Với việc áp dụng quan điểm phát triển vào công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có một nền kinh tế thị trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa,với những thành tựu hết sức to lớn. Nhưng bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đất ta vẫn còn chậm phát triển so với các nước khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lí để cải thiện tình tình hình đặc biệt chú trọng đêns sự vận dụng đến sự sáng tạo để có được một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được những sai lầm như nền kinh tế thị trường của các quốc gia khác. Từng bước thực hiện các giải pháp đã đề ra, Việt nam sẽ có thêm tự tin trong thế kỉ 21 vượt qua những thách thức mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp trong tương lai không xa.
28 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nó trong công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam như thế nào. Ơ đây tôi xin được trình bày dưới hai chương viết với mục đích : chương đầu làm cơ sở lý luận ,làm tiền đề cho chương sau nghiên cứu hiên trạng kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới coi như là cơ sở thực tế của đề tài.
Chương 1. Quan điểm phát triển
1.Sự phát triển và nguồn gốc của nó theo quan điểm triết học.
1.1.Các khái niệm
a)vận động
Mọi sự vật đều có quá trình hình thành tồn tại và biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác. sự biến đổi chuyển hoá này là vô cùng,vô tận với những khuynh hướng và tính chất khác nhau. Có những biến đổi làm cho sự vật hiện tượng mới ra đời,nhưng cũng có những biến đổi dẫn đến sự tan rã tiêu vong của các vật thể vật chất,hoặc cái lạc hậu thay thế cái tiến bộ v.v…Khái niệm vận động khái quát mọi sự biến đổi biến hoá nói chung,dù nó có tính chất,khuynh hướng và kết quả thế nào.
b)phát triển
Khái niệm phát triển không bao quát mọi sự vận động nói chung. Nó chỉ khái quát xu hướng chung của vận động, xu hướng vận động đi lên,cái mới ra đời thay thế cái cũ. Sự vận động đi lên có thể diễn ra theo các chiều hướng,từ thấp đến cao,từ đơn giản đến phức tạp,từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Tuỳ theo các lĩnh vực khác nhau của thế giới vật chất và sự phát triển thể hiện khác nhau.
1.2.Quan điểm phát triển.
Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật chỉ cho chúng ta: muốn thực sự nắm được bản chất sự vật và hiện tượng, nắm được khuynh hướng vận động của chúng phải có quan điểm phát triển. Quan điểm này yêu cầu khi phân tích sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phải phát hiện các xu hướng biến đổi chuyển hoá của chúng, khắc phục tư tưởng bảo thủ trì trệ. Sự phát triển chỉ bộc lộ ra khi ta so sánh các hình thức tồn tại của sự vât ở những thời điểm khác nhau trên trục quá khứ – hiện tại – tương lai. Như ta đã biết vận động đi lên sẽ là khuynh hướng thống trị (xét trên phạm vi lớn ). Và phát triển không phải là vận động theo đường thẳng mà chỉ là xu hướng vận động tiến lên. xoay quanh xu hướng đó, sự vận động có thể diễn ra theo các véc tơ ngược chiều nhau, đó chính là sự thống nhất biện chứng giữa biến cố tất nhiên – tính xu hướng của vận động trong quá trình với biến cố ngẫu nhiên – tính vô định hướng của vận động tại một thời điểm. Mặc dù tại mỗi thời điểm vân động có thể là vô định song ta có thể mô hình hoá tính đa dạng của véc tơ vô định ấy vào ba nhóm: vận động tiến hoá, vận động cân bằng, vận động thoái hoá (ngược với xu hướng tiến hoá). Quan điểm như thế cho phép ta hình dung sự phát triển là xu hướng tự vạch đường đi xuyên qua muôn vàn sự tiến bộ đào thải và loại bỏ.
.2 Nguồn gốc của sự phát triển
Lê- nin có viết:”phát triển là một cuộc ‘đấu tranh ’giữa các mặt đối lập”. Qua đó ta có thể thấy rằng nguồn gốc của sự phát triển đó là sự đấu tranh giữa các mặt đối lập. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng,mọi sự vật và hiện tượng trên thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong . Mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất của các mặt,của các thuộc tính,các khuynh hướng đối lập nhau. Những mặt này đối lập với nhau nhưng lại ràng buộc với nhau tạo thành mâu thuẫn.
Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà ,còn là một hiện tượng phổ biến. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong giới tự nhiên,đời sống xá hội và tư duy của con người. Chẳng những mâu thuẫn tồn tại phổ biến ở mọi sự vật hiện tượng mà tồn tại trong suốt quá trình phát triển của chúng . Không có sự vật hiện tượng,nào lại không có mâu thuẫn và không có giai đoan nào trong sự phát triển của mỗi sự vật,hiện tượng lại không có mâu thuẫn. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác hình thành. Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt,những thuộc tính, những khuynh hướng …trái ngược nhau trong mọt chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng. Mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập,mặt đối lập nào nằm trong một chỉnh thể có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Sự thống nhất của các mặt đối lập ,đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn , bài trừ lẫn nhau,đối lập,trong tất cả các hiện tượng và quá trình của giới tự nhiên kể cả tinh thần xã hội. Theo quan điểm của phép biện chứng ,sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó,vừa là cái khác với bản thân nó. Trong sự thống nhất đã bao hàm sự khác nhau sự đối lập. Trong mỗi mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh giữa chúng. Bởi vì ,đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Hai mặt đối lập này không nằm yên bên cạnh nhau, chúng luôn luôn đấu tranh với nhau. Khái niệm “đấu tranh ”được Lê - nin đặt trong dấu ngoặc kép, vì vậy không nên hiểu khái niệm “đấu tranh” theo một nghĩa đơn giản . Khái niệm “đấu tranh”giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ nhau phủ định nhau. Đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoan. Mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt. Trong quá trình phát triển của mâu thuẫn sự khác nhau đo biến thành sự đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt, nếu có điều kiên chín muồi thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới được hình thành cùng với mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại được triển khai, phát triển và lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế cho sự vật cũ. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đã làm cho cá sự vật không thẻ tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giũa các mựt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của mọi sự vận động phát triển. Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên,tương đối của các sự vật hiện tượng. Còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hoá về vật chất của các sự vật hiện tượng. Tính tuyệt đối của đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiện tượng trong thế giới vật chất. Lê - nin khẳng định:”sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Nghiên cứu sự phát triển ta phải gắn liền với việc tìm ra nguồn gốc của nó, đó là cái nền tảng cái cốt lõi của vấn đề. Như trình bày ở trên đó là những cơ sở khi nghiên cứu quan điểm phát triển. Sự phát triển thống trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống,vậy nó thể hiện như thế nào trong kinh tế.
3) Quan điểm phát triển trong kinh tế
Đối với một nền kinh tế, xu hướng tăng trưởng tự vạch đường đi biểu hiện xuyên qua cá thời điểm mà ở đó ta có thể nhận thấy hoặc là nó đang ở trạng thái tương đói ổn định (tổng cung = tổng cầu) hoặc là mở rộng sản xuất (tổng cung tổng cầu). Cứ mỗi khi nền kinh tế nền kinh tế lâm vào khủng hoảng suy thoái nếu nó không đủ sức vượt qua đến thời kì phục hồi để tăng trưởng về sau thì nó sẽ bị đào thải và loại bỏ bằng một cuộc cách mạng xã hội hay đảo chính để thiết lập lại một trật tự kinh tế mới.
Vì vậy, vận động bao hàm trong mình cả sự đào thải,loại bỏ ,nhưng phát triển từ thấp lên cao , từ đơn giản đến phức tạp ngày càng hoàn thiện hơn. cho nên nguyên tắc phát triển đòi hỏi:
Trong việc hoạch định các chương trình phát triển kinh tế xã hội của một đất nước đòi hỏi phải dự báo được xu hướng vận động của nền kinh tế trong tương lai, đồng thời dự báo được xu hướng vận động của các sự kiện , các lĩnh vực có liên quan như:
Xu hướng chính trị xã hội
Xu hướng phát triển khoa học công nghệ
Xu hướng tiêu dùng của dân cư
v.v…
Mọi xu hướng là mọi nguồn lực đòi hỏi phải xắp xếp sao cho không nhữnh không triệt tiêu nhau, mà còn tạo nên véc tơ tổng hợp lực thúc đẩy nền kinh tế đến các mục tiêu mong muỗn.
Đối với lĩnh vực nghiên cứu kinh tế , nguyên tắc phát triển đòi hỏi nhà nghiên cứu phải quan niệm mục đích của nghiên cứu là dự báo . Bất kì một công trình nghiên cứu kinh tế nào hay một quan điểm kinh tế nào cũng chỉ thực sự có giá trị khi nó chỉ ra được xu hướng của sự vận động của đối tượng ngiên cứu trên cơ sởkhảo sát đánh giá các trạng thái tồn tại của nó trong hiện tại và trong quá khứ.
Chương 2. Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam từ góc nhìn quan điểm phát triển
1)Nguồn gốc, tiền đề,động lực cho công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam
Đó là do sự vận động bên trong của quá trình kinh tế. Giải quyết những mâu thuẫn giữa lực lượng sản suất và quan hệ sản suất trong phương thức sản suất. Do chưa nhận thức đầy đủ rằng thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình lịch sử tương đối lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chỉ đạo chủ quan nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết, Đại hội Đảng IV chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên. Trong những năm 1976 – 1980 trên thực tế, chúng ta chủ chương đẩy mạnh công nghiệp hoá trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết, mặt khác chậm đổi mới cơ chế quản lí kinh tế đã lỗi thời. Đại hội lần thứ năm cùng với việc khẳng định lại nhiệm vụ chiến lược,đã cụ thể hoá một bước đường lối kinh tế trong chặng đường trước mắt, đề ra những mục tiêu tổng quát, những chính sách lớn về kinh tế – xã hội, nhưng chưa kiên quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ chương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lí kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu sản suất và đầu tư, thường chỉ suất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng thực tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lí, chưa sử dụng hiệu quả những khả năng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Trong năm năm 1976- 1980, đã đề ra những chỉ tiêu kế hoạch quá cao về xây dựng cơ bản và phát triển sản suất, không coi trọng đúng mức việc khôi phục và xắp xếp lại nền kinh tế, thiên về xây dựng công nghiệp nặng và những công trình quy mô lớn,không tập trung sức giải quyết căn bản vấn đề lương thực, thực phẩm, phát triển hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kết quả là đầu tư nhiều mà kết quả lại thấp.
Trên cơ sở xác định lại bước đi của công nghiệp hoá,đại hội V chủ chương trong năm năm 1882- 1985 vừ phát triển vừa xắp xếp lại xản suất, bố trí lại xây dựng cơ bản để nâng cao hiệu quả đầu tư, nhằm ổn định tình hình kinh tế – xã hội, ổn định đời sống nhân dân tạo tiền đề để đẩy mạnh công nghiệp hoá.
Nhưng chúng ta đã không thự hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Đại hội lần thứ V . Nông nghiệp vẫn chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được đảm bảo những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến khích. Công nghiệp sản suất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp thủ công nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về khâu tổ chức, đầu tư chính sách. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Một khuyết điểm lớn là hầu như không sắp xếp lại cơ sở sản suất để khắc phục sự chồng chéo, bất hợp lí, không tập trung được nguồn năng lượng, nguyên liệu vật tư có hạn vào những cơ sở trọng điểm nhằm khai thác tốt nhất năng lực sản suất hiện có. Mặt khác, trong xây dựng cơ bản tuy đã đình hoãn một số công trình lớn tập trung vào một số trọng điểm, nhưng về căn bản vẫn chư điều chỉnh hợp lí, không kiên quyết hoãn những công trình chưa thật cấp bách và kém hiệu quả, còn ham xây dựng nhiều công trình quy mô lớn. Khối lượng xây dựng dở dang quá nhiều, khiến cho vốn bị đọng quá lâu. các địa phương các nghành còn xây thêm nhiều công trình ngoài kế hoạch, làm tăng thêm sự phân tán về tiền vốn và vật tư.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, đi đôi với việc xây dựng những cơ sở và lực lượng kinh tế mới, phải rất coi trọng cải tạo và sử dụng tốt các cơ sở và lực lượng kinh tế sẵn có bằng những hình thức và bước đi thích hợp. Nhưng chúng ta chưa xác định rõ ràng nhất quán quan điểm chủ chương và chính sách cải tạo công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là phát triển kinh tế. Đã có những biểu hiện nóng vội muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hoá ít chú ý những đặc điểm về tính chất của từng nghành, từng nghề, để lựa chon hình thức tổ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay các hợp tác xã qua mô lớn không tính đến khả năng trang bị kĩ thuât, trình độ quản lí và năng lực của cán bộ. Về nội dung cải tạo, thường nhấn mạnh việc thay đổi quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng giải quyết những vấn đề tổ chức quản lí và chế độ phân phối làm thường theo kiểu chiến dịch, gò ép, chạy theo số lượng, coi nhẹ chất lượng và hiệu quả; sau những đợt làm nóng vội lại buông lỏng. Do đó không ít tổ chức kinh tế được gọi là công tư hợp doanh, hợp tác xã, tổ chức sản xuất chỉ là hình thức, không có thực chất của quan hệ sản xuất mới.
Việc chưa xắp xếp lại các nghành và các cơ sở sản xuất, chậm thay đổi cơ chế quản lí kinh tế đã dẫn tới làm suy yếu vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, làm cho kinh tế tập thể chậm được củng cố, hạn chế việc sử dụng và caỉ tạo các thành phần kinh tế khác. Thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán chư được mở rộng , ít tiến bộ về tổ chứcvà phương thức kinh doanh để làm chủ thị trường ;một bộ phận bị lôI cuốn vào những hoạt động tiêu cực, tuồn hàng cho tư thương. Thương nghiệp tư nhân chậm được cải tạo. Chúng ta cũng chưa đánh trúng và nghiêm trị bon đầu cơ, buôn lậu, bọn địch phá hoại thị trường.
Trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thật sự thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tảitong một thời gian tương đối dài, chư nắm vẵng và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Về cơ chế quản lí cho tới trước công cuộc đổi mới kinh tế năm 1986, cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp về căn bản chưa bị xoá bỏ. Cơ chế mới chưa được thiết lập đồng bộ. Nhiều chính sách,thể chế đã lỗi thời chưa được thay đổi, một số thể chế mới còn chắp vá, không ăn khớp thậm chí tráI ngược nhau. Tình trạng tập trung quan liêu còn nặng, đồng thời những hiện tượng vô tổ chức vô kỉ luật cũng khá phổ biến.
Việc chậm đổi mới cơ chế và bộ máy quản lí, việc điều hành không nhạy bén, là những nguyên nhân quan trọng dẫn tới hành động không thống nhất từ trên xuống dưới. Một số người và cơ sở đã lợi dụng những sơ hở của cơ chế quản lí để mưu lợi ích cá nhân và lợi ích cục bộ.
Chúng ta mới nêu ra được phương hướng chủ yếu của cơ chế mới, còn nội dung , hình thức, bước đi, cách làm cụ thể, thì còn nhiều vấn đề chưa giảI đáp được thoả đáng cả về lí luận và thực tiễn.
Rõ ràng chúng ta còn thiếu nhiều hiểu biết và ít kinh nghiệm quản lí, lại chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm. Cho nên lúc bấy giờ phải khắc phục ngay cả hai khuynh hướng: bảo thủ, trì trệ, không muốn đổi mới; và nóng vội, giản đơn, muốn giảI quyết mọi vấn đề trong một thời gian ngắn.
Suốt những năm trước đổi mới lĩnh vực phân phối, lưu thông luôn căng thẳng rối ren. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã dành nhiều thời giờ vào công việc này, nhưng các giải pháp đưa ra chyưa thực sự có hiêu quả. Tình hình như vậy là hậu quả tổng hợp của nhiều yếu tố cùng tác động trong nền kinh tế và đời sống xã hội.
Trước hết, đó là những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, và trong cảI tạo xã hội chủ nghĩa, là tác hại của của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp tồn tại nhiều năm trong quản lí kinh tế, dãn tới sản xuất chậm phát triển, mâu thuẫn giữa cung và cầu ngày càng gay gắt. trong lúc đó lại chưa cảnh giác đầy đủ, thiếu những biện pháp ngăn chặn những phần tử xấu phá hoại. Chúng ta chưa có chính sách cơ bán về tài chính gắn liền với chính sách không đúng đắn về giá cả, tiền tệ – tín dụng, tiền lương. Nhà nước không điều tiết đúng mức thu nhập của tư thương, không tước đoạt những nguồn thu bất chính, không bảo vệ tốt tài sản quốc gia, chưa tập trung những nguồn thu quan trọng vào ngân sách và phân phối đúng các nguồn vốn, vật tư hàng hoá trong tay. Các khoản chi của ngân sách mang nặng tính bao cấp và trong một thời gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng các nguồn vốn vay và viện chợ kém hiệu quả. Chúng ta đã tiêu dùng cả một phần nguồn vốn từ bên ngoài và quỹ khấu hao cơ bản. tất cả các cái đó gây ra thâm hụt ngân sách, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến lam phát trầm trọng.
Việc giải quyết vấn đề giá, lương, tiền đã phạm sai lầm . thiếu biện pháp đồng bộ có hiệu quả để nhà nước nắm được hàng và tiền. Các giải pháp cụ thể về định mức giá và quản lí giá, về định mức lương và quản lí quỹ lương, về đổi tiền và bước đi trong việc điều chỉnh giá, lương, tiền được tiến hành thiếu chuẩn bị chu đáo , không phù hợp với tình hình thực tế.sai lầm trong lĩnh vực phân phối lưu thông là sai lầm rất nghiêm trọng trong lãnh đạo và quản lí kinh tế trong những năm trước đổi mới.
Phát triển kinh tế đi đôi với việc phát triển xã hội. Sự phát triển của xã hội loài người được đánh dấu bằng sự thay đổi của các nền văn minh, từ văn minh nông nghiệp đến văn minh công nghiệp và hiện nay loài người đang tiến tới nền văn minh trí tuệ. Công bằng mà nói, tiếp cận, đánh giá sự phát triển xã hội từ nền văn minh trí tuệ, từ hoạt động sáng tạo năng động của con người, từ sự phát triển của khoa học, công nghệ điều đó hàm chứa những giá trị nhất định. Song những giá trị ấy không thể thay thế được lí luận về sự vận động sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội mà Mác đã xây dựng. Ngược lại, nó chỉ bổ sung làm sáng tỏ hơn lí luận của Mác trong thời đại phát triển công nghệ hiện nay. Triết học Mác nhấn mạnh rằng sự phát triển xã hội, xét đến cùng, bắt nguồn từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, trong đó cơ bản nhất là con người đang sống và lao động sản xuất. Cái khác nhau cơ bản của nền sản xuất không phải không phải ở chỗ người ta sản xuất ra cái gì mà là người ta sản xuất bằng cái gì và tiến hành sản xuất như thế nào. Lực lượng sản xuất bao giờ cũng là yếu tố động nhất, cách mạng nhất trong phương thức sản xuất. Song sự phát triển của lực lượng sản xuất không thể nằm ngoài quan hệ sẩn xuất. Tuyệt đối hoá lực lượng sản xuất để coi thường hay phủ nhận quan hệ sản xuất sai lầm. Cái đảm bảo cho sự phát triển của lực lượng sản xuất là quan hệ sản xuất, cái kìm hãm, xiềng xích lực lượng sản suất cũng là quan hệ sản xuất. Bản thân lực lượng sản xuất mới chỉ biểu hiện con người với tự nhiên:thể hiện khả năng và sức mạnh to lớn của con người trong cải tạo thế giới khách quan. Nhưng con người trong bản tính của mình là con người xã hội. Con người hoạt động nhằm thoả mãn những nhu cầu lợi ích của mình, đó là con người tự nhiên; song sự việc thoả mãn được thực hiện đến đâu, bằng phương pháp gì …đó lại là vấn đề xã hội, thông qua các quan hệ kinh tế xã hội. Mặt khác trong quá trình cải tạo tự nhiên, lao động sản xuất, con người không được tự do tuỳ tiện. Họ bị chế ước bởi những quan hệ kinh tế – xã hội nhất định. Triết học Mác nhấn mạnh con người trong lao động sản xuất và trong cuộc sống của mình không thể với tư cách một sinh vật cô đơn vô sản và không quan hệ. Ông đã gọi quan hệ người với người trong quá trình lao động sản xuất là quan hệ sản xuất. Ông nhấn mạnh rằng, chính cái quan hệ ấy đã làm nên cái khác nhau căn bản giữa chế độ xã hội này với chế độ xã hội khác. Nếu lực lượng sản xuất vận động không ngừng nhờ một quá trình liên tục thì quan hệ sản xuất hiện ra như một sự đứt đoạn để qua đó người ta thấy được tính chất xã hội mỗi thời kì của nền sản xuất là khác nhau. Như thế đánh giá sự phát triển xã hội phải căn cứ vào mức độ tiến bộ của quan hệ sản xuất là cơ bản từ đó đanhs giá xem xét toàn bộ hình thái kinh tế – xã hội. Đến lượt nó cái tiến bộ tiên tiến của quan hệ sản xuất phải lấy tiêu chuẩn khách quan là nó có giải phóng được lực lượng sản xuất hay không …nói cách khác, nnó có kích thích được tính năng động của con người được hay không và qua đó năng xuất lao động có tăng lên không ngừng không. Lẽ đương nhiên người ta không thể lấy kinh tế làm chỉ số duy nhất để đánh giá sự phát triển của xã hội đồng thời người ta cũng không thể vội vàng muốn có phát triển xã hội bằng cách đặt ra quan hệ sản xuất tiên tiến, mở đường đi trước sự phát triển của lực lượng sản xuất. Làm như vậy trái với quy luật kinh tế – xã hội mà Mác tìm ra. Sự phát triển của xã hội bao giờ cũng là quá trình lịch sử tự nhiên chứ không phải là quá trình chủ quan, duy ý chí.
2) Công cuộc đổi mới kinh tế Việt nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển
2.1) Nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới đánh giá qua các kì Đại hội
Đất nước ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội .Bản thân thời kì quá độ này cũng đánh giá sự phát triển của xã hội . Đành rằng đó chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa hoàn thiện, song nó dứt khoát không phải là mô hình xã hội , nó đã vượt qua và đang ở trong quá trình hoàn thành nốt sự vượt qua đó. Báo cáo chính trị Đại hội IX khẳng định, mục tiêu lý tưởng của cách mạng, đồng thời cũng nói rõ chúng ta đang ở trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội . Nói như thế để thấy được chúng ta đang ở đâu, đang ở trình độ nào để có sách lược đúng. Nước ta còn nghèo lực lượng sản xuát còn kém phát triển , nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế là rất lớn, cho nên phải tập trung sức phát triển lực lượng sản xuất, phát huy của tất cả các thành phần kinh tế , huy động mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở vật – chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội , không nên lấy mục tiêu xa để áp đặt bắt thực tiễn phải khuôn theo khi chưa có đủ điều kiện.
Báo cáo chính trị Đại hội IX chỉ rõ :”con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa,nhưng kế thừa tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ,để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại ”. Đồng thời phải từng bước xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; chống tư tưởng duy lực lượng sản xuất, chủ nghĩa kỹ trị.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là một sự nghiệp rất khó khăn và phức tạp, có sự đan xen giữa cái mới và cái cũ, giữa cái chủ nghĩa xã hội và cái không phải là chủ nghĩa xã hội, phải sử dụng một số hình thức trung gian cho nên tất yếu phải trải qua một thời kì quá độ lâu daì, với nhiều chặng đường nhiều hình thức tổ chức kinh tế , xã hội có tính chất quá độ.
Như chúng ta đều biết từ Đại hội VI Đảng ta đề ra chủ chương cho phép sử dụng nhiều thành phần kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến lược góp phần để giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản suất. Công cuộc đổi mới nền kinh tế năm 1986 như một bước ngoặt to lớn của nền kinh tế nước nhà. Bước ngoặt ấy thực sự phù hợp với quan điểm phát triển. Hội nghị Trung ương khoá VI (tháng 3-1989) phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội lần thứ VI khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chỉ nghĩa do các Đại hội IV,V Đảng đã xác định. Tập trung trí tuệ toàn Đảng, toàn dân, Đại hội VI tổng kết những kinh nghiệm sáng tạo phong phú của các nghành các cấp và các đơn vị cơ sở giải quyết một số vấn đề lí luận và thực tiễn, phát triển đường lối và nâng cao năng lực chỉ đạo thực tiễn của Đảng. Đại hộiVI như một bước trưởng thành vượt bậc của Đảng cả về lí luận và thực tiễn. ý nghĩa lịch sử của Đại hội VI là đã phân tích đúng đắn nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội từ những năm trước, đề ra các định hướng lớn để từng bước thoát khỏi tình trạng đó.
đến đại hội Đảng VII ta tiếp tục nói rõ chủ chương hội nghị VI đề ra và khẳng định đây là chủ chương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta. Cương lĩnh của Đảng khẳng định:”phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước ”. Nhưng trong lúc đó mới chỉ nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chưa chính thức dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Sự nghiệp đổi mới kinh tế đang đi đúng theo quỹ đạo của quan điểm phát triển mà Mac- Lênin đã vạch ra. Tổng kết hai năm thực hiện Đại hội VI nền kinh tế phát triển khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có những thay đổi căn bản, đó là những căn cứ để đẩy nền kinh tế tới một bước cao hơn. Đại hội VII của Đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài, một thị trường thống nhất hoà nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lí của Nhà nước.
Đại hội VIII của Đảng xác định, ở nước ta có năm thành phần kinh tế :kinh tế Nhà nước ,kinh tế hợp tác mà nòng cốt là hợp tác xã ,kinh tế tư bản Nhà nước ,kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Xuất phát từ tình hình thực tế những năm gần đây, Đại hội Đảng IX quyết định bổ xung thêm một thành phần kinh tế nữa đó là kinh tế có vốn đầu tư ở nước ngoài.
Vấn đề phát triển kinh tế trước hết từ bản thân nó, từ những mối quan hệ cơ bản của nó. đó không phải là vấn đề tìm ở trên trời mà ngay dưới mặt đất ngay trong cuộc sống thực tại. Theo Mác ông đã coi sự phát triển của xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Đây là một tư tưởng vĩ đại. Sự vận động, phát triển xã hội chỉ chịu sức ép, chịu sự quyết định từ chính quy luật bên trong của nó, mà cơ bản là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất; và quy luật về sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở ha tầng đã sinh ra nó. Đó là những quy luật của lịch sử, những quy luật có tính tự nhiên không tuỳ thuộc vào ý muốn con người và không thể bác bỏ xuyên tạc. Song mặt khác, những quy luật đó cũng lại là những quy luật xã hội chỉ được thực hiện qua chính hoạt động của con người. Cần phải hiểu luận đề trên một cách biên chứng, qua đó, thấy được sự thống nhất giữa liên tục và đứt đoạn, giữa tiệm tiến của sự phát triển. Con đường phát triển ấy không phải thẳng tắp mà dích dắc , bao gồm cả nhưng bước thụt lùi. Song, xuyên qua tất cả những ngẫu nhiên, những phức tạp ấy , thì sự phát triển xã hội vẫn là dòng chảy chủ đạo trong lịch sử. Mac đã vạch ra động lực thực sự thúc đẩy sự phát triển xã hội, những nguyên nhân bên trong gây nên sự biến đổi về mặt xã hội. Chính ông đã tìm ra nền tảng của sự tồn tại và phát triển xã hội. ĐI xa hơn ông tìm ra mâu thuẫn trong cái nền tảng ấy tức mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Chính nhờ có máau thuẫn ấy, xã hội đã tạo cho mình khả năng vận động và phát triển, như thế sự phát triển xã hội bắt nguồn từ sự vận động phát triển của sản xuất vật chất xã hội. Muốn phát triển xã hội, trước hết người ta cần phát triển sản xuất, người ta không thể không chu ý giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Mâu thuẫn ấy lại không thể tự thân giảI quyết như quy luật tự nhiên mà phải thông qua hành động của con người, của xã hội.
Xuất phát từ cơ sở lí luân cũng như thực tiễn Đại hội IX của Đảng đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội hàm của khái niệm này thực chất vẫn là sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vân hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng được diễn đạt gọn hơn, nói rõ được mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kì quá độ. Đây là bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lí luận của Đảng ta.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp, nhưng đó không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư bản, tức là không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, và cũng chưa toàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như đã noí, chúng ta đang còn trong thời kỳquá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tố chủ nghĩa xã hội.
Vậy đặc trưng vủa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì? Báo cáo chính trị Đại hội IX đã nêu một số đặc trưng rất cơ bản. Theo nhiều nhà nghiên cứu khoa học thì nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nếu so với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những điểm khác căn bản sau đây:
Về mục đích: Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phục vụ lợi ích các nhà tư bản, bảo vệ chế độ tư bản, phát triển chủ nghĩa tư bản. bây giờ có điều chỉnh gì cũng là bảo vệ chủ nghĩa tư bản. còn chúng ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong những chặng đường đầu của thời kỳ quá độ, lực lượng sản xuất còn yếu kém, lá để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Ta dùng cơ chế thị trường, sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiịen đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội, không để cho thị trường tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa.
Về chế độ sỡ hữu: Dưới chủ nghĩa tư bản, nền tảng của chế độ sở hữu là sỡ hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Còn ở nước ta hiện nay cũng thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu, nhưng trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Các thành phần kinh tế: dưới chủ nghĩa tư bản, nền kinh tế có nhiều thành phần (có khả năng kinh tế nhà nước, liên doanh, kinh tế tư bản nhà nước…), nhưng do nhà nước tư sản quản lý và do tư bản tư nhân chi phối, kinh tế tư nhân lá chủ đạo. Còn ở nước ta hiện nay cũng có nhiều thành phần kinh tế, trong đó có cả kinh tế tư bản tư nhân, nhưng do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.
Về chế độ quản lý: trong thời đại hiện nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều cần có sự quản lý của Nhà nước, không muốn để cho bàn tay vô hình là thị trường chi phối. Tư bản cũng phải làm thế, thậm chí họ còn can thiệp khá mạnh. điều khác nhau ở đây là ở bản chất hai nhà nước. Nhà nước của họ là nhà nước tư sản, dân chủ tư sản, bảo vệ lợi ích của thiểu số giai cấp tư sản, những người có của. Còn chúng ta là Nhà nước xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân, vá số Đảng Cộng sản lãnh đạo, bảo vệ lợi ích của đa số nhân dân lao động. Về quản lý thì xu thế của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa vẫn là tự do cạnh tranh, vẫn là “cá lớn nuốt cá bé”, hình thức các công ty siêu quốc gia, xuyên quốc gia, các tập đoàn lớn cạnh tranh nhau quyết liệt. Còn chúng ta có sự quản lý của Nhà nước để kết hợp tính địng hướng và cân đối của kế hoạch với tính năng động vá nhạy cảm của thị trường.Trong các Nghị quyết Đại hội VII và VIII đều nói thị trường vừa là đối tượng, vừa là căn cứ để chúng ta kế hoạch hoá. Chúng ta sử dụng cơ chế thị trường không phải để đoạn tuyệt với kế hoạch, mà là để thực hiện kế hoạnh một cách tổng thể hơn, tốt hơn. Sự quản lý của Nhà nước là để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Đối với chúng ta, cơ chế thị trường không phải là liều thuốc vạn năng, không phải là mục đích, mà chỉ là phương tiện. Mục đích của ta không phải là chạy theo lợi nhuận tối đa cho một thiểu số người, mà chính là để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Về chế độ phân phối: cả hai nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có nhiều hình thức phân phối. Khác nhau ở chỗ, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa phân phối chủ yếu theo tư bản, phục vụ lợi ích tối đa của các nhà tư bản. Chúng ta cũng có nhiều hình thức phân phối, nhưng phân phối theo kết quả lao động vá hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa, vừa khuyến khích lao động, vừa bảo đảm phúc lợi cơ bản.
Đó là các điểm giống nhau và khác nhau giữa kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương của Đảng về vấn đề này là thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đây là điểm mới và là mô hình kinh tế tổng quát của chúng ta trong thời kỳ qúa độ. Đây cũng là một quan điểm quan trọng làm sáng tỏ hơn nội dung con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trên cơ sở mô hình này, Đại hội khoá IX của Đảng đã xác định đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong thời kỳ quá độ là: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tién bộ xã hội và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường quốc phòng – an ninh”.
2.2) Tại sao phải vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trước tiên cần phải khẳng định rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một dạng vật chất, nền kinh tế Việt nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác- Lênin. Là một dạng vật chất chính vì thế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt nam cũng tồn tại, vận động và phát triển theo những nguyên lí, quy luật của triết học Mác- Lênin, mà cụ thể là sự vận động phát triển, sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong nó theo qauan điểm phát triển.
Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần thay đổi bộ mặt đất nước, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên đó chư phải là cái đích cuối cùng của Đảng ta. Bởi thế nền kinh tế nước ta vẫn còn chậm phát triển. Khi chúng ta vừa chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu, với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lí kinh tế với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ lại sang nền kinh tế thị trường năng động, do đó khó có thể tránh khỏi những vấp váp sai lầm. Thêm nữa thời chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường là quá muộn so với các nước trên toàn thế giới và khu vực khi mà các nước tư bản như Mỹ, Nhật, Tây Âu… đã tiến hành cớ chế thị trường vượt xa ta mấy trăm năm. Là nước đi sau theo chủ nghĩa xã hội chúng ta có cơ hội kế thừa và phát triển những thành tựu của nhân loại trước hêts là sử dụng văn minh của nền kinh tế thị trường, loại bbỏ những khuyết tật của nó để xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả. Chính vì lẽ đó cần phải vận dụng quan điểm phát triển vào viẹc nghiên cứu quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.3)Những ưu khuyết điểm của nền kinh tế thị trường
2.3.1) Ưu điểm của nền kinh tế thị trường
Đến Đại hội VIII(6/1996) trên cơ sở kế thừ những đường lối, chủ chương đúng đắn về sử dụng kinh tế thị trường do các đại hội trước đề ra, Đảng ta đã xác định rõ hơn về vai trò kinh tế thị trường: cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
2.3.2) Những hạn chế và khuyết điểm của nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường tuy chưa có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh, hơn thế nữa quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhièu tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy, tuy mới áp dụng kinh tế thị trường nhưng chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu, như làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận dẫn tới các hình thức lừa đảo, hối lộ chốn thuế, nợ nần khó strả, thương mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập vào những lĩnh vực dễ thương tổn như y tế giáo dục, văn hoá …làm cho giá trị đạo đức tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng thời đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người: sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên: bởi sống ích kỉ thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng. Bởi vậy Đảng ta chỉ rõ: “Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lí nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó, phục vụ mục đích xây dựng xã hội chủ nghĩa chưs không phải đi theo tư bản chủ nghĩa.”
3) Vận dụng quan điểm phát triển cho thực tại và tương lai
3.1) Bài học chủ yếu qua 15 năm đổi mới
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Hai là, đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo.
Ba là, đổi mới pgải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Bốn là, đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới.
Tính đúng đắn của đường lối thể hiện ở chỗ nó phản anhs ddungs quy luật khách quan của sự phát triển đất nước, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phản ánh ý chí, lợi ích cơ bản và nguyện vọng của nhân dân, không cơ hội hữu khuynh hoặc tả khuynh. Đường lối đúng phải là đường lối chính trị, tư tưởng, kinh tế , văn hoá, tổ chức, cán bộ, đối ngoại đều đúng. Mặt khác phải tổ chức thực hiện đúng; cổ vũ, động viên, lôi cuốn được đôn đảo nhân dân thực hiện và thực hiện thắng lợi.
Kinh nghiệm lịch sử rút ra từ sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu cho thấy: nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự sụp đổ là do đường lối chính trị, tư tưởng, tổ chức sai lầm nghiêm trọng.
Đối với Đảng ta, Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới với đường lối đúng đắn. Đường lối đó là kết quả tổng kết từ kết quả thực tiễn và nghiên cứuphát triển lý luận trên cơ sở nhận thức đúng đắn về chủ nghĩa Mác- Lê nin tư tươnge Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, kế thừa truyền thống văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, biết dựa vào dân, vì dân, phát huy đại đoàn kết sức mạnh toàn dân, tăng cường và phát huy nội lực đi đôi với không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo nhân dân thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ do Đảng đề ra, kiện toàn bộ máy và hoạt động của nhà nước… Vì vậy, cơ sở vẵng chắc để tin tưởng ở đường lối của Đảng, ở sự lãnh đạo của Đảng và tương lai tươi sáng của dân tộc.
3.2.2) Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế Việt nam
Nhân tố quyết định bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường là vai trò quản lí của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước tôn trọng nguyên tắc và cơ chế hoạt động khách quan của thị trường, không can hiệp vào thị trường bằng những biện pháp hành chính. Chức năng cơ bản của Nhà nước về kinh tế là, định hướng phát triển(bằng chiến lược quy hoạch kế hoạch chính sách); tạo môi trường pháp lí và kinh tế cho các chủ thể kinh tế hoạt động năng động, hiệu quả, có trật tự, kỉ cương trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh, công khai, minh bạch; điều tiết hoạt động và phân phối lợi ích mọt cách công bằng, thông qua việc sử dụng các công cụ ngân sách thuế, tín dụng…; kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế theo đúng luật pháp và chính pháp.
4) Một số kiến nghị chung
Trên cơ sở nghiên cứu căn cứ lí luận và thực tiễn của quá trình đổi mới kinh tế cũng như việc xây dựng phương án tổng thể về cải cách quản lí kinh tế, sau đây xin nêu một số kiến nghị cụ thể sau.
-Trên cơ sở quan điểm cơ bản về cải cách kinh tế và cải cách hành chính, cần xây dựng và tổ chức thực hiện một chương trình tổng thể và toàn diện cho cải cách kinh tế đảm bảo trình tự hợp lí và mối quan hệ tương hỗ giữa những biện pháp cải cách, tránh tình trạng gặp đâu làm đấy như đã từng xảy ra. Tuy nhiên, chương trình tổng thể cải cách kinh tế không phải là một chương trình chi tiết, cứng nhắc, mà chỉ là một chương trình mang tính tổng hợp, khái quát có mức độ cụ thể cho một số năm tới; nó phải là chương trình linh hoạt và được bổ sung, điều chỉnh kịp thời khi có các điều kiên thay đổi.
- Lập uỷ ban đổi mới kinh tế ở mức trung ương, và cấp tỉnh, thành phố,chịu trách nhiệm nghiên cứu các dự án cải tạo liên nghành, thẩm định dự án của các nghành, đảm bảo sự điều hoà phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra giám sát việc thực hiện chủ chương chính sách đổi mới ở các nghành , các địa phương.
-Đẩy mạnh thí điểm một cách khoa học, có sự tổng kết đánh giá và kiến nghị thành các chính sách, biện pháp khái quát.
-Kết hợp chặt chẽ giữa cải tạo kinh tế và cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực của Chính phủ trong quản lí, điều hành kinh tế, bổ sung cho thị trường và những khuyết tật của kinh tế thị trường . -Xây dựng thể chế kinh tế thị trường, quan trọng nhất là quản lí vĩ mô nền kinh tế, quản lí khoa học công nghệ. - Xây dựng hệ thống pháp luật. -Thực hiện quản lí Nhà nước về hành chính để phục vụ kinh doanh -Thực hiên thu thuế để điều tiết, giữ công bằng xã hội. Trong điều kiện hiên nay của nước ta cần xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước. Cần thực hiên chế độ công chức, tạo ra bộ máy Nhà nước gọn nhẹ với những cán bộ được đào tạo, tuyển lựa kĩ bằng những hình thức thích hợp để lựa chọn được những người có năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, và được trả lương xứng đáng để họ yên tâm làm việc. Cần có trách nhiệm cá nhân rõ ràng và công khai (thưởng phạt nghiêm minh) đối với cácquan chức của Chính phủ. Tóm lại, cần xây dựng một Nhà nước pháp quyền, một bộ máy quản lí gọn nhẹ, có năng lực, có hiệu quả và trong sạch.
Định rõ chức năng nhiệm vụ của cơ quan nhá nước, trách nhiệm của cán bộ nhà nước,thự hiện chế độ hành chính công vụ …để nâng cao hiệu quả của bộ máy nhà nước cần tăng cường trật tự kỉ cương coi đó là nguồn sức mạnh cần khai thác.
Thường xuyên tiến hành công tác tống kết. đẩy mạnh nghiên cứu lí luận và phương pháp luận phát triển, chú trọng nghiên cứu ứng dụng phù hợp với tình hình kinh tế Việt nam . Trong lĩnh vực này, những vấn đề đặt ra là :đổi mới như là một hịn tượng xã hội ,tác động đến văn hoá, tâm lí, các giá trị truyền thống, bởi vậy cần xác định cái gì cần gữ cái gì cần phải đổi mới Hoạt động của tổng thể cơ chế thị trường cũng như các bộ phận cấu thành nên nó, phải thấy được những mặt trái về kinh tế, xã hội của cơ chế thị trường. Vai trò Nhà nước trong cơ chế thị trường: cần xác định rõ những gì Nhà nước cần làm, những gì Nhà nước sẽ có hiệu quả, những gì nhà nước không nên làm,những mặt trái và những căn bệnh của Nhà nước trong cơ chế thị trường và cách khắc phục. Những vấn đề hợp tác và cạnh tranh quốc tế, vấn đề phát huy nhân tố bên ngoài và các tiềm năng trong nước, thấy được các mặt tích cực và tiêu cực trong việc tham gia khối kinh tế . Việt nam đang trong quá trình đổi mới, do đó ngoài nguồn vốn trong nước,Việt nam rất cần có nguồn tài trợ để phát triển. Song vấn đề quan trọng không phải là khối lượng tiền tài trợ, mà là hiệu quả quản lí, sử dụng tốt số tài trợ đó. Mặt khác cần tìm thấy là nguồn vốn huy động được từ nội bộ nền kinh tế quan trọng hơn nhiều so với nguồn vốn tài trợ từ bên ngoài. Vì vậy Nhà nước cần có chính sách khuyến khích mọi khu vực kinh tế,mọi nghành, mọi cấp, mọi công dân tăng cường đầu tư phát triển kinh tế, xã hội . Trong quả trình phát triển, vấn đề quan trọng nhất là khả năng hoạch định, thực hiện, kiểm tra , theo dõi và điều chỉnh chính sách của Chính phủ thông qua trao đổi, thảo luận với dân chúng và với giới kinh doanh. Phát triển kinh tế phải đi đôi với phát triển các vấn đề xã hội, có như vậy cải cách mới đưa đến thành công.
C ) Phần kết thúc
Nói tóm lại Đại hội lần thứ VI của đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó, nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường. Tổng kết hai năm thực hiện đại hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có nhữnh thay đổi căn bản. đó là những căn cứ để đẩy tới một bước cao hơn. Đại hội lần thứ VII của đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường với những quan điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản, tổng thể lâu dài , một thị trường thống nhất thông suốt hoà nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối tượng quản lý của nhà nước.
Thực tế hơn 10 năm qua ở nước ta đã chứng tỏ quá trình chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đổi mới tất yếu, tiến dộ, nhưng cũng là quá trình phức tạp lâu dài. Đó là quá trình cách mạng khởi đầu bằng ý nguyện cảu quần chúng, được đảng nắm bắt, tổng kết, định hướng bằng cơ chế, chính sách, là sự dũng cảm nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm từ mô hình cũ với quan điểm giản đơn từ đó quyết tâm đổi mới, coi đổi mới là vấn đè sống còn của dân tộc , chấp nhận kinh tế thị trường bằng lý trí, tình cảm, bằng sự tìm tòi thử nghiệm từ cuộc sống mà cách đây vài chục năm trong tư duy kinh tế còn là cuộc đấu tranh gay gắt.
Những chuyển đổi dó thực sự tạo ra bước ngoặt kinh tế. Chỉ một thời gian ngắn, đất nước có nhiều thay đổi. Bước đầu tình trạng suy thoái dần dần được khắc phục. Cuộc khủng hoảng kéo dài từ cuối thập kỷ 70 và gay gắt vào những năm 80 khi lạm phát ở mức phi và kéo dài. Song nhờ có sự cố gắng của toàn đảng, toàn dân nền kinh tế không những đứng vững mà còn tạo được những tiến bộ vượt bậc, đạt tốc dộ tăng trưởng kháliên tục. Tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%/năm, trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 45%, kim ngạch xuất khẩu tăng 20,8%. Lạm phát giảm giàn thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài với vốn đăng ký 10 tỉ USD. Nền kinh tế bước đầu đã có tích luỹ nội bộ, xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thành tựu nổi bật nhất trong thời gian qua là sản phẩm nông nghiệp phát triển, từ chỗ thiếu lương thực triền miên, đến nay chúng ta đã có khả năng tự túc, phần nào dự trữ và xuất khẩu. Năm 1998 mặc dù một số vùng gặp thiên tai hưng sản lượng lương thực đạt mưc kỷ lục 25 triệu tấn. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần đang được hình thành và phát huy tác dụng.
Với việc áp dụng quan điểm phát triển vào công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam, chúng ta đã có một nền kinh tế thị trường năng động, một nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa,với những thành tựu hết sức to lớn. Nhưng bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đất ta vẫn còn chậm phát triển so với các nước khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp dụng các giải pháp hợp lí để cải thiện tình tình hình đặc biệt chú trọng đêns sự vận dụng đến sự sáng tạo để có được một nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, phát huy hết tính ưu việt của nó và tránh được những sai lầm như nền kinh tế thị trường của các quốc gia khác. Từng bước thực hiện các giải pháp đã đề ra, Việt nam sẽ có thêm tự tin trong thế kỉ 21 vượt qua những thách thức mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ ngày càng phát triển ổn định và nhanh chóng đuổi kịp trình độ của thế giới, trở thành một nước công nghiệp trong tương lai không xa. Mục lục
Phần mở đầu
Phần nội dungChương1:Quan điểm phát triển 1) Sự phát triển và nguồn gốc của nó1.1:Các khái niệm 1.2.Quan điểm phát triển 2)Nguồn gốc quan điểm phát triển 3).Quan điểm phát triển trong kinh tếChương2:Công cuộc đổi mới kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn quan điểm phát triển 1)Nguồn gốc tiền đề động lực cho quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam2)Đổi mới kinh tế Việt Nam nhìn từ quan điểm phát triển 2.1.Nền kinh tế Việt nam trong thời kì đổi mới đánh giá qua các kì Đại hội 2.2.Tại sao phải vận dụng quan điểm phát triển vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam2.3.Ưu khuyết điểm nền kinh tế thị trường2.3.1.Ưu điểm nền kinh tế thị trường 2.3.2.Những hạn chế khuyế điể nền kinh tế thị trường 3)Vận dụng quan điểm phát triển cho thực tại và tương lai 3.1.Bài học chủ yếu qua 15 năm đổi mới3.2.Tiếp tục đổi mới công cuộc quản lí nền kinh tế vĩ mô của Nhà nước4)Một số kiến nghị chung
C)Phầnkết
Tài liệu tham khảo
1) Cơ sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam - Lê Đăng Doanh - NXB Chính trị Quốc gia 1998.
2. Một số vấn đề triết học Mác - Lênin với công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia.
3. Văn kiện Đại hội Đảng VI - NXB Chính trị Quốc gia.
4. Văn kiện Đại hội Đảng IX - NXB Chính trị Quốc gia.
5. Triết học Mác - Lênin - NXB Hành chính Quốc gia.
6. Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội Đảng IX - NXB Chính trị Quốc gia.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35266.doc