Trong những năm qua, NHNN Việt Nam đã khá thành công trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ. Để đạt được điều đó thực sự ngân hàng nhà nước đã rất cố gắng và nhạy cảm với sự biện đổi của nền kinh tế. Thật vậy, Nền kinh tế giống như một con ngựa không thuần mà ngân hàng nhà nước là người cưỡi ngựa, người cưỡi ngựa này có trong tay chiếc roi là công cụ chính sách tiền tệ. NHNN Việt Nam đã thực sự là một người cưỡi ngựa tài tình, họ có thể điều khiển con ngựa – nền kinh tế này bằng nghệ thuật, sự nhanh nhạy, dự đoán sự biến đổi của nền kinh tế.
36 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1898 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong điều tiết lượng tiền cung ứng.
Tuy nhiên hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM.
2.2 Lãi suất.
2.2.1Khái niệm về lãi suất.
Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỷ lệ % của phần tăng thêm này so với phần vốn ban đầu được gọi là lãi suất. Hàng hoá có giá cả, việc sử dụng vốn vay trong một thời gian cũng có giá cả của nó. Như vậy: “lãi suất là giá cả của quyền lực được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó”.
Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá trị lớn hơn đồng tiền nhận được trong ngày mai. Khi người cho vay chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác nghĩa là anh ta hi sinh đi chi phí cơ hội của việc anh ta sử dụng tiền. Có thể nói lãi suất mà người cho vay nhận được tương đương với chi phí cơ hội của việc giữ tiền của anh ta. Như vậy lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cá nhân do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định sự lựa chọn của họ: đều cùng một lượng tiền họ có thể cất trong túi, mua sắm hoặc đầu tư hay gửi tiết kiệm. . . Xét trên phạm vi toàn xã hội thì quyết định này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được quản lý và theo dõi chặt chẽ trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng.
2.2.2.Cơ chế tác động
Lãi suất là công cụ thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua công cụ lãi suất, NHTW có thể thực hiện mục tiêu thắt chặt hoặc mở rộng tiền tệ, thực hiện mục tiêu kìm hãm và kiểm soát lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi NHTW tăng lãi suất thì nhu cầu đầu tư giảm dẫn đến cầu tín dụng giảm dẫn đến lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi suất giảm thì MS tăng lên.
2.2.3.Ưu nhược điểm
Công cụ lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ tác động trực tiếp mạnh mẽ đến tổng tiền cung ứng. Tuy nhiên với việc ấn định mức lãi suất thì nó làm giảm mạnh mẽ tính linh hoạt của thị trường tiền tệ. Bởi vậy xu thế hiện nay, để khắc phục hạn chế đó các quốc gia đều hướng tới tự do hoá lãi suất.
2.3. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái với những thuộc tính đặc biệt của nó là một trong những yếu tố tác động tới hoạt động của nền kinh tế. Tuỳ theo sự thay đổi của nó mà tác động tích cực hay tiêu cực tới các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và mối quan hên kinh tế với các nước khác trên thế giới. Bởi vậy các quốc gia ngày nay luôn phải nỗ lực tìm ra cho mình chính sách tỷ giá, những biện pháp quản lý ngoại tệ tối ưu nhằm thực hiện những mục tiêu mà chính sách tiền tệ đặt ra.
2.3.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái
Về hình thức, tỷ giá hối đoái là giá đơn vị tiền tệ của một nước được biểu hiện bằng các đơn vị tiền tệ nước ngoài; là hệ số đồng tiền này sang đồng tiền khác, được xác định bằng mối quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ.
Về nội dung, tỷ giá hối đoái là phạm trù kinh tế bắt nguồn từ nhu cầu trao đổi hàng hoá, dịch vụ phát sinh trực tiếp từ tiền tệ, quan hệ tiền tệ( sự vận động của vốn, tín dụng. . .) giữa các quốc gia. Ví dụ: Tỷ giá giữa đồng đô la Mỹ so với đồng Việt nam ngày 7 / 9 / 2002 như sau:
VND / USD = 15.320 có nghĩa là 1USD đổi được 15.320 đồng Việt nam.
2.3.2. Cơ chế tác động của tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái đóng vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định đưa nền kinh tế đất nước hoà nhập vào quá trình phân công lao động quốc tế. Đồng thời khi thông qua tỷ giá hối đoái, người ta có thể đánh giá về sự ổn định của đồng tiền bản tệ và sự phát triển lành mạnh của nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái tăng tức là số lượng nội tệ đổi lấy một đơn vị ngoại tệ tăng hay đồng nội tệ mất giá.
phần II: Thực trạng sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ trong thời gian từ những năm 90 đến nay
I. Vài nét về tình hình hoạt động của NHNN Việt Nam trong thời gian qua.
Theo nghị định 53 ngày 26 /3 /1988 hệ thống NH chia làm 2 cấp: Ngân hàng Nhà nước hoạt động với tư cách là NH độc quyền phát hành tiền, là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và là cơ quan quản lý ngoại hối của Nhà nước. Với chức năng như vậy NHNN Việt nam thực sự trở thành một NHTW.
Pháp lệnh NHNN 5 /1990 thực sự đánh dấu bước đổi mới căn bản hoạt động của hệ thống NH Việt nam và khẳng định lại sự đúng đắn của cải cách NH trong nghị định 53.
Trong thời gian qua, để thực hiện vai trò là một NHTW Ngân hàng Nhà nước việt nam đã không ngừng đổi mới cho phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng XHCN. Nhờ đó toàn bộ hệ thống tổ chức và hoạt động của NH Việt nam đã được đổi mới sâu sắc và đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ. Nhờ đổi mới toàn diện chính sách tiền tệ từ hoạch định đến chỉ đạo bằng việc sử dụng các giải pháp tình thế mạnh dạn lúc đầu đến sử dụng từng bước có hiệu quả các công cụ cuả chính sách tiền tệ lạm phát đẩy lùi và kiềm chế ở mức thấp, yêu cầu ổn định tiền tệ bước đầu được thực hiện góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Cụ thể trong thời gian từ năm 90 trở lại NHNN có các hoạt động chủ yếu sau:
Về huy động vốn: Huy động qua NH được phát động mạnh mẽ, liên tục suôt thời kỳ 93 – 97, nguồn để huy động ngày càng đa dạng từ trong nước. Bên cạnh đó NHNN và một số NHTMQD cùng lần lượt khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế( IMF, ODB, WB) và các NHTM lớn trên thế giới để vay vốn huy động vốn ngày càng đóng vai trò tích cực hỗ trợ thực hiện tốt các mục tiêu của chính sách tiền tệ kể từ cuối năm 1993 khi NHNN tổ chức hình thành được thị trường nội tệ liên NH. Các NHTM, TCTD có điều kiện làm quen với cơ chế tự điều hoà vốn với nhau, nâng cao hiệu suất vốn, hạn chế mức thấp nhất nhu cầu tái cấp vốn từ NHNN. Phối hợp với bộ tài chính đến tháng 6 / 1995, NHNN chính thức tổ chức đấu giá tín phiếu kho bạc, tạo thêm công cụ huy động vốn trên thị trường. Bên cạnh đó, hoạt động phát hành trái phiếu kho bạc hay công trái Chính phủ diễn ra khá thường xuyên để bổ xung một lượng vốn lớn cho đầu tư và phát triển kinh tế.
Về cho vay vốn: Trên cơ sở nguồn vốn dồi dào, tín dụng NH đối với nền kinh tế cũng liên tục gia tăng mạnh mẽ. Đối tượng cho vay ngày càng được mở rộng. Bên cạnh hai hoạt động trên về cơ bản việc phát hành tiền cho vay bù đắp NSNN được chấm dứt từ năm 94. Kết quả là tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán( M2) hàng năm ổn định, phù hợp với các động thái tăng trưởng và lạm phát.
Việc điều hành chính sách tiền tệ luôn được đặt trong mối quan hệ khăng khít với các chính sách vĩ mô khác (chính sách tài chính, chính sách thu nhập, chính sách đầu tư. . .).
Nhìn chung lại thì để đạt được thành tựu đáng khích lệ là bởi vì NHNN bước đầu sử dụng khá hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ theo xu hướng thay thế và giảm dần các công cụ trực tiếp, cứng nhắc và ít hiệu lực để chuyển sang phát huy tính gián tiếp, linh hoạt thích hợp và đồng bộ của một số công cụ. Các công cụ được sử dụng với tư cách độc lập, vừa gắn kết, hoà trộn với nhau phổ biến là lãi suất, tỉ giá, dự trữ bắt buộc. . .Bên cạnh đó là công cụ mang tính giải pháp bổ trợ: Hạn mức tín dụng, tái cấp vốn, kết hối ngoại tệ.
II. Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong những năm 90 trở lại đây.
1. Về lãi suất
NHNN VN đang duy trì một chính sách lãi suất được điều tiết bởi mức lãi suất cơ bản và mức lãi suất tái cấp vốn. Từ đầu thập kỷ 90 chính sách lãi suất đã dần thay đổi để từng bước thích ứng với cơ chế lãi suất thị trường đồng thời tăng cường hiệu lực của cơ chế giá trong việc thực hiện chính sách tiền tệ. Diễn biến cơ bản của thực trạng điều hành lãi suất ở VN có thể chia làm các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1992-1995
Trong năm 1990, 1991 thì chính sách lãi suất âm vẫn còn tồn tại từ thời bao cấp. Cho đến cuối năm 1992 thì lãi suất thực dương bắt đầu được duy trì và biến động với tỷ lệ lạm phát. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1996 lãi suất được khống chế bởi mức lãi suất cao nhất (1,8%/tháng đối với doanh nghiệp Nhà nước và 2,1%/tháng cho kinh tế ngoài quốc doanh) và lãi suất thoả thuận (áp dụng trong trường hợp huy động vốn bằng phát hành kỳ phiếu-lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng). Cơ chế lãi suất kỳ hạn này thực sự phát huy vai trò tự nhiên vốn có của nó là đòn bẩy kinh tế, góp phần kìm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo lợi ích cho cả người gửi, người vay và NHTM kinh doanh có lãi.
Giai đoạn từ năm 1996 đ tháng 7/2000
Thời kỳ tiếp tục lãi suất thực dương nhưng được nới lỏng hơn thời kỳ trước, bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhau cho khu vực thành thị, nông thôn hoặc các loại hình tổ chức tín dụng, lãi suất tiền gửi bắt đầu được tự do hoá cùng cơ chế tín dụng thương mại, các tổ chức tín dụng còn thực hiện cơ chế tín dụng ưu đãi thông qua chính sách lãi suất đối với các đối tượng chính sách xã hội theo chỉ đạo của chính phủ. NHNN VN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn khống chế lãi suất, áp dụng chênh lệch lãi suất tiền gửi tiền vay 0,35% (cho đến 21/1/1998) trần lãi suất thay đổi liên tục theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế đặc biệt trong các năm 1998, 1999. Mức lãi suất tái cấp vốn cũng được điều chỉnh giảm trong thời gian này (từ 1,1% năm 1997 xuống 0,7%/tháng từ 4/9/1999). Việc điều chỉnh lãi suất giảm, về mặt lý thuyết chi phí vay mượn sẽ giảm, khuyến khích tiêu dùng và đầu tư. Mặt khác lãi suất giảm sẽ khiến cho đồng tiền giảm giá, qua đó khuyến khích xuất khẩu thông qua việc nâng cao sức cạnh tranh về giá của hàng hoá và dịch vụ trên thị trường quốc tế. Tóm lại, việc điều chỉnh lãi suất giảm là để thực hiện mục đích: Trong 5 tháng đầu năm 2001, NHNN tiếp tục thực hiện cơ chế lãi suất cơ bản ban hành từ tháng 8 năm 2000 kích cầu, thúc đẩy đầu tư và tiêu dùng. Tuy nhiên việc thực hiện chính sách giảm lãi suất lại tỏ ra thiếu chủ động trong điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Điều này được thể hiện rõ trong hai năm 1998, 1999. Khi trần lãi suất giảm liên tục nhưng giá cả và số lượng không những không tăng mà còn tiếp tục giảm. GDP năm 1998 đạt được là 5,8%, đến năm 1999 còn lại 4,8% so với năm 1998. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế năm 1999 đạt mức thấp nhất từ những năm 90 đến nay. Bên cạnh đó, chỉ số giá tiêu dùng giảm phản ánh sự giảm sút nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội cả trong đầu tư phát triển sản xuất và trong tiêu dùng.
Giai đoạn từ tháng 7/2000 đến nay
Đây là bước ngoặt trong cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do lãi suất, do cơ chế lãi suất trước đây chưa có lãi suất nào là đóng vai trò chủ đạo, định hướng cho tổ chức tín dụng ấn định mức lãi suất kinh doanh vì thế kể từ 5/8/2000 theo quyết định 241/QĐ-NHNN1 của thống đốc NHNN đã chính thức thay đổi. Nội dung cụ thể như sau:
+ Đối với cho vay VND: các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay không vượt qúa lãi suất cơ bản do NHNN công bố đúng thời kỳ cộng với biên độ cho vay ngắn hạn là 0,3% cho vay trung dài hạn là 0,5%.
+ Đối với cho vay bằng USD, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất không vượt quá lãi suất liên NH Singapore (Sibor) kỳ hạn 3 tháng đối với cho vay ngắn hạn, 6 tháng đối với cho vay trung & dài hạn tại thời điểm cho vay cộng với biên độ 1%/năm đối với vay ngắn hạn, 2,5%/năm với vay trung & dài hạn. Lãi suất cơ bản đối với cho vay VND được tính căn cứ vào lãi suất cho vay của một số tổ chức tín dụng chiếm đa số thị phần tín dụng. Còn lãi suất cho vay USD dựa vào lãi suất Sibor. Cơ chế này thể hiện lãi suất của NH VN tiến gần đến các nguyên tắc thị trường.
Từ 1/6/2001, NHNN bãi bỏ lãi suất cho vay USD tối đa bằng lãi suất Sibor cộng với biên độ cho phép. Tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay bằng USD trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và quan hệ cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Đây là lần đầu tiên NHNN thả nổi lãi suất, một công cụ rất nhạy cảm trong điều hành chính sách tiền tệ để từng bước tự do hoá lãi suất.
Sau 1 năm thực hiện thắng lợi cơ chế tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ 1/6/2002, NHNN bãi bỏ cơ chế lãi suất cho vay theo lãi suất cơ bản & thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với cho vay VND. Cho vay theo lãi suất thoả thuận thực chất là tự do hoá lãi suất. Như vậy là, trong công việc đổi mới hoạt động NH, tiến trình điều hành lãi suất theo cơ chế thị trường đã được NHTW chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện đối với cả cho vay ngoại tệ và nội tệ. Qua 2 tháng thực thi lãi suất cho vay thoả thuận đối với VND, thị trường tín dụng hoạt động khá tốt, khách hàng không có phản ứng gì và các tổ chức tín dụng thì nhiệt liệt hoan nghênh vì họ được chủ động hơn trong kinh doanh.
3. Chính sách tái cấp vốn.
Cùng với việc đổi mới điều hành chính sách tiền tệ, công cụ tái cấp vốn đã được từng bước đổi mới theo hướng thức hiện vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn của NHNN và NHNN thực hiện chức năng, vai trò là người cho vay cuối cùng. Trên thực tế bên cạnh 2 hình thức tái cấp vốn chủ yếu ban đầu là cho vay thế chấp chứng từ và cho vay theo đối tượng chỉ định, NHNN thực hiện cho vay thanh toán bù trừ một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn với các NHTM để bù đắp thiếu hụt thanh toán, bù trừ bắt đầu thực hiện từ năm 1991. Riêng hình thức vay thế chấp cũng được từng bước mở rộng. Theo Quyết định số 285/QD-NH14 ngày 10/11/1994 của thống đốc NHNN thì ban đầu chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho bạc chưa đến hạn, khế ước cho vay ngắn hạn. Đến năm 1997 để phù hợp yêu cầu thực tế NHTW bổ sung hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của TCTD tại NHTW.
Có thể nói rằng cùng với công cụ khác của chính sách tiền tệ, công cụ tái cấp vốn đã được ngày càng hoàn thiện. Cho đến nay để phù hợp với 2 luật NH cơ chế tái cấp vốn theo quy định của luật NHNN như: cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và cho vay có đảm bảo bằng hiện vật cầm cố, các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Đặc biệt quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được từng bước đổi mới phù hợp với cảnh thực tiễn. Từ năm 1994 đến đầu năm 1997 lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ % trên lãi suất cho vay áp dụng với dự án cho vay của TCTD (bằng từ 60% đến 100% lãi suất cho vay trên khế ước) nhưng từ cuối thang 5/1997 đến nay lãi suất tái cấp vốn được xác định mức cụ thể để phù hợp với thông lệ quốc tế. Đồng thời cung cấp tín hiệu về mục tiêu chính sách tiền tệ ( nới lỏng hoặc thắt chặt).
Điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung-cầu vốn trên thị trường và phù hợp với mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ. Vừa qua, trong điều kiện chỉ số gia tiêu dùng giảm thấp, để phát tín hiệu nới lỏng chính sách tiền tệ và tạo điều kiện cho TCTD tiếp cận nguồn vốn từ NHNN thống đốc NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5%/tháng xuống 0,45%/tháng và sau đó xuống 0,4%/tháng. Đồng thời giảm lãi suất tái chiết khấu xuống 0,35%/tháng. Năm 2001 lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu điều chỉnh giảm từ 0,5%/tháng và 0,45%/tháng xuống 0,4%/tháng và 0,35%/tháng. Việc điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn đã khuyến khích các TCTD trong việc cho vay vốn nhiều hơn, hoạt động tích cực hơn bởi với các TCTD thì khi lãi suất tái cấp vốn giảm thì lợi nhuận tăng, mà với họ lợi nhuận là sức hút ban đầu để các TCTD hoạt động tốt hơn.
Nhìn một cách tổng quát quá trình kiểm soát và điều tiết tiền tệ thì công cụ tái cấp vốn vẫn còn hạn chế nhất định. Mặc dù cơ chế tái cấp vốn không có sự phân biệt giữa các NH khác nhau nhưng thực tế tái cấp vốn vẫn chủ yếu thực hiện với các NHTMQD, các NHTMCP ít được cấp vốn do không đủ các điều kiện tái cấp vốn. Lãi suất tái cấp vốn chưa gây tác động hiệu ứng với lãi suất thị trường và chưa phát huy tốt vai trò kích thích tăng giảm nhu cầu tiền tệ.
3. Tỷ giá
Cùng với sự ra đời và phát triển của thị trường tiền tệ liên NH, NHNN Việt nam đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế điều hành tỷ giá. Đánh giá một cách tổng quát thì chúng ta có thể khẳng định rằng chúng ta đã và đang áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái (TGHĐ) thả nổi có sự quản lý của Nhà nước, đây là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh của nước ta. Dù trước hay sau ngày NHNN điều chỉnh cơ chế tỷ giá (ngày 26/2/1999) thì tỷ giá giữa VNĐ và các loại ngoại tệ khác vẫn ổn định và vẫn chịu sự quản lý điều hành chủ động của NHNN, tỷ giá đã thay đổi khá linh hoạt theo tín hiệu của thị trường. Để đánh giá đúng đắn hiệu quả sử dụng công cụ tỷ giá của NHNN trong thời gian qua ta sẽ điểm lại các giai đoạn tồn tại và thực thi chính sách tỷ giá ở nước ta từ năm 1990 trở lại đây:
Thời kỳ thả nổi TGHĐ 1989 – 1992
Trong thời kỳ này TGHĐ VNĐ/USD biến động mạnh theo xu hướng giá trị đồng USD liên tục tăng từ 4200 VNĐ/USD lên 12721 VNĐ/USD.
Diễn biến TGHĐ từ năm 1990 – 1992 với việc tăng giá đồng USD đã kích thích tâm lý dự trữ đô la nhằm mục đích đầu cơ ăn chênh lệch giá. Tâm lý này làm ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu, khi đó ngoại tệ không được sử dụng cho hoạt động xuât nhập khẩu mà bị buôn bán vòng vèo giữa các tổ chức trong nước. Bởi lẽ đó mọi cố gắng quản lý ngoại tệ ít đem lại hiệu quả thậm chí có khi mất hiệu lực. Giai đoạn này NHNN không kiểm soát được lưu thông ngoại tệ.
Quá trình đi tới một chính sách TGHĐ tự chủ theo cơ chế thị trường(1992 – 1995)
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của NHNN vào thị trường ngoại tệ gía VNĐ/USD dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ ở các doanh nghiệp được giải toả. Tình trạng USD giảm nhanh nên ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu và kích thích nhập khẩu quá mức nên NHMM lại phải can thiệp nhằm tăng giá đồng VND. Từ tháng 3/1993 đồng VND đã lên giá dần và duy trì xu hướng lên giá một cách ổn định.
Sự ổn định kinh tế xã hội đạt trong năm 1993 –1994 chứng tỏ tính hợp lý của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô chủ yếu trong đó có chỉ tiêu TGHĐ VND / USD.
Giai đoạn 1996 – 1998
Trong giai đoạn này tỷ giá khá ổn định, phù hợp với thực tế nền kinh tế và thị trường hối đoái, là quan điểm chỉ đạo của NHTW đối với chính sách tỷ giá. Tuy nhiên TGHĐ được duy trì ổn định qua thời gian dài trong khi các điều kiện chế định của nó thay đổi tất sẽ tạo ra sức ép rất mạnh giảm giá đồng VND. Để khắc phục tình trạng này NHNN đã chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch cho các NHTM từ (+ / - 0,5%) lên (+ / - 10%) và sau đó ấn định tỷ giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua- bán trên thị trường ngoại tệ liên NH, khiến cho tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung- cầu ngoại tệ trên thị trường và tăng khả năng điều tiết thị trường của tỷ giá do NHNN công bố. Ngày 16/2/1998 tỷ giá chính thức luôn cách xa với tỷ giá giao dịch đã điều chỉnh một bước từ 11.175 USD/ VND lên đến 11.800 USD/VND. Trên thực tế, việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN đã góp phần hạn chế ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đến Việt nam góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tiền tệ.
Giai đoạn 1999
Ngày 25/2/1999 thống đốc NHNN đã ký ban hành 2 quyết định số 64/1999/QĐ/NHNN 7 về công bố TGHĐ của đồng VN so với các ngoại tệ & và quyết định số 65/1999/QĐ/NHNN 7 về quy định mua bán ngoại tệ của các TCTD. Thông qua hai quyết định đó, tuy chế độ tỷ giá hoàn toàn giống giai đoạn trước nhưng lại có một số điểm khác biệt; đó là biên độ được điều chỉnh giảm từ ±7% xuống ±1% và hàng ngày NHNN sẽ công bố tỷ giá liên NH của ngày giao dịch trước đó làm cơ sở cho các TCTD quy định tỷ giá mua và bán. Ngược lại vào đầu năm 1997 và trong năm 1998 tỷ giá lại tăng lên 13000 VNĐ/USD. Việc tăng tỷ giá là hợp lý trong giai đoạn này vì kể từ khi tỷ giá ổn định mức chênh lệch giữa chỉ số lạm phát của nước ta và Mĩ ngày càng tăng.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay.
Giai đoạn này, tỷ giá liên NH vẫn luôn tăng kịch trần nhưng biên độ chỉ có ±0,1% nên tỷ giá hối đoái thường giao động từ 10-12 đ/USD. Tuy nhiên sau 11/9/2001 tỷ giá tăng lên sau một thời gian bình ổn, tỷ giá đồng VN & USD luôn trên VNĐ/USD, cho đến ngày 16/9/2002 thì tỷ giá 15.302 VNĐ/USD.
Từ căn cứ về lý luận & thực tiễn đã nêu trên, chúng ta có thể nhận ra được những ưu và nhược điểm trong việc điều hành tỷ giá.
Về ưu điểm thì TGHĐ đã phản ánh tương đối khách quan sức mua của đồng VN & quan hệ cung cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. NHNN đã dần nới lỏng cơ chế điều hành tỷ giá biên độ mở rộng liên tục (từ ±0,5%, ±1%, ±5%, ±10% và ±7%). Biên độ giao dịch quanh tỷ giá là một công cụ hữu hiệu trong suốt giai đoạn vừa qua, nhờ kiểm soát tỷ giá mà chúng ta đã đạt được sự ổn định tương đối của TGHĐ trong những năm qua, góp phần không nhỏ để đạt được mục tiêu ổn định và tăng trưởng cho nền kinh tế. Bên cạnh đó với cơ chế mới, việc điều chỉnh cung cầu trở nên mềm dẻo linh hoạt hơn, tạo môi trưởng đầu tư ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần tăng cường sự hoà nhập của nền kinh tế nước ta vào cộng đồng kinh tế thế giới.
Về nhược điểm;thứ nhất: nhiều lúc tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên NH tăng kịch trần nhưng tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên NH ngày hôm sau mà NHNN công bố vẫn giữ ở mức cũ, điều này chứng tỏ tỷ giá liên NH mà NHNN công bố vẫn là tỷ giá theo ý muốn chủ quan của NHNN, thứ hai: việc quản lý ngoại hối chưa thực sự chặt chẽ triệt để, hiện tượng đầu cơ buôn bán trái phép ngoại tệ còn rất phổ biến, lượng ngoại tệ trôi nổi trên thị trường còn rất lớn, làm cho thị trường ngoại tệ trong nước kém sôi động, sự lưu thông kém thông suốt, việc điều chỉnh tỷ giá gặp nhiều khó khăn; thứ ba: các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, lãi suất, thực trạng cán cân thanh toán, nợ nước ngoài chưa được chuẩn xác hoá và cập nhật kịp thời giúp cho việc nghiên cứu thay đổi tỷ giá hợp lý.
Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu ổn định tiền tệ vì chế độ tỷ giá này đã tồn tại trong thời gian khá dài. Tuy nhiên hiện nay chúng ta cũng đang thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt nhưng mức độ linh hoạt chưa phù hợp với nền kinh tế chưa ổn định trông cung cầu về ngoại tệ.
4. Dự trữ bắt buộc.
Công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức thực hiện từ 1992. Kể từ ngày đó đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được hoàn thiện và đổi mới. Năm 1992 tiền dự trữ bắt buộc được duy tại một tài khoản riêng và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi của các tổ chức tín dụng. Bởi vậy, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh toán và kiểm soát cung ứng tiền nhưng lại hạn chế NHNN dự báo nhu cầu tăng giảm dự trữ bắt buộc của các NHTM và vốn của các NHTM không được sử dụng linh hoạt. Từ đó, năm 1995 NHNN đã điều chỉnh lại dự trữ bắt buộc cho phù hợp và để khắc phục những hạn chế trên. Nội dung đổi mới như sau:
-Thống nhất tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi dự trữ bắt buộc vào một tài khoản; từng bước mở rộng đối tượng áp dụng dự trữ bắt buộc.
-Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc là 10% và trong cơ cấu tiền gửi dự trữ bắt buộc có 70% là gửi tại NHNN
-Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên duy trì đầy đủ tại NHNN
Với những đổi mới này thì NHNN có thể dự báo được nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Song việc khống chế theo gày cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệ quả của các tổ chức tín dụng. Bwocs đổi mới tiếp theo gắn liền với sự ra đời của bộ luật ngân hàng. Từ năm 1999 công cụ dự trữ bắt buộc mở rông thêm các đối tượng. Ngân hàng, hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0 đến 20%. Thứ hai là số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại NHNN trong kỳ duy trì. Với cách tính này thhì tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn, đồng thời NHNN có thể dự đoán được nhu cầu dự trữ của NHTM đúng khả năng kiểm soát tiền tệ của NHNN. Trong năm 2000, việc thực hiện dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng tiếp tục căn cứ theo quy chế dự trữ bắt buộc ban hành theo quy định số 51/1999/QP-NHNN ngày 10/2/1999 của thống đốc ngân hàng.
-Tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ: Để tạo tín hiệu hạn chế tài chính tín dụng huy động tiền gửi bằng ngoại tệ gửi ra nước ngoài, ngày 10/10/2000, thống đốc Ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các ngân hàng thương mại chính phủ, ngân hàng thương mại chính phủ đô thị, ngân hàng hợp tác… từ 5% lên 8% kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 11/2000.
Sau đó tiếp tục thực hiện chủ chương trên ngày 1/12/2000 ngân hàng nhà nước lại một lần nữa nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng lên 12%, áp dụng kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 12/2000. Việc ngân hàng nhà nước điều chỉnh tring tỉ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ tác động nhất định đến việc hạn chế dòng chuyển đổi từ VNĐ xang USD góp phần thúc đẩy huy động tiền gửi baừng VNĐ của các tổ chức tín dụng.
Sang tháng 5/2001, ngân hàng nhà nước nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 15% đã tác động làm tăng chi phí huy động vốn băng ngoại tệ, buộc các ngân hàng thương mại phải giảm lãi suất huy động ngoại tệ. Đồng thời vơi sviệc nâng tỉ lệ dự tữ bắt buộc bằng ngoại tệ, ngân hàng nhà nước quyết định giảm tir lệ dự trữ bắt buộc với xu thế giảm lãi suất trên thị trương quốc tế (Cục dự trữ liên bang Mỹ giảm lãi suất 11 lần trong năm 2001) đã tác động làm cân bằng dần lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ đến thời điểm cuối năm lãi suất VNĐ đã tương đương thậm chí cao hơn lãi suất ngoại tệ. Nhờ đó làm tăng khả năng huy động vốn nội tệ và ngoại tệ. Tuy nhiên đến thời điểm 11/2001 do ảnh hưởng của lãi suất trên thị trường quốc tế lãi suất ngoại tệ trên thị trường Việt Nam có xu hướng giảm mạnh ảnh hưởng xấu tới tình hình, tài chính các ngân hàng thương mại, ngân hàng nhà nước đã thực hiện việc điều chỉnh giảm tỉ lệ dự trữ bắt buộc đồi vơi tiền gửi bằng ngoại tệ từ 15% xuống 10%.
5. Nhiệp vụ thị trường mở (NVTTM)
Năm 2000 – năm mở đầu một thiên niên kỷ mới đã đánh dấu bước chuyển tích cực trong lĩnh vực tài chính ngân hàng. Mở đầu một thời kỳ lịch sử mới trong ngành, hai thị trường đặc thù trong tổng thể thị trường tài chính là thị trường chứng khoán và thị trươngf mở đã đi vào hoạt động. Ngày 20/7/2000 thị trường chứng khoán khai trương. Ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở đi vào hoạt động. Có thể nói rằng những ngày tháng 7/2000 sôi động kia chính là điểm đánh dấu, ghi nhận bước tiên quan trong trong điều hành chính sách thị trường từ công cụ trực tiếp sang công cụgián tiếp của ngân hàng nhà nước Việt Nam, phù hợp với thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế. Trải qua hơn hai năm hoạt động, công cụ NVTTM bước đầu đã phát huy được vai trò của mình đối với mục tiêu của chính sách thị trường. NVTTM đã có tác động nhất định tới vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tham gia thị trường, đa dạng hoá kênh huy động và luân chuyển vốn tạo ra khả năng phối kết hợp giữa thị trường liên ngân hàng – thị trường mở – thị trường chứng khoán trong các thị trường tài chính ở Việt Nam hiện nay. Trong năm 2000, NVNHM đã được thực hiện an toàn, đúng quy định vớiđịnh kỳ 10 ngày/ lần. Tuy tác động của NVNHM đến những điều kiện của thị trường tiền tệ chưa đáng kể, Việc điều hành NVNHM của ngân hàng nhà nước phù hợp với mcj itêu điều hànhchính sách thị trường, bám sát diễn biến thị trường, phần nào điều chỉnh vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng , thu hút khi thừa nhận bơm thêm vốn khả dụng khi thiếu hụt. Tuy nhiên cho đến hết năm 2000, thì số thành viên tham gia còn hạn chế chỉ bao gồm 20 tổ chức tín dụng. Tại mỗi phiên giao dịch chỉ có 1 đến 5 thành viên tham gia. Hàng hoá trên thị trường còn rất hạn chế chỉ bao gồm tín phiếu ngân hàng nhà nước và tín phiếu kho bạc nhà nước. Tín phiếu kho bạc nhà nước được mua bán nhiều nhất với số lượng 1070 tỷ / 1148,500 tỷ đồng. Tín phiếu kho bạc nhà nước chỉ có 378,500 tỷ đồg nếu tính theo giá trị khi đến hạn thanh toán. Như vậy hàng hoá ở thị trường mở vào thời điểm sau 5 tháng hoạt động là khá đơn điệu và chỉ tập trung ở các ngân hàng thương mại quốc doanh.
Về phương thức giao dịch, các phiên giao dịch chỉ áp dụng phương thức mua bán hẳn với tín phiều ngân hàng nhà nước, phương thức mua có kỳ hạn với tín phiếu kho bạc nhà nước, còn phương thức bán hẳn ít sử dụng và đặc biệt phương thức bán có kỳ hạn chưa được thực hiện. Sang năm 2001 với chủ chương tăng cường hoạt động NVTTM để chủ động điều tiết vốn khả dụn, Ngân hàng nhà nước đã vận hành NVTTM một cách nhịp nhàng và đạt được những mục tiêu đã đề ra. Bằngviệc đưa định kỳ giao dịch lên 1 phiên/tuần thay cho 1 phiên/10 ngày Thực hiện vào năm 2000, NHNN Việt Nam đã đẩy mạnh thực hiện mua , bángiấy tờ có giá ngắn hạn để kịp thời điều tiết vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng phù hợp với mục tiêu chính sách tiền tệ. Trong số 48 phiên giao dịch NVTTM, NHNN đã thực hiện 42 phiên chào mua các giấy tờ có giá ngắn hạn với doanh số hơn 300 tỷ đồng để đồng để hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng khắc phục khó khăn về thiếu hụt tạm thời vốn khả dụng VND. Trong sáu phiên chào bán, NHNN đẫ thu hút vốn khả dụng tạm thời dư với doanh số 620 tỷ đồng. Lãi suất đấu thầu nhìn chung đwocj điều hành gắn với thị trường. Việ sử dụng công cụ NVTTM bước đầu đã có những dấu hiệu tích cực, nắm bắt được tình hình dư thừa, thiếu hụt vốn của NHTM và kết hợp với các công cụ khác để điều tiết vốn khả dụng.
Công tác điều hành, tổ chức thực hiện được thực hiện trôi chảy an toàn cho đến hết thời điểm tháng 12/2001 có 21 TCTD tham gia bao gồm 4 NHTM nhà nước, 10 NH cổ phần, 4 chi nhánh NH nước ngoài, một công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân dân. NHNN đã thực hiện 61 phiên đấu thầu NVTTM. Thông qua đó NHNN cung ứng hơn 5000 tỷ đồng thông qua thj trường mở đã góp phần thực hiện chủ chuương kích cầu của Chính phủ. Tuy NVTTM bước đầu thực hiện được đã đạt được kết quả nhất định nhưng vẫn còn bộc lộ một số tồn tại thực tế hoạt động của thị trường chưa thật sôi động mỗi phiên giao dịch chỉ có 1-5 thành viên tham gia. Các thành viên tham gia chủ yếu là các NHTM Nhà nước, sự tham gia của các TCTD khác trên thị trường còn mờ nhạt. Hàng hoá trên thị trường còn nghèo nàn và chưa đa dạng về chủng loại và thời hạn ( chỉ có TFKH, TFNHNN) những giấy tờcó giá này chỉ tập trung vào những TCTD có quy mô lớn, đã tham gia giao dịch trên thị trường sơ cấp.
Nhìn một cách tổng thể trong thời gian qua, NHNN Việt Nam đã sử dụng khá thành công các công cụ của chính sách tiền tệ . Các công cụ cũ luôn luôn được điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, các công cụ mới bước đầu chưa thực sự phù hợp mới chỉ là bước thử nghiệm nhưng đã gặt hái được nhiều kết quả đáng kể. Song trong một số trường hợp NHNN Việt Nam chưa chủ động trong điều hành công cụ; chẳng hạn đôi khi tình hình diễn biến kinh tế đã diễn ra rồi lúc đó NHNN mới sử dụng công cụ để điều chỉnh chính sách tiền tệ cho phù hợp. Bởi lẽ đó NHNN cần tích cực hơn trong bước tiến tới sự chủ động điều hành chính sách tiền tệ.
PhầnIII: Những giải pháp để hoàn thiện công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam
I. Kinh nghiệm sử dụng các công cụ để điều tiết kinh tế ở các nước tư bản hát triển.
Để có thể nghiên cứu và chuẩn bị áp dụng những công cụ chính sách tiền tệ (CST2) với những cơ chế mới, kinh nghiệm thực tiễn của các nước trên thế giới và bối cảnh thực tế của VIệt Nam là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu.
1. Quá trình sử dụng các công cụ để điều tiết kinh tế của hê thống dự trữ liên bang Hoa Kỳ(FED)
Sau đợt suy thoái kinh tế vào những năm 1980-1982 mà tác động của nó với lạm phát hai chữ số, FED phải rê lãi suất tột đỉnh vào năm 1981 để thắt chặt tiền tệ.
NVTTM, lãi suất chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cùng cung ứng cơ số tiền tệ được huy động một cách cẩn thận để nới lỏng dự trữ và tăng cung tiền và tăng cao năm 1986. Tuy hiên lãi suất hạ chậm chạp từ năm 1982-1985 làm cho lãi suất nền của Hoa Kỳ tăng cao hơn châu âu, Nhật Bản, Mehico, Canada trong cùng thời gian. Do đó làm cho đầu tư nước ngoài tràn vào Mỹ làm cho USD liên tục giảm giá.
Lãi suất chiết khấu tăng vọt trong năm 1987 có phần lỗi của Fed đã tạo ra khủng hoảng chứng khoán 1987. Sai lầm này cùng với sự tăng giá dầu năm 1989 đẩy nước Mỹ vào đợt suy thoái lần hai vào cuối năm 1990 và đầu năm 1991. Fed huy động các công cụ để điều tiết cung ứng tiền và ngăn chặn lạm phát NVTTM , lãi suất chiết khấu , tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cung ứng cơ số tiền tệ, tín dụng chứng khoán được huy động để làm tăng cung ứng tiền, giảm lãi suất hướng tới mục đích kích cầu, kích thích đầu tư và xuất khẩu.
Fed coi trọng việc ổn định giá cả. Trong tiến trình thực hiện mục tiêu cao cả đó, Fed coi các công cụ điều tiết như NVTTM , lãi suất chiết khấu , tỷ lệ dự trữ bắt buộc, cơ số tiền tệ, kiểm soát tín dụng không những là phương tiện mà còn là biện pháp làm ổn định thị trường tài chính.
NVTTM là công cụ điều tiết số một, được sử dụng thường xuyên nhất hàng ngày để điều tiết cung tiền và tổng cầu theo những mục tiêu hàng tuần. Lãi suất chiết khấu được vận dụng cùng tỷ lệ dự trữ bắt buộc khi cần thay đổi một cách sâu rộng mạnh mẽ đến lãi suất, dự trữ và tỷ giá hối đoái trong những thời dài và chiến lược điều tiết tiết dài năm trở lên như cải tạo cơ cấu kinh tế, cải tạo cơ cấu đầu tư.
Công cụ cung ứng cơ số tiền được vận dụng theo nghiệp vụ thị trường mở về mặt ngắn hạn và về dài hạn nó hỗ trợ cho những mục tiêu điều tiết của lãi suất chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Kiểm soát tín dụng là công cụ giữ cho thị trưòng chứng khoán nới rộng hơn, thị trường cho vay của các ngân hàng trung gian hoạt động nhịp nhàng, hài hoà với hoạt động điều tiết của mình trong giai đoạn 1980 đến 1986 Fed đã khá thành công trong những mục tiêu kinh tế.
2. Quá trình sử dụng những công cụ của chính sách tiền tệ của NHTW Pháp( BDF)
Nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được BDF huy động cùng với việc kiểm soát mức cung ứng cơ số tiền tệ và tín dụng để chống lạm phát. Nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất chiết khấu là hai công cụ quan trọng nhất trong quá trình điều tiết cugn ứng tiền giai đoạn này nhằm thắt chặt tiêu dùng, tổng cầu để ổn định mức tăng giá cả. Nét đặc thù trong các công cụ điều tiết của BDF là lãi suất chiết khấu gắn rất chặt với lãi suất thị trường. Do vậy BDF hoàn toàn điều khiển được mục tiêu trung gian là lãi suất thị trường tiền tệ theo ý muốn thông qua lãi suất chiết khấu. Công cụ này đóng vai trò chủ chốt trong định hướng đầu tư và cấp phát tín dụng.
Nếu lãi suất chiết khấu là chỗ dựa vững chắc của BDF trong việc định hướng tiền vốn, điều tiết đầu tư và tổng cầu, tiến tới ổn định giá cả thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc và kiểm soát tín dụng theo dõi việc cấp phát tín dụng là những công cụ mang nhiều ý nghĩa pháp định, được huy động để chống lạm phát và chống suy thoái khi tình hình trở nên căng thẳng và trầm trọng.
Nghiệp vụ cung ứng cơ số tiền gắn chặt với NVTTM để điều hoà tăng giảm M1,M2,M3 theo các mục tiêu của BDF.
Cho vay bởi BDF ở cửa sổ chiết khấu kết hợp với việc quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc và kiểm soát tín dụng hình thành nên một mối liên kết điều tiết tín dụng cấp phát bơỉ hệ thống NH trong toàn nền kinh tế. Liên kết này và liên kết kia cho phép quản lý cung ứng tiền tệ – tín dụng chặt chẽ hơn. Tuy nhiên cần phân biệt rằng chỉ trong những trường hợp cần thiết tất cả các công cụ mới được kêts hợp sử dụng cùng một lúc.
3. Quá trình sử dụng công cụ CSTT của NHTW NHật Bản( BOJ)
Là một nước mà thiên nhiên không ưu đãi họ đã sớm nhận ra điều ấy và chính sách kinh tế của BOJ hướng vào việc tác động nhanh quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất đầu tư và bành trướng ra nước ngoài. Từ những năm 80 chính sách điều tiết của BOJ đóng vai trò chủ chốt trong quá trình chuyển đổi nói trên. Vì lãi suất quyết định chi phí và lợi nhuận của sản xuất kinh doanh, từ đó quyết định các vấn đề đầu tư. Bằng công cụ lãi suất chiết khấu để hướng dẫn lãi suất thị trường , BOJ đã lôi kéo từ những khoản tiết kiệm nhỏ nhất đến những khoản vốn lớn nhất của nhân dân Nhật để đầu tư vào công nghiệp có lựa chọn và đầu tư ra nước ngoài theo múc đích của nó. Với sự hợp tác chặt chẽ của công cụ NVTTM, cơ số tiền tệ va tín dụng ưu đãi, chính sách lãi suất của BOJ đã mở rộng biên giới đầu tư cho người Nhật. Về điều tiết tỷ giá hối đoái thông qua NVTTM và cung ứng cơ số tiền tệ hỗ trợ một cách thành công cho quá trình này. Đồng JPY mạnh đã làm cho tài sản và công nghệ mua trên thị trường Hoa Kỳ trở nên rẻ đi trong khi tài sản và công nghệ thế hệ thứ nhất xuất cảng từ Nhật sang các nước Đông á và Đông Nam á thành ra có giá trị hơn. Điều đó là nguyên nhân của thặng dư cao trong cán cân thanh toán tổng thể liên tục nhiều năm. Bên cạnh đó các công cụ tương ứng cơ số tiền tệ, NVTTM, kiểm soát tín dụng đã vận động một cách hợp lý yêu cầu đầu tư, thoả mãn tài chính vào những thời điểm thích hợp cũng như thắt chặt nững khi cần thiết. Với việc hướng dẫn đầu tư và tiêu dùng, chính sách điều tiết cugn ứng tiền tệ – tín dụng thông qua các công cụ nói trên là nguyên nhân chính của những thành quả ổn định tài chính, ổn định quá trình điều chỉnh, ổn định giá cả ở mức lạm phát thấp nhất thế giới và liên tục mở rông sản lượng mà nhà nước Nhật đã có được trong những năm qua.
4. Quá trình sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của NHTW Hàn Quốc( BOK)
Tăng trưởng nhanh là mục tiêu hàng đầu của Hàn Quốc bởi vậy BOK chú trọng việc ổn định và giữ lãi suất thấp trong những khoảng thời gian liên tục nhằm làm cho sản xuất và xuất khẩu thực sự có lời nhằm kích thích mở rộng đầu tư và bành trướng xuất khẩu. Lãi suất chiết khấu được hạ thấp, với đồng Won được để tự do sụt giá là công cụ điều tiết để đạt các mục tiêu này. Để quá trình tăng trưởng liên tục và ông định, BOK luôn chú trọng trong chính sách tín dụng ưu đãi với lãi suất đặc biệt từ BOK.
NVTTM là công cụ giúp điều tiết gián tiếp van tiền tệ và tín dụng cũgn như lãi suất thị trường tư đó tác động đến tổng cầu và đầu tư.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tuy ít dùng tới nhưng nó là công cụ rất hiệu quả khi nó đẩy lùi lạm phát (Năm 1988 và 1991) bằng việc giảm nhanh chóng thừa số tiền tệ và lượng tín dụng cấp cho tiêu dùng.
Sau khi lãi suất được xác định một cách ổn định hướng tới việc thúc đẩy tăng trưởng nhanh, cung ứng tiền được thay đổi linh động theo các mục tiêu của nền kinh tế đến từng tháng từng quý. Trong điều tiết cường độ cung ứng tiền – tín dụng, cơ số tiền đóng vai trò chủ chốt. Tuy nhiên công cụ cung ứng cơ số tiền có sự phối hợp chặt chẽ của công cụ điều tiết khác.
5. Bài học rút ra từ quá trình điều tiết công cụ chính sách tiền tệ ở các nước tư bản phát triển.
Từ những quá trình điều tiết công cụ chính sách tiền tệ các nước tư bản phát triển có thể rút ra những kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất, khi vận dụng các công cụ chính sách tiền tệ Fed, BDF, BOJ hay BOK không bao giờ vận dụng đơn lẻ mà luôn luôn liên kết các công cụ với nhau theo những mục đích chung trong việc tác động đến cung ứng tiền và tín dụng.
Thứ hai, NVTTM luôn là công cụ đắc lực nhất để đảm bảo cung ứng tiền tệ được kiểm soát một cách hợp lý.
Thứ ba, về mặt dài hạn thì việc nới lỏng cung ứng tiền với các nghiệp vụ như hạ lãi suất chiết khấu và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nới lỏng tín dụng và cơ số tiền , mua nhiều trên thị trường mở sẽ có tác dụng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư, mở rộng sản lượng và công ăn việc làm.
Thứ tư, tính độc lập và tự quyết của các NHTW trong phạm vi của chính sách điều tiết bằng công cụ tiền tệ là điều kiện tiên quyết để đảm bảo tính hiệu quả cao trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế.
Thứ năm, một thị trường tài chính hoàn hảo với đầy đủ thị trường mở, thị trường ngoại tệ, thị trường lãi suất…và một cơ cấu ngân hàng trung ương linh hoạt về mặt tổ chức, hiệu quả về mặt hành động và gọn nhẹ về mặt con người như Fed, BOJ, BDF là những điều kiện đủ để NHTW thực hiện tốt vai trò điều tiết vĩ mô của mình.
II. Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ CSTTở Việt Nam.
Từ thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam và bài học rút ra từ quá trình điều tiết CSTT ở một số nước phát triển đã gợi mở cho chúng ta những suy nghĩ để nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ chính sách tiền tệ.
1. Hiện nay Việt Nam vẫn là một nước mà hệ thống NH trung gian còn thiếu một cách rất đáng kể. Để các chính sách điều tiết của NHNN Việt Nam có hiệu quả một cách nhanh chóng thì cần nhất là hệ thống NH trung gian phải đủ mạnh. Do vậy NHNN cần tạo thêm chi nhánh các NH trung gian tại tất cả các địa phương một cách đầy đủ để hỗ trợ cho vai trò điều tiết vĩ mô của mình.
2. Nếu nhân dân ưa thích dùng tiền mặt để thanh toán chi trả thì sẽ có những tác động không tốt. Thứ nhất, nó làm giảm thiểu tác động điều tiết của các công cụ dự trữ bắt buộc , lãi suất chiết khấu. Thứ hai, việc lưu thông nhiều tiền mặt trong giao dịch làm cho kiểm soát tín dụng và cơ số tiền thêm khó khăn. Nguyên nhân chủ yếu của việc khiến nhân dân Việt nam vẫn ưa thích thanh toán dùng tiền mặt mà không quen với thanh toán không dùng tiền mặt là vì theo họ gửi tiền vào NH thì dễ mà rút ra thì khó, bất tiện khi có những khoản chi tiêu bất ngờ. Để giải quyết vấn đề này hiện nay đã thành lập hệ thống máy ATM (máy rút tiền tự động) trong thành phố lớn như Hà Nội, tp Hồ Chí Minh. Tuy nhiên bước tiếp theo NHNN nên mở rộng hệ thống này đồng thời hướng dẫn nhân dân hiểu được những ưu điểm khi thanh toánkhông dùng tiền mặt để họ gửi tiền vào NH. Bằng cách này chúng ta có thể giảm nhanh chóng tiền mặt đang lưu thông , gia tăng tiền gửi và giao dịch qua NH. Như thế các công cụ điều tiết lượng tiền cung ứng mới có thể trở nên có hiệu quả.
3.Hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý, nhất là luật quy định mở rông quyền quyết định cho NHNN để NHNN ngày càng chủ động trong việc sử dụng công cụ chính sách tiền tệ. Bởi vì nền kinh tế là một con ngựa không thuần mà NHNN là người là người cưỡi ngựa. Người cưỡi ngựa này có trong tay là những công cụ chính sách tiền tệ, họ sẽ điều khiển con ngựa này bằng nghệ thuật cưỡi ngựa, sự nhanh nhạy sự đoán sự biến đổi của nền kinh tế.
4.Các công cụ trực tiếp ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của công cụ CSTT bởi vậy cần tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp nhiêù hơn.
5.Một chính sách nới lỏng hoặc điều tiết mềm là điều kiện thường thấy ở các nước tăng trưởng nhanh,mạnh như Nhật Bản, Hàn Quốc và một số nước phát triển mạnh mẽ khác. Bởi lẽ đó nên chăng cần tiến tới sự điều tiết mềm hơn, sử dụng các công cụ điều tiết mềm hơn.
Cụ thể sử dụng công cụ CSTT cần hoàn thiện như sau:
+ Về tỷ lệ dự trữ bắt buộc:
Để các NHNN tận dụng tối đa nguồn vốn nên chăng NHNN cần xem xét không trả lãi cho dự trữ vượt vf trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Đồng thời với mục tiêu là tăng trưởng kinh tế thì hạ tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ nới lỏng cung ứng tiền dẫn đến làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư và mở rộng sản lượng, tạo công ăn việc làm.
+ Về lãi suất:
Bài học rút ra từ Hàn Quốc cho thấy rằng ổn định lãi suất ở mức thấp là công cụ đích thực của tăng trưởng nhanh. Vì vậy với mức lãi suất hiện nay cần hạ thấp hơn để khuyến khích đầu tư và phát triển. Mặt khác việc thực hiện lãi suất thoả thuận hay lãi suất thả nổi có sự quản lý của nước ta là hợp lý song nếu thực hiện lãi suất thoả thuận thì có thể xảy ra hiện tượng các tổ chức tín dụng cạnh tranh không lành mạnh, chạy theol lãi suất cao dẫn đến buông lỏng cho vay khách hàng chấp nhận lãi suất cao nhưng không đủ điều kiện tín dụng. Bởi vậy cần có cơ chế, biện pháp để các tổ chức tín dụng mở rộng đầu tư công bằng cho tất cả các đối tượng với lãi suất hợp lý, không bắt ép bắt chẹt người vay.
+ Về chính sách tái cấp vốn:
Để công cụ này thực sự đóng vai trò là công cụ cấp tín dụng ngắn hạn, NHNN cung ứng phương tiện thanh toán cho NHTM và thực hiện vai trò “Người cho vay cuối cùng” công cụ tái cấp vốn cần tiếp tục đổi mới theo hướng như sau:
Hình thức tái chiết khấu cung cấp nguồn vốn có tính chất thường xuyên cho các NH với mức lãi suất thấp hơn lãi suất trên thị trường liên NH tạo nên mức sàn trên thị trường tiền tệ.
Hình thức cho vay có đảm bảo bằng giấy tờ ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn cuả các NH sau khi đã sử dụng hết hạn mức tín dụng chiết khấu.
+ Về tỷ giá:
Trong bối cảnh quốc tế hoá toàn cầu hoá ngày càng gia tăng sự vận hành của tỷ giá phải nằm trong tầm quản lý của nhà nước. Nhà nước phải biết huy động sức mạnh quốc tế để phát triển kinh tế đồng thời phải có kinh nghiệm điều chỉnh tỷ giá ngày càng linh hoạt hơn để chủ động trước những biến động trong và ngoài nước sao cho giữ được tỷ giá trong mối quan hệ hài hoà với lãi suất, cán cân thanh toán, tăng trưởng kinh tế. Trên cơ sở đó theo em cần phải áp dụng hàng loạt các biện pháp sau:
Lựa chọn chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý sao cho ngày công cụ này ngày càng trở nên linh hoạt hơn là thích hợp với tiến trình phát triển của nước ta hiện nay.
Đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng tự do hoá. Để thực hiện việc này cơ chế điều hành tỷ giá cần có những bước đi thích hợp. Trước hết trong bối cảnh của nền kinh tế chưa ổn định , thị trường hối đoái đang tiến tới ổn định, thị trường nội tệ chưa thực sự phát triển, thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn sơ khai việc tiếp tục duy trì tỷ gía như hiện nay là cần thiết.
Tuy nhiên, cơ chế tỷ giá cần được điều hành có hiệu quả hơn. Hiện nay, trong điều kiện nền kinh tế – tài chính, tiền tệ thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng tới mọi quốc gia. Đứng trước tình hình đó NHNN tiếp tục mở rộng biên độ giao dịch liên tục với mức độ quá lớn khi tỷ giá chính thức hầu như là cố định sẽ tạo nên công hưởng nâng tỷ giá thị trường tự do từ chỗ chỉ xoay quanh hặc thậm chí ngang bằng với tỷ giá giao dịch các NHTM ngày càng cách xa và quá lớn. Đành rằng mở rộng biên độ giao dịch là để tìm ra một tỷ giá hợp lý phản ánh đúng thị trường và quy luật cung cầu song sự điều chỉnh bằng việc mở rộng biên độ quá lớn như vậy sẽ tạo ra cơn sốc tâm lý không tích cực cho nhân dân đối với chính sách tỷ giá của nhà nước. Vì lẽ đó NHNN nên mở rông biên độ giao dịch từ từ, đồng thời cần phải điều chỉnh tăng dần tỷ giá chính thức, có như vậy mới tránh được sự xáo trộn trên thị trường và kiềm chế tỷ giá thị trường tự do. Đẩy tỷ giá chính thức ở mức chênh lệch khá xa so với tỷ giá của NHTM và tỷ giá thị trường tự do là không hợp lý. Mức tỷ giá chính thức đã xa dời mức tỷ giá trung bình trên thị trường thực tế là bất hợp lý.
Phối hợp chặt chẽ tỷ giá với các công cụ chính sách tiền tệ khác, đặc biẹt là công cụ lãi suất.
Trước mắt cũng như về lâu dài phải đặt vấn đề nâng cao lòng tin của mọi tầng lớp dân cư vào đồng Việt Nam để phá giá từ từ đồng Việt Nam mà không gây sốc cho nền kinh tế.
+ Về nghiệp vụ thị trường mở:
Theo định hướng phát triển trong những năm tới thì ngân hàng nhà nước ta khẳng định thị trường mở tiến tới sẽ là công cụ chủ đạo trong điều hành chính sách tiền tệ. Nhưng hiện nay, sau hai năm đi vào hoạt động nghiệp vụ thị trường mở mới ở mức sơ khai còn nhiều non kém. Là một nước đi sau, lợi thế của chúng ta là nắm bắt được những kinh nghiệm điều hành công cụ này trong nền kinh tế. Bởi lẽ đó giờ đây nhiệm vụ củ chúng ta, nhiệm vụ của NHNN là tìm ra những cách đi, những giải pháp cho phù hợp với thực tế nền kinh tế Việt Nam để nó ngày càng trở nên có hiệu quả hơn.
Theo ý kiến của cá nhân em thì hiện nay công cụ này còn những vấn đề cần quan tâm như:
Bổ xung và đa dạng hoá các công cụ tài chính giao dịch trên thị trường mở. Bên cạnh hai công cụ chủ yếu như hiện nay là tín phiếu kho bạc nhà nước và tín phiếu NHNN cần tiến tới sử dụng các giấy tờ dài hạn để giao dịch trên thị trường mởvới thời hạn dưới một năm và bộ tài chính nên phát hành tín phiếu kho bạc với nhiều thời hạn khác nhau.
Củng cố và thúc đẩy các mảng thị trường khác phát triển để làm cơ sở cho hoạt động nghiệp vụ thị trường mở đặc biệt là thị trường chứng khoán. Thiếu thị trường chứng khoán hoặc thị trường chứng khoán còn non yếu thì nhân dân sẽ ưa chuộng giữ tiền bằng cách mua vàng, USD hoặc đất đai, tạo hạn chế lớn về tiết kiệm cho đầu tư. Dĩ nhiên công cụ điều tiết trên thị trường mở sẽ phát huy tác dụng khi có thị trường chứng khoán.
Từng bước cơ cấu lại các tổ chức tín dụng để các tổ chức tín dụng có đủ khả năng cạnh tranh và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng trên thị trường tiền tệ hiện đại.
Từng bước nâng cao chất lượng của việc thu thập và dự báo thông tin về vốn khả dụng của hệ thống các tổ chức tín dụng để làm cơ sở đưa ra các quyết định chính xác trên thị trường mở.
Kết luận
Trong những năm qua, NHNN Việt Nam đã khá thành công trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ. Để đạt được điều đó thực sự ngân hàng nhà nước đã rất cố gắng và nhạy cảm với sự biện đổi của nền kinh tế. Thật vậy, Nền kinh tế giống như một con ngựa không thuần mà ngân hàng nhà nước là người cưỡi ngựa, người cưỡi ngựa này có trong tay chiếc roi là công cụ chính sách tiền tệ. NHNN Việt Nam đã thực sự là một người cưỡi ngựa tài tình, họ có thể điều khiển con ngựa – nền kinh tế này bằng nghệ thuật, sự nhanh nhạy, dự đoán sự biến đổi của nền kinh tế.
Noí tóm lại, công cụ chính sách tiền tệ là vô cùng quan trọng nhưng nó chỉ thực sự trở thành hữu hiệu khi có vai trò của ngân hàng nhà nước. Bởi vậy NHNN và công cụ CSTT luôn là bạn đồng hành trong quá trình chinh phục kinh tế. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa trong việc cải thiện công cụ chính sách tiền tệ cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường, ngày càng khẳng định nó là “ chiếc roi thần kỳ” trong tay ngân hàng nhà nước.
Danh mục tài liêu tham khảo
1- Giáo trình lý thuyết tiền tệ ngân hàng - Học viện ngân hàng.
2- Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính- FREDEROCS.MISHKIN.
3- Kinh nghiệm điều hành chính sách tiền tệ ơ cá nước tư bản phá
triển - Lê Vinh Danh.
4- Giáo trình NHTW _ Học viện ngân hàng.
5 Tạp chí ngân hàng.
6- Thời báo ngân hàng
7- Thời báo tài chính.
8- Báo cáo thường niên
Mục lục
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35285.doc