Đề án Cổ phần hoá DN Nhà nước ở Việt Nam

Trong tình hình hiện nay ở nước ta vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được đặt ra một cách cơ bản và cấp bách đối với lý luận và thực tiễn đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Sự trình bày khái quát trên đây về những vấn đề cơ bản của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với mục đích góp một phần nhỏ trong việc xây dựng quan điểm chỉ đạo cho công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được Chính phủ tiến hành trong những năm qua. Tuy nhiên, do việc cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta đang trong giai đoạn thí điểm nên thiết nghĩ còn nhiều vấn đề phải được các cấp , các nghành nghiên cứu sâu thêm để góp phần vào việc thúc đẩy quá trình cổ phần hoá trên thực tế đạt được kết quả mong muốn./.

doc39 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Cổ phần hoá DN Nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để một số doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn lập công ty cổ phần mới với tổng số vốn nhà nước là 868,8 tỷ đồng chiếm 46% vốn điều lệ, kết quả sản xuất kinh doanh cho thấy 267 công ty(96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại( 3.6 %) hoà vốn. Qua các số liệu tổng kết cho thấy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá là một bài học quý báu. Nhà nước cần triệt để hơn nữa trong việc thực hiện cổ phần hoá DNNN. Chúng ta xét thấy rằng sở hữu nhà nước trong những nghành, những doanh nghiệp không cần có sự can thiệp của Nhà nước thì có thể tiến hành cổ phần hoá toàn bộ hay từng phần để nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và nhà nước có điều kiện thu hồi vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác. Chúng ta cần phải xác định một số quan điểm cơ bản để có thể thực hiện chương trình mở rộng quy mô cổ phần hoá. Một là, việc thực hiện những doanh nghiệp cổ phần hoá phải được đặt trong chương trình tổng thể đổi mới và sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước. Chương trình này phải đưa ra được 3 nhóm doanh nghiệp nhà nước với những giải pháp đổi mới khác nhau: 1) Nhóm các doanh nghiệp nhà nước vẫn duy trì 100% vốn của nhà nước. 2) Nhóm các doanh nghiệp được cổ phần hoá dưới nhiều hình thức. 3) Nhóm các doanh nghiệp phải được xử lý theo Luật phá sản. Hai là, việc lựa chọn doanh nghiệp nào để cổ phần hoá là thuộc thẩm quyền và chức năng của Nhà nước với tư cách là người sở hữu, chứ không tuỳ thuộc ý kiến giám đốc và tập thể lao động trong doanh nghiệp. Ba là, dựa trên bảng cân đối tài sản và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh củ doanh nghiệp để xác định các mục tiêu cổ phần hoá cụ thể, phù hợp với từng loại doanh nghiệp như: loại cần huy động thêm vốn, loại cần thu hồi vốn để đầu tư vào các lĩnh vực khác, loại nên để cho người lao động và quản lý làm chủ. Bốn là, mọi tài sản của doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa đều thuộc sở hữu Nhà nước, trừ quỹ phúc lợi tập thể. Là người chủ sở hữu, Nhà nước có trách nhiệm đối với các khoản nợ của doanh nghiệp, thì lẽ đương nhiên Nhà nước cũng có trách nhiệm với phần “vốn tự có” của doanh nghiệp. Tuy nhiên đây là vấn đề được hình thành do những chính sách và quy định cũ để lại, cho nên việc xử lý phải hết sức linh hoạt và cụ thể đối từng doanh nghiệp. Năm là, việc xác định giá trị của những doanh nghiệp được cổ phần hoá plhải chú ý đến cả hia yếu tố cấu thành giá trị hữu hình và giá trị vô hình để kết hợp hai phương pháp tính giá trị theo thống kê kế toán và theo tỷ suất lợi nhuận bình quân, Sáu là, phương pháp bán cổ phiếu ở các doanh nghiệp đựoc cổ phần hoá cần được thực hiện công khai, rõ ràng,thủ tục đưon giản, dễ hiểu đối với mọi người để tránh sự lạm dụng của những người thực thi cũng như sự nghi ngờ của công chúng. Bảy là, Nhà nước không chỉ chú ý đến thu hồi vốn, mà cần phải xác định các khoản phí tổn nhất định vì lợi ích kâu dài của sự phát triển đất nước. Những khoản cho phí tổn cho bảo hiểm, trợ cấp cho người lao động, tìm việc làm mới, bán cổ phiếu theo giá ưu đãi cho những nhóm xã hội nhất định, cho vay tiền để mua không lãi suất hoặc hoặc với lãi suất thấp cho những đối tượng nhất định...Ngoài ra còn có các nhãng chi phí về các hoạt động tư vấn, quảng cáo, kiểm toán, môi giới đầu tư qua cổ phiếu ... Tám là, các doanh nghiệp được cổ phần hoá sẽ hoạt động trong khuôn khổ Luật doanh nghiệp cả về hình thức tổ chức quản lý và các hoạt động tài chính. Vì vậy, Nhà nước cần thành lập một cơ quan tài chính quốc gia với đội ngũ cán bộ sáng lập và quản trị để thay mặt nhà nước quản lý và thực hiện các hoạt động đầu tư phần vốn của Nhà nước thông qua các công ty cổ phần. Chín là, các doanh nghiệp được cổ phần hoá phải có sự giải quyết rõ ràng, dứt điểm các vấn đề tồn đọng về tài chính và lao động trước khi chuyển sang công ty cổ phần theo đúng những quy định đã ban hành của nhà nước. 2. Những điểm mới của nghị định 44/CP của chính phủ chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. 2.1. Về đối tượng cổ phần hoá. Điều 1: Nghị định 44/CP vẫn giữ nguyên như nghị định 28/CP song Chính phủ đã ban hành kèm theo mục lục danh mục các loại doanh nghiệp nhà nước để lựa chọn cổ phần hoá, bao gồm 3 loại: Loại doanh nghiệp nhà nước hiện chưa tiến hành cổ phần hoá . Loại doanh nghiệp nhà nước hiện có. Nhà nước cần nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt khi tiến hành cổ phần hoá. Các loại doanh nghiệp hiện có còn lại, đều có thể thực hiện cổ phần hóa và áp dụng các hình thức chuyển đổi sở hữu khác trong đó Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt. Về mục tiêu cổ phần hóa: Điều 2 Nghị định 44/CP bổ sung thêm một nội dung là nhằm thay đổi phương thức quản lý. Về đối tượng mua cổ phần ở các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa. Điều 3: Nghị định 44/CP bổ sung thêm là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài định cư ở Việt Nam đều có quyền mua cổ phần. Đối với các tổ chức,cá nhân nước ngoài, việc bán cổ phần thực hiện theo quy định của Thủ tướng chính phủ. Về vấn đề địa điểm bán cổ phần. Điều 5: Nghị định 44/CP bổ sung thêm địa bán cổ phần là ở các sở, các trung tâm giao dịch chứng khoán. Về hình thức cổ phần hoá: Điều 7 Nghị định 44/CP bổ sung thêm hình thức thứ tư là bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn nhà nước tại doanh nghiệp để chuyển thành công ty cổ phần. Về quyền được mua cổ phần lần đầu tiên khi tiến hành cổ phần hóa. Điều 8 của Nghị định 44/CP quy định cụ thể như sau: a> Đối với loại doanh nghiệp nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt gồm: * Một pháp nhân được mua không quá 20% tổng số cổ phần của doanh nghiệp . * Một cá nhân được mua không quá 10% tổng số cổ phần của doanh nghiệp. b> Đối với doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không tham gia cổ phần không hạn chế số lượng cổ phần mỗi pháp nhân và cá nhân được mua nhưng phải đảm bảo số cổ đông tối thiểu quy định trong Luật doanh nghiệp. c> Phần vốn doanh nghiệp đã vay của người lao động trước cổ phần hoá nếu người lao động chấp nhận thì được chuyển thành công ty cổ phần. 3. Những nguyên nhân thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Phân loại doanh nghiệp theo các tiêu thức cụ thể gắn liền vưói cổ phần hoá là công việc nhất thiết phải làm. Trong giai đoạn nề kinh tế thị trường hiện nay với sự phát triể như vũ bão của nền kinh tế Thế Giới. Trình độ khoa học kỹ thuật của các nước tiên tiến đã đạt đến trình độ cao, trong khi đó nề kinh tế nước ta do chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế kinh tế cũ – nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, sự phát triển ì ạch của đa số các doanh nghiệp nhà nước là nguyên nhân quan trọng làm cho nền kinh tế nước ta bị tụt hậu. Theo thống kê các con số, các chỉ tiêu kinh tế thì Việt Nam bị đánh giá là tụt hậu rất xa, có thể tính tới 50 - 100 năm so với các nước phát triển. Mô hình công ty cổ phần chính là sản phẩm của nền kinh tế thị trường. Có thể nói công ty cổ phần(hay doanh nghiệp cổ phần) chính là hình ảnh thu nhỏ của nề kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá hình thức sở hữu. Nó là sản phẩm trí tuệ của con người trong quá trình tiến hoá và phát triển kinh tế. Công ty cổ phần là công cụ kinh doanh hứa hẹn tính hiệu quả cao và phù hợp với cơ chế thị trường cạnh tranh. Cho nên một khi ta chấp nhận nền kinh tế thị trường đa thành phần, đa dạng hoá hình thức sở hữu thì thì việc xuất hiện cônh ty cổ phần và cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần(chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước không phải là mũi nhọn chiến lược thành công ty cổ phần) là phù hợp với logic của nền kinh tế thị trường. Chính vì những lẽ đó mà công ty cổ phần được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Thực hiện tiếp tục cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn lại để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và cũng là tăng cường từng bước tiềm lực kinh tế của đất nước. Trong thực tế thì Đảng và Nhà nước ta có những chính sách và biện pháp tích cực trong viẹc khuyến khích thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá như các chính sách ưu tiên ưu đãi đặc biệt, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp cổ phần hoá. VD như: Luật khuyến đầu tư sửa đổi (nếu không đủ điều kiện thì được giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm kể từ khi hoạt động theo luật công ty)được miễn lệ phí trước bạ khi chuyển thành sở hữu công ty cổ phần, được tiếp tục vay vốn theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với DNNN, đựoc tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá. Trước khi cổ phần hoá được chủ động sử dụng số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi(bằng tiền)chia cho người lao động đang làm việc để mua cổ phần(phần hiện vật được tiếp tục duy trì và phát triển, thuộc sở hữu tập thể người lao động...) 4. Cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước kết quả và hạn chế. 4.1. Một số kinh nghiệm trong cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua. Để thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, sau khi đã xác đinh rõ mục tiêu cần chia doanh nghiệp cổ phần hoá thành các nhóm nhỏ hơn để xác lập lịch trình và phương pháp tiến hành cụ thể thông thường, các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá sẽ được chia làm 3 nhóm: Nhóm có khả năng cổ phần hoá ngay được, đó là những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, quy mô vừa phải sẵn sàng có “người mua” cổ phần. Nhóm các doanh nghiệp có khả năng phục hồi, cơ cấu lại cấp thêm vốn đầu tư theo chiều sâu, đổi mới công nghệ, sau đó sẽ tiến hành cổ phần hoá. Đối với nhóm thứ ba là những doanh nghiệp không có khả năng phục hồi, làm ăn thua lỗ, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, các doanh nghiệp này sẽ được thanh lý. Để chống độc quyền tư nhân, chống hiện tượng chuyển tài sản nhà nước vào tay một số người thông qua tư nhân hoá, cần chú trọng thực hiện chu trình “Chào bán công khai” phối hợp chặt chẽ với công tác thanh tra giám sát, nhất là trong những trường hợp riêng lẻ, không được nhiều người quan tâm. Chú trọng xây dựng phương án sản xuất kinh doanh hậu cổ phần hoá, phương án cụ thể : sản xuất gì? bán ở đâu? số lượng là bao nhiêu?. Giá thành sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhờ tiếp thị, khuyến mại ... Xử lý dứt điểm các khoản nợ trước cổ phần hoá tạo một mặt bằng tương đương về tình hình tài chính cho doanh nghiệp cổ phần hoá trước các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Việc xác định giá cổ phiếu và ký kết hợp đồng cũng có nhiều điểm đáng coi trọng. Thông thường giá bán doanh nghiệp do thị trường quyết định. Hợp đồng sẽ được ký kết, sau khi đã thoả thuận xong về giá. Trong hợp động phải có các điều khoản cam kết, duy trì việc làm cho người lao động. Trường hợp vi phạm nhất thiết phải chịu phạt. Các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài cũng được chú trọng đáng kể nhằm tạo ra các cơ hội mới, phương pháp mới, công nghệ mới và ý tưởng mới cho các doanh nghiệp nhà nước. Qua phân tích chúng ta thấy rằng thật ra chế độ cổ phần hoá là sự xác định và xác nhận quyền sở hữu về tài sản của xí nghiệp bằng hình thức cổ phần(là một định lượng và định tính khoa học đối quyền sở hữu) phải coi chế độ cổ phần hoá XHCN là một hình thức cải cách kết cấu chế độ sở hữu của xí nghiệp. Có thể nói chế độ cổ phần là một phương pháp khoa học để xử lý quan hệ tài sản. Nó là sản phẩm tất yếu của sự phát triển nền kinh tế hàng hoá. Bản thân chế độ cổ phần là vật trung tính và không có tính giai cấp. Tổng kết kinh nghiệm, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và vững chắc việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước nhằm tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động thêm vốn cho yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Trong quá trìng cổ phần hóa, tiền thu được do bán cổ phần của Nhà nước phải đầu tư lại để mở rộng sản suất kinh doanh làm cho tài sản thuộc sở hữu Nhà nước ngày càng tăng lên chứ cổ phần hoá không đồng nghĩa với tư nhân hoá. Có chính sách cụ thể tạo điều kiện và khuyến khích người lao động tronh doanh nghiệp mua cổ phần hoặc góp vốn vào doanh nghiệp. Bảo đảm các nguyên tắc công khai đấu thầu, đấu giá trong cổ phần hoá ngăn ngừa việc xâm phạm tài sản Nhà nước. Xác định nhiệm vụ quyền hạn và sự phối hợp giữa các cơ quan thực hiện chức năng quản lý nhà nước và thực hiện vai trò chủ sở hữu của Nhà nước đối với các doanh nghiệp mà nhà nước có góp vốn. 4.2 Mặt tích cực của cổ phần hóa và xu hướng phát triển. a> Cổ phần hoá đã thay đổi phương thức quản lý. Chế độ bình bầu chọn giám đốc, hội đồng quản trị và các chức danh lãnh đạo của doanh nghiệp đã làm cho đội ngũ này có trách nhiệm cao hơn, quyền lợi và trách nhiệm gắn với nhau hơn,việc trả công lao động cũng rất rõ ràng và minh bạch. Vấn đề làm chủ của các cổ đông được phát huy cao độ. b> Tình trạng lãng phí tài sản giảm thiểu. Vấn đề ăn nhậu sa hoa không còn nữa, tiền phong bao cũng không có. Bởi vì thông điều lệ của các công ty quy định rất rõ định mức khoản chi phí, nhất là chi tiếp khách. Người lao động rất phấn khởi,thu nhập ngày một tăng vì vậy tinh thần làm việc hăng say hơn. một không khí sản xuất mới đã được thiết lập. VD: xí nghiệp đá Đồng Giao lỗ lớn trước cổ phần hóa, thì nay thu nhập của bình quân công nhân đạt khoảng 700 ngàn đồng /tháng. ã Tài sản người lao động được đánh giá chính xác hơn vì từ nay. Lâu nay tài sản thuộc các doanh nghiệp nhà nước bị đánh giá thấp, khấu hao trích nộp rất thấp, không đủ bù đắp vốn để tái đầu tư, mở rộng và phát triển sản xuất. Cũng qua đó Nhà nước thu về được một lượng vốn đáng kể. Các chỉ tiêu khác như vốn, nộp ngân sách, việc làm thu nhập bình quân đều có sự tiến bộ đáng kể. Tổng kết 13 doanh nghiệp CPH đến giữa năm 1997, ban chấp hành cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đã có đánh giá như sau: - Vốn bình quân tăng 45% năm. - Doanh thu tăng bình quân 56,9% năm. - Lợi nhuận tăng bình quân 70,2% năm. - Nộp ngân sách tăng bình quân 98% năm. - Việc làm tăng bình quân 46,8% năm. - Thu nhập người lao động tăng bình quân 20% năm. - Tỷ suất lợi nhuận so với doanh thu tăng 14,1% năm. - Tỷ suất lợi nhuận so với vốn tăng 74,6% năm. VD: Đại lý liên hiệp vận chuyển CPH từ năm 1993 với vốn ban đầu là 6,2 tỷ đồng nay đã tăng lên 37,8 tỷ đồng và là đơn vị thừa vốn cho tổng công ty hàng hải vay. Lợi tức so với vốn tăng 150%. Xí nghiệp cơ điện lạnh cũng áp dụng hình thức huy động vốn mới phát hành trái phiếu chuyển đổi bằng đô la Mỹ và huy động trên thị trường vốn quốc tế. Đơn vị đã thành công huy động được 5 triệu USD với lãi suất rất thấp 4,5% năm. Đây là lãi suất thấp nhất so với bất kỳ khoản nào có được tại thời điểm huy động. Mặt khác đi vay ngoại tệ thị trường vốn quốc tế không phải là chuyện dễ; Nhưng trái phiếu này đến tháng 6-1998 trở thành cổ phiếu và đây là lần đầu tiên người nước ngoài có quyền sở hữu doanh nghiệp Việt Nam thông qua cổ phiếu. c> Thu nhập của người lao động qua cổ tức tăng. Chỉ có 2 doanh nghiệp có lợi tức cổ phần(cổ tức) thấp hơn lãi suất tiết kiệm 6-7% năm đó là xí nghiệp giầy Hiệp An và xí nghiệp xe khách Hải Phòng. Hầu hết các doanh nghiệp khác đều có cổ tức cao hơn. Ví dụ: xí nghiệp đá Đồng Giao cổ tức là 1,6% tháng so với 1% gửi ngân hàng giai đoạn 1998. d> Nhờ sự làm ăn khấm khá nên giá cổ phiếu của nhiều công ty đã tăng nhanh. Giá trị cổ phiếu tăng bình quân 2-3 lần. Theo kết quả thăm dò ban đầu thì chỉ tính từ 1-7-1993 đến 30-2-1996(hai năm rưỡi) giá cổ phiếu của đại lý liên hiệp vận chuyển đã tăng đến 7 lần, cổ phiếu của công ty điện lạnh cũng tăng 6,5 lần. Cổ phiếu của khách sạn Sài Gòn (cổ phần hoá từ 1-1-1997) cũng đã tăng 2lần. Tuy rằng đầu tư vào cổ phiếu cũng có tính chất mạo hiểm nhưng nếu chọn đúng doanh nghiệp làm ăn khấm khá thì người đầu tư không những được hưởng quyền lợi về mặt tinh thần như quyền đầu phiếu, quyền ứng cử vào các chức lãnh đạo của công ty mà còn được hưởng phần lãi cổ tức nhìn chung cao hơn lãi gửi ngân hàng và còn được hưởng lãi về giá cổ phiếu khoản này nhiều khi rất lớn. Bởi vậy, nếu có tiền thì chúng ta nên dành để đầu tư mua cổ phiếu các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. 4.3. Những mặt hạn chế trong cổ phần hoá. Tiến trình cổ phần hoá tiến triển chậm: có 5 nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, do quyết tâm của chính phủ chưa cao, cổ phần hoá là chủ trương đúng, song việc điều hành còn yếu nên chưa có tác dụng thúc đẩy cán bộ, nghành, địa phương làm nhanh hơn. một số việc đã được các bộ, nghành đề nghị từ rất lâu nhưng đến nay vẫn chưa được xử lý, dẫu rằng công việc đó trong tầm tay và thuộc chức năng của Chính phủ. Đó là những việc có ý nghĩa mở đường cho việc CPH và trình ban hành Luật hay pháp lệnh về cổ phần hoá, phân loại doanh nghiệp nhà nước. Thứ hai, do quyết tâm của các bộ, tỉnh, thành phố chưa cao. Thể hiện ở việc các địa phương, cơ sở không sốt sắng làm việc hết trách nhiệm được giao. Rõ nhất là việc thành lập và đôn đốc các ban cổ phần hoá đã không được chú ý đúng mức. Mặt khác còn do những nguyên nhân xuất phát từ lợi ích cục bộ, cản trở tiến trình cổ phần hóa. Cán bộ tỉnh, thành phố vẫn muốn có trong tay mình một số doanh nghiệp nhà nước để chi phối. Nếu cổ phần hoá thì không còn đối tượng để chi phối nữa tức là mất quyền, mất lợi ích. Kiểu tư duy đó nhất thiết phải được xoá bỏ. Đương nhiên cổ phần hóa phải theo nguyên tắc tự nguyện; nhưng nếu không có sự tác động mạnh từ phía lãnh đạo, nếu cứ để tình trạng làm được đến đâu hay đến đó thì khó có thể đạt được kế hoạch cổ phần hóa. Thứ ba, do quyết tâm của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, điều thể hiện ngay trong lãnh đạo từng doanh nghiệp có nhiều tâm tư. Thực tế cho thấy nhiều giám đốc, bí thư đảng uỷ đều tỏ ra lo ngại về cổ phần hóa. Tâm lý lo nếu cổ phần hoá thì bản thân có thể bị mất quyền lực, chức tước và lợi ích. Từ đó dẫn đến việc chỉ đạo phối hợp của các cấp uỷ chính quyền, đoàn thể không đồng bộ, không thống nhất. Chính vì vậy cổ phần hoá bị chậm trễ ngay từ khâu xây dựng phương án tại cơ sở. Thứ tư, công tác cổ phần hóa chưa được hưởng ứng rộng rãi từ phía quần chúng lao động. Các ưu đãi khuyến khích mua cổ phiếu hiện mới chỉ dừng lại ở mức các giải pháp mang tính một chiều, xuất phát từ các đánh giá chủ quan từ các ban nghành chưa tính đến các lo lắng thực tế của người lao động, đối với họ cổ phần hóa, nghĩa là để công ty tự xoay sở trước bão táp cạnh tranh. Mua cổ phiếu công ty cũng có nghĩa là bỏ phiếu thuận cho việc xoá bỏ sự bảo trợ của nhà nước dưới mọi hình thức, đồng thời chưa biết lời lãi ra sao đã phải ký nhận nợ về số cổ phiếu sẽ nhận. Nếu doanh nghiệp tiếp tục làm ăn không hiệu quả, nguy cơ mất việc làm sẽ không còn xa, thu nhập dù thấp cũng không được bảo đảm. Trường hợp xấu khi doanh nghiệp bị phá sản, số tiền đã bỏ ra thanh toán cổ phiếu sẽ mất mà gánh nặng nợ về mua cổ phiếu vẫn còn đó. Những mối lo này là có thật. Nhiệm vụ của chúng ta là cần tuyên truyền rộng rãi về tiến trình kết quả, kinh nghiệm cổ phần hoá. Thứ năm, những tồn tại về mặt kỹ thuật, việc xây dựng quy trình cổ phần hoá tuy đã có hướng khi triển khai cơ chế cổ phần hoá song các hướng dẫn của ta còn thiếu thực tế, không bao quát hết các vướng mắc muôn hình muôn vẻ tại cơ sở. Nên khi gặp các trường hợp cụ thể địa phương không biết xử lý thế nào cho đúng. Mặt khác quy trình cổ phần hoá đối với các địa phương cũng còn khá phức tạp nên cũng dễ gây nản chí cho cơ sở. b> Về mặt nhận thức một số bộ và địa phương tổng công ty nhà nước chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa chủ trương cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước do thiếu tính chủ động, kiên quyết trong việc tổ chức triển khai thực hiện. Một số giám đốc doanh nghiệp chưa thật sự nhiệt tình với công tác cổ phần hoá doanh nghiệp của mình, vì họ cho rằng làm giám đốc doanh nghiệp nhà nước thì nhẹ nhàng hơn, trách nhiệm không nặng đồng thời quyền lợi được đảm bảo hơn. c> Công tác tuyên truyền vận động từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước từ trung ương tới địa phương chưa được đẩy mạnh. Việc thực hiện các quy định công khai tài chính của các doanh nghiệp nhà nước chưa thành nền nếp thường xuyên. Các thông tin về kết quả của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá chưa được phổ biến sâu rộng trong nhân dân và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. d> Chưa có thị trường chứng khoán: Tồn tại tài chính của doanh nghiệp nhà nước khi tiến hành cổ phần hoá. Nói chung các doanh nghiệp nhà nước đều có các khoản nợ, trong đó nhiều doanh nghiệp nhà nước có khoản nợ rất lớn, hoặc là do thua lỗ trong sản xuất kinh doanh hoặc là do công tác đầu tư kém phát triển. Do vậy, khi lập phương án chuyển sang cổ phần hoá, việc đưa ra cách giải quyết phù hợp nhất để xử lý các món nợ cho các doanh nghiệp nhà nước thường vấp phải những vấn đề rất nan giải là phải làm trong sạch tình hình tài chính, nghĩa là phải định hướng thanh toán công nợ. Bên cạnh đó xung quanh phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nhà nước chuyển sang cổ phần hoá cũng thường gây ra tranh cãi kéo dài. Thị trường vốn chưa phát triển, chưa hình thành thị trường chứng khoán nên chưa có phương thức thích hợp để giao dịch cổ phiếu và từ đó chưa tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy cổ phần hoá. 4.4. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình cải cách. * Lập kế hoạch phân nhóm để từng bước cổ phần hoá: Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI,VII,VIII của Đảng và Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, Đảng ,Chính phủ đã chỉ đạo thực hiện 3 đợt sắp xếp lớn các doanh nghiệp nhà nước 1990-1993; 1994-1997 và từ giữa năm 1998 cho đến nay.Quá trình đổi mới sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước(chủ yếu là đợt 3) được triển khai theo các nội dung sau: Một là, đổi mới cơ chế chính sách: doanh nghiệp nhà nước tự chủ, tự chịu trách nhiệm, thực sự hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, đổi mới cả về kế hoạch về tài chínhvề tổ chức bộ máy cán bộ, và đổi mới quản lý nhà nước theo hướng xoá bỏ chế độ chủ quản của các cơ quan hành chính đối với các doanh nghiệp nhà nước. Hai là, sát nhập, giải thể, cho phá sản doanh nghiệp nhà nước yếu kém, thua lỗ kéo dài mà Nhà nước không cần nắm giữ. Qua đợt 3, doanh nghiệp nhà nước đã giảm đi từ 12.300 doanh nghiệp còn 5.571(giảm 55% về số lượng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ do địa phương quản lý). Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước bước đầu được điều chỉnh hợp lý, có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn, hình thành và phát triển một số doanh nghiệp mới có trình độ công nhgệ cao và có sức cạnh tranh. Số doanh nghiệp có vốn dưới 1tỷ đồng giảm từ 50% năm 1994 xuống còn 26% năm 1999; số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ đồng tương ứng từ 10% lên 20%; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 21 tỷ đồng. Trong qúa trình sắp xếp lại các doanh nghiệp. Nhà nước đã giải quyết trợ cấp thôi việc một lần cho 72 vạn lao động. Ba là, tổ chức củng cố và phát triển các công ty nhà nước nhằm tập trung nguồn lực nhà nước vào các nghành then chốt mà nhà nước cần chi phối... Thời gian qua đã sắp xếp hơn 250 liên hiệp xí nghiệp và tổng công ty. Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập 17 tổng công ty 91 và uỷ quyền cho các bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý 77 công ty 90. Các tổng công ty nhà nước(TCTNN) có 1534 doanh nghiệp thành viên hạch toán độc lập, chiếm 8,8 % số lượng doanh nghiệp nhà nước, 35% lao động. Nhìn chung, các TCTNN đã chi phối được các nghành, các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và trở thành công cụ quan trọng để nhà nước điều tiết, quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bảo đảm các cân đối của nền kinh tế, cácTCTNN đã bảo toàn và tích tụ được vốn ngày càng tăng, huy động nhiều nguồn lực đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, hiệu quả và sức cạnh tranh (năm 1999, riêng 17 tổng công ty 91 đã bổ sung thêm nguồn vốn 15.850 tỉ đồng, chiếm 22,5% tổng số vốn doanh thu tăng 12%,lưọi nhuận 23% , nộp ngân sách nha nước tăng 29%). Bốn là, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Đến ngày 15/8/2000 cả nước cổ phần hoá được 369 bộ phận doanh nghiệp với tổng số vốn là 1920 tỉ đồng(tăng 12% so với trước khi cổ phần), bằng 1,6% tổng số vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước. Nhìn chung, các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách nhà nước, số lượng công nhân viên của các doanh nghiệp cổ phần hoá đều tăng so với trước. Cùng với quá trình cổ phần hoá Đảng, Chính phủ chủ trương để một số doanh nghiệp nhà nước đầu tư một phần vốn để lập công ty cổ phần mới.Đến ngày 15-8-2000, doanh nghiệp nhà nước đã đầu tư vốn thành lập 279 công ty(96,4%) có lãi, 12 công ty còn lại (3,6%) hoà vốn. Năm là, thực hiện giao, bán, và khoán kinh doanh, cho thuê những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ, thua lỗ kéo dài để sử dụng có hiệu quả tài sản Nhà nước, bảo đảm có việc làm, thu nhập của người lao động. Trong việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Trước hết là phân loại doanh nghiệp nhà nước đang hoạt động sản xuất kinh doanh mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để tiến hành cổ phần hoá theo các hướng Nhà nước có cổ phần chi phối, có cổ phần đặc biệt, chỉ giữ cổ phần thấp hoặc không cần giữ cổ phần. Thứ hai, cần sửa đổi cơ chế bán cổ phần nhằm tạo động lực cho quá trình cổ phần hoá. Trong quá trình cổ phần hoá cần khắc phục hai khuynh hướng: một là, biến quá trình cổ phần hóa thành quá trình tư nhân hoá, hai là trì trệ không chịu cổ phần hoá vì sợ bị mất vị trí quản lý, thứ ba cần đổi mới phương thức quản lý, phương thức hoạt động của các doanh nghiệp đã cổ phần hoá nhằm phát huy vai trò năng động sáng tạo của doanh nghiệp, trong đó cần nghiên cứu đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức Đảng trong mỗi loại hình doanh nghiệp. b> Đánh giá hiệu quả hoạt động bằng hạch toán kinh tế. Hạch toán kinh tế là một phương pháp quan trọng để nghiên cứu và phản ánh các hoạt động kinh tế tài chính của tất cả các doanh nghiệp nó bao gồm nguyên tắc xác định giá trị của doanh nghiệp, kết quả hoạt động... Giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua, người bán cổ phần đều chấp nhận được. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp là giá trị thực tế của doanh nghiệp sau khi trừ đi các khoản nợ phải trả. Các yếu tố xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp gồm số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp CPH, hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm CPH. Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp CPH về địa lý, uy tín mặt hàng(thể hiện ở tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh bình quân 3 năm trước khi cổ phần hoá) được tính tối đa 30% vào giá trị thực tế của doanh nghiệp. Việc xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp không nhất thiết phải thuê kiểm toán độc lập. Doanh nghiệp CPH được hưởng ưu đãi theo Luật khuyến khích đầu tư trong nước sửa đổi( Nếu không đủ điều kiện thì được giảm 50% thuế lợi tức trong 2 năm liên tiếp từ khi hoạt động theo Luật công ty) được miễn lợi phí trước bạ khi chuyển sang sở hữu công ty cổ phần, được tiếp tục vay vốn theo cơ chế và lãi suất như đã áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, được tiếp tục xuất nhập khẩu hàng hoá. Trước khi cổ phần hóa được chủ động sử dụng các số dư quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi( bằng tiền) chia cho người lao động đang làm việc để mua cổ phần(phần hiện vật được tiếp tụ duy trì và phát triển thuộc sở hữu tập thể người lao động). Các số liệu tổng hợp trong hoạt động của doanh nghiệp sau một kỳ kế toán sẽ được phân tích xử lý và đưa ra kết quả cuối cùng về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp và thực tế các doanh nghiệp cổ phần thông qua phân tích hạch toán kinh tế cho thấy tất cả các chỉ số như vốn, tỷ suất lợi nhuận, tiền lương cho công nhân viên, nộp ngân sách Nhà nước đều tăng đáng kể, chỉ trừ một số ít các công ty cổ phần là hoà vốn. VD: Các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa hoạt động hiệu quả hơn. Vốn điều lệ(kể cả vốn của Nhà nước đều tăng bình quân 19,06% năm, doanh thu tăng bình quân 46% năm, lợi nhuận tăng bình quân 44% năm. Các khoản nộp ngân sách tăng bình quân 82% năm, tỷ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu gồm vốn ban đầu và vốn tích luỹ là 44%...). III. Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 1. Một số quan điểm cơ bản để thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. 1.1. Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Trong quyết định số 202/CP của chủ tịch HĐBT(nay là Thủ tướng Chính phủ) mục tiêu cổ phần hoá được xác định như sau: Chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành sở hữu các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Huy động một khối lượng vốn nhất định ở trong và ngoài nước để đầu tư sản xuất kinh doanh. Tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp. Trong chỉ thị số 88TTg của Thủ tướng Chính phủ nhấn mạnh: phải chú trọng mục tiêu chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu các cổ đông, tạo ra sự thay đổi căn bản về phương thức quản lý để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Một trong những vấn đề cơ bản trong chiến lược đổi mới là giảm một cách hợp lý khu vực kinh tế nhà nước và CPH là một trong những biện pháp thực hiện sự cắt giảm này. Tóm lại mục tiêu cổ phần hoá là cơ cấu lại các thành phần kinh tế, thu hẹp một cách hợp lý khu vực kinh tế nhà nước, mở rộng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, cần phải nói thêm rằng thu hẹp khu vực kinh tế nhà nước có thể thực hiện bằng nhiều cách. Mục tiêu cổ phần hoá không chỉ bó hẹp trong việc chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần mà còn là một chủ trương quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cổ phần hóa không có nghĩa là Nhà nước trút bớt gánh nặng về quản lý và bù lỗ sang các chủ sở hữu khác. CPH được thực hiện dựa trên luận điểm khẳng định rằng những doanh nghiệp đó sẽ hoạt động hiệu quả hơn khi thay đổi hình thức sở hữu, khi hoạt động ngoài quốc doanh. Khu vực kinh tế này không phải là cái gì định sẵn, bất biến mà chịu tác động điều tiết rất lớn của Nhà nước. Nếu chúng ta không tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực này phát triển thì mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất trong cổ phần hoá là không thể thực hiện được và việc chấp nhận CPH ở một doanh nghiệp nào đó sẽ không phải vì kinh doanh lâu dài mà vì một lợi ích nào đó ngay trong việc mua bán chuyển đổi sở hữu và cũng vì thế mà mục tiêu thúc đẩy sự nghiệp CNH – HĐH đất nước khó có thể thực hiện một cách triệt để. 1.2. Điều kiện cơ bản của cổ phần hoá. Các cổ đông là các nhà đầu tư: Để đầu tư họ cần biết và tin tưởng rằng doanh nghiệp mà họ góp vốn sẽ hoạt động có hiệu quả. Nói cách khác điều kiện cơ bản của cổ phần hoá là tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động của các công ty cổ phần nói chung, cho các doanh nghiệp tư nhân nói riêng. Để cổ phần hoá và phát triển, các công ty cổ phần phải có nguồn vốn, dân chúng phải có tiền, các doanh nghiệp tư nhân kinh doanh nhỏ phải được phát triển. Mặt khác từ tiết kiện đến đầu tư dưới hình thức cổ phiếu là cả một khoảng thời gian dài cần vượt qua. Hiện nay tiền vốn được sử nhiều vào việc xây dựng nhà cửa đầu tư vài bất động sản, kinh doanh trong những lĩnh vực vốn quay vòng nhanh, dễ tránh sự kiểm tra giám sát... Các nhà đầu tư chưa với đến các công ty cổ phần. Cung về vốn luôn đi liền với cầu về vốn. Nhu cầu về vốn rất đa dạng. Có người cần vốn đến gõ cửa các cơ quan cấp trên, đến ngân hàng, hoặc đến người khác để vay... Nhu cầu về vốn với chi phí rẻ, ít bị kiểm soát hoặc có vốn sử dụng mạo hiểm... đều không thể dẫn đến mua bán chứng khoán. Chúng ta cần một nhu cầu vốn để kinh doanh lành mạnh, có hiệu quả lâu dài, đáp ứng được những đòi hỏi của người cấp vốn. Do vậy phải có đội ngũ kinh doanh giỏi những người có khả năng sử dụng vốn có hiệu quả, thoả mãn đồn thời lợi ích của họ và lợi ích của cổ đông. Nếu thiếu đội ngũ này sẽ không có các công ty cổ phần, sẽ không có người mua cổ phiếu và cổ phần hoá sẽ thất bại. Khi bắt đầu công việc đổi mới chúng ta phải khẳng định tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Nhưng cho đến nay, trên thực tế vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết. Các nhà đầu tư tư nhân, một mặt lợi dụng sự non yếu của luật pháp, mặt khác vẫn còn lo ngại nhiều điều nhiều doanh nghiệp tư nhân vẫn ngầm thực hiện phương châm:”làm miếng nào xào miếng ấy”, “chia hết ăn sạch” Thiếu yên tâm lâu dài vẫn còn lo “được vỗ béo để ăn thịt” Qua phân tích trên, có thể thấy, điều kiện cơ bản để cổ phần hoá là một môi trường phát triển thuận lợi cho các doanh nghiệp cổ phần hoá nói riêng, cho khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nói chung. Việc tạo lập môi trường này cũng có nghĩa là tháo gỡ trực tiếp hoặc gián tiếp những vướng mắc của cổ phần hoá. Tóm lại, cổ phần hoá không phải là biện pháp kinh tế riêng rẽ, cần hiểu và thực hiện nó trong một chiến lược chung là phát triển nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần và có định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.3. Quan điểm đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Theo tin từ ban cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thì chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá 150 doanh nghiệp nhà nước năm 1998 trong đó Hà Nội đã có kế hoạch cổ phần hoá 20 doanh nghiệp. Trong chủ trương cũng đã có những đổi mới; trừ một số doanh nghiệp lớn và một số doanh nghiệp công ích nhà nước sẽ quản lý, ngoài ra đối với doanh nghiệp khác không chỉ CPH những doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà tất cả các doanh nghiệp đều thuộc diện cổ phần hoá, không phụ thuộc vào quy mô của chúng. Nhà nước cũng đã có chủ trương phân loại các doanh nghiệp nhà nước vào 4 nhóm: - Làm ăn có hiệu quả(có lãi). - Có khó khăn về tài chính. - Có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất cao. - Thua lỗ kéo dài(3 năm trở lên). Ba nhóm kể trước đều thuộc diện cổ phần hoá. Đối với nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sau: + Sát nhập với đơn vị kinh tế khác để cổ phần hoá. + Đấu thầu. + Cho thuê. + Bán cho cán bộ và công nhân viên trong và ngoài doanh nghiệp . + Thực hiện biện pháp khác. + Cho phá sản. Đối với doanh nghiệp nhỏ có vốn dưới 1 tỷ đồng, Nhà nước sẽ có chủ trương thực hiện các biện pháp đấu thầu, cho thuê, bán cho công nhân viên (nhưng chỉ bán cho tập thể từ 7 người trở lên). Khoán cho công nhân viên hoặc một số người và Nhà nước chỉ cho thuê, khấu hao. Hiện nay còn khoảng 6000 doanh nghiệp nhà nước trong đó có nhiều DN nhỏ(vốn dưới 1 tỷ đồng) dự kiến sau các biện pháp sắp xếp lại, CPH sẽ còn lại khoảng 2000 doanh nghiệp. 2. Giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 2.1. Hoàn thiện và bổ sung các chính sách các thể chế về cổ phần hoá. Để đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới cần triển khai một số công việc sau: Nhằm khắc phục tình trạng chậm trễ trong việc tiến hành công tác cổ phần hoá. Thủ tướng chính phủ vừa mới ban hành Nghị định số 44/ TTg ngày 29-6-1998, trong đó đã xác định cụ thể hơn phạm vi cổ phần hóa, sửa đổi về chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động của doanh nghiệp cổ phần hoá, đơn giản hoá các thủ tục quy trình và trách nhiệm quản lý phần vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá. Công việc trước hết là phải tổ chức tuyên truyền sâu rộng và giải thích cho người lao động trong các doanh nghiệp và toàn xã hội hiểu và nhận thức đúng về nội dung của Nghị định để họ quan tâm và tích cực hưởng ứng. Trước hết cần làm cho cán bộ công nhân các doanh nghiệp, các cấp các nghành và trong nhân dân quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản trong chủ trương , chính sách của Đảng và Nhà nước về cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp nhà nước: cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước không phải là quá trình tư nhân hoá mà là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp có một chủ sở hữu thành doanh nghiệp đa chủ sở hữu. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là biện pháp hữu hiệu để cơ cấu lại doanh nghiệp, từ đó lợi ích của các cổ đông, lợi ích của người lao động trong doanh nghiệp, lợi ích của Nhà nước, lợi ích của xã hội mới được đảm bảo bền vững, xác định rõ nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của chính quyền các cấp, của lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước trong việc thực hiện cổ phần hoá. Kiện toàn bộ máy tổ chức Ban đổi mới doanh nghiệp các bộ, nghành, UBND các tỉnh, thành phố, đảm bảo huy động đủ các điều kiện, lực lượng cán bộ để tiến hành công tác sắp xếp, cổ phần hóa. Tập trung thực hiện kế hoạch cổ phần hoá năm 1998. Chính phủ đã ban hành Quyết định số 140/TTg ngày 1-8-1998, phê duyệt danh sách các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá năm 1998 gồm 178 doanh nghiệp của 7 bộ, 11 tổng công ty nhà nước và 18 tỉnh thành phố. Chúng ta phải kiên quyết thực hiện bằng được kế hoạch, mục tiêu cổ phần hoá năm 1998, trên cơ sở thận trọng vững chắc, tạo tiền đề quan trọng vững chắc để thực hiện thành công quá trình cổ phần hoá một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước mà chúng ta phải dự kiến hoàn thành cho những năm tới. Tập trung chỉ đạo các bộ nghành trọng điểm như Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ thuỷ sản, Bộ giao thông vận tải và thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, các tổng công ty nhà nước có nhiều doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá. Công tác chỉ đạo phải thống nhất từ trên xuống dưới. Các vấn đề nảy sinh trong quá trình cổ phần hoá phải được xử lý triệt để theo trách nhiệm, quyền hạn được phân công. 2.2. Những vấn đề về chính sách đối với người lao động trong công ty cổ phần. Người lao động trong công ty cổ phần được hưởng ưu đãi sau: Được bán cổ phần với giá ưu đãi giảm 30% tuỳ theo năm làm việc cho Nhà nước(1 năm được mua tối đa 10 cổ phần). Tổng giá trị ưu đãi cho người lao động không quá 20% giá trị vốn Nhà nước tại doanh nghiệp(nếu là vốn tích luỹ chiếm 40% giá trị doanh nghiệp trở lên thì không quá 30%). Người lao động sở hữu cổ phần hoá có quyền chuyển nhượng, để thừa kế và có các quyền khác của cổ đông. Người lao động nghèo còn được hoàn trả tiền mua cổ phần trong 3 năm đầu để hưởng cổ tức, và trả dần tối đa không quá 10 năm, không phải chịu lãi suất số cổ phần mua trả dần không vượt quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi. Người sở hữu cổ phần không được quyền chuyển nhượng khi chưa trả hết tiền Nhà nước. Người lao động bị mất việc sau 12 tháng từ khi doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần thì được giải quyết theo chế độ hiện hành của chính phủ. 2.3. Một số vướng mắc và tồn tại trong kỹ thuật cổ phần hoá cần giải quyết. a> Việc xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá. Giá trị nhà cửa vật kiến trúc, theo quy định được đánh giá tỷ lệ sử dụng còn lại với đơn giá xây dựng theo quyết địnhcủa UBND địa phương. Tuy nhiên các doanh nghiệp đã gặp khó khăn khi đánh giá vì mang tính quy phạm kỹ thuật kiến trúc xây dựng. Đối với nhà cửa là hàng hoá của công ty kinh doanh nhà ở thì có tính áp dụng cách định giá trị như nhà cửa là tài sản cố định của doanh nghiệp hay không? Phần giá trị đất thì không tính vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa, chỉ tính tiền đền bù hoa màu khai hoang. Tuy nhiên sẽ tính thế nào đối với doanh nghiệp được hưởng cơ ngơi có sẵn, hoặc được giao đất theo chức năng kinh doanh địa ốc. Việc xác định giá trị của bí quyết công nghệ sản xuất của doanh nghiệp sẽ tính theo phương pháp nào? Phần tài sản được đem góp vốn liên doanh, trường hợp góp bằng quyền sử dụng đất, hoặc thuê đất để góp vốn liên doanh sẽ tính như thế nào? Định giá trị phần vốn góp của tư nhân, hoặc cán bộ công nhân viên trước đây cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, để quy thành cổ phần cho họ tiếp tục làm cổ đông, nếu mỗi người vượt quá quy định 5% giá trị doanh nghiệp thì xử lý ra sao? Giá trị lợi thế được hướng dẫn tính nhân giá trị doanh nghiệp chưa có lợi thế với hệ số chênh lệch giữa bình quân tỷ suất lợi nhuận sau thuế lợi tức trên vốn kinh doanh 3 năm liền trước khi cổ phần hóa của doanh nghiệp so với của các doanh nghiệp khác cùng nghành nghề. Tuy nhiên, hệ số ấy là trên vốn tương ứng tài sản doanh nghiệp chưa đánh giá lại, nhân với giá trị doanh nghiệp đã đánh giá lại chưa có lợi thế thì không được hợp lý. b> Về quy định cổ phần hoá. Tuy chỉ phân 4 bước cho quy trình(theo quyết định 01/CPH ngày 4-9-1996 của ban chỉ đạo TƯ Cổ phần hoá). Nhưng rất nhiều công đoạn và trình tự kèm theo thủ tục chẳng hạn định giá trị doanh nghiệp phải qua ít nhất 3 công đoạn 1) kiểm toán giám định giá trị theo sổ sách. 2) doanh nghiệp kiểm kê đánh giá. 3)thẩm tra lại bởi cấp thẩm quyền; tốn nhiều thời gian nhưng vẫn là giá trị của phía người bán(Nhà nước) vẫn chưa phải là “giá trị thực tế của doanh nghiệp mà người bán và người mua cổ phần đều chấp nhận được”. c> Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Còn tình trạng hạn chế tiêu chuẩn và mức cho hưởng cổ tức trên số cổ phần thuộc sở hữu Nhà nước, vì chỉ có những người có thâm niên từ 3 năm trở lên mới được hưởng, mức hưởng cũng không đáng kể (chỉ có 6 tháng lương cấp bậc). Còn tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần cho người lao động vì chỉ những người có thâm niên từ 3 năm trở lên. Trong quy định là tổng mức mua chịu không vượt quá tỏng mức mua tiền mặt nhưng không rõ trong từng người có thể mua chịu nhiều hơn không, và những ai không mua tiền mặt thì có được mua chịu hay không? Có tình trạng về sự cách biệt về số lượng mua cổ phần, giữa công nhân và cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp, thực ra là giữa những người có nhiều tiền với người có ít tiền mua cổ phần và họ đã được tiêu chuẩn mua tiền mặt, nhiều thì có quyền mua nhiều, do quy định không rõ đã nêu ở trên. Ngoài ra, tại các doanh nghiệp nhà nước, cổ phần hóa vấn đề gây nhiều thắc mắc là việc trả trợ cấp thôi việc sẽ cụ thể do đơn vị nào chịu trách nhiệm và có tiếp tục giải quyêt chính sách ưu đãi đối với lượng lao động tăng giảm trong doanh nghiệp sau khi đã cổ phần hoá hay không? d> Về một số vấn đề khác: Thời gian quá còn có tình trạng không thống nhất về thời kiểm toán, thời điểm định giá trị doanh nghiệp và thời điểm thẩm tra giá trị doanh nghiệp vì nếu cứ kéo lùi các công đoạn sau về đúng thời điểm đã kiểm toán thì giá trị doanh nghiệp không thể xác hợp tại thời điểm cổ phần hoá, hơn nữa sẽ tạo nên khối lượng phức tạp do việc duyệt quyết toán và việc giải quyết, với ngân sách đối với vốn liếng tài sản công nợ của doanh nghiệp trong thời gian giữa thời điểm công nhận giá trị doanh nghiệp với thời điểm chuyển thể doanh nghiệp thành công ty cổ phần. Do đó những doanh nghiệp nhanh chóng hợp đồng mời công ty kiểm toán, ra biên bản xong, nhưng vì vướng mắc một số kỹ thuật phương án phải kéo dài thời gian, đã được yêu cầu kiểm toán và định giá trị doanh nghiệp lại vừa tốn kếm vừa mất công sức. Cần xem xét lại tính cần thiết của công đoạn kiểm toản trong quá trình phù hợp với phạm vi đối tượng bán cổ phần, và đối với doanh nghiệp có quy mô vốn nhỏ(dưới 5 tỷ) vì: + Phí cho dịch vụ kiểm toán còn khá cao. + Thời gian kiểm toán khá dài. + Địa phương không có công ty kiểm toán sẽ phải làm sao? Việc phân cấp thẩm quyền với mức vốn 10 tỷ đồng hiện nay chưa được xác định rõ ràng và thống nhất xuyên suốt giữa các cơ quan thẩm quyền của Trung ương va thành phố trực thuộc Trung ương là mức vốn thuộc sở hữu Nhà nước khi chưa được định giá lại hay sau khi đã được xác định giá trị doanh nghiệp, bao gồm các nguồn nào? Thiếu hướng dẫn các tiêu thức cụ thể và phương ná tính toán cho kế hoạch kinh doanh đối với phần luận chứng nhu cầu tăng vốn hoặc giữ nguyên quy mô giá trị hiện hữu mà chỉ chuyển đổi cơ cấu sở hữu, nên phần lớn các doanh nghiệp đều lúng túng, nhất là trong tình hình kế hoạch đang khó khăn. 2.4. Kiến nghị - phương pháp giải quyết những tồn tại và vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá. a> Về xác định giá trị doanh nghiệp trước khi cổ phần hóa. Đối với công đoạn kiểm toán trong quy trình tuỳ theo mục tiêu và phạm vi đối tượng được mua cổ phần, có thể đối với các doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 5 tỷ đề nghị không nhất thiết phải kiểm toán, trừ những doanh nghiệp chỉ cổ phần hóa một bộ phận hoặc đối với doanh nghiệp đặc biệt cần thiết phải kiểm toán. Đề nghị thống nhất về thời điểm kiểm toán, thời điểm định giá trị doanh nghiệp và thời điểm thẩm tra giá trị doanh nghiệp. Đề nghị xác định rõ ràng và thống nhất xuyên suốt việc phan cấp thẩm quyền trên mức vốn 10 tỷ đồng hiện nay là mức vốn thuộc sở hữu Nhà nước chưa đước định giá lại (bao gồm ngân sách cấp và các khoản có nguồn gốc ngân sách) theo sổ sách quyết toán của doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá. Đồng thời, có thể mạnh dạn phân cấp thêm cho việc quyết định công nhận giá trị doanh nghiệp tại thời điểm trước khi cổ phần hóa không nhất thiết phải tập trung về bộ tài chính ra quyết định như hiện nay. Cụ thể thêm các tiêu thức và phương án tính toán để bổ sung cho việc tính giá trị lợi thế thương mại của doanh nghiệp. b> Về chính sách ưu đãi cho người lao động tại doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá. Để tạo điều kiện cho người lao động tham gia mua cổ phần, không để có sự chênh lệch quá lớn giữa lãnh đạo doanh nghiệp và người lao động, đồng thời có thể hỗ trợ cho những người lao động nghèo có thể mua được một số cổ phần cần thiết nhằm tạo động cho người lao động trong doanh nghiệp. Đề nghị thay đổi và điều chỉnh bổ sung những ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hóa như sau: Khắc phục tình trạng hạn chế mức mua chịu cổ phần, có lưu ý đến tình trạng cách biệt về số lượng mua cổ phần giữa công nhân và cán bộ lãnh đạo trong doanh nghiệp. Ngoài những đề nghị trước mắt trên đây đối với chính sách ưu đãi cho người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa, việc tiếp tục giải quyết chính sách tương tự đối với lượng lao động tăng giảm trong doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá (lúc doanh nghiệp đã là công ty cổ phần rồi) cũng là vấn đề cần được nghiên cứu thêm và phải có thời gian thực tế thử nghiệm c> Về một số vấn đề khác. Nên có hướng dẫn cơ bản cho việc luận chứng nhu cầu tăng vốn và kế hoạch sản xuất kinh doanh trong tương lai. Đối với số tiền hiện nay đang còn nằm tại kho bạc, do bán cổ phần, hoàn vốn ngân sách, vì giảm tỷ lệ cơ cấu phần sở hữu Nhà nước tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa, đề nghị Bộ tài chính hướng dẫn phương thức và thủ tục được sử dụng vào mục tiêu đầu tư đổi mới công nghệ, ưu tiên đầu tư cho các doanh nghiệp cổ phần hóa, và để thành lập các doanh nghiệp nhà nước mới hoặc các doanh nghiệp nhà nước còn giữ lại trong các lĩnh vực trọng yếu đã được xác định. Phần C : Lời kết Trong tình hình hiện nay ở nước ta vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được đặt ra một cách cơ bản và cấp bách đối với lý luận và thực tiễn đổi mới khu vực kinh tế nhà nước và chuyển nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường có sự định hướng của Nhà nước. Sự trình bày khái quát trên đây về những vấn đề cơ bản của cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với mục đích góp một phần nhỏ trong việc xây dựng quan điểm chỉ đạo cho công cuộc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đang được Chính phủ tiến hành trong những năm qua. Tuy nhiên, do việc cổ phần hoá doanh nghiệp ở nước ta đang trong giai đoạn thí điểm nên thiết nghĩ còn nhiều vấn đề phải được các cấp , các nghành nghiên cứu sâu thêm để góp phần vào việc thúc đẩy quá trình cổ phần hoá trên thực tế đạt được kết quả mong muốn./. Danh mục tài liệu tham khảo Đỗ Bình Trọng – Một số suy nghĩ về cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – Tạp chí nghiên cứu Kinh Tế số 11-1998. Giáo trình Kinh Tế Chính Trị tập I, II - trường Đại Học KTQD Giáo trình Hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp - trường Đại Học KTQD. Ngô Xuân Lộc - Cổ phần hóa một yêu cầu bức thiết của cải cách doanh nghiệp nhà nước - tạp chí cộng sản số 17, tháng 9- 1998. Tào Hữu Phùng - Cổ phần hoá nhiệm vụ quan trọng và bức bách - Tạp chí cộng sản số 13, tháng 7-1998. Tôn Tích Quỳ - Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước sau 3 năm nhìn lại - tạp chí nghiên cứu kinh tế số 239, tháng 4-1998. Trịnh Đức Hồng - Đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Tạp chí cộng sản số 18, tháng 9 - 2001. Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX. Một số tài liệu tham khảo khác. Trường đại học kinh tế quốc dân Khoa: kinh tế - quản lý môi trường & đô thị đề án kinh tế chính trị đề tài: cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam Họ và tên: Hoàng Hữu Hạnh Thầy hướng dẫn : Mai Hữu Thực Lớp: KTMT- 42 Mục lục Phần A : Lời nói đầu Phần B: Nội dung I. Sự cần thiết cổ phần hoá một bộ doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Thực chất của cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Khái niệm 1.2. Sở hữu tư nhân và quá trình xã hội hoá sản xuất. 1.3. Cổ phần hoá, hình thức sở hữu doanh nghiệp đã chuyển đổi từ sở hữu nhà nước duy nhất sang sở hữu hỗn hợp. 1.4. Công ty cổ phần- mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Thực trạng doanh nghiệp nhà nước. Sự hoạt động kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một yêu cầu bức thiết. II. Thực trạng cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua. 1. Tiến trình cổ phần hoá. Từng bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước. Sự hoạt động có hiệu quả doanh nghiệp có 100% vốn là cổ phần. Tổng kết quả đạt được và mở rộng quy mô cổ phần hóa. Những điểm mới của nghị định 44/CP của chính phủ chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Những nguyên nhân thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước- kết quả và hạn chế. Một số kinh nghiệm trong cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong những năm qua. Mặt tích cực của cổ phần hoá và xu hướng phát triển. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong tiến trình cải cách. III. Quan điểm và giải pháp đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Một số quan điểm cơ bản để thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay. 1.1.Mục tiêu cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 1.2.Điều kiện cơ bản của cổ phần hoá. Quan điểm đẩy mạnh cổ phần hoá. Giải pháp đẩy mạnh ccổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. 2.1.Hoàn thiện và bổ xung các chính sách, các thể chế về cổ phần hoá. 2.2. Những vấn đề về công tác tư tưởng đối với nhân dân, cán bộ công nhân viên. Một số vướng mắc và tồn tại trong kỹ thuật cổ phần hoá cần giải quyết. Kiến nghị và phương pháp giải quyết những tồn tại và vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá. Phần C: kết luận Danh mục tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33681.doc
Tài liệu liên quan