Đề án Đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng đối với sản phẩm trong ngành sữa Việt Nam

Như vậy, có thể nhận thấy trong nền kinh tế hội nhập ngày nay vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang ngày càng trở nên cấp thiết. Các cá nhân, tổ chức dành sự quan tâm ngày càng nhiều cho vấn đề này. Đảng và Nhà nước đã có những cố gắng trong việc bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời đã xây dựng và vận hành khá hiệu quả mạng lưới giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,. Đặc biệt là nhận thức của người tiêu dùng về quỳên lợi và trách nhiệm của mình đã được nâng cao. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết, những khó khăn thách thức đối với việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta như luật không đồng bộ, kém hiệu lực, hoạt động của các cơ quan giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng còn nhiều hạn chế, sự yếu kém trong nhận thức và phối hợp hành động của các ngành, các cấp thuộc các cơ quan thực thi pháp luật, thông tin chưa đầy đủ, giáo dục chưa đồng bộ, đặc biệt ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng chưa cao. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cần có các giải pháp đồng bộ, nhất quán cả trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, được cả hệ thống chính trị thực thi nghiêm túc và có sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị xã hội. Việc đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, cũng như giữa Nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức nhằm nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, giúp đỡ họ thực hiện quyền và trách nhiệm của mình.

doc63 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1890 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng đối với sản phẩm trong ngành sữa Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn chế, nhất là việc đảm bảo cung cấp thông tin một cách chính xác và trung thực về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp. Ví dụ như một hũ Yaout của Vinamilk có tới 2 nhãn dán chồng lên nhau và có thông tin khác nhau. Hầu hết các sản phẩm ghi nhãn mác chưa đúng: Cuối năm 2006, đoàn thanh tra liên ngành tiến hành kiểm tra nhãn mác tại 4 cơ sở sản xuất là công ty cổ phần sữa Việt Nam(Vinamilk) tại Hà Nội, Nhà máy sữa Trường Thọ (Công ty cổ phần sữa Vinamilk) tại Thành phố HCM, Công ty cổ phần nước giải khát Sài Gòn Tribeco và công ty cổ phần thương mại Tân Việt Xuân (Vixumilk) tại Thành phố HCM sau khi dư luận bức xúc việc các công ty sữa ghi nhãn mác không đúng với chất lượng sản phẩm thực tế. Theo kết quả đánh giá sơ bộ cho thấy các công ty này đều vi phạm các quy định về việc ghi nhãn mác sản phẩm. Có công ty trên nhãn mác ghi thành phần gồm sữa tươi, sữa bột nhưng lại cố tình lờ đi việc ghi tỷ lệ cụ thể của mỗi loại là bao nhiêu. Và thực tế qua việc kiểm tra hồ sơ sản xuất theo mẻ ở một số công ty đã chứng minh sự cố tình gian dối này: Trên 50% số mẻ sản xuất không có sữa tươi, thậm chí có nơi số mẻ sản xuất không có sữa tươi lên đến trên 84%. Theo kết quả điều tra trên thị trường Hà Nội của VINASTAS, có đến 23% nhãn mác hàng hóa của 100 sản phẩm vi phạm về chỉ số thành phần sản phẩm, hình ảnh quảng cáo trên bao bì không đúng sự thật. Sản phẩm bán ra không phải là sản phẩm đã đăng ký với nhà quản lý hay cam kết với khách hàng, bởi lẽ nó vừa không nguyên chất, vừa không đúng tên gọi như trong bản công bố. Doanh nghiệp phải ghi rõ ràng “Hình ảnh trên bao bì chỉ có tính chất minh hoạ” để tránh hiểu nhầm cho người tiêu dùng. Hành vi trên chính là lừa dối khách hàng. Đa phần các sản phẩm sữa tươi đang bày bán là sữa hoàn nguyên, song các doanh nghiệp đã lạm dụng từ “sữa tươi”- đây là hành vi thiếu minh bạch đánh lừa người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm. Không chỉ lập lờ trong cách gọi tên sản phẩm, các doanh nghiệp còn né tránh bằng cách công bố rất sơ sài về thành phần nguyên liệu dùng để chế biến. Hàng chục nhãn sữa đang bày bán trên thị trường đều chỉ ghi thành phần sữa tươi, sữa bột béo, phụ gia…song không công bố chi tiết sữa tươi chiếm tỷ lệ bao nhiêu, bao nhiêu % là sữa bột béo. Đến giờ này chưa ai biết nhà sản xuất nào và có bao nhiêu nhà sản xuất vi phạm, bởi chưa có một sự công bố chính thức nào của cơ quan quản lý ngoài những thông tin mà báo chí tự có được. Kể cả công văn Bộ Y Tế cho biết khi kiểm tra 6 đơn vị, ngoài Vinamilk có tên sản phẩm được nêu ra, còn lại không rõ 5 nhà sản xuất khác là những đơn vị nào. Điều này làm giảm sự tin tưởng của người tiêu dùng vào uy tín cũng như sự minh bạch trong quan hệ giữa cơ quan Nhà nước và các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp đã lợi dụng sự thông thoáng trong các quy định hiện hành về ghi nhãn mác để vô tư “lách luật”, không phải ghi thành phần định lượng. Trên thực tế cũng vẫn còn những doanh nghiệp không tôn trọng khách hàng, vô trách nhiệm với sản phẩm hàng hoá dịch vụ của mình, coi khẩu hiệu “Khách hàng là thượng đế”, “Khách hàng luôn luôn đúng” chỉ là hình thức mà chưa thật sự có trách nhiệm với người tiêu dùng. Các doanh nghiệp đã giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng về hàng hoá, dịch vụ của mình không đúng tiêu chuẩn chất lượng, số lượng, giá cả đã công bố hoặc hợp đồng đã giao kết, thực hiện trách nhiệm bảo hành hàng hoá đối với khách hàng. Nhưng sự giải quyết khiếu nại của doanh nghiệp chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Ví dụ như trong trường hợp doanh nghiệp đã được thông báo là sản phẩm của mình kém chất lượng nhưng hành động của doanh nghiệp không phải là thu lại tất cả những sản phẩm kém chất lượng của mình trên thị trường mà doanh nghiệp chỉ đổi cho khách hàng những sản phẩm khác. Hơn nữa sự phản hồi của doanh nghiệp đối với những thông tin khiếu nại từ phía người tiêu dùng chưa tốt. Doanh nghiệp luôn đổ lỗi cho vấn đề bao gói rồi không đưa ra lời xin lỗi tới người tiêu dùng cũng như không bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng một cách thoả đáng. Ngoài ra, có một số doanh nghiệp xử sự rất tồi trước những khiếu nại của khách hàng. Khách hàng không thể liên lạc với doanh nghiệp để phản ánh tình trạng về sản phẩm của doanh nghiệp. Từ đó làm giảm sút lòng tin của người tiêu dùng đối với doanh nghiệp. Và điều tất yếu sẽ xảy ra là khách hàng có thể quay lưng với sản phẩm cuả doanh nghiệp để tiêu dùng sản phẩm của doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp cần thu thập, nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đóng góp của người tiêu dùng, bồi thường thiệt hại của người tiêu dùng theo quy định của pháp luật. Sau khi báo chí lên tiếng về những vi phạm quy định về ghi nhãn hàng hoá của công ty, Vinamilk đã có công văn gửi cơ quan chức năng vào ngày 10/10/2006 xin điều chỉnh nhãn đúng như công bố “sữa tươi tiệt trùng không đường”. Song tiếc rằng đó chỉ là nhận lỗi và sửa bao bì chứ chưa thực hịên đầy đủ trách nhiệm của nhà sản xuất. Trước những vụ việc vi phạm của các doanh nghiệp sữa, người tiêu dùng có quyền được thông tin, được khiếu nại và bồi thường. Thông tin về sữa tươi không đúng, thứ nhất đã vi phạm pháp luật về quảng cáo, mà ở đây là quảng cáo sai sự thật, lừa dối người tiêu dùng. Người tiêu dùng chỉ có thể lựa chọn chính xác sản phẩm theo đúng nhu cầu của họ khi có được những thông tin chính xác về sản phẩm, thông tin sai dẫn đến người tiêu dùng lựa chọn sai, và bị đánh lạc hướng. Việc làm đó không những phạm pháp mà còn vi phạm đạo đức với người tiêu dùng. Thực tế việc bồi thường cụ thể cho từng người tiêu dùng rất khó khăn vì khó có thể tính xem mỗi người đã tiêu thụ hết bao nhiêu sữa, do đó các doanh nghiệp đã nghĩ tới việc bồi thường cho xã hội bằng cách các công ty này phải nộp phạt khoản tiền nhất định vào tổng doanh thu để làm phúc lợi xã hội. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), doanh nghiệp sữa Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Các hành vi gian lận thương mại là điều không nên có nếu chúng ta không muốn “thua ngay trên sân nhà”, đó cũng là con đường ngắn nhất để doanh nghiệp đẩy khách hàng của mình tới tiêu dùng sản phẩm của các công ty khác. Hiện nay có thể nhận thấy năng lực của các công ty sữa nói chung còn yếu, nhưng không vì vậy mà tham lợi nhuận trước mắt, không quan tâm tới việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bỏ đi uy tín và nguồn thu nhập trong dài hạn của công ty. Việc thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp vẫn còn là vấn đề chưa được quan tâm đúng mức. Việc làm tròn nghĩa vụ với người tiêu dùng , bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa được coi là phương án tạo ra giá trị tài sản vô hình cho doanh nghiệp, tăng uy tín của doanh nghiệp… 4. Thực trạng việc tự bảo vệ quyền lợi của mình từ phía người tiêu dùng 4.1. Hiểu biết của người tiêu dùng về quyền lợi của mình đối với việc sử dụng các sản phẩm nói chung và sản phẩm sữa nói riêng. Tuy nước ta đã bước vào hội nhập, song với người tiêu dùng Việt Nam hiện nay vẫn còn khá nhiều người chỉ muốn làm quen với kinh tế thị trường nên chưa lường hết được những mặt trái của nó, vì vậy thường bị thiệt thòi, rủi ro do thiếu thông tin và nhận thức chưa đầy đủ. Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã được ban hành ( số 13/1999 PL-UBTVQH, ngày 27-04-1994) quy định về quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng. Hội người tiêu dùng các cấp từ trung ương đến địa phương đã được thành lập, đi vào hoạt động và bước đầu thu được những kết quả khả quan. Nhưng những nhận thức của người Việt Nam về quyền lợi của mình vẫn còn hết sức hạn chế. Theo ông Đỗ Gia Phan- Phó chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam nhận xét: “Có lẽ điểm đáng chú ý nhất của người tiêu dùng Việt Nam là còn chưa hiểu đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của mình, họ còn khá dễ dãi khi mua hàng hoá”. Do chưa hiểu biết đầy đủ về quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng, nên người tiêu dùng đang bị thiệt thòi ở cả 8 quyền, và vẫn chưa được bảo vệ đầy đủ. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam như hiện nay, việc nhận thức đầy đủ về quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng có ý nghĩa quan trọng trong việc tự bảo vệ mình và là cơ sở để các doanh nghiệp, các cơ quan Nhà nước có giải pháp hữu hiệu nhất thực hiện bảo vệ quỳên lợi của người tiêu dùng. 4.2.Phản ứng của người tiêu dùng khi quyền lợi trong việc tiêu dùng các sản phẩm sữa bị xâm phạm Người tiêu dùng còn thờ ơ đối với sức khoẻ của chính bản thân và gia đình. Người tiêu dùng có thu nhập thấp thường xuyên mua sữa giá rẻ về uống. Bà Nguyễn Minh Tâm ở quận Thủ Đức cho biết, những công nhân như bà có thu nhập thấp, cuộc sống lại khó khăn thường rất thích mua sữa giá rẻ, chỉ 30.000- 40.000 đ/kg vì hợp với túi tiền còn về chất lượng: “thì nó cũng là sữa mà”. Tại Hà Nội thời gian gần đây cũng xuất hiện một số trường hợp sữa chính hãng kém chất lượng: Chị Phương chủ đại lý sữa 126 Hàng Buồm cho biết một số khách hàng mua sản phẩm sữa O2 trứng gà đã trả lại cửa hàng vì trong sữa có lẫn bột- mà không xác định rõ là bột gì. Người tiêu dùng chỉ cần chủ cửa hàng đổi lại cho hộp sữa khác mà không có yêu cầu gì thêm. Họ không quan tâm đến chất lượng của sản phẩm sữa đó đối với sức khoẻ của chính mình. Đối với người có thu nhập cao thì sản phẩm mà họ lựa chọn là các sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng như Abbott, Mead Johnson…Nhưng họ cũng chưa hiểu biết nhiều về chất lượng của sản phẩm sữa mà mình sử dụng được quy định như thế nào mà họ chỉ đơn giản nghĩ rằng: giá cao đồng nghĩa với chất lượng tốt. Như vậy có thể thấy nhận thức về chất lượng của sản phẩm đối với sức khoẻ của người tiêu dùng chưa cao, do vậy họ chưa tự bảo vệ được quỳên lợi của chính bản thân mình. 4.3. Người tiêu dùng đã làm gì khi quyền lợi của mình bị xâm phạm Việt Nam có Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng nhưng Hội này có đủ sức để bảo vệ khoảng 85 triệu người tiêu dùng và người tiêu dùng có nghĩ đến Hội khi quỳên lợi của họ bị xâm phạm hay không lại là vấn đề mà xã hội phải quan tâm. Thực tế, quyền của người tiêu dùng vẫn bị xâm phạm khi họ sử dụng phải những sản phẩm sữa giả, quảng cáo không trung thực, sữa không đảm bảo chất lượng. Và khi đó điều đáng buồn là không có mấy người tiêu dùng nghĩ đến Hội. Một nghịch lý tồn tại từ bấy lâu nay là số lượng người tiêu dùng áp đảo so với nhà sản xuất và cung ứng hàng hoá, dịch vụ nhưng trong mối quan hệ này người tiêu dùng vẫn luôn bị thiệt thòi. Khi quyền lợi của người tiêu dùng bị xâm phạm thì họ chỉ tìm đến cơ quan báo chí với mong muốn bày tỏ những bức xúc của mình chứ chưa tìm đến Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam để đòi lại quyền lợi chính đáng cho bản thân mình. Trong những năm qua, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng ở nước ta chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, người tiêu dùng nói chung cũng chưa sử dụng được quyền khiếu nại. Chỉ có rất ít khiếu nại đến trực tiếp đến người bán hàng, người cung cấp dịch vụ hoặc tìm đến sự can thiệp của cơ quan chức năng nhằm bảo vệ quyền lợi của mình, còn đại đa số bỏ qua, chấp nhận thiệt thòi. Chính vì vậy, mặc dù con số các vụ khiếu nại thông qua văn phòng khiếu nại không ngừng tăng lên trong vài năm vừa qua nhưng con số 500-600 vụ khiếu nại /1 năm, trong đó có 85% số vụ đã được giải quyết thực sự chưa phản ánh hết những bức xúc của đông đảo người tiêu dùng Việt Nam. Từ cuối năm 2006 đến nay, ở miền Nam chỉ có 4 trường hợp người tiêu dùng gửi đơn khiếu nại, nhiều khách hàng khi mua sản phẩm sữa có vấn đề laị không đến cơ quan khiếu nại, mà âm thầm chịu đựng. Trong 4 trường hợp khiếu nại nói trên, có 2 vụ liên quan đến sữa bột, tất cả đều là sản phẩm chính hãng của Abbott, Vinamilk, Dutch Lady. Sau khi những thông tin về vụ sữa giả vừa được thông báo, một số người tiêu dùng đã tự mua các loại sữa đang có trên thị trường mang đến cơ quan kiểm tra chất lượng sản phẩm để xác định nguồn gốc và chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên kiểm tra những mẫu sữa đóng gói bằng bao bì túi thì thường chất lượng không đạt yêu cầu theo tiêu chuẩn dinh dưỡng của Bộ Y Tế quy định hoặc thông số kỹ thuật ghi trên bao bì. Những trường hợp này do trung tâm kiểm tra theo yêu cầu của khách hàng nên đều trả khách hàng với lời khuyên sang văn phòng khiếu nại người tiêu dùng để giải quyết. Nhiều người tiêu dùng cho rằng chất lượng không tốt thì thôi không mua nữa vì việc đi khiếu nại cũng khá phiền phức. Nguyên nhân của việc tự đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng chưa hiệu quả là do người tiêu dùng thiếu thông tin về sản phẩm, chất lượng hàng hoá, về các văn bản quy định pháp luật của Nhà nước, các cơ quan chức năng có liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và đặc biệt là nhận thức chưa cao về quyền lợi và trách nhiệm của chính mình. Vì vậy người tiêu dùng cần nâng cao nhận thức hơn nữa trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để không để thiệt thòi trong tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ. IV. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong ngành công nghiệp sữa Việt Nam 1. Đánh giá chung về những thành tựu và những hạn chế Trước đổi mới, hầu như quyền lợi của người tiêu dùng Việt Nam nói chung và bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói riêng chưa được chú ý một cách thích đáng, kể cả góc độ người sản xuất kinh doanh hàng hoá và cung ứng dịch vụ lẫn nhận thức của toàn xã hội.Vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa được chú trọng trong thời kỳ này phần nào do những nguyên nhân khách quan nhất định. Bước vào thời kỳ đổi mới, đất nước ta đã chuyển mạnh từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Cũng từ đây, quan hệ mua bán, giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất, kinh doanh và một bên là người bỏ tiền ra mua hàng hoá phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng của cá nhân, gia đình và tổ chức đã được xác lập với vai trò ngày càng được nâng cao của người tiêu dùng. Công tác bảo vệ người tiêu dùng ở thời kỳ này có thể nói đã có những chuyển biến tích cực, nhất là sau khi Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có hiệu lực, với những nỗ lực của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường. Như vậy, có thể nhận thấy trong nền kinh tế hội nhập ngày nay vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang ngày càng trở nên cấp thiết. Các cá nhân, tổ chức dành sự quan tâm ngày càng nhiều cho vấn đề này. Đảng và Nhà nước đã có những cố gắng trong việc bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời đã xây dựng và vận hành khá hiệu quả mạng lưới giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đặc biệt là nhận thức của người tiêu dùng về quyền lợi và trách nhiệm của mình đã được nâng cao. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết, những khó khăn thách thức đối với việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta như luật không đồng bộ, kém hiệu lực, hoạt động của các cơ quan giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng còn nhiều hạn chế, sự yếu kém trong nhận thức và phối hợp hành động của các ngành, các cấp thuộc các cơ quan thực thi pháp luật, thông tin chưa đầy đủ, giáo dục chưa đồng bộ, đặc biệt ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng chưa cao. 2. Nguyên nhân của những tồn tại trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2.1. Với cơ quan quản lý Nhà nước : Hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa hoàn chỉnh: Luật bảo vệ người tiêu dùng chưa có. Các nghị định hướng dẫn chưa chi tiết và cụ thể để có thể đi vào cuộc sống. Các thủ tục hành chính về khiếu nại, tố cáo còn rườm rà, gây khó khăn cho cá nhân, tổ chức khi muốn khiếu nại tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa thực sự hoàn thiện và chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan trong công tác phối hợp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ còn yếu, thiếu cán bộ chuyên trách, cán bộ thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm về cả xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… cho đến kinh nghiệm xử lý vụ việc cụ thể. Mối liên hệ ngược giữa các cơ quan bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và các hiệp hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn chưa được duy trì, sự phối hợp còn lỏng lẻo. Việc nâng cao công tác quản lý chất lượng chưa được chú trọng, không thường xuyên. 2.2. Với các cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Hoạt động tổ chức tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa thực sự phát huy hiệu quả; hướng dẫn triển khai công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại địa phương chưa sâu sát; không có phương án hỗ trợ văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng. Sự phối hợp với Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở trung ương và địa phương chưa chặt chẽ. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: công tác chỉ đạo, đôn đốc các tổ chức cá nhân thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn chưa được quan tâm đúng mức. Công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không thường xuyên và còn nhiều tiêu cực, chưa có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan có liên quan. Các cơ quan chuyên ngành: chưa có những đóng góp lớn trong việc xây dựng văn bản pháp luật, tác động vào chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác thông tin tuyên truyền- giáo dục về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp, tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các kiến nghị về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi quyền hạn hoặc chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để xử lý chưa thực sự có hiệu quả. Hệ thống tiêu chuẩn chất lượng VSATTP chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, không đáp ứng được lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, giám sát tình hình ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm và có nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm. Công tác thông tin và giáo dục và truyền thông VSATTP tại cộng đồng còn yếu và chưa có các văn bản quy phạm pháp luật cho người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Chưa có hệ thống kiểm nghiệm VSATTP tại các Bộ, ngành và phạm vi trên cả nước, mạng thông tin về nhu cầu kiểm nghiệm và quản lý kết quả kiểm nghiệm, cũng như các mô hình điểm bảo đảm VSATTP vận dụng nguyên tắc của các hệ thống quản lý tiên tiến, hợp tác quốc tế về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm và mức đầu tư cho công tác VSATTP từ trung ương đến địa phương chưa đươc nâng cao. Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam – VINASTAS: Ngân sách chi cho các hoạt động quảng bá, tuyên truyền và trả lương cho nhân viên còn hạn hẹp. Thành viên của Hội còn hạn chế về năng lực, trình độ và hiểu biết về quyền lợi và trách nhiệm của người tiêu dùng. Mức độ tuyên truyền, thông tin, hướng dẫn người tiêu dùng dưới các hình thức còn hạn chế do chưa có sự phối hợp với các cơ quan truyền thông, chưa có trang thông tin riêng để tuyên truyền, phổ biến thông tin tới người tiêu dùng, chưa có kế hoạch kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước về những chủ trương, chính sách, phương hướng kế hoạch và biện pháp nhằm phát triển hơn nữa công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đối với Doanh nghiệp: Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa nói riêng ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao, đặc biệt là Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật dân sự, Luật thương mại, Luật sở hữu trí tuệ; pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Pháp lệnh đo lường, Pháp lệnh chất lương hàng hoá. các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, phải thông tin quảng cáo chính xác và trung thực. Doanh nghiệp chưa chú trọng công tác nâng cao chất lượng hàng hoá.Doanh nghiệp chưa quan tâm, chú trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người tiêu dùng, đặc biệt trong việc thực hiện cam kết bảo hành, giải quyết khiếu nại từ phía người tiêu dùng. Chưa phối hợp và tham gia chống lại các hành vi lừa dối người tiêu dùng như sản xuất kinh doanh hàng giả , hàng nhái, hàng kém chất lượng…và phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc phát hiện, thanh tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, quy định về ghi nhãn hàng hoá, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng: những hiểu biết cơ bản về quyền và nghĩa vụ của người tiêu dùng còn hạn chế. Không tích cực tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm do Cục Quản lý cạnh tranh và các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng tổ chức để có thể phân biệt hàng giả, hàng thật, hàng kém chất lượng; đồng thời nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm của mình, và thu thập thông tin mới về tình hình vi phạm quyền của người tiêu dùng. Người tiêu dùng cũng không cân nhắc kỹ càng trước khi mua những hàng không rõ nguồn gốc hay có những dấu hiệu của hàng giả, hàng không bảo đảm chất lượng. Vẫn còn tâm lý thích dùng hàng rẻ tiền mà chưa chú ý tới chất lượng sản phẩm và sự ảnh hưởng tới môi trường sống và thuần phong mỹ tục của dân tộc, gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và cộng đồng. Tâm lý e ngại đến các cơ quan và tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng để đưa ra ý kiến phê bình hay kiến nghị về việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và lên tiếng bảo vệ mình thông qua các cơ quan ngôn luận. Chưa có ý thức tố cáo với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về hành vi của tổ chức, các nhân sản xuất, kinh doanh xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, những hành vi vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm của cơ quan Nhà nước hay viên chức chịu trách nhiệm về bảo về người tiêu dùng. Hiểu biết của người tiêu dùng còn hạn chế về các thủ tục hành chính liên quan tới khiếu nại, tố cáo các hành vi gian lận thương mại; Không có sự phối hợp với các cơ quan, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình khiếu nại, tố cáo. Hơn nữa người tiêu dùng chưa quen với việc đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng, thông tin, quảng cáo sai sự thật. Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng I.Với cơ quan quản lý Nhà nước Đối với bất kỳ một xã hội pháp quyền nào, một lĩnh vực, một đối tượng nào đó cần phải được quy định bằng luật pháp. Để bảo vệ người tiêu dùng các nước đều ban hành luật bảo vệ người tiêu dùng. Ở Việt Nam hiện nay, Luật bảo vệ người tiêu dùng chưa có, đây là một bất cập cần được khắc phục. Vì trên cơ sở Luật và các văn bản dưới Luật, các văn bản quy phạm khác điều chỉnh thì các cơ quan thực thi pháp luật mới có cơ sở triển khai thực hiện, sức mạnh của bộ máy chính quyền mới phát huy tác dụng. Việc thiếu các văn bản pháp luật điều chỉnh các yếu tố thị trường, trong đó quyền lợi người tiêu dùng là một trong những bất lợi của chúng ta, ảnh hưởng lớn tới sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp cũng như cả nền kinh tế, nhất là trong điều kiện đã trở thành thành viên của WTO. * Các nghị định hướng dẫn cần phải cụ thể hơn để có khả năng thực thi cao. Cần phải bổ sung, sửa đổi Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và nâng lên thành Luật cho phù hợp với tình hình mới nhằm tạo điều kiện thuận lợi và nâng cao tầm quan trọng của công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Bên cạnh đó cần nâng cao tính minh bạch của Pháp lệnh Bảo vệ người tiêu dùng, đồng thời tạo hành lang pháp lý thuận lợi để góp phần phát triển môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người kinh doanh, người tiêu dùng, phát huy tối đa năng lực của mọi thành phần kinh tế phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại nói chung và vấn đề bảo vệ người tiêu dùng nói riêng của Việt Nam. * Đơn giản hoá các thủ tục hành chính để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong việc khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật nói chung và các hành vi gian lận thương mại nói riêng, vi phạm tới quyền lợi của người tiêu dùng. * Nâng cao năng lực của bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Cơ quan được giao nhiệm vụ giúp Bộ trưởng Bộ Thương Mại thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là Cục Quản lý cạnh tranh đã thành lập Ban Bảo vệ người tiêu dùng, nhưng đội ngũ cán bộ còn rất hạn chế, công việc luôn trong tình trạng quá tải. Nguồn nhân lực và tài chính hạn chế của bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng là những khó khăn rất lớn cho việc nâng cao hiệu quả công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Ở các địa phương, tình hình cũng không khả quan hơn. Tình trạng cán bộ kiêm nhiệm, thậm chí một số nơi không có cán bộ chuyên trách, cán bộ thiếu kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm về cả xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng… cho đến kinh nghiệm xử lý vụ việc cụ thể. Điều này đã làm cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng chưa thực sự có hiệu quả. Để nâng cao năng lực cho bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần phải ưu tiên và triển khai cho những việc sau: * Kiện toàn bộ máy bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bao gồm Cục quản lý cạnh tranh và hệ thống các Sở Thương mại / Sở Thương mại- Du lịch các tỉnh, thành phố (phấn đấu có cán bộ, chuyên viên chuyên trách công tác bảo vệ người tiêu dùng) cho đến các cơ quan khác có liên quan. Bên cạnh đó, cần có sự hỗ trợ hết sức không những cho Hội Tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng trung ương và địa phương để mở rộng phạm vi của các hội và văn phòng khiếu nại đã được thành lập mà còn phải hỗ trợ cho việc thành lập và phát triển các hội và văn phòng khiếu nại ở các khu vực mà điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn. * Đào tạo nguồn nhân lực và cải thiện cơ sở vật chất cũng như tăng thêm kinh phí hoạt động thích đáng cho công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, chú trọng tăng cường năng lực thực thi và đào tạo cán bộ làm công tác bảo vệ người tiêu dùng không chỉ tại các tỉnh, thành phố lớn mà còn cho các vùng sâu, vùng xa về các kiến thức, kinh nghiệm cơ bản và cập nhật những yêu cầu, đòi hỏi của thời kỳ mới như hội nhhập kinh tế quốc tế và bảo vệ người tiêu dùng. * Thiết lập một hệ thống liên lạc giữa Cục Quản lý cạnh tranh, các Sở Thương mại và du lịch, hội Bảo vệ người tiêu dùng trung ương cũng như địa phương và duy trì sự ủng hộ, hợp tác của các cơ quan liên quan như Quản lý thị trường, tiêu chuẩn đo lường- chất lượng, tài nguyên – môi trường… - công tác bảo vệ người tiêu dùng đòi hỏi sự phối hợp liên ngành do liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau như cạnh tranh, quản lý thị trường, đo lường, chất lượng, vệ sinh anh toàn thực phẩm… Hơn nữa, đặc thù của công tác bảo vệ người tiêu dùng là cần ưu tiên cho việc cung cấp thông tin và nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các quyền và trách nhiệm của họ. Do đó, công tác bảo vệ người tiêu dùng không chỉ đòi hỏỉ sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan mà còn cần sự tham gia của các cơ quan thông tin đại chúng cũng như chính bản thân người tiêu dùng cũng đạt hiệu quả cao nhất. * Tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá dịch vụ Ở đây thực chất là làm cho chất lượng hàng hoá, dịch vụ đưa đến tay người tiêu dùng được bảo đảm đúng như giá trị của nó, chống lại thủ đoạn “ treo đầu dê bán thịt chó” của một số nhà sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Có nhiều biện pháp để tăng cường công tác quản lý như: tăng thêm quyền cho các tổ chức đo lường chất lượng, Cục Quản lý cạnh tranh, các cơ quan thanh tra, giám sát, quản lý thị trường,… Công tác quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ được nâng cao sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đồng thời đảm bảo chhất lượng sản phẩm hàng hoá cho người tiêu dùng, đảm bảo việc thực hiện tốt hơn hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. * Xây dựng và phát triển mạng lưới giám sát thực thi pháp luật nhiều chiều, nhiều tầng Việc xây dựng mạng lưới giám sát thực thi pháp luật nhiều chiều, nhiều tầng đối với việc quản lý chất lượng hàng hoá, dịch vụ, nhằm bảo vệ người tiêu dùng là hết sức quan trọng. Mạng lưới này không chỉ gồm các cơ quan thực thi pháp luật mà còn phải gồm các tổ chức xã hội, các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan báo chí truyền thông, các hội đoàn. Có như vậy mới có thể đấu tranh hiệu quả chống lại nạn hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, chống lừa đảo trong đo lường,… bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Trong thời gian gần đây, với hoạt động tích cực của cơ quan báo chí và truyền thông, các hội đoàn, nhiều việc làm khuất tất nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực đã bị phát hiện. Điều đó chứng minh rằng, chỉ khi có mạng lưới giám sát nhiều chiều, nhiều tầng, cộng với sự vào cuộc của mọi tầng trong xã hội thì quyền lợi của người tiêu dùng mới được bảo vệ hiệu quả. * Tăng cường thông tin, hướng dẫn, phổ biến, giáo dục nâng cao khả năng tự bảo vệ của người tiêu dùng Việc tăng cường thông tin, hướng dẫn, phổ biến, giáo dục nâng cao khả năng tự bảo vệ của người tiêu dùng là vô cùng cần thiết và quan trọng. Trong khi các chế tài chưa hoàn thiện, các cơ cấu tổ chức thực thi pháp luật chưa đủ mạnh và còn thiếu kinh nghiệm thì việc mỗi người tiêu dùng tự ý thức bảo về quyền lợi của mình trước các thủ đoạn lừa đảo, ép buộc từ phía các nhà sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ là rất cần thiết. Với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống thông tin, báo chí, tuyên truyền của nước ta hiện nay, việc giáo dục ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng hết sức thuận lợi. Ngoài ra, các tổ chức phi chính phủ cần phải phối hợp với các nhà sản xuất tổ chức các hội chợ, triển lãm hàng giả, hàng thật để trang bị cho người tiêu dùng những kiến thức để bảo vệ quyền lợi của mình. * Tăng cường hợp tác quốc tế Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, với sự xuất hiện của tội phạm xuyên quốc gia, những cơ sở, cá nhân làm hàng giả, hàng nhái đang tăng cường hoạt động và tìm mọi cách để tránh sự phát triển của chính phủ. Việc tăng cường hợp tác quốc tế, trong vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là hết sức cần thiết. Việc hợp tác đó không chỉ dừng ở mức giữa các cơ quan chức năng của Chính phủ mà cần phải được mở rộng đến các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xã hội. Nội dung hợp tác không chỉ dừng ở mức trao đổi, cung cấp thông tin mà cần phối hợp chặt chẽ trong hành động, giám sát, kiểm tra. Chỉ có như vậy, mới có thể đấu tranh hiệu quả tệ hàng giả, hàng nhái trên quy mô rộng lớn hiện nay, phục vụ tốt hơn công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. II. Với các cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 1.Cục Quản lý cạnh tranh Cục Quản lý cạnh tranh là cơ quan trực thuộc Bộ Thương Mại thực hiện chức năng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Để nâng cao hiệu quả của việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Cục nên không ngừng tích cực triển khai một số biện pháp sau đây: Tổ chức hướng dẫn, tuyên truyền phổ biến pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Hướng dẫn triển khai công tác bảo vệ người tiêu dùng tại các tỉnh, thành phố. Xây dựng phương án hỗ trợ văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng. Phối hợp chặt chẽ với Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng TW và các Hội địa phương để đẩy mạnh hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Một số biện pháp để phát triển cơ quan và mạng lưới bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong tương lai: Bộ Thương Mại tiếp tục hướng dẫn và kiểm tra việc triển khai công tác của các Sở Thương mại / Sở Thương mại- du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật bảo vệ người tiêu dùng…thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Xây dựng và cung cấp thông tin về công tác bảo vệ người tiêu dùng trên website của Cục Quản lý cạnh tranh. Thúc đẩy việc đưa nội dung tiêu dùng tiết kiệm bền vững vào chương trình giáo dục trong trường học. Để làm được điều này, bên cạnh những nỗ lực của Cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Thương Mại, và các Sở Thương Mại / Sở Thương Mại – Du lịch, sự phối hợp chặt chẽ tích cực của các Bộ, Ngành, cơ quan báo chí, các tổ chức bảo về người tiêu dùng cũng như chính bàn thân người tiêu dùng. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc TW Tăng cường chỉ đạo, đôn đốc các tổ chức, cá nhân thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên địa bàn. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan có liên quan trong hoạt động động kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo và các kíên nghị về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi quyền hạn hoặc chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để xử lý. Các cơ quan chuyên ngành Các cơ quan chuyên ngành bao gồm các cơ quan có liên quan như Bộ Khoa học công nghệ, Bộ Y tế, Bộ Văn hoá thông tin, Bộ Công nghiệp… Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ trong chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải phối hợp chặt chẽ với Bộ Thương Mại hơn nữa để thực hiện tốt những nhiệm vụ sau đây: - Góp ý kiến cho các văn bản pháp luật của Nhà nước không những là nghĩa vụ và quyền lợi của các cơ quan chuyên ngành mà với các hội bảo vệ người tiêu dùng còn là trách nhiệm với người tiêu dùng, một phương tiện để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tác động vào chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước là một cách bảo vệ người tiêu dùng từ gốc và có tác dụng bao trùm, rộng khắp và lâu dài. - Xây dựng trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật của phạm vi ngành, lĩnh vực của mình quản lý có liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. - Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục- truyền thông về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. - Chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi ngành, lĩnh vực mà mình quản lý. - Giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong phạm vi thẩm quyền được phân cấp. Trong thời gian tới, các cơ quan chuyên ngành nên tăng cường năng lực quản lý và xây dựng hệ thống tổ chức quản lý về sinh an toàn thực thẩm (VSATTP). Một số giải pháp có thể thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả của công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo chất lượng sản phẩm hàng hoá, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng: Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chất lượng VSATTP phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, đáp ứng lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Giám sát tình hình ô nhiễm thực phẩm, ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm và có nguy cơ gây ô nhiễm thực phẩm. Xây dựng hệ thỗng giám sát ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm và tham gia hệ thống giám sát ô nhiễm thực phẩm và ngộ độc thực phẩm quốc tế. Đẩy mạnh công tác thông tin và giáo dục và truyền thông VSATTP tại cộng đồng: Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về VSATTP và các văn bản quy phạm pháp luật cho người sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm. Xã hội hoá công tác truyền thông VSATTP và phát triển đội ngũ cộng tác viên tuyên truyền về VSATTP. Xây dựng và phát triển hệ thống kiểm nghiệm VSATTP tại các Bộ, ngành và phạm vi trên cả nước. Xây dựng mạng thông tin về nhu cầu kiểm nghiệm và quản lý kết quả kiểm nghiệm. Đẩy mạnh công tác kiểm tra thanh tra việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về VSATTP Tăng cường các hoạt dộng phối hợp liên ngành trong hoạt động kiểm soát VSATTP và xây dựng các mô hình điểm bảo đảm VSATTP vận dụng nguyên tắc của các hệ thống quản lý tiên tiến; mở rộng áp dụng các mô hình trong các cơ sở sản xuất và cộng đồng. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phục vụ công tác quản lý VSATTP. Tăng cường hợp tác quốc tế về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Nâng cao mức đầu tư cho công tác VSATTP từ trung ương đến địa phương. Hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam – VINASTAS Nâng cao hoạt động hiệu quả hoạt động của hội tiêu chuẩn và bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam – VINASTAS để giải quyết vấn đề bảo vệ người tiêu dùng Nghiên cứu tổ chức hoạt động cho mọi thành viên của Hội : hoạt dộng của ban chấp hành Hội cần gắn kết tốt hơn với các ngành hữu quan thông qua các đại diện trong Hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp: Nhà nước và nhân dân. Hoạt động của các chi hội và hội viên: vận động hướng dẫn người tiêu dùng biết cách tự bảo vệ trong tiêu dùng tham gia các hoạt dộng nâng cao nhận thức trong tiêu dùng, biết cách tố cáo các hoạt đọng vi phạm quyền của người tiêu dùng. Phối hợp các hoạt động đời sống văn hoá ở khu dân cư. Đưa vào quy chế xây dựng khu phố văn hoá nội dung về bảo vệ người tiêu dùng, chống buôn bán không trung thực có hại cho người tiêu dùng. Phối hợp hợp lý các hoạt động khuyến khích nhà sản xuất kinh doanh lành mạnh có trách nhiệm và thông tin trung thực cho người tiêu dùng. Tăng cường sự hỗ trợ, phối hợp giữa các thành viên trong liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh; tranh thủ sự hỗ trợ và phối hợp của các thành viên VINASTAS. Tăng cường hoạt động của văn phòng khiếu nại của người tiêu dùng, phối hợp với các cơ quan chức năng giải quyết có hiệu quả các khiếu nại. Thông tin giáo dục cho người tiêu dùng cần tiếp tục phát huy các kết quả đã đạt được, mở rộng cả nội dung và hình thức để đạt hiệu quả hơn. Tạo nguồn thu cho Hội thông qua hoạt động nhận viện trợ của các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để có ngân sách chi cho các hoạt động quảng bá, tuyên truyền và trả lương cho nhân viên, đồng thời thu hút các thành viên trẻ tuổi có năng lực, trình độ, và hiểu biết về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng. Tăng cường, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, thông tin, hướng dẫn người tiêu dùng dưới nhiều hình thức: bài viết, trả lời phỏng vấn đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng, biên soạn các bản hướng dẫn gửi các Hội địa phương, tổ chức các cuộc hội thảo, triển lãm… Hợp tác chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng để đưa tới người tiêu dùng nhiều thông tin chính xác, kịp thời và đúng đắn về các vấn đề liên quan tới người tiêu dùng. Thường xuyên tổ chức các cuộc họp báo nhằm thông tin về các hoạt động của Hội và của Cục Quản lý cạnh tranh trong việc đẩy mạnh công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cần coi trọng hơn nữa công tác phản biện xã hội, trước hết là phản biện cho các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; tham gia ý kiến vào sửa đổi và bổ sung các quy định pháp luật đối với luật tiêu chuẩn và quy chuẩn, luật về chất lượng hàng hoá, nghị đình và thông tư hướng dẫn về ghi nhãn hàng hoá. Hội tham gia và kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước về những chủ trương, chính sách, phương hướng kế hoạch và biện pháp nhằm phất triển hơn nữa công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng . Hội đại diện cho người tiêu dùng trong các khiếu nại, tranh chấp nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của họ trong truờng hơpự được uỷ nhiệm. Khi quyền lợi người tiêu dùng bị xâm phạm thì hội trực tiếp hoặc thông qua đại diện của mình thực hiện việc khiếu nại,tố cáo, khởi kiện theo quy định của phấp luật về khiếu nại , tố cáo. Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng , tiếp nhận các khiếu nại của người tiêu dùng và tổ chức hoà giải với tổ chức,các cá nhân sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của người tiêu dùng, Hội hướng dẫn, giúp đỡ họ đưa khiếu nại tới cá cơ quan có thẩm quyền dể giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với Doanh nghiệp Trong điều kiện nền kinh tế cạnh tranh hiện nay, quyền lợi của người tiêu dùng phải được đặt lên hàng đầu, có lúc còn cao hơn cả lợi nhuận của doanh nghiệp, là điều kiện “ sống còn” của doanh nghiệp. Cho dù với phạm vi nào thì cũng phải đảm bảo mục tiêu đã đề ra là sản phẩm được chọn phải đúng thực chất, chất lượng và an toàn . Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh sữa nói riêng cần phải tuân thủ pháp luật, đặc biệt là Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật dân sự, Luật thương mại, Luật sở hữu trí tuệ; Pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Pháp lệnh đo lường, Pháp lệnh chất lương hàng hoá. Ngoài ra, các doanh nghiệp phải bảo đảm các tiêu chuẩn chất lượng của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, phải thông tin quảng cáo chính xác và trung thực; đồng thời phải giải quyết kịp thời mọi khiếu nại của người tiêu dùng theo quy định của pháp luật. Quy chuẩn Việt Nam quy định các chỉ tiêu và mức giới hạn của đặc trưng kỹ thuật và yêu cầu quản lý nhằm bảo đảm an toàn vệ sinh, sức khoẻ con người, bảo vệ động thực vật, môi trường, bảo vệ lợi ích và an ninh quốc gia,quyền lợi người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác . Doanh nghiệp cần kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động công nhận và hoạt động chứng nhận sự phù hợp : tổ chức công nhận và các tổ chức chứng nhận sự phù hợp thông lệ quốc tế và phục vụ tốt các yêu cầu của cơ quan Nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá nói chung và sản phẩm sữa nói riêng nói cũng như yêu cầu sản xuất kinh doanh được quốc tế thừa nhận. * Hoàn thiện về cơ chế, phương thức và tổ chức bảo đảm khả năng kiểm soát tốt đối với chất lượng hàng hoá nói chung và hàng nhập khẩu, phòng ngừa và ngăn chặn hàng hoá kém chất lượng không bảo đam an toàn, chống gian lận thương mại, không làm ảnh hưởng tói hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. * Xây dựng các trung tâm, phòng thí nghiệm mang tầm quốc gia và quốc tế đủ năng lực để thử nghiệm chất lượng hàng hoá nói chung và chất lượng sản phẩm sữa nói riêng, bảo đảm có thể thử nghiệm, phân tích, đánh giá được chất lượng của hàng hoá cũng như những rủi ro , nguy cơ tiềm ẩn của chúng đối với con người và môi trường. * Xây dựng cho doanh nghiệp một văn hoá kinh doanh lành mạnh , cần nhìn nhận người tiêu dùng như là một nhân toó cho sự pát triển bền vững xủa chính bản thân doanh nghiệp cũng như toàn xã hội. Doanh nghiệp cần tăng cường giúp đỡ người tiêu dùng hiểu rõ về pháp lệnh bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có thêm thông tin khi lựa chọn , sủ dụng hang hoá dịch vụ; cách thức bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Doanh nghiệp phải chú trọng lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người tiêu dùng, đặc biệt trong việc thực hiện cam kết bảo hành, giải quyết khiếu nại từ phía người tiêu dùng. Tham gia chống lại các hành vi lừa dối người tiêu dùng như sản xuất kinh doanh hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng…Phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước, Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong việc phát hiện, thanh tra, giám sát việc tuân thủ các quy định về tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá, quy định về ghi nhãn hàng hoá, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng . Đối với người tiêu dùng Người tiêu dùng phải có những hiểu biết cơ bản về quyền và nghĩa vụ của mình một cách toàn diện: người tiêu dùng cần tự bảo vệ mình trong việc tiêu dùng hàng hoá dịch vụ gây tổn hại tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục, gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và cộng đồng. * Tham gia các cuộc hội chợ, triển lãm do Cục Quản lý cạnh tranh và các hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng tổ chức để có thể phân biệt hàng giả, hàng thật, hàng kém chất lượng; đồng thời nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm của mình, và thu thập thông tin mới về tình hình vi phạm quyền của người tiêu dùng. * Người tiêu dùng cũng cần cân nhắc kỹ càng trước khi mua những hàng không rõ nguồn gốc hay có những dấu hiệu của hàng giả, hàng không bảo đảm chất lượng. Không tiêu dùng các hàng hoá, dịch vụ kém chất lượng, các sản phẩm gây tổn hại đến môi trường, trái với thuần phong mỹ tục, gây nguy hại đến tính mạng, sức khoẻ của mình và cộng đồng. * Phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, các hành vi gian dối về đo lường, chất lượng, nhãn hiệu hàng hoá, giá cả và các hành vi lừa dối khác của các tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ, gây thiệt hại cho mình và cộng đồng theo quy định của pháp luật. Đưa ra ý kiến phê bình hay kiến nghị về việc thực hiện các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và lên tiếng bảo vệ mình thông qua các cơ quan ngôn luận, cũng như tố cáo với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền về hành vi của tổ chức, các nhân sản xuất, kinh doanh xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng, những hành vi vi phạm pháp luật, thiếu trách nhiệm của cơ quan Nhà nước hay viên chức chịu trách nhiệm về bảo về người tiêu dùng. Người tiêu dùng cần tự ý thức bảo vệ quyền lợi của mình trước các thủ đoạn lừa đảo, ép buộc từ phía các nhà sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Hiểu về các thủ tục hành chính liên quan tới khiếu nại, tố cáo các hành vi gian lận thương mại. Cần phối hợp với các cơ quan, tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trong quá trình khiếu nại, tố cáo. * Đòi bồi hoàn, bồi thường thiệt hại, khiếu nại, tố cáo, khởi kiện theo quy định của pháp luật đối với việc sản xuất, kinh doanh hàng cấm, hàng giả, hàng không đúng tiêu chuẩn, chất lượng, số lượng và việc thông tin, quảng cáo sai sự thật và yêu cầu tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh bảo đảm chất lượng hàng hoá, thuộc nhu càu thiết yếu về ăn, mặc, ở, vảo vệ sức khoẻ, bảo vệ môi trường và các hàng hoá, dịch vụ khác đã đăng ký, công bố. KẾT LUẬN Như vậy, có thể nhận thấy trong nền kinh tế hội nhập ngày nay vấn đề bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đang ngày càng trở nên cấp thiết. Các cá nhân, tổ chức dành sự quan tâm ngày càng nhiều cho vấn đề này. Đảng và Nhà nước đã có những cố gắng trong việc bổ sung, hoàn chỉnh pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời đã xây dựng và vận hành khá hiệu quả mạng lưới giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,. Đặc biệt là nhận thức của người tiêu dùng về quỳên lợi và trách nhiệm của mình đã được nâng cao. Bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết, những khó khăn thách thức đối với việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở nước ta như luật không đồng bộ, kém hiệu lực, hoạt động của các cơ quan giám sát, thực thi pháp luật bảo vệ người tiêu dùng còn nhiều hạn chế, sự yếu kém trong nhận thức và phối hợp hành động của các ngành, các cấp thuộc các cơ quan thực thi pháp luật, thông tin chưa đầy đủ, giáo dục chưa đồng bộ, đặc biệt ý thức tự bảo vệ của người tiêu dùng chưa cao. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng cần có các giải pháp đồng bộ, nhất quán cả trong lĩnh vực lập pháp, hành pháp, tư pháp, được cả hệ thống chính trị thực thi nghiêm túc và có sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị xã hội. Việc đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức có liên quan, cũng như giữa Nhà nước với doanh nghiệp, các tổ chức nhằm nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, giúp đỡ họ thực hiện quyền và trách nhiệm của mình. Danh mục tài liệu tham khảo Luật doanh nghiệp (2005) Luật sở hữu trí tuệ Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ban hành 1999, được ban hành năm 1999 và luật cạnh tranh có hiệu lực từ 1/7/2005 Pháp lệnh Chất lượng hàng hoá- Ban hành ngày 4/1/2000 Nghị định của chính phủ quy định chi tiết thi hành pháp lệnh bảo vêh quyền lợi của người tiêu dùng Nghiên cứu người tiêu dùng - Những vấn đề về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam. Nxb Khoa học và kỹ thuật Trang wed http:// www.tbtvn.org Trang wed http:// www.moi.gov.vn Trang wed http:// www.tcvn.gov.vn Bài viết “Khi bị lừa người tiêu dùng nên làm gì?”- http:// www.vietnamnet.com.vn Bài viết “ Quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam: một năm nhìn lại”- Trần Nhã. Tạp chí người tiêu dùng Bài viết “Tổng kết 1 năm công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”- Hội tiêu chuẩn và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam- Tạp chí người tiêu dùng Việt Nam. “Phát triển hoạt động xã hội bảo vệ người tiêu dùng” -Nguyễn Minh Tâm- Hội người tiêu dùng Lâm Đồng “Bàn về quyền được lắng nghe của người tiêu dùng”- Trần Chính Việt - Tạp chí người tiêu dùng. MỤC LỤC Lời mở đầu……………………………………………………………………..1 Chương I. Những vấn đề chung trong việc đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam I. Sự cần thiết của việc đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng …………………..3 II. Nội dung của việc đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng……………………4 1.Quyền lợi của người tiêu dùng ………………………………………………….4 2. Nội dung của từng quyền và nhận thức của các đối tượng liên quan………………5 III. Nguyên tắc đảm bảo lợi ích người tiêu dùng ……………………………..17 1. Đối với Nhà nước ……………………………………………………………..17 2. Đối với tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ…………………18 3. Đối với Hội bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng …………………………………..19 Chương II. Thực trạng của việc bảo vệ quỳên lợi người tiêu dùng đối với sản phẩm sữa Việt Nam I. Tổng quan ngành sữa………………………………………………………...20 1. Sản phẩm và thị trường trong những năm 2001-2005 và định hướng phát triển những năm 2020………………………………………………………………………...20 2. Cơ hội phát triển………………………………………………………………20 3. Thị trường sữa Việt Nam là thị trường còn rất hấp dẫn cho các công ty gia nhập ngành……………………………………………………………………………21 4. Mục tiêu tổng quát…………………………………………………………….22 II. Đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng nhìn từ góc độ quản lý Nhà nước…….24 1. Thành tựu đạt được……………………………………………………………24 2. Những vấn đề còn tồn tại………………………………………………………………26 III. Các cơ quan , tổ chức bảo vệ người tiêu dùng …………………………… 29 1. Hội người tiêu dùng Việt Nam …………………………………………….……………29 2. Các cơ quan quản lý Nhà nước với hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Việt Nam ……………………………………………………………….……………31 3. Doanh nghiệp trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ………………………34 4. Thực trạng việc tự bảo vệ quyền lợi của mình từ phía người tiêu dùng …………...37 IV. Đánh giá chung về thực trạng bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong ngành sữa Việt Nam …………………………………………………………………..42 1. Đánh giá chung về những thành tựu và hạn chế…………………………………42 2. Nguyên nhân của những tồn tại trong bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ………….43 Chương III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng I. Với cơ quan quản lý Nhà nước ……………………………………………...45 II. Với các cơ quan, tổ chức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ……………….51 Kết luận………………………………………………………………………..60 Tài liệu tham khảo…………………………………………………………….61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35897.doc
Tài liệu liên quan