là một trong những nước thành công trong việc thu hút FDI, nhưng phần lớn trong đó là tập trung vào các ngành công nghiệp có quy mô nhỏ, thời gian thu hồi vốn nhanh, chưa tập trung được vào các ngành công nghiệp cơ bản. Các ngành công nghiệp phụ trợ còn kém phát triển mặc dù đã có chiến lược phát triên ngành công nghiệp phụ trợ. Điều này khiến các ngành công nghiệp của nước ta phụ thuộc rất nhiều vào nguyên liệu nhập từ nước ngoài, khiến giá trị gia tăng của công nghiệp tuy có tăng nhưng với tôc độ chậm. CHƯƠNG 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM I. Định hướng và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam đến năm 2020. 1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp Việt Nam đến năm 2020. 1.1. Định hướng phát triển công nghiệp. Theo chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2020, định hướng tổng quát phát triển công nghiệp Việt Nam như sau: Tập chung phát triển mạnh các ngành công nghiệp đang có lợi thế cạnh tranh, có thị trường và giải quyết nhiều lao động như chế biến nông- lâm- thủy sản, thực phẩm gia công cơ khí, lắp ráp điện tử, vật liệu xây dựng; kết hợp phát triển một cách có chọn lọc các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất quan trọng như năng lượng, hóa chất, luyện kim,… để tăng khả năng tự chủ của nền kinh tế; tiếp tục đổi mới, sắp xếp và phát triển doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành một số tập đoàn kinh tế, tổng công ty mạnh phát triển hiệu quả và bền vững, đa sở hữu làm nòng cốt trong một số lĩnh vực then chốt. Đồng thời, tập chung phát triển năng lực nghiên cứu thiết kế sản phẩm công nghiệp và chuyển mạnh sang các ngành công nghiệp chế tác có tiềm năng, có hàm lượng công nghệ cao để tạo bước nhảy vọt về chất lượng phát triển, nâng cao năng suất lao động. Chuyển dịch và phát triển công nghiệp ở nông thôn, gắn kết phát triển công nghiệp với quá trình đô thị hóa và phát triển bền vững. Tập trung thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia, sẵn sàng tham gia liên kết kinh tế dưới nhiều hình thức để đến năm 2020 công nghiệp Việt Nam trở thành bộ phận khăng khít của hệ thống công nghiệp và thế giới. Phát triển khu công nghiệp lấy xuất khẩu làm mục tiêu và làm thước đo khả năng chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới; thay thế dần xuất khẩu sản phẩm sơ cấp, có tính đến ‘ xuất khẩu sản xuất’. Phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam được thế giới nói tới như một quốc gia công nghiêp mới nổi, có một số ngành công nghiệp chế tạo mạnh, phát triển tầm cỡ, chiếm thị phần lớn trong khu vực và thế giới dựa trên năng lực cạnh tranh động của Việt Nam( cácngành Dệt may, Da giầy, Chế biến thực phẩm, Điện gia dụng, Điện tử, Phần mềm được coi là những ngành Việt Nam có lợi thế cạnh tranh). Chính phủ có vai trò quan trọng trong việc mời các tập đoàn công nghiệp lớn vào Việt Nam, gắn kết họ với Việt Nam và tạo sự lan tỏa, phát triển công nghiệp phụ trợ. 1.2. Định hướng chuyển dịch cơ cấu. Nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh: Dệt may, da giầy; Chế biến nông lâm thủy hải sản; Ngành công nghiệp thực phẩm; Ngành sản xuất, lắp ráp điện tử. Nhóm ngành này phát triển theo hướng “ tăng trưởng tập trung” và định hướng xuất khẩu. Định hướng cho ngành dệt may, da giầy là nhằm phát triển nhanh công nghiệp phụ trợ, đẩy mạnh lại sự phân bổ sản xuất, sử dụng lao động tại chỗ ở nông thôn, chuyển xang phương thức mua nguyên liệu bán thành phẩm là chủ yếu. Nguồn lực thực hiện được tiếp tục phát huy từ nguồn vốn tư nhân, khuyến khích đầu tư gián tiếp nước ngoài thông qua cổ phần doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa, và tiếp tục kêu gọi FDI. Định hướng cho các ngành nông lâm thủy hải sản là nhằm xuất khẩu sản phẩm chế biến sâu. Việt Nam có lợi thế về lao động, có những nông, lâm sản đặc vùng đã nổi tiểng trong nước và khu vực, hiện đang xây dựng thương hiệu riêng và có sức cạnh tranh lớn. Ngành đang tiếp tục kêu gọi nguồn lực từ khu vực tư nhân, thu hút FDI phát triển nuôi trồng, chế biến thủy hải sản, phát triển kinh tế biển, chế biến gỗ, ván nhân tạo trên cơ sở trông rừng nguyên liệu, giấy xi măng, chế biến nước hoa quả xuất khẩu, nuôi trồng và chế biến dược liệu. Khuyến khích, ưu đãi cho các nhà đầu tư bỏ vốn phát triển vùng nguyên liệu. Định hướng cho ngành sản xuất, lắp ráp điện tử là tiếp nhận chuyển giao công nghệ, từng bước vươn lên sản xuất linh kiện, phụ tùng, tiến tới sản xuất hoàn chỉnh một thiết bị vào năm 2020, đồng thời hình thành một số trung tâm nghiên cứu thiết kế chuyên ngành để tạo ra công nghệ trong nước và sản phẩm đặc trưng của Việt Nam. Hướng tập trung phát triển sản phẩm điện tử công nghiệp, điện tử chuyên dùng trong các lĩnh vực kinh tế và đời sống. Khu vực FDI, liên doanh, tư nhân giữ vai trò chính trong phát triển ngành. Phát triển công nghiệp điện tử trong các khu, cụm công nghiệp. Nhóm các ngành công nghiệp cơ bản: Năng lượng; Luyện kim; Ngành hóa chất; Ngành khai thác,chế biến khoáng sản; Ngành sản xuất vật liệu xây dựng; Ngành cơ khí chế tạo, thiết bị điện. Đây là ngành sản xuất tư liệu sản xuất quang trọng, định hướng của các ngành này là Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Phát triển ngành luyện kim nhằm thay thế nhập khẩu đối với thép, phát triển kim loại màu cho xuất khẩu( đặc biệt là nhôm), tìm kiếm các đối tác chiến lược cho các dự án lớn, hợp tác liên chính phủ đối với các dự án luyện kim lớn. Ngành điện tiến hành tái cấu trúc theo hướng thị trường hóa ngành điện. Phát triển nguồn để giảm thiểu nhập khẩu, tiết kiệm điện năng, xây dựng các dự án liên chính phủ về năng lượng. Công nghiệp hóa chất định hướng sử dụng công nghệ hiện đại, khắc phục tình trạng nhập khẩu phân đạm, phát triển sản phẩm hóa chất công nghệ cao sau năm 2020. Nhóm ngành công nghiệp khai thác tăng trưởng tập trung vào các mỏ có hàm lượng lớn, giá trị cao, tạo nguồn lực cho công nghiệp hóa, phát triển dầu khí ra nước ngoài, tập trung đầu tư vào Thạch Khê. Ngành gia công cơ khí kết hợp chiến lược thay thế nhập khẩu và xuất khẩu, thực hiện tái cơ cấu theo hướng chuyên môn hóa cao, hợp tác hóa chặt chẽ, phát triển các sản phẩm cơ khí chất lượng cao bằng nguồn đầu tư nước ngoài. Nhóm các ngành công nghiệp tiềm năng: Sản xuất chi tiết linh kiện điện tử, phần mềm; Hóa dược, mỹ phẩm; Sản xuất từ công nghệ mới; Thiết bị viễn thông, tin học. Nhóm sản xuất chi tiết linh kiện điện tử, phần mềm tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài cho phát triển, ứng dụng công nghệ cao. Ngành hóa dược, mỹ phẩm cơ cấu theo hướng hội nhập, phát triển theo hướng ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ mới. Khai thác triệt để thế mạnh về lợi thế tài nguyên thiên nhiên. Khu vực dân doanh và nước ngoài hiện là chính. Khai thác tối đa nguồn lực trong nước. Kêu gọi đầu tư nước ngoài và vốn tư nhân. Nhóm sản phẩm từ công nghệ mới hiện đang thiều nguồn nhân lực, do đó định hướng phát triển là đầu tư thỏa đáng từ nhà nước để phát triển nguồn lực, phát triển công nghệ sinh học phục vụ cho công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản, cho phát triển nông nghiệp…, đông thời tiếp cận công nghệ nano, công nghệ năng lượng cũng như công nghệ ứng dụng cao vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu công nghiệp. Đến năm 2020 cơ cấu công nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của công nghiệp chế biến từ 79,72% năm 2000 lên 82- 83% năm 2010 và 87- 88% năm 2020; ngược lại công nghiệp khai thác khoáng có tỷ trọng giảm từ 13,78% xuống còn 10- 11% và 5- 6%; công nghiệp sản xuất phân phối điện, khí đốt và nước ít biến động, tỷ trọng giao động trong khoảng 6- 6,5 năm 2010 và tăng 6- 7% năm 2020. Trong nhóm các ngành công nghiệp chế biến: công nghiệp thu hút nhiều lao động và hướng xuất khẩu như may mặc, da giầy; công nghiệp chế biến nông lâm hải sản sẽ phát triển nhanh trong giai đoạn 2011- 2020. Các ngành công nghiệp này sẽ dần chuyển sang khu vực nông thôn. Ngược lại, các ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghệ trung bình sẽ tăng nhanh trong giai đoạn 2010- 2020 như: điện tử và công nghệ thông tin, cơ khí, hóa chất và các ngành sản xuất vật liệu mới, và sẽ tập trung ở các khu đô thị lớn trong cả nước. Đến năm 2020, Việt Nam từng bước xây dựng được một số ngành công nghiệp nền tảng quan trọng với công nghệ tiên tiến như điện lực; khai thác và chế biến dầu khí; ngành luyện kim đen và luyện kim màu, một số ngành cơ khí như đóng mới và sửa chữa tàu thuyền, sản xuất các loại máy động lực, thiết bị điện, máy phục vụ nông nghiệp và công nghiệp chế biến cỡ vừa và nhỏ, các thiết bị nâng hạ, vận chuyển,…; điện tử và công nghệ thông tin, đặc biệt là phần mềm tin học đã có vị thế trên thế giới; ngành hóa chất, hóa dầu phát triển dựa trên lợi thế về tài nguyên dầu khí của đất nước, sản xuất phân bón và các loại hóa chất cơ bản… không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu. Các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng đã cơ bản được hiện đại hóa, đủ sức cạnh tranh bình đẳng trên thị trường nội địa và thế giới. Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghiệp từ 85- 90% hàng xuất khẩu công nghiệp của cả nước. II. Các giải pháp thực hiện. 1. Giải pháp về chính sách. Tập trung xây dựng chiến lược quy hoạch, hoàn chỉnh và ban hành đồng bộ hệ thống luật pháp, chính sách thương mại. Cần tiếp tục nghiên cứu hòan thiện các văn bản pháp luật, các chính sách liên quan đến thương mại, tài chính, khoa học công nghệ và chính sách đào tạo nguồn nhân lực... một cách đồng bộ và phù hợp với thông lệ quốc tế để các thành phần kinh tế có thể tham gia vào phát triển khu vực công nghiệp. Kiện toàn và tăng cường công tác quản lý nhà nước tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp theo hướng, vừa hoàn thiện và tăng cường chính sách quản lý nhằm tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển, vừa tăng cường biện pháp kiểm tra, kiểm soát để đảm bảo phát triển đúng hướng. Sớm hình thành một mạng lưới công nghiệp trong cả nước trên cơ sở đa dạng hóa về quy mô và chế độ sở hữu. Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm điểm công nghiệp trên phạm vi cả nước, hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm. Ưu tiên ngân sách và huy động các nguồn lực khác, theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, để đẩy nhanh việc xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng trong từng vùng và trên phạm vi cả nước - đây được coi là một trong những khâu đột phá trong phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta. 2. Giải pháp về mặt thị trường. Tăng cường phát triển công nghiệp hỗ trợ, đẩy mạnh nội địa hoá các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về phụ tùng, thiết bị tại chỗ cho doanh nghiệp. Bài học kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển cho thấy công nghiệp hỗ trợ giữ vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp hỗ trợ thuộc các ngành trọng điểm của nền kinh tế không chỉ giúp các doanh nghiệp chủ động trong sản xuất, giảm giá thành sản phẩm; mà còn giúp các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này đẩy mạnh hợp tác, góp phần thực hiện mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa hóa các sản phẩm. Vì vậy, cần xem xét giải quyết những khó khăn vướng mắc trong xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ ở nước ta hiện nay. Đồng thời, để nâng cao khả năng cung ứng nguyên, phụ liệu một cách kịp thời và hiệu quả hơn, cần xây dựng ngay một số cơ sở đầu mối (có thể đặt tập trung tại các khu công nghiệp...) đóng vai trò trung tâm tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên, phụ liệu trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. Từng bước xây dựng và tiến tới chuyên nghiệp hóa các dịch vụ hỗ trợ cho ngành công nghiệp như thiết kế tạo mẫu, họat động quản trị sản xuất, marketing... để cung ứng đầu vào và phát triển đầu ra. 3. Giải pháp về mặt công nghệ. Nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh, hàm lượng khoa học công nghệ và tỷ trọng giá trị tăng thêm trong sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cần nhận thức rằng mục tiêu đặt ra cho công nghiệp nước ta là phải thay đổi căn bản tỷ lệ của 3 nhóm sản phẩm công nghiệp phục vụ xuất khẩu, gồm: một, chế tạo, hai, gia công- chế biến và ba, nguyên liệu... Thay đổi tỷ lệ này là thay đổi đáng kể đến cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu và có tác động rất lớn đến cơ cấu các ngành sản xuất công nghiệp trong nước, cũng như cơ cấu nội bộ mỗi phân ngành công nghiệp. Theo đó, trước mắt tập trung nguồn lực vào phát triển nhóm ngành đang có lợi thế cạnh tranh và có thị trường, gồm các ngành điện, than, dầu khí, hàng may mặc, giày dép, chế biến khoáng sản... và các ngành có thể nâng cao nhanh chóng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian ngắn, có khả năng chiếm lĩnh được thị trường về hàng tiêu dùng thiết yếu. Đây là những ngành chủ yếu dựa trên nguồn lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên sẵn có, nhưng cũng cần lưu ý là những lợi thế này cũng đang có xu hướng giảm nhanh. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu và tạo ra những đột phá mới trong xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến, chế tạo hàng có hàm lượng khoa học công nghệ, tạo thêm các sản phẩm xuất khẩu chủ lực, giá trị gia tăng xuất khẩu cao. Chuyển xu hướng gia tăng mạnh xuất khẩu sản phẩm “thô” trong thời gian qua sang xu hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến trong kim ngạch xuất khẩu, phục vụ xuất khẩu trên cơ sở định hướng công nghiệp kỹ thuật cao. Hạn chế và tiến tới chấm dứt xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên và các mặt hàng chưa qua chế biến, thông qua việc thực hiện đồng bộ các biện pháp nâng cao chất lượng tăng giá trị hàng hóa là biện pháp vừa mang tính cơ bản vừa mang tính lâu dài. 4. Giải pháp về nguồn vốn. Cần thay đổi định hướng cơ cấu đầu tư công nghiệp, đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước đầu tư để phát triển các ngành xuất khẩu thay vì đầu tư cho thay thế nhập khẩu. Đối với khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài cần ưu tiên lựa chọn các dự án có triển vọng công nghệ và thị trường quốc tế. Chuyển hướng đầu tư tập trung cho các ngành sử dụng nhiều lao động và những ngành có hàm lượng công nghệ - kỹ thuật cao. Xác định có trọng tâm và đầu tư đúng mức vào những ngành kinh tế mũi nhọn, tiếp tục đẩy mạnh sản xuất theo các nhóm ngành: nhóm ngành có lợi thế cạnh tranh, nhóm ngành nền tảng và nhóm ngành tiềm năng. Trước mắt, dựa trên cơ sở lợi thế so sánh động, cần xác định ưu tiên và xây dựng kế hoạch ngắn, trung và dài hạn đối với các ngành công nghiệp trọng điểm. Chẳng hạn, các ngành công nghiệp khai thác và chế biến tài nguyên thiên nhiên có chọn lọc phù hợp với điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường giúp cho quá trình tích lũy vốn nhanh hơn, tạo ra cơ sở ổn định lâu dài cho việc cung cấp những nguyên liệu cơ bản của toàn bộ sự phát triển công nghiệp, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, bao gồm các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất, dầu khô, khí đốt, than, luyện thép, vật liệu xây dựng... Các ngành công nghiệp sử dụng nhiều vốn, kỹ thuật, công nghệ như các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp... có ý nghĩa chiến lược xét về trung và dài hạn. Hiện đại hóa một số ngành cơ khí có đủ khả năng cung cấp công cụ và thiết bị cho một số ngành nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp chế biến. Tranh thủ huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các dự án công nghiệp lớn trong nước, ưu đãi về lãi suất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21532.doc
Tài liệu liên quan