Đề án Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam, thực trạng và giải pháp và vấn đề tái cơ cấu sau khủng hoảng kinh tế

Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải được cổ phần hóa, trở thành các công ty cổ phần đại chúng được quản lý và hoạt động theo các quy tắc và thông lệ thị trường, là những tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu của đất nước, tiếp tục duy trì và cũng cố vị trí chi phối trong các ngành kinh tế then chốt nhờ nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh; có vai trò dẫn dắt trong đổi mới và chuyển giao công nghệ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Kinh tế tư nhân trong nước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong số các động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Kinh tế có vốn ĐTNN tập trung chủ yếu vào các ngành có lợi thế cạnh tranh dựa trên thâm dụng vốn, công nghệ cao; có ảnh hưởng lan tỏa đến đổi mới và chuyển giao công nghệ của các thành phần kinh tế khác, nhất là các DN tư nhân trong nước.

doc24 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1896 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam, thực trạng và giải pháp và vấn đề tái cơ cấu sau khủng hoảng kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Trong quá trình tăng trưởng của mỗi quốc gia, chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt và phù hợp với những điều kiện bên trong, bên ngoài có vai trò vô cùng quan trọng trong việc tạo nên tính chất bền vững, hiệu quả của quá trình tăng trưởng. Nó có tác dụng củng cố thành quả của công nghiệp hóa và tiếp theo là tác dụng đến các mục tiêu khác của công nghiệp hóa như mục tiêu về xã hội, môi trường. Thêm vào đó, trong nền kinh tế hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng phát triển thì việc lựa chọn dạng và chuyển dịch cơ cấu ngành thể hiện được các lợi thế tương đối và khả năng cạnh tranh của một quốc gia trong nền kinh tế toàn cầu, là cơ sở cho sự chủ động tham gia và thực hiện hội nhập thắng lợi, giành được vị trí xứng đáng và có hiệu quả cao trong việc tham gia vào chuỗi dây chuyền giá trị toàn cầu. Vì những lý do trên, việc đánh giá thực trạng cơ cấu ngành kinh tế, phân tích những yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch của nó để đưa ra những giải pháp để có một cơ cấu ngành hợp lý cũng như những giải pháp về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để đạt cơ cấu hợp lý đó là rất cần thiết. Nhận thức được vấn đề trên, em lựa chọn đề tài “Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam, thực trạng và giải pháp và vấn đề tái cơ cấu sau khủng hoảng kinh tế”. Nội dung đề án bao gồm 3 chương: Chương 1: Tổng quan về cơ cấu ngành Chương 2: Thực trạng cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam Chương 3: Những giải pháp nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và vấn đề tái cơ cấu sau khủng hoảng kinh tế. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 1.1. Khái niệm Cơ cấu ngành kinh tế: là tương quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các ngành với nhau. Các mối quan hệ này được hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, luôn vận động và hướng vào những mục tiêu cụ thể. Theo liên hiệp quốc (UN), các ngành kinh tế được phân thành 3 khu vực hay gọi là 3 ngành gộp: Khu vực I bao gồm các ngành nông – lâm – ngư nghiệp, khu vực II là các ngành công nghiệp và xây dựng, khu vực III gồm các ngành dịch vụ. Trong mỗi nhóm ngành lại bao gồm các ngành khác nhau, gọi là các ngành cấp 1. Chuyển dịch cơ cấu ngành: Quá trình thay đổi của cơ cấu ngành từ trạng thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi trường và điều kiện phát triển gọi là sự dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành không chỉ là thay đổi về số lượng các ngành, tỷ trọng của mỗi ngành mà còn bao gồm sự thay đổi về vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có và nội dung của sự chuyển dịch là cải tọa cơ cấu cũ, lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến đổi cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. Trên khía cạnh các bộ phận cấu thành phát triển kinh tế thì cơ cấu ngành của nền kinh tế phản ánh mặt chất về kinh tế của quá trình phát triển. Dạng cơ cấu ngành được xem là quan trọng nhất, được quan tâm nghiên cứu nhiều nhất, vì nó phản ánh về cơ bản sự phát triển của khoa học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công lao động chuyên môn hóa và hợp tác sản xuất. Dấu hiệu thuyết phục nhất để đánh giá và so sánh trình độ phát triển kinh tế thường là dạng (trạng thái) cơ cấu ngành kinh tế mà mỗi quốc gia đạt được. Trong cuốn “Các giai đoạn phát triển kinh tế”, Rostow đã tổng kết sự lựa chọn dạng cơ cấu ngành hợp lý, tương ứng với từng giai đoạn phát triển kinh tế. Trong đó: dạng cơ cấu kinh tế nông nghiệp hay nông – công nghiệp được đặc trưng bởi tỷ trọng nông nghiệp chiếm từ 40-60%, công nghiệp từ 10-20% , dịch vụ từ 10-30%, dạng cơ cấu công – nông nghiệp – dịch vụ hay công nghiệp – dịch vụ - nông nghiệp thường có các tỷ trọng nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ tương ứng là 15-25%, 25-35%, 40-50%, khi nền kinh tế đạt được dạng cơ cấu dịch vụ - công nghiệp thì tỷ trọng nông nghiệp chỉ còn dưới 10%, công nghiệp 35-40%, dịch vụ từ 50-60%. Chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình diễn ra liên tục, gắn liền với quá trình công nghiệp hóa và được xem là kết quả của quá trình công nghiệp hóa đối với các nước đang phát triển. Chuyển dịch cơ cấu ngành là một quá trình mang tính khách quan, dưới sự tác động của các yếu tố phát triển: lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, thị trường, quan hệ cung – cầu hàng hóa. Chúng ta không nên tạo dựng một cơ cấu ngành theo ý muốn chủ quan của mình. Sự tác động của chính phủ trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành nằm ở chỗ: nắm bắt các yếu tố có liên quan đến chuyển dịch cơ cấu, định hướng phát triển và sử dụng các chính sách để thúc đẩy quá trình chuyển dịch phù hợp. 1.2. Những cơ sở lý thuyết xác định xu hướng dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế 1.2.1. Quy luật tiêu dùng của E.Engel Đây là quy luật phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập và phân phối thu nhập cho tiêu dùng cá nhân đối với hàng hóa lương thực thực phẩm. Engel cho rằng, chi tiêu cho lương thực là một chỉ số tốt phản ánh về phúc lợi của quốc gia đó, cụ thể là phần chi tiêu cho hàng hóa lương thực càng thấp trong tổng thu nhập tiêu dùng dân cư, là biểu hiện phúc lợi càng cao. Đường Engel (Engel Curve) là một đường biểu thị mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng cá nhân về một loại hàng hóa cụ thể. Đường Engel được minh họa: Độ dốc của đường Engel ở bất kỳ điểm nào chính là xu hướng tiêu dùng biên của hàng hóa đó và cho thấy tỷ số thay đổi tiêu dùng so với thay đổi thu nhập, nó phản ảnh độ co giãn của tiêu dùng một loại hàng hóa cụ thể đối với thu nhập dân cư. Bằng quan sát thực nghiệm, Engel đã nhận thấy rằng khi thu nhập của các hộ gia đình tăng lên đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Như vậy, đường Engel thể hiện quy luật tiêu dùng đối với hàng hóa là lương thực thực phẩm có xu hướng dốc lên với độ dốc cao ở đoạn đầu, sau độ dốc giảm dần (độ co giãn của cầu hàng hóa theo thu nhập dương) và cuối cùng là có xu hướng xuống khi thu nhập gia đình đạt một độ nhất định (độ co giãn âm). Do chức năng chính của khu vực nông nhiệp là sản xuất lương thực thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên đến một mức độ nhất định. Quy luật Engel được phát hiện cho sự tiêu dùng lương thực thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu xu hướng tiêu dùng của các hàng hóa khác. Các nhà kinh tế gọi hàng hóa nông sản là hàng hóa thiết yếu, các hàng hóa công nghiệp là các hàng hóa lâu bền và cung cấp sản phẩm dịch vụ là hàng hóa cao cấp. Qua quá trình nghiên cứu, họ phát hiện ra rằng: trong quá trình gia tăng thu nhập, thì tỷ lệ gia tăng chi tiêu cho hàng hóa lâu bền có xu hướng gia tăng nhưng với mức độ nhỏ hơn mức độ tăng thu nhập, còn tỷ lệ chi tiêu cho hàng hóa dịch vụ có xu hướng ngày càng tăng, độ đôc của đường Engel đối với hàng hóa này càng ngày càng cao và đến một mức thu nhập nào đó thì tốc độ tiêu dùng cao hơn tốc độ tăng thu nhập. 1.2.2. Quy luật về đổi mới kỹ thuật và tăng năng suất lao động của A.Fisher Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, trên cơ sở quan niệm nền kinh tế gồm 3 khu vực: khu vực thứ nhất bao gồm ngành nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác khoáng sản, khu vực thứ 2 bao gồm các ngành công nghiệp chế biến, xây dựng và khu vực thứ 3 gồm các ngành dịch vụ. A.Fisher đã phân tích: có hai nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ ngành đó là chuyên môn hóa và sự thay đổi trong công nghệ, tiến bộ kỹ thuật. Quá trình chuyên môn hóa, mở đường cho việc trang bị kỹ thuật hiện đại, hoàn thiện tổ chức, áp dụng công nghệ tiên tiến, nâng cao năng suất lao động. Theo xu thế phát triển khoa học công nghệ, ngành nông nghiệp dễ có khả năng thay thế lao động nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết bị và các phương thức canh tác mới tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Trong khi đó nhu cầu tiêu dùng hàng hóa nông sản sẽ có xu hướng ngày càng giảm đi theo sự phát triển kinh tế. Kết quả là để đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến một lưc lượng lao động như cũ và như vậy, tỷ lệ lực lượng lao động nông nghiệp có xu hướng giảm dần trong cơ cấu ngành kinh tế. Trong khi đó, ngành công nghiệp khó có khả ngăn thay thế lao động hơn nông nghiệp do tính chất phức tạp hơn của việc sử dụng kỹ thuật mới, mặt khác độ co giãn của cầu tiêu dùng loại sản phẩm này là đại lượng lớn hơn không vì vậy theo sự phát triển kinh tế, tỷ trọng lao động công nghiệp có xu hướng tăng lên. Quá trình chuyên môn hóa cũng hình thành những ngành chế biến cao hơn, làm cho tỷ trọng của cá ngành truyền thống giảm đi, tỷ trọng các ngành đòi hỏi kỹ thuật mới tăng lên. Ngành dịch vụ được coi là khó có khả năng thay thế lao động nhất do đặc điểm kinh tế kỹ thuật của việc tạo ra nó, rào cản cho sự thay thế công nghệ và kỹ thuật mới rất cao. Trong khi đó, độ co giãn của nhu cầu sản phẩm dịch vụ khi nền kinh tế ở trình độ phát triển cao là lớn hơn 1 tức là tốc độ tăng cầu tiêu dùng lớn hơn tốc độ tăng thu nhập. Xã hội càng bước sang những giai đoạn phát triển cao, nhu cầu tiêu dùng các hàng hóa dịch vụ, nhất là dịch vụ cao cấp trở nên phong phú, đa dạng và quy mô lớn. Vì vậy, tỷ trọng ngành dịch vụ sẽ có xu hướng tăng và tăng càng nhanh khi nền kinh tế càng phát triển. Những kết luận của A.Fisher đã gợi ra những nội dung khá rõ nét khi nghiên cứu về xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình phát triển. 1.3. Các xu thế dịch chuyển cơ cấu ngành kinh tế Từ những cơ sở lý thuyết nêu trên có thể tút ra một xu hướng có tính quy luật chung của sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, đó là chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH đất nước. Muốn chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế dựa trên cơ sở tiêu dùng cao, cần phải trải qua các bước: chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công – nông nghiệp, để từ đó chuyển từ sang nền kinh tế công nghiệp – dịch vụ, và cuối cùng là xã hội tiêu dùng cao với cơ cấu dịch vụ - công nghiệp. Các xu hướng cụ thể được thể hiện như sau : Trong quá trình phát triển, tỷ trọng nông nghiệp ngày càng giảm đi, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Tỷ trọng ngành dịch vụ ngày càng lấn át trong cơ cấu kinh tế do tốc độ tăng của ngành dịch vụ có xu hướng ngày càng nhanh hơn tốc độ tăng của ngành công nghiệp. Trong quá trình phát triển , tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao chiếm ngày càng lớn và tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn Xu hướng “mở” trong cơ cấu ngành kinh tế: Đặc trưng nổi bật của dạng này là cơ cấu sản xuất khác với cơ cấu tiêu dùng trong nước. Theo đó, cho phép các nước chọn được một cơ cấu ngành sản xuất hiệu quả nhất. Khi đó quốc gia có thể tạo ra một khối lượng tối đa các sản phẩm có lợi thế và thu lợi nhuận từ việc xuất khẩu hàng hóa đó ra thị trường quốc tế. Thêm vào đó, cơ cấu mở đã giúp các nước tăng tiêu dùng hàng hóa (cả quy mô và chủng loại), kể cả các hàng hóa không có khả năng sản xuất hoặc sản xuất trong nước thiếu hiệu quả thông qua con đường nhập khẩu hoặc trao đổi hai chiều. Để đánh giá và phân tích cơ cấu kinh tế mở, chúng ta cần lưu ý đến các câu hỏi: trước tiên, nền kinh tế của quốc gia này đã mở hay chưa? (căn cứ vào quy mô của tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu so với quy mô thu nhập của toàn bộ nền kinh tế), Nếu là nền kinh tế mở thì mở như thế nào? (thể hiện ở chỉ số cán cân thương mại quốc tế so với GDP), Đi sâu vào hoạt động xuất và nhập khẩu như thế nào? (để xác định tính hiệu quả trong trao đổi xuất nhập khẩu hàng hóa của các nước và đánh giá xu hướng chuyển dịch của cơ cấu này). 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1.4.1. Các nhân tố bên trong Các lợi thế về tự nhiên của đất nước cho phép có thể phát triển ngành sản xuất nào một cách thuận lợi; quy mô dân số của quốc gia; trình độ nguồn nhân lực; những điều kiện kinh tế, văn hóa của đất nước. Ngoài ra, nhu cầu của từng xã hội, thị trường ở mỗi giai đoạn lại là cơ sở để sản xuất phát triển đáp ứng nhu cầu không chỉ về số lượng mà cả chất lượng hàng hóa, từ đó dẫn đến những thay đổi về vị trí, tỷ trọng của các ngành nghề trong nền kinh tế. Mục tiêu, chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế của từng quốc gia có tác động quan trọng đến sự chuyển dịch của cơ cấu kinh tế vì mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhưng lại chịu tác động, chi phối rất lớn bởi mục tiêu của Nhà nước. Nhà nước có thể tác động gián tiếp lên tỷ lệ của cơ cấu ngành kinh tế bằng các định hướng phát triển, đầu tư, những chính sách khuyến khích hay hạn chế phát triển các ngành nghề nhằm bảo đảm sự cân đối của nền kinh tế theo mục đích đề ra trong từng giai đoạn nhất định. Cuối cùng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nước cho phép sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh hay chậm, hiệu quả đến mức nào... 1.4.2. Các nhân tố bên ngoài Bên cạnh những nhân tố tác động từ bên trong, những nhân tố tác động từ bên ngoài đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm có: Xu hướng chính trị, kinh tế, xã hội của khu vực và thế giới. Sự biến động của chính trị, kinh tế, xã hội của một nước, hay một số nước, nhất là các nước lớn sẽ tác động mạnh mẽ đến dòng hàng hóa trao đổi, từ đó ảnh hưởng đến nguồn thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ... buộc các quốc gia phải điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của mình nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia và sự phát triển trong động thái chung của thị trường thế giới. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế hiện nay có tác động rất mạnh mẽ đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của từng nước, vì chính sự phân công lao động diễn ra trên phạm vi quốc tế ngày càng sâu sắc và cơ hội thị trường rộng lớn được mở ra trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, cho phép các nước có khả năng khai thác những thế mạnh của nhau để trao đổi các nguồn lực, vốn, kỹ thuật, hàng hóa và dịch vụ một cách hiệu quả... Quá trình đó vừa bắt buộc, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các nước thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với sự phân công lao động trên quy mô toàn thế giới. Những thành tựu của cách mạng khoa học, kỹ thuật, đặc biệt sự bùng nổ của công nghệ thông tin tạo nên những bước nhảy vọt trong mọi lĩnh vực sản xuất góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các nước vì thông tin nhanh chóng làm cho sản xuất, kinh doanh được điều chỉnh nhanh nhạy, hợp lý hơn, dẫn đến cơ cấu sản xuất được thay đổi phù hợp hơn với thị trường và lợi ích của từng nước. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CƠ CẤU NGÀNH VIỆT NAM 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam Kinh tế Việt Nam được chia thành 3 khu vực (hay còn gọi 3 ngành lớn) kinh tế, đó là: 1) nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; 2) công nghiệp (bao gồm công nghiệp khai thác mỏ và khoáng sản, công nghiệp chế biến, xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất và phân phối khí, điện, nước); 3) thương mại, dịch vụ, tài chính, du lịch, văn hóa, giáo dục, y tế. 2.2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam thời gian qua 2.2.1. Sự dịch chuyển về tỷ trọng các ngành trong cơ cấu và trong nội bộ từng ngành Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Nếu như trước thời kỳ đổi mới một trong những khiếm khuyết lớn của tư duy cũ, của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp là cố gắng hình thành nên cơ cấu ngành kinh tế dựa trên ý chí chủ quan, bất chấp quy luật, do đó đã kéo theo tình trạng đầu tư lãng phí, không đem lại hiệu quả kinh tế, thì bước vào công cuộc đổi mới quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta đã đem lại những kết quả rất tích cực. Nhờ vậy, chỉ sau 3 năm của thời kỳ phôi thai về kinh tế thị trường (từ 1987 - 1989) nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá trong những năm 1990 - 1997. Mọi dự kiến của kế hoạch 5 năm 1991 - 1995 đều được thực hiện vượt mức khá cao. Trong thời kỳ khủng khoảng tài chính tiền tệ ở các nước châu Á, tuy tốc độ tăng trưởng của nước ta có sự giảm sút, nhưng về cơ bản chúng ta vẫn tránh được "cơn bão" của cuộc khủng khoảng, để sau đó tiếp tục tăng quy mô GDP của đất nước, tăng xuất khẩu, phát triển công nghiệp, trở thành một nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới (xem bảng). Bảng: Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế qua các năm, % Năm 1990 1995 1997 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2007 Sơ bộ 2008 GDP 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0 Nông - lâm - thủy sản 38,74 27,18 25,77 24,53 23,24 23,03 22,54 21,8 20,9 20.9 20,07 Công nghiệp và xây dựng 22,67 28,76 32,08 36,73 38,13 38,49 39,47 40,2 41,0 41,58 40,7 Dịch vụ 38,59 44,06 42,15 38,73 38,63 38,48 37,99 38,0 38,1 37,52 39,23 Nguồn: Tổng cục Thống kê Xét trong từng ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp có nhiều bước tiến bộ, đi đúng hướng, đã khai thác được lợi thế cây, con và vùng lãnh thổ, góp phần thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu phát triển. Trong khi giá trị tuyệt đối của sản xuất nông nghiệp tiếp tục tăng, thì tỷ trọng nông nghiệp trong GDP ngày càng giảm (xem bảng). Trong ngành nông nghiệp, tỷ trọng giá trị sản xuất trong lĩnh vực chăn nuôi tăng từ 19,3% (năm 2000) lên đến 21,6% (năm 2004) và 27,4% (năm 2008); còn tỷ trọng trong trồng trọt lại giảm từ 78,2% (năm 2000) xuống còn 75,4% (năm 2003), nhưng tăng nhẹ tới 76,3% (năm 2004) và 70,5% (năm 2008). Điều đó thể hiện, nông nghiệp của nước ta đã từng bước phát triển theo một cơ cấu tiên tiến. Trong trồng trọt diện tích trồng lúa giảm dần để tăng diện tích trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao hơn (như cây công nghiệp ngắn ngày: bông, mía, đậu tương..., cây công nghiệp lâu năm: chè, cao su, hạt tiêu, cây ăn quả...), song vẫn bảo đảm được an ninh lương thực quốc gia và tăng xuất khẩu gạo một cách đáng kể, phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp ngày càng đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường và có hiệu quả hơn. Đặc biệt thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây đã có sự chuyển mạnh một phần diện tích trồng lúa có năng suất, hiệu quả thấp sang nuôi trồng thủy sản (tập trung nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và duyên hải Nam Trung Bộ), nhờ vậy đã góp phần tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nâng cao đời sống cho nông dân. Cơ cấu công nghiệp có sự chuyển dịch khá, nhất là giai đoạn từ năm 1998 đến nay. Tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 32,08% GDP (năm 1997) lên tới 36,73% (năm 2000) và 30,0% (năm 2008). Trong ngành công nghiệp sự tăng nhanh của tỷ trọng ngành công nghiệp chế biến (từ 78,7% năm 2000 lên tới 81,23% năm 2004 tính theo giá thực tế) và sự giảm tỷ trọng của công nghiệp khai thác mỏ (từ 15,7% xuống còn 12,8%), tăng tỷ trọng của công nghiệp sản xuất và phân phối điện, ga, nước (từ 5,6% lên 5,9%) trong thời kỳ tương ứng đã phản ánh sự chuyển dịch cơ cấu đúng hướng. Nếu xét theo tiêu thức công nghệ, càng thấy rõ hơn xu hướng chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp những năm qua là tích cực, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta. Bởi, các ngành công nghiệp có công nghệ cao ngày càng được mở rộng và phát triển nhanh, tạo ra những sản phẩm tiêu dùng có giá trị cao, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày một nâng lên ở trong nước và tham gia xuất khẩu, như ô-tô, sản phẩm điện tử, tàu thủy... Các ngành có trình độ công nghệ trung bình và thấp phát triển ở tốc độ trung bình và thấp để sản xuất sản phẩm phù hợp với nhu cầu tiêu dùng chưa quá khắt khe của thị trường trong nước, cũng như nhằm duy trì cung cấp những sản phẩm thông thường thiết yếu cho nhân dân. Trong lĩnh vực dịch vụ, đã có bước phát triển nhảy vọt cả về chất và lượng, nhất là từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực này lại không đều qua các thời kỳ khác nhau, thể hiện nổi bật qua việc tăng nhanh của ngành dịch vụ trong thời kỳ 1990 - 1995, sau đó liên tục bị giảm sút và chỉ có dấu hiệu phục hồi nhẹ trong một vài năm gần đây. Điều đó khiến tỷ trọng của ngành dịch vụ trong GDP, sau khi tăng tương đối mạnh trong thời kỳ 1990 - 1995 (năm 1995 đạt 44,06%) đã liên tục bị giảm: năm 1996 còn 42,51%; năm 1997 còn 42,15%; năm 1998 còn 41,73%; năm 1999 còn 40,08% và năm 2005 còn 38,1%. Điều đáng lo ngại là tỷ trọng của một số ngành dịch vụ quan trọng trong cơ cấu của lĩnh vực dịch vụ và trong cơ cấu GDP còn thấp như ngành tài chính - ngân hàng, khoa học - công nghệ, vận tải, viễn thông, dịch vụ kinh doanh. Và, mặc dù đã xuất hiện một số ngành dịch vụ mới trong lĩnh vực dịch vụ, nhưng nhìn chung tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu nền kinh tế của nước ta vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, biểu hiện một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa hiệu quả và theo hướng hiện đại. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi. 2.2.2. Sự dịch chuyển theo xu hướng “mở” Tỷ lệ xuất khẩu/GDP (XK/GDP) ngày càng tăng, nghĩa là hệ số mở cửa ngày càng lớn, từ 34,7% năm 1992 lên 47% năm 2001, và đến năm 2005 là trên 50%. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm 2001 - 2005 đã đạt 111 tỉ USD, tăng bình quân 17,5%/năm (kế hoạch là 16%/năm), khiến cho năm 2005, bình quân kim ngạch xuất khẩu/người đã đạt 390 USD/năm, gấp đôi năm 2000. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu tiếp tục đạt mức cao - 40 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2005; năm 2007 đạt gần 50 tỉ USD, tăng 21,5% so với năm 2006; năm 2008 tăng 29,5% so với năm 2007, đưa tỷ lệ XK/GDP đạt khoảng 70%. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng nhanh cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế: năm 2000 đạt 14,5 tỉ USD, năm 2001: 15 tỉ USD, năm 2002: 16,7 tỉ USD, năm 2003: 20,1 tỉ USD, năm 2004: 26,5 tỉ USD, năm 2008: 42,4 tỉ USD. Nhiều sản phẩm của Việt Nam như gạo, cao su, may mặc, giày dép, hải sản... đã có sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới 2.3. Đánh giá sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam thời gian qua 2.3.1. Kết quả đạt được Cơ cấu kinh đang chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá cùng với tốc độ tăng cao liên tục và khá ổn định của GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể theo hướng tích cực: giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu nền kinh tế đã chuyển dịch tích cực theo hướng mở cửa, hội nhập vào kinh tế toàn cầu Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế sau hơn 20 năm đổi mới là một trong những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ, cán cân thanh toán quốc tế..., góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo và chính sách hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm 2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chỉ số phát triển con người (HDI) đã không ngừng tăng, được lên hạng 4 bậc, từ thứ 109 lên 105 trong tổng số 177 nước... 2.3.2. Hạn chế So với yêu cầu đặt ra, tốc độ chuyển dịch CCKT còn chậm và chất lượng chưa cao. Ngành công nghiệp tuy có tốc độ tăng trưởng cao, nhưng yếu tố hiện đại trong toàn ngành chưa được quan tâm đúng mức, trình độ kỹ thuật công nghệ nhìn chung, vẫn ở mức trung bình. Công nghiệp chế biến, đặc biệt là những ngành công nghệ cao chưa phát triển. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục trong những năm gần đây. Những ngành dịch vụ có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng cao như dịch vụ tài chính - tín dụng, dịch vụ tư vấn chậm phát triển. Tình trạng độc quyền, dẫn tới giá cả dịch vụ cao, chất lượng dịch vụ thấp còn tồn tại ở nhiều ngành như điện lực, viễn thông, đường sắt. Một số ngành có tính chất động lực như giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, tính chất xã hội hoá còn thấp, chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Nhà nước. Tỷ trọng của ngành nông - lâm - thủy sản còn chiếm cao trong GDP của đất nước.. Chưa kể, tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp cũng thấp và chưa có dấu hiệu phát triển trong những năm tới. Đồng thời, tỷ trọng của ngành công nghiệp chưa cao, đặc biệt là ngành công nghiệp chế tạo. Sự đóng góp vào tăng trưởng xuất khẩu của ngành công nghiệp một số năm qua mới chủ yếu là do phát triển các ngành công nghiệp lắp ráp, gia công như lắp ráp ô-tô, xe máy, dệt may, giày dép, là những ngành chủ yếu "lấy công làm lãi". Tỷ trọng công nghiệp chế biến của nước ta còn nhỏ (tỷ lệ sản phẩm chế biến trong cơ cấu xuất khẩu chỉ tăng khoảng 1,5%/năm), vì thế kéo theo tỷ trọng hàng xuất khẩu đã qua chế biến sâu vẫn còn thấp, mới xuất khẩu chủ yếu hàng thô, sơ chế, làm hạn chế giá trị gia tăng của sản phẩm và kim ngạch xuất khẩu. Tỷ trọng thấp của ngành dịch vụ trong GDP và rất thấp trong tổng kim ngạch xuất khẩu (13,4% tổng kim ngạch xuất khẩu - dưới mức trung bình của thế giới là 20,0%) càng cho thấy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của nước ta chưa có khả năng tạo ra sự chuyển biến mạnh trong xuất khẩu của đất nước. 2.3.3. Nguyên nhân của hạn chế Hiệu quả sử dụng các nguồn lực (vốn, tài nguyên thiên nhiên, đất đai,...) và năng suất lao động còn thấp; chi phí sản xuất, tiêu hao năng lượng trên một đơn vị sản phẩm còn ở mức cao và có xu hướng tăng lên. Hiện nay, đầu tư đang đóng góp khoảng 60% vào tăng trưởng GDP hằng năm; 40% còn lại là giá trị gia tăng từ lao động. Tuy nhiên, do năng suất lao động thấp, công nghệ chậm đổi mới; các sản phẩm công nghệ cao chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã khiến các cân đối lớn vĩ mô của nền kinh tế chưa thật vững chắc. Chênh lệch giữa tiết kiệm nội địa và đầu tư, thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai và thâm hụt ngân sách còn lớn. Cơ cấu xuất khẩu dựa chủ yếu vào khai thác tài nguyên, sử dụng lao động phổ thông; trình độ thấp khiến sản phẩm XK của VN phần lớn còn ở dạng gia công, lắp ráp, giá trị gia tăng thấp do dựa chủ yếu vào nguyên liệu NK và các sản phẩm trung gian từ bên ngoài. Một khía cạnh khác cũng đáng chú ý là xét về phân bố nguồn lực, các DN nhà nước chưa phát huy được vai trò dẫn dắt, chủ đạo trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh tế tư nhân trong nước còn nhỏ, chưa thể là động lực tăng trưởng của nền kinh tế; khu vực kinh tế phi chính thức, sản xuất nhỏ và phân tán còn lớn, nhất là về lao động.Trong khi đó, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài gia tăng nhanh chóng và mở rộng quy mô đến mức làm cho kinh tế nước ta phụ thuộc ngày càng nhiều hơn vào thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, tác động của DN có vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) đối với chuyển giao, phát triển năng lực công nghệ của nền kinh tế là chưa đáng kể. Bằng chứng là một số ngành CN như ôtô, xe máy, cơ khí mới tận dụng thị trường tại VN để tiêu thụ sản phẩm, chứ chưa chú trọng nội địa hoá sản xuất, chuyển giao công nghệ tại VN. Hệ quả các DN trong nước vẫn chưa đủ sức tham gia vào chuỗi giá trị và hệ thống phân phối toàn cầu. Những mất cân đối lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế, trong cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư. Những mất cân đối lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế, trong cơ cấu vùng kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư…Như khu vực kinh tế nhà nước đóng góp 34% GDP, chiếm 1/3 tổng vốn đầu tư xã hội nhưng chỉ sử dụng 9% số lượng lao động. Khu vực ngoài nhà nước đóng góp 47% GDP, 32% tổng vốn đầu tư xã hội lại sử dụng 87% lao động xã hội. Trong đó, kinh tế tư nhân trong nước đóng góp khoảng 10% GDP và sử dụng 7% số lao động. Cơ cấu vốn đầu tư thì ngày càng bất hợp lý. Giai đoạn 2000 – 2008, 72% tổng vốn đầu tư xã hội chỉ tập trung vào 20 ngành: khai thác than, dầu khí, điện, bất động sản, khách sạn, giao thông đường bộ, quản lý nhà nước… Nhưng có nhiều ngành quan trọng: sản xuất lúa gạo, trồng và chế biến cao su, chè, cà phê, sản xuất phân bón, thuốc chữa bệnh, sản phẩm điện tử và đồ gia dụng…, đã không được quan tâm đúng mức. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM VÀ VẤN ĐỀ TÁI CƠ CẤU SAU KHỦNG HOẢNG 3.1. Định hướng cho cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam và sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH,HĐH) đã được Đảng và Nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam nhanh thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát triển trở thành một quốc gia văn minh, hiện đại. Nội dung và yêu cầu cơ bản của chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ở nước ta theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng (gọi chung là công nghiệp) và thương mại - dịch vụ (gọi chung là dịch vụ), đồng thời giảm dần tương đối tỷ trọng giá trị trong GDP của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp (gọi chung là nông nghiệp). Cùng với quá trình chuyển dịch của cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, cơ cấu kinh tế đối nội, cơ cấu kinh tế đối ngoại… Do những tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (MPI) vừa trình Chính phủ đề án tiếp tục đổi mới và đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế giai đoạn 2011-2020 (gọi tắt là Đề án tái cơ cấu nền kinh tế). Mục tiêu là trong vòng 10 năm tới sẽ đưa nước ta đi vào quỹ đạo phát triển ổn định, bền vững, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh của nền kinh tế, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực Theo đề án tái cơ cấu nền kinh tế, đến năm 2015, thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai tối đa không quá 5% GDP và đến năm 2020, cơ bản không còn thâm hụt cán cân thanh toán vãng lai và bội chi ngân sách không quá 3% GDP. Từng bước và liên tục cải thiện hiệu quả sử dụng các nguồn lực, nâng cao năng suất và chất lượng tăng trưởng để đến năm 2020: Tỉ trọng giá trị gia tăng trong tổng sản lượng của toàn nền kinh tế đạt tối thiểu 50%; tỉ trọng giá trị gia tăng trong tổng sản lượng công nghiệp chế tác đạt khoảng 40%; đóng góp của nhân tố năng suất tổng hợp trong tăng trưởng kinh tế đạt tối thiểu khoảng 35%. 3.2. Giải pháp thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế và tái cơ cấu kinh tế sau khủng hoảng Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thời gian qua, một mặt làm bộc lộ những điểm chưa hợp lý trong sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam nói riêng và sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung, mặt khác cũng chỉ ra rằng thời điểm sau khủng hoảng là thời điểm thuận lợi cho Việt Nam áp dụng những giải pháp nhằm có một cơ cấu ngành kinh tế phù hợp hơn, hay nói cách khác đó là thời điểm thích hợp cho việc tái cơ cấu kinh tế. Sau khi xác định được những nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam thời gian vừa qua bao gồm cả sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, một số giải pháp liên quan đến những nhóm nguyên nhân này cần được quan tâm bao gồm: 3.2.1. Thay đổi cơ cấu đầu tư Tập trung vào những lĩnh vực có khả năng xuất khẩu tốt, tránh dàn trải, thiếu trọng điểm, kém hiệu quả ở các ngành, địa phương; nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nhà nước, kết hợp với tăng cường huy động vốn đầu tư trong dân; đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 3.2.2. Nhận thức đúng đắn hơn về chính sách bảo hộ thị trường nội địa Cần xác định rõ những mặt hàng cung cấp cho thị trường trong nước, và những mặt hàng cần tập trung đầu tư, khuyến khích để phục vụ xuất khẩu. Nếu sản xuất trong nước (theo cách tiếp cận sử dụng các nguồn lực hiệu quả) quá tốn kém so với hàng nhập khẩu, thì tốt nhất nên hạn chế sản xuất để dành các nguồn lực cho những mặt hàng xuất khẩu, từ đó nhập khẩu những mặt hàng rẻ của thế giới. Đối với hàng sản xuất tiêu thụ trong nước cũng không nên có chính sách bảo hộ để khắc phục tình trạng thiên lệch, bất lợi cho xuất khẩu vì một khi còn duy trì chính sách này thì các doanh nghiệp sản xuất hàng nội địa sẽ có nhiều cơ hội để thu lợi nhuận cao hơn doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu (theo một tính toán của Ngân hàng thế giới, nhờ được miễn thuế nhập khẩu cho các yếu tố đầu vào, việc bán hàng nội địa đã mang lại lãi suất cao gấp 5 lần bán hàng trên thị trường nước ngoài). Điều đó chẳng những không khuyến khích sự chuyển dịch cơ cấu hướng tới xuất khẩu, mà ngay trên thị trường trong nước, những doanh nghiệp sản xuất để bán tại nội địa cũng không có động lực để nâng cao tính hiệu quả, đồng thời làm mất đi lợi thế của Việt Nam trên thị trường thế giới về tài nguyên sẵn có, lao động rẻ, khuyến khích đầu tư trong nước vào những ngành thâm dụng nhiều vốn, được bảo hộ cao như xi-măng, thép, đường, giấy... 3.2.3. Phát triển khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực. Trong bối cảnh các nước trên thế giới chuyển dịch cơ cấu sản xuất hướng tới những sản phẩm có hàm lượng tri thức cao, rõ ràng để quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế hướng tới xuất khẩu của nước ta có hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu, chúng ta phải đặc biệt coi trọng việc phát triển và ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào sản xuất, đồng thời phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Làm được điều này đòi hỏi cần ưu tiên nhập khẩu công nghệ tiên tiến, bằng sáng chế phát minh, xây dựng các trung tâm công nghệ cao có sự tham gia của nước ngoài, khuyến khích liên kết giữa các trường đại học, viện nghiên cứu trong đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng, triển khai, đổi mới phương pháp và giáo trình giảng dạy... 3.2.4. Tạo lập đồng bộ các loại thị trường Chủ trương của Đảng khẳng định việc phân bố các nguồn lực theo sự điều tiết của cơ chế thị trường. Vì vậy, cần sớm tạo lập đồng bộ các loại thị trường để đẩy mạnh quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.2.5. Cổ phần hóa các tập đoàn, tổng công ty nhà nước Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước phải được cổ phần hóa, trở thành các công ty cổ phần đại chúng được quản lý và hoạt động theo các quy tắc và thông lệ thị trường, là những tập đoàn kinh tế lớn hàng đầu của đất nước, tiếp tục duy trì và cũng cố vị trí chi phối trong các ngành kinh tế then chốt nhờ nâng cao năng suất và năng lực cạnh tranh; có vai trò dẫn dắt trong đổi mới và chuyển giao công nghệ  thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại. Kinh tế tư nhân trong nước phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng, trở thành một trong số các động lực tăng trưởng của nền kinh tế. Kinh tế có vốn ĐTNN tập trung chủ yếu vào các ngành có lợi thế cạnh tranh dựa trên thâm dụng vốn, công nghệ cao; có ảnh hưởng lan tỏa đến đổi mới và chuyển giao công nghệ của các thành phần kinh tế khác, nhất là các DN tư nhân trong nước. KẾT LUẬN Việc đánh giá thực trạng cơ cấu ngành kinh tế, phân tích những yếu tố tác động đến quá trình chuyển dịch của nó để đưa ra những giải pháp để có một cơ cấu ngành hợp lý cũng như những giải pháp về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế để đạt cơ cấu hợp lý đó là rất cần thiết trong việc tạo ra một sự tăng trưởng bền vững và hiệu quả cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Thêm vào đó, sau năm 2008, dưới sự tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, một mặt một nền kinh tế Việt Nam đã bộc lộ những điểm không hiệu quả của việc tăng trưởng. Tuy nhiên, sau khi khủng hoảng đã đi qua thì đây cũng là thời điểm thích hợp cho nước ta áp dụng những giải pháp nhằm tái cơ cấu lại ngành kinh tế để từ đó đạt được sự tăng trưởng bền vững và hiệu quả hơn. Sau khi nghiên cứu những vấn đề lý thuyết liên quan đến cơ cấu ngành kinh tế và xem xét thực trạng cơ cấu ngành kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong bối cảnh có cả sự tác động của khủng hoảng kinh tế, đề án mạnh dạn đưa một số giải pháp nhằm tái cơ cấu kinh tế Việt Nam sau khủng hoảng kinh tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), lần thứ IX (2001) và lần thứ X (2006), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1987, 2001 và 2006. 2. Các văn kiện nghị quyết Trung ương ( khoá IX, X) có liên quan từ năm 2001 đến nay. 3. Các báo cáo của Quốc hội và Chính phủ về những vấn đề liên quan đã công bố trên báo Nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng khác từ năm 2006 đến nay. 4. Một số báo điện tử và trang web: Báo điện tử ĐCS Việt Nam, Nhân dân điện tử, Tạp chí Cộng sản điện tử, Thời báo Kinh tế Việt Nam điện tử, Đầu tư nước ngoài, Bộ Công thương, Bộ Tài nguyên và Môi trường... 5. Một số bài báo liên quan của Trần Anh Phương và các tác giả khác đã đăng trên các tạp chí khoa học và báo chuyên ngành từ nhiều năm qua đến nay: Nghiên cứu Kinh tế; Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương; Tạp chí Cộng sản; Thời báo Kinh tế Việt Nam...

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26284.doc
Tài liệu liên quan