Kết quả phân tích các báo cáo tài chính của Vinmilk cho thấy:
1. Nếu nhìn sơ bộ vào suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu sẽ thấy dường như hoạt động kinh doanh của Vinamilk vẫn ổn định và tiến triển tốt. Tuy nhiên, khi phân tích tỷ số lợi nhuận trên doanh thu sau khi đã loại trừ yếu tố ưu đãi thuế trong quá trình chuyển đổi sẽ thấy rằng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng đi xuống trong hai năm gần đây khi mà ROE từ trên 30% vào năm 2003 chỉ còn trên 20% vào năm 2006. Điều này có thể là do trong thời gian qua Công ty mở rộng hoạt động kinh doanh, đầu tư thêm các dự án mới và các dự án này chưa phát huy hiệu quả dẫn đến suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bị giảm.
2. Nhìn chung việc quản trị tài sản, quản trị nợ và quản trị thanh khoản của Vinamilk là tương đối tốt. Các tài sản cũng như các nguồn thu nhập đảm bảo cho các khoản nợ đến hạn là rất tốt.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề này là việc dữ trữ quá nhiều các tài sản có tính thanh khoản cao sẽ làm giảm suất sinh lợi của chúng và việc ít vay nợ sẽ không tận dụng được hiệu quả của lá chắn thuế trong giai đoạn doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hiệu quả và các ưu đãi thuế không còn.
3. Vinamilk cần đánh giá kỹ các lĩnh vực kinh doanh mới mà doanh nghiệp có ý định tham gia vì trong rất nhiều trường hợp, bi kịch thường xảy ra ở lúc các doanh nghiệp có nhiều tiền, đầu tư tràn lan vào nhiều lĩnh vực kém hiệu quả hay không phù hợp (gần) với hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp. Khi có quá nhiều những chú “voi trắng” hay cỗ máy chỉ biết tiêu tiền được tạo ra thì khả năng gặp phải rắc rối trong tương lai là điều hoàn toàn có thể.
49 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2355 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đánh giá hoạt động đầu tư của công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu và triển khai
Đầu tư nghiên cứu khoa học công nghệ là lĩnh vực đầu tư không thể thiếu được của các doanh nghiệp kinh doanh nói chung. Nghiên cứu khoa học và công nghệ giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh, đảm bảo sức mạnh và vị trí canh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hiện tại cũng như tương lai.
Mục đích của các chương trình và dự án R&D không chỉ dừng lại ở dạng nghiên cứu ứng dụng, nghiên cứu nhằm tăng chất lượng sản phẩm, tạo nên sản phẩm có đặc điểm nổi bật hơn mà còn tập trung nghiên cứu tìm kiếm, phát triển kỹ thuật và công nghệ mới nhất cho doanh nghiệp. Có thể nói R&D là phần không thể thiếu được trong các hoạt động của doanh nghiệp. Đầu tư vào R&D là một trong những yếu tố giúp các công ty giảm được các chi phí liên quan đến sản xuất kinh doanh.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp
- Khả năng tài chính của doanh nghiệp: khả năng tài chính của doanh nghiệp sx cho phép xác định được khả năng và quy mô đầu tư nghiên cứu và triển khai của doanh nghiệp.
- Quy mô sản xuất kinh doanh cua doanh nghiệp: quy mô sản xuất kinh doanh càng lớn thì khả năng quy mô đầu tư nghiên cứu triển khai càng lớn.
- Cơ hội về đổi mới kĩ thuật và các cơ hội trong ngành: những ngành có nhiều cơ hội đổi mới công nghệ và kĩ thuật đòi hỏi các doanh nghiệp trong ngành đó phải tích cực đầu tư cho nghiên cứu nắm bắt kịp thời các cơ hội về kĩ thuật và công nghệ của ngành.
Khi đánh giá hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai các doanh nghiệp thường dựa trên một số quan điểm sau:
Thứ nhất là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu triển khai phải được xem xét đánh giá toàn diện về các mặt tài chính kinh tế xã hội, môi trường.
Thứ hai là, hiệu quả đầu tư nghiên cứu và triển khai vừa có thể lượng hoá được vừa có thể không lượng hoá được. Do đó kết quả của đầu tư cho nghiên cứu và triển khai có thể được thể hiện dưới dạng hiện hoặc dưới dạng ẩn tuỳ theo dự án, chương trình nghiên cứu.
Tóm lại có thể nói đầu tư cho nghiên cứu triển khai đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Các chương trình và dự án R&D gắn chặt với chiến lược kinh doanh giúp các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn về kinh tế cũng như các ảnh hưởng khác.
3.5. Đầu tư vào hoạt động nghiên cứu thị trường
Thứ nhất là : đầu tư cho việc nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp trước hết là nghiên cứu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có thể nói cạnh tranh là một đặc tính cơ bản nhất của thị trường của doanh nghiệp , sẽ không có thị trường nếu không có cạnh tranh , trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo mục tiêu của doanh nghiệp , người tiêu dùng là tối đa hoá lợi nhuận và sự tiện ích của chính mình , khả năng cạnh tranh là nguồn năng lượng thiết yếu để doanh nghiệp tiếp tục vững bước trên con đường hội nhập kinh tế.
Thực tế cho thấy doanh nghiệp kinh doanh thành công thực hiện các kĩ năng cạnh tranh rất thuần thục , nó tạo thành phương pháp cạnh tranh đặc trưng doanh nghiệp
Các kĩ năng này tập trung vào :
- Tạo lập và phát triển uy tín doanh nghiệp
- Coi trọng chiến lược mở rông thị trương
- Xây dựng và thực hiện đổi mới sản phẩm , mẫu mã
- Luôn tìm cách giảm chi phí sản xuất
- Sách lược tiêu thụ sản phẩm khôn khéo
Thứ hai là: khi nghiên cứu thị trường trong đầu tư tài sản vô hình của doanh nghiệp ta cần phải nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng.
Hành vi của người tiêu dùng thực hiện trong việc tìm kiếm,mua ,sử dụng đánh giá và vứt bỏ các sản phẩm và dịch vụ mà họ dự định sẽ thoả mãn các nhu cầu của họ. Nghiên cứu hành vi của người tiêu dùng là nghiên cứu các cá nhân đưa ra quyết định thế nào đối với việc chi tiêu các nguồn tài nguyên có thẻ sử dụng của họ trong các hạng mục liên quan đến sự tiêu dùng. Qua việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng sẽ cung cấp cho các nhà sản xuất những thông tin quan trọng để họ lên kế hoạch sản xuất thiết kế cải tiến và xây dựng được các chiến lược khuyến mại.
Mục đích của nghiên cứu người tiêu dùng là phục vụ cho công tác quản lí kinh doanh sản xuất và dịch vụ. Các nhà quả lí muốn biết nguyên nhân hành vi của người tiêu dùng, họ muốn biết con người đưa ra quyết định mua hàng sử dụng, cất kho và vứt bỏ các sản phẩm như thế nào từ đó xây dựng chiến lược Maketing lập ra những mảng thị trường mới cho một sản phẩm riêng hay một loại sản phẩm. Nghiên cứu hành vi người tiêu dùng được tiến hành bởi các tổ chức Maketing riêng biệt.
Thấy được tầm quan trọng và cần thiết của việc nghiên cứu hành vi người tiêu dùng, các doanh nghiệp đang đầu tư một cách thích đáng cho việc nghiên cứu. Việc nghiên cứu thành công giúp doanh nghiệp có chiến lược sản xuất kinh doanh đúng hướng, tiêu thụ nhanh sản phẩm quay vòng vốn nhanh thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
3.6. Đầu tư vào bí quyết công nghệ
Ngoài máy móc thiết bị thì bí quyết công nghệ là một phần quan trọng của công nghệ. Thật sai lầm và không đầy đủ khi đầu tư đổi mới công nghệ mà không chú ý đến bí quyết công nghệ. Các doanh nghiệp hiện nay thường chỉ nghĩ đến mua máy móc thiết bị mà quên mất đi phần bí quyết công nghệ.
Bí quyết công nghệ chứa đựng trong tất cả các khâu, các công đoạn của quá trình sản xuất như tổ chức hợp lí hoá, điều hành sản xuất, hệ thống tài chính kế toán, khách hàng, thị trường tiêu thụ sản phẩm, đào tạo và thông tin, lập kế hoạch cải tiến công nghệ, xử lí môi trường...
Chính vì thế bí quyết công nghệ đóng vai trò rất quan trọng nó là một nhân tố mà các doanh nghiệp cần quan tâm xem xét và tiến hành đầu tư.
4. Các hình thức đầu tư và nguyên tắc quản lý đầu tư ở các doanh nghiệp
4.1. Các hình thức đầu tư
Việc sắp xếp các hình thức đầu tư không có tính chất ổn định, mặc dù vạy có thể phân chia hình thức đầu tư như sau:
+ Đầu tư gián tiếp
Đây là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đưa lại hiệu quả cho người có vốn cũng như cho xã hội, những người có vốn không tham gia trực tiếp vào quản lý hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư gián tiếp được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như mua cổ phiếu, tín phiếu.
Đầu tư gián tiếp là một loại hình khá phổ biến hiện nay, di chủ đầu tư có tiềm lực kinh tế nhưng không có điều kiện và khả năng tham gia đầu tư trực tiếp
+ Đầu tư trực tiếp
Đây là một hình thức đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào hoạt động và tham gia quản lý hoạt động đầu tư, họ biết dược mục đích của đầu tư cũng như phương thức hoạt động của số vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư trực tiếp cũng dược biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như hợp đồng liên doanh, công ty cổ phần, mở rộng và tăng năng lực sản xuất.
+ Đầu tư trực tiếp chia thành 2 nhóm là đầu tư chuyển dịch và đầu tư phát triển:
1. Đầu tư chuyển dịch có nghĩa là sự chuyển dịch vốn đầu tư từ tài sản người này sang tài khoản người khác theo cơ chế thị trường của tài sản được chuyển dịch. Hay chính là sự mua lại cổ phần trong doanh nghiệp nào đó. việc chuyển dịch này không ảnh hưởng gì đến vốn của doanh nghiệp nhưng có khả năng tạo ra một năng lực quản lý mới, năng lực sản xuất mới. tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay là một hình thức đầu tư chuyển dịch.
2. Đầu tư phát triển là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu. Người có vốn đầu tư gắn liền với hoạt động kinh tế của đầu tư. Hoạt động đầu tư trong trường hợp này nhằm nâng cao năng lực của các cơ sở sản xuất theo hướng số lượng và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất mới. đây là hình thức tái sản xuất mở rộng và cũng là hình thức đầu tư quan trọng tạo ra việc làm mới, sản phẩm mới và thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong đầu tư phát triển, việc kết hợp giữa đầu tư theo chiều sâu và chiều rộng là vấn đề có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của đầu tư.
Đầu tư theo chiều sâu là đầu tư vào việc áp dụng các kỹ thuật sản xuất tiên tiến và máy móc tiến bộ, có hiệu quả hơn thể hiện ở chỗ khối lượng sản phẩm và chất lượng sản phẩm tăng lên nhưng số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất vẫn giữ nguyên hay ít hơn, đồng thời không làm tăng diện tích sản xuất của các công trình và doanh nghiệp được dung cho quá trình sản xuất.
Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất với kỹ thuật và công nghệ lặp lại như cũ.
Như vậy có thể thấy rằng đầu tư gián tiếp hay đầu tư chuyển dịch không tự nó vận động và tồn tại nếu như không có đầu tư phát triển. Ngược lại, đầu tư phát triển có thể đạt được quy mô lớn nếu có thể sự tham gia của các hình thức đầu tư khác.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, Chính phủ không áp đặt một hình thức đầu tư nào bắt buộc với mọi thành phần kinh tế, nhưng Nhà nước phải có sự can thiệp nhất định để đảm bảo cho thị trường đầu tư phát triển phù hợp với sự tăng trưởng kinh tế. còn đối với doanh nghiệp luôn phải phấn đấu đạt được mục tiêu chiến lược trong từng thời kỳ nhằm đạt lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp trên cơ sở tuân theo các nguyên tắc quản lý đầu tư.
4.2. Các nguyên tắc quản lý đầu tư ở các doanh nghiệp
Quản lý đầu tư: là một tập hợp những biện pháp của Nhà nước hay chủ đầu tư để quản lý quá trình đầu tư kể từ bước xác định dự án đầu tư, đến các bước thực hiện đầu tư và bước khai thác dự án để đạt được những mục đích đã định.
Quản lý đầu tư của doanh nghiệp phải dựa vào mục tiêu chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở từng thời kỳ, vào các mục tiêu cụ thể do các dự án đầu tư đề ra nhằm đạt được lợi ích cao nhất cho doanh nghiệp, nhưng phải phù hợp với đường lối phát triển của đất nước, phù hợp với pháp luật và quy định có liên quan đến đầu tư.
+ Quản lý đầu tư của doanh nghiệp phải đảm bảo sản xuất ra những sản phẩm và dịch vụ được thị trường chấp nhận về giá cả, chất lượng, đáp ứng được lợi ích của doanh nghiệp, người tiêu dùng và mục tiêu phát triển của đất nước.
+ Quản lý đầu tư của doanh nghiệp phải luôn dựa trên những khoa học của các kiến thức về sản xuất kinh doanh, dựa trên các kinh nghiệm và nghệ thuật kinh doanh đã được kết luận và luôn sáng tạo mới.
+ Quản lý đầu tư của doanh nghiệp phải xuyên suốt mọi giai đoạn kể từ khi lập dự án đầu tư đến giai đoạn thực hiện và vận hành dự án đầu tư, bảo đảm sự phù hợp giữa tính toán dự án theo lý thuyết và thực tế, đảm bảo thực hiện đúng trình tự đầu tư.
5. Những chỉ tiêu đánh giá hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính trong doanh nghiệp
5.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính gồm:
+ Sản lượng (doanh thu) tăng thêm tính trên một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh sản lượng tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp. Nó cho biết một đơn vị VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đã tạo ra bao nhiêu mức tăng của sản lượng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
+ Tỷ suất sinh lời VĐT (tỷ suất lợi nhuận VĐT). Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh lợi nhuận tăng thêm của doanh nghiệp với tổng VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp. Nó cho biết một đơn vị vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu lợi nhuận tăng thêm.
Trị số của các chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng VĐTPT của doanh nghiệp càng cao.
+ Hệ số huy động TSCĐ. Chỉ tiêu này được xác định bằng việc so sánh giá trị TSCĐ mới tăng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức VĐT XDCB thực hiện trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp hoặc so với tổng mức VĐT XDCB thực hiện (gồm thực hiện ở kỳ trước chưa được huy động và thực hiện trong kỳ), chỉ tiêu này phản ánh mức độ đạt được kết quả của hoạt động đầu tư trong tổng VĐT XDCB thực hiện trong kỳ nghiên cứu hoặc tổng VĐT XDCB thực hiện của doanh nghiệp.
Trị số của chỉ tiêu này càng cao cho biết doanh nghiệp đã thực hiện thi công dứt điểm nhanh chóng đưa các công trình vào hoạt động, giảm tình trạng ứ đọng vốn.
5.2. Đánh giá hiệu quả KTXH của hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp
+ Mức đóng góp cho ngân sách tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp so với VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh tổng mức đóng góp cho ngân sách tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đã đóng góp cho ngân sách với mức tăng thêm là bao nhiêu.
+ Mức tiết kiệm ngoại tệ tăng thêm so với VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách so sánh tổng số ngoại tệ tiết kiệm tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức vốn đầu tư phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp. Cho biết đơn vị VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đem lại mức ngoại tệ tăng thêm là bao nhiêu.
+ Mức thu nhập (hay tiền lương của người lao động) tăng thêm so với VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
Xác định bằng việc so sánh tổng thu nhập tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp. Cho biết 1 đơn vị VĐT trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đem lại mức thu nhập tăng thêm là bao nhiêu.
+ Số chỗ làm việc tăng thêm so với VĐT trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
Xác định bằng cách so sánh tổng số chỗ làm việc tăng thêm trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp với tổng mức VĐT trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp
Cho biết một đơn vị VĐT phát huy tác dụng trong kỳ nghiên cứu của doanh nghiệp đã tạo ra số chỗ làm việc tăng thêm là bao nhiêu.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY SỮA VINAMILK VIỆT NAM
1. Tổng quan
1.1 Tổng quan về ngành công nghiệp sữa Việt Nam
Ngành công nghiệp sữa Việt nam đã tăng trưởng nhanh trong những năm gần đầy nhờ vào sự tăng trưởng kinh tế đầy ấn tượng trong thập niên vừa qua. Đồng thời với sự nâng cao mức sống của Việt Nam, khi khả năng có đủ sức và việc có thể mua được công nghệ sản xuất phổ biến và sự cải thiện cơ sở hạ tầng một cách đáng kể đã tạo điều kiện cho sự gia tăng chung về tính đa dạng, chất lượng và sản lượng sản phẩm sữa được sản xuất tại Việt Nam. Tổng doanh số bán mặt hàng sữa tại Việt Nam 2003 – 2007 (Triệu USD). Sự tăng trưởng mạnh của nhu cầu về sản phẩm sữa được mong đợi là còn tiếp tục trên đà tăng trưởng mạnh của GDP, sự gia tăng dân số nội thành với thu nhập để lại được tăng lên và sự quan tâm ngày càng cao của người tiêu dùng về các lợi ích sức khỏe của sản phẩm sữa. Euromonitor International ước tính rằng tổng giá trị tiêu thụ sản phẩm sữa hàng năm tại Việt Nam tăng từ 1.332 triệu USD năm 2007 lên khoảng 1.902 triệu Đô la Mỹ vào năm 2011. Những yếu tố này sẽ đóng góp vào sự gia tăng đáng kể mức tiêu dùng sữa trên bình quân đầu người vốn còn rất thấp của Việt Nam so với các nước phương tây. Biểu đồ dưới đây thể hiện mức tiêu thụ sữa bình quân đầu người so với Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ từ năm 2003 đến năm 2007.
1.2. Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (công ty sữa Vinamilk)
Công ty Cổ phần sữa Việt Nam (Công ty hoặc Vinamilk), Nhà sản xuất sữa hàng đầu ở Việt Nam, tiền thân là một doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa vào năm 2003. Từ ngày 19/01/2006, cổ phiếu của Công ty được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM. Đến ngày 10/10/2007, giá trị thị trường của Công ty lên đến 33.000 tỷ đồng, cao nhất trong 117 công ty niêm yết. Cơ cấu sở hữu của Vinamilk vào ngày 31/12/2006 gồm: Nhà nước 50,01%, cổ đông nước ngoài 39,46%, các cổ đông khác trong nước 10,53%.
Hoạt động kinh doanh chính của Vinamilk là sản xuất và kinh doanh bánh, sữa đậu nành, nước giải khát, sữa hộp, sữa bột, bột dinh dưỡng và các sản phẩm từ sữa khác; kinh doanh thực phẩm công nghệ, thiết bị, phụ tùng, vật tư, hóa chất nguyên liệu, bất động sản, nhà kho, bến bãi, vận tải hàng bằng ô tô, bốc xếp hàng hóa, phòng khám đa khoa; sản xuất và mua bán rượu bia, đồ uống thực phẩm chế biến, chè uống, cà phê rang - xay - phin - hòa tan, bao bì, sản phẩm nhựa.
Ngoài hoạt động chính là kinh doanh các sản phẩm từ sữa, hiện tại Vinamilk đang mở rộng hoạt động vào các lĩnh vực mới như kinh doanh bất động sản, sản xuất cà phê, nước uống tinh khiết, sản xuất bia... Đồng thời, Công ty cũng tăng cường đầu tư góp vốn vào các công ty có uy tín như Công ty chứng khoán Sài Gòn, Công ty dầu thực vật, Công ty Đường Biên Hòa, Quỹ đầu tư chứng khoán VF1, Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình…
Phần lớn sản phẩm của Công ty cung cấp cho thị trường dưới thương hiệu “Vinamilk”, thương hiệu này được bình chọn là một “Thương hiệu Nổi tiếng” và là một trong nhóm 100 thương hiệu mạnh nhất do Bộ Công Thương bình chọn năm 2006. Vinamilk cũng được bình chọn trong nhóm “Top 10 Hàng Việt Nam chất lượng cao” từ năm 1995 đến năm 2007.
Hiện tại Công ty tập trung các hoạt động kinh doanh vào thị trường đang tăng trưởng mạnh tại Việt Nam mà theo Euromonitor là tăng trưởng bình quân 7.85% từ năm 1997 đến 2007. Đa phần sản phẩm được sản xuất tại chín nhà máy với tổng công suất khoảng 570.406 tấn sữa mỗi năm. Công ty sở hữu một mạng lưới phân phối rộng lớn trên cả nước, đó là điều kiện thuận lợi để chúng tôi đưa sản phẩm đến số lượng lớn người tiêu dùng.
Sản phẩm Công ty chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường Việt Nam và cũng xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài như Úc, Campuchia, Irắc, Philipines và Mỹ.
+ Tầm nhìn
Vinamilk sẽ tập trung mọi nguồn lực để trở thành công ty sữa và thực phẩm có lợi cho sức khỏe với mức tăng trưởng nhanh và bền vững nhất tại thị trường Việt Nam bằng chiến lược xây dựng các dòng sản phẩm có lợi thế cạnh tranh dài hạn.
+ Sứ mệnh
Vinamilk không ngừng đa dạng hóa các dòng sản phẩm, mở rộng lãnh thổ phân phối nhằm duy trì vị trí dẫn đầu bền vững trên thị trường nội địa và tối đa hóa lợi ích của cổ đông Công ty.
+ Triết lý kinh doanh
Vinamilk mong muốn trở thành sản phẩm được yêu thích nhất ở mọi khu vực, lãnh thổ. Vì thế chúng tôi tâm niệm rằng chất lượng và sáng tạo là người bạn đồng hành của Vinamilk. Vinamilk xem khách hàng là trung tâm và cam kết đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
+ Chính sách chất lượng:
Chính sách chất lượng của công ty sữa Vinamilk:
Luôn thỏa mãn và có trách nhiệm với khách hàng bằng cách đa dạng hóa sản phẩm và dịch vụ, đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm với giá cả cạnh tranh, tôn trọng đạo đức kinh doanh và tuân theo luật định.
+ Mục tiêu của Công ty là tối đa hóa giá trị của cổ đông và theo đuổi chiến lược phát triển kinh doanh dựa trên những yếu tố chủ lực sau:
• Mở rộng thị phần tại các thị trường hiện tại và thị trường mới;
• Phát triển toàn diện danh mục sản phẩm sữa nhằm hướng tới một lực lượng tiêu thụ rộng lớn đồng thời mở rộng sang các sản phẩm giá trị cộng thêm có tỷ suất lợi nhuận lớn hơn;
• Phát triển các dòng sản phẩm mới nhằm thỏa mãn nhiều thị hiếu tiêu dùng khác nhau;
• Xây dựng thương hiệu.
• Tiếp tục nâng cao quản lý hệ thống cung cấp.
• Phát triển nguồn nguyên liệu để đảm bảo nguồn cung sữa tươi ổn định và tin cậy.
+ Lợi thế cạnh tranh:
Công ty tin rằng thành công đến nay và tiềm năng tăng trưởng trong tương lai là nhờ sự phối hợp của các thế mạnh dưới đây:
• Vị trí đầu ngành được hỗ trợ bởi thương hiệu được xây dựng tốt.
• Danh mục sản phẩm đa dạng và mạnh.
• Mạng lưới phân phối và bán hàng rộng khắp.
• Quan hệ bền vững với các nhà cung cấp, đảm bảo nguồn sữa đáng tin cậy.
• Năng lực nghiên cứu và phát triển theo định hướng thị trường.
• Kinh nghiệm quản lý tốt được chứng minh bởi kết quả hoạt động kinh doanh bền vững.
+ Các sự kiện quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển của Công ty như sau:
1976: Tiền thân là Công ty Sữa, Café Miền Nam, trực thuộc Tổng Công ty Lương Thực, với 6 đơn vị trực thuộc là Nhà máy sữa Thống Nhất, Nhà máy sữa Trường Thọ, Nhà máy sữa Dielac, Nhà máy Café Biên Hòa, Nhà máy Bột Bích Chi và Lubico.
1978: Công ty được chuyển cho Bộ Công Nghiệp thực phẩm quản lý và Công ty được đổi tên thành Xí Nghiệp Liên hợp Sữa Café và Bánh Kẹo I.
1988: Lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm sữa bột và bột dinh dưỡng trẻ em tại Việt Nam.
1991: Lần đầu tiên giới thiệu sản phẩm sữa UHT và sữa chua ăn tại thị trường Việt Nam.
1992: Xí Nghiệp Liên hợp Sữa Café và Bánh Kẹo I được chính thức đổi tên thành Công ty Sữa Việt Nam và thuộc sự quản lý trực tiếp của Bộ Công nghiệp Nhẹ. Công ty bắt đầu tập trung vào sản xuất và gia công các sản phẩm sữa.
1994: Nhà máy sữa Hà Nội được xây dựng tại Hà Nội. Việc xây dựng nhà máy là nằm trong chiến lược mở rộng, phát triển và đáp ứng nhu cầu thị trường Miền Bắc Việt Nam.
1996: Liên doanh với Công ty Cổ phần Đông lạnh Quy Nhơn để thành lập Xí Nghiệp Liên Doanh Sữa Bình Định. Liên doanh này tạo điều kiện cho Công ty thâm nhập thành công vào thị trường Miền Trung Việt Nam.
2000: Nhà máy sữa Cần Thơ được xây dựng tại Khu Công Nghiệp Trà Nóc, Thành phố Cần Thơ, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu tốt hơn của người tiêu dùng tại đồng bằng sông Cửu Long. Cũng trong thời gian này, Công ty cũng xây dựng Xí Nghiệp Kho Vận có địa chỉ tọa lạc tại: 32 Đặng Văn Bi, Thành phố Hồ Chí Minh.
2003: Chính thức chuyển đổi thành Công ty cổ phần vào tháng 12 năm 2003 và đổi tên thành Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam cho phù hợp với hình thức hoạt động của Công ty.
2004: Mua thâu tóm Công ty Cổ phần sữa Sài Gòn. Tăng vốn điều lệ của Công ty lên 1,590 tỷ đồng.
2005: Mua số cổ phần còn lại của đối tác liên doanh trong Công ty Liên doanh Sữa Bình Định (sau đó được gọi là Nhà máy Sữa Bình Định) và khánh thành Nhà máy Sữa Nghệ An vào ngày 30 tháng 06 năm 2005, có địa chỉ đặt tại Khu Công Nghiệp Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An.
* Liên doanh với SABmiller Asia B.V để thành lập Công ty TNHH Liên Doanh SABMiller Việt Nam vào tháng 8 năm 2005. Sản phẩm đầu tiên của liên doanh mang thương hiệu Zorok được tung ra thị trường vào đầu giữa năm 2007.
2006: Vinamilk niêm yết trên thị trường chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 19 tháng 01 năm 2006, khi đó vốn của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh Vốn Nhà nước có tỷ lệ nắm giữ là 50.01% vốn điều lệ của Công ty.
* Mở Phòng Khám An Khang tại Thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 6 năm 2006. Đây là phòng khám đầu tiên tại Việt Nam quản trị bằng hệ thống thông tin điện tử. Phòng khám cung cấp các dịch vụ như tư vấn dinh dưỡng, khám phụ khoa, tư vấn nhi khoa và khám sức khỏe.
* Khởi động chương trình trang trại bò sữa bắt đầu từ việc mua thâu tóm trang trại Bò sữa Tuyên Quang vào tháng 11 năm 2006, một trang trại nhỏ với đàn bò sữa khoảng 1.400 con. Trang trại này cũng được đi vào hoạt động ngay sau khi được mua thâu tóm.
2007: Mua cổ phần chi phối 55% của Công ty sữa Lam Sơn vào tháng 9 năm 2007, có trụ sở tại Khu công nghiệp Lễ Môn, Tỉnh Thanh Hóa.
Sản phẩm và thương hiệu Vinamilk của chúng tôi đã đạt được nhiều danh hiệu quý giá. Sau đây là một số danh hiệu tiêu biểu:
Thời gian
Danh hiệu
Cơ quan trao tặng
1985
Huân chương Lao động Hạng III
Chủ tịch nước
1991
Huân chương Lao động Hạng II
Chủ tịch nước
1996
Huân chương Lao động Hạng I
Chủ tịch nước
2000
Anh Hùng Lao động
Chủ tịch nước
2001
Huân chương Lao động Hạng III cho 3 nhà máy thành viên VNM là Dielac, Thống Nhất, Trường Thọ
Chủ tịch nước
2005
Huân chương Độc lập Hạng III cho Công ty
Chủ tịch nước
2005
Huân chương Lao động Hạng III cho nhà máy Sữa HN
Chủ tịch nước
2006
Huân chương Lao động Hạng II cho 3 nhà máy thành viên VNM: Dielac, Thống Nhất, Trường Thọ
Chủ tịch nước
2006
Được tôn vinh và đoạt giải thưởng của Tổ chức sở hữu trí tuệ Thế giới WIPO
WIPO
2006
“Siêu Cúp” Hàng Việt Nam chất lượng cao và uy tín
Hiệp hội sở hữu trí tuệ & DN vừa và nhỏ Việt Nam
1991 - 2005
Liên tục nhận cờ luân lưu là "Đơn vị dẫn đầu phong trào thi đua Ngành CN VN"
Chính Phủ
1995 - 2007
Top 10 “Hàng Việt Nam chất lượng cao”
Báo Sài Gòn tiếp thị
Để ghi nhận sự đóng góp đối với sự phát triển của ngành công nghiệp sữa và sự phát triển kinh tế của Việt Nam, Bà Mai Kiều Liên, Chủ tịch HĐQT đã được trao tặng các danh hiệu cao quý sau đây:
Thời gian
Danh hiệu
Cơ quan trao tặng
2001
Huân chương Lao động Hạng II
Chủ tịch nước
2005
Giải Nhất Sáng Tạo năm 2004
Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới
2005
Anh Hùng Lao động
Chủ tịch nước
2006
Huân chương Lao động Hạng I
Chủ tịch nước
2. Đánh giá hoạt động đầu tư của Vinamilk
2.1. Đánh giá thông qua nội dung đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
2.1.1. Đầu tư vào tài sản cố định
Kể từ khi được thành lập vào năm 2003 đến nay, công ty cổ phần sữa Việt Nam luôn luôn được biết đến không chỉ bởi các sản phẩm nổi tiếng như: sữa chua Vinamilk, sữa tươi 100%... mà còn bởi một hệ thống cơ sở hạ tầng rất quy mô và hiện đại bao gồm trụ sở, các chi nhánh và rất nhiều nhà máy trên khắp cả nước… Có được điều này là do ban lãnh đạo công ty đã rất quan tâm đến việc đầu tư vào tài sản cố định mà trước hết phải kể đến ở đây là nhà xưởng. Thật vậy, sau khi được thành lập, Vinamilk đã không ngừng thực hiện cải tạo và xây mới thêm rất nhiều nhà máy như: Nhà máy sữa Sài Gòn (Khu CN Tân Thới Hiệp, Q12 TP.HCM), Nhà máy sữa Hà Nội (Xã Dương Xá, Gia Lâm, Hà Nội), Nhà máy sữa Cần Thơ (Khu Công nghiệp Trà Nóc, Cần Thơ), Nhà máy sữa Thống Nhất (Số 12 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, TP.HCM), Nhà máy sữa Trường Thọ (Số 32 Đặng Văn Bi, Q.Thủ Đức, TP.HCM)… Điều này còn được thể hiện qua việc tài sản cố định mà đặc biệt là tài sản cố định hữu hình và chi phí xây dựng dở dang của công ty liên tục tăng thêm qua từng năm, chỉ tính riêng trong hai năm 2005 và 2006, tài sản cố định của Vinamilk đã tăng 42,29% (từ 757.373 triệu đồng lên 1.071.980 triệu đồng), trong đó tài sản cố định hữu hình và chi phí xây dựng cơ bản dở dang lần lượt tăng thêm tới 33,62% và 67,00%, tương đương 187.871 triệu đồng (từ 558.790746.661 triệu đến 746.661 triệu) và 126.859 triệu đồng (từ 189.319 triệu đến 316.178 triệu).
Thêm vào đó, công ty còn rất chú trọng tới việc đầu tư vào trang thiết bị, công nghệ hiện đại phục vụ sản xuất kinh doanh mà điển hình là việc nhập dây chuyền sản xuất sản phẩm Zorok từ SABmiller Asia B.V (theo hình thức liên doanh góp vốn), hệ thống máy móc sử dụng công nghệ sấy phun của Niro (Đan Mạch) hay các dây chuyền sản xuất đạt chuẩn quốc tế của Tera Park... Cùng với nhà xưởng, máy móc thiết bị và các dây chuyền sản xuất cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong sự gia tăng mạnh mẽ của tài sản cố định hữu hình nói riêng và tổng tài sản cố định nói chung của Vinamilk. Qua đó, ta thấy được sự quan tâm rất sâu sắc và tầm nhìn chiến lược của công ty đối với việc đầu tư vào tài sản cố định.
2.1.2. Đầu tư bổ sung hàng dự trữ:
Đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, việc đầu tư vào hàng tồn kho (hàng dự trữ) ra sao có thể coi là một vấn đề sống còn, quyết định hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vinamilk cũng không phải là một ngoại lệ, hiểu được rất rõ điều này, công ty đã và đang có những sự đầu tư hết sức hợp lý vào hàng tồn kho nhằm đảm bảo quá trình sản xuất - tiêu thụ sản phẩm.
Trong giai đoạn 2003 – 2006 (giai đoạn sau cổ phần), giá trị hàng tồn kho bình quân của công ty luôn được duy trì ở mức thấp so với doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ, điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Năm
2003
2004
2005
2006
Hàng tồn kho bình quân (triệu đồng)
498.475
689.313
929.900
1.000.070
DTT bán hàng & cung cấp dịch vụ (triệu đồng)
3.809.414
4.226.843
5.638.784
6.619.103
Tỷ trọng (%)
13,08
16,30
16,49
15,10
Qua bảng số liệu ta thấy giá trị hàng tồn kho bình quân của Vinamilk luôn được duy trì ở một mức rất hợp lý so với doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ (bình quân 15,24% trong giai đoạn 2003 – 2006). Ngoài ra, bảng số liệu trên cũng cho ta thấy sự tăng trưởng rất ổn định của cả hàng tồn kho bình quân và doanh thu thuần của công ty khi mà tỷ trọng của năm lớn nhất (2005) cũng chỉ hơn 3,41% so với năm 2003, năm có tỷ trọng thấp nhất. Điều này chứng tỏ Vinamilk đã có những kế hoạch thật sự hợp lý cho việc tiêu thụ và dự trữ sản phẩm.
2.1.3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Dù là công ty nào, hoạt động trong bất cứ lĩnh vực gì thì “con người vẫn luôn là tài sản quý nhất của công ty” (Thomas J. Watson, người sáng lập tập đoàn IBM). Thật vậy, các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất chỉ với những thiết bị, những dây chuyền trong những nhà xưởng trống không. Máy móc dù có hiện đại hay tinh vi đến đâu thì để có thể tạo ra sản phẩm, nhất định vẫn phải có sự can thiệp của con người. Kể từ khi chính thức trở thành công ty cổ phần sữa Việt Nam đến nay, Vinamilk đã và đang không ngừng đẩy mạnh công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ, công nhân viên, đặc biệt là cán bộ trình độ cao. Minh chứng cho điều này có thể kể đến những việc như: Cử cán bộ đi học hỏi, đào tạo ở nước ngoài, mở các lớp đào tạo cho công nhân (cả ở nông trại lẫn trong các nhà máy), tìm đến các trường đại học nhằm phát hiện và tuyển chọn những cán bộ chất lượng cao trong tương lai… Đó là lý do tại sao hiện Vinamilk đang sở hữu những đội ngũ bán hàng, tiếp thị, nghiên cứu và phát triển có kinh nghiệm, trình độ cao… cùng một lượng đông đảo công nhân lành nghề đang có mặt tại các nông trại, nhà máy trên khắp Việt Nam.
2.1.4. Đầu tư vào nghiên cứu triển khai và nghiên cứu thị trường
Có thể nói đây là vấn đề vẫn còn là rất mới đối với không chỉ Vinamilk mà còn là của tất cả các doanh nghiệp lớn nhỏ ở nước ta, kể cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ và xây dựng như: FPT, VNPT, Viettel hay Vinaconex, Sông Đà…
Tuy chưa thật sự mạnh trong lĩnh vực này như các công ty, các tập đoàn thực phẩm xuyên quốc gia như: Abbot (Hoa Kỳ), Namyang (Hàn Quốc), Friesland Foods (Hà Lan)… song bằng nỗ lực vươn lên, thực tế những năm qua cũng đã ghi nhận những thành tựu của Vinamilk trong hoạt động nghiên cứu và phát triển, điển hình là việc nghiên cứu thị hiếu của trẻ em từ 6 – 12 tuổi đã giúp công ty phát triển thành công chiến lược tiếp thị rầm rộ Vinamilk Milk Kid hồi tháng 5 năm 2007, đưa mặt hàng này trở thành sản phẩm sữa bán chạy nhất cho khúc thị trường trẻ em vào tháng 12 năm 2007. Ngoài ra, với nỗ lực đưa sản phẩm của công ty luôn sánh vai với xu hướng tiêu thụ mới nhất, Vinamilk còn thường xuyên thực hiện một cách chủ động hoạt động nghiên cứu và hợp tác với các công ty nghiên cứu thị trường để tìm hiểu các xu hướng và hoạt động bán hàng. Tuy nhiên, đối với mảng hoạt động nghiên cứu triển khai sản phẩm mới thì công ty thực sự mới đang chỉ ở giai đoạn “trứng nước”, còn phải cố gắng nhiều mới có thể đạt được các thành tựu trong tương lai.
2.1.5. Đầu tư vào bí quyết công nghệ
Đây là một trong những vấn đề có liên quan hết sức mật thiết đối với một doanh nghiệp thường xuyên phải nhập khẩu máy móc, dây chuyền sản xuất như Vinamilk bởi nó có tác động rất lớn đến việc có đạt được hiệu quả sản xuất cao hay không. Thực tế hoạt động những năm qua cho thấy sự quan tâm sâu sắc của ban lãnh đạo Vinamilk về vấn đề này, công ty không chỉ mua về máy móc, dây chuyền sản xuất mà còn có cả cách thức để có thể quản lý và vận hành nó một cách hiệu quả nhất, chẳng hạn sau khi nhập hệ thống máy móc sử dụng công nghệ sấy phun của Niro (Đan Mạch) về, ban lãnh đạo Vinamilk đã tổ chức hẳn một lớp hướng dẫn sử dụng công nghệ cho cán bộ với sự giảng dạy của chuyên gia phía Đan Mạch. Rõ ràng, Vinamilk luôn dành cho đầu tư vào bí quyết công nghệ một sự quan tâm rất lớn.
2.2. Đánh giá thông qua quá trình hoạt động
Trước khi đi vào đánh giá quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Vinamilk, ta cùng nghiên cứu qua về tình hình tài chính của công ty thông qua cơ cấu bảng cân đối kế toán và kết quả sản xuất kinh doanh dựa vào các bảng số liệu sau:
STT
Năm
2006
2005
2004
2003
1
Doanh thu thuần
100
100
100
100
2
Giá vốn hàng bán
75,73
77,67
74,91
69,99
3
Lợi nhuận gộp
24,27
22,33
25,09
30,01
4
Chi phí bán hàng
13,59
11,60
10,56
10,84
5
Chi phí quản lý doanh nghiệp
1,71
1,43
2,36
2,39
6
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
8,98
9,30
12,17
16,78
7
Thu nhập từ hoạt động tài chính
1,12
0,98
1,64
1,28
8
Chi phí hoạt động tài chính
0,60
0,35
1,23
1,79
Lãi phải trả
0,32
0,18
0,20
0,45
9
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính
0,52
0,63
0,41
1,95
10
Thu nhập khác
1,65
0,76
0,31
3,17
11
Chi phí khác
0,05
0,00
0,02
0,32
12
Lợi nhuận khác
1,60
0,76
0,29
2,85
13
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế
11,10
10,69
12,87
21,58
14
Chi phí thuế TNDN
0,04
-0,05
0,62
8,13
15
Lợi nhuận sau thuế TNDN
11,06
10,74
12,25
13,45
Bảng 1. Cơ cấu kết quả kinh doanh
(Nguồn: www.vnds.com.vn)
STT
Năm
2006
2005
2004
2003
I
I. TÀI SẢN
100
100
100
100
1
Tài sản ngắn hạn
54,74
61,74
69,26
79,85
+ Tiền và các khoản tương đương tiền
4,39
12,84
20,19
26,32
+ Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn
8,62
0,58
11,44
0,00
+ Các khoản phải thu ngắn hạn
14,40
18,12
7,00
30,67
+ Hàng tồn kho
25,78
22,75
30,47
22,81
+ Tài sản ngắn hạn khác
1,55
2,46
0,18
0,05
2
Tài sản dài hạn
45,26
38,26
30,74
20,15
+ Tài sản cố định
21,21
14,57
16,41
8,60
+ Các khoản đầu tư tài chính dài hạn
11,86
15,65
7,08
5,84
+ Chi phí xây dựng cơ bản dở dang
8,87
4,86
5,44
3,89
+ Các khoản thế chấp, ký quỹ dài hạn
0,02
0,10
1,80
1,83
+ Chi phí trả trước dài hạn
3,29
3,08
0,00
0,00
II
NGUỒN VỐN
100
100
100
100
1
Nợ phải trả
23,22
42,36
27,50
40,64
+ Nợ ngắn hạn
17,26
37,35
22,67
36,32
+ Nợ dài hạn
5,96
5,00
4,83
4,32
2
Vốn chủ sở hữu
76,78
57,64
72,50
59,36
+ Vốn và quỹ
74,96
55,28
71,04
59,30
+ Nguồn kinh phí và quỹ khác
0,00
2,37
1,46
0,06
+ Quỹ dự phòng trợ cấp việc làm
0,00
0,00
0,00
0,00
+ Quỹ khen thưởng phúc lợi
1,82
2,37
1,45
0,05
+ Nguồn kinh phí sự nghiệp
0,00
0,00
0,01
0,01
Bảng 2. Cơ cấu bảng cân đối kế toán
(Nguồn: www.vnds.com.vn)
Để có thể đánh giá hoạt động đầu tư của Vinamilk thông qua quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, trước hết chúng ta nghiên cứu bảng số liệu về tỷ số lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản sau:
Năm
2003
2004
2005
2006
Lợi nhuận sau thuế
(triệu đồng)
512.446
517.671
605.484
731.587
Tăng trưởng (%)
-
1,02
16,96
20,83
Tổng tài sản bình quân (triệu đồng)
2.367.621
2.593.140
3.226.322
3.730.797
Tăng trưởng (%)
-
9,52
24,41
15,63
Tỷ số (%)
21,64
19,96
18,87
19,61
Qua bảng số liệu, trước hết ta thấy, từ 2003 – 2006, lợi nhuận sau thuế và tổng tài sản bình quân của Vinamilk liên tục có sự tăng trưởng trong giai đoạn sau cổ phần (2003 – 2006).
Đánh giá một cách chi tiết ta thấy rõ, nếu như vào năm 2004, khi Vinamilk chưa đẩy mạnh đầu tư vào nhà xưởng, máy móc hay công nghệ… tổng tài sản bình quân chỉ tăng 9,52% và lợi nhuận sau thuế trong năm cũng chỉ có mức tăng rất khiêm tốn, 1,02%. Nhưng bước sang 2005, năm mà Kinh Đô bắt đầu thực hiện một loạt các dự án lớn như: mua số cổ phần còn lại của đối tác liên doanh trong Công ty Liên doanh Sữa Bình Định, khánh thành Nhà máy Sữa Nghệ An (Khu Công Nghiệp Cửa Lò, Tỉnh Nghệ An) hay liên doanh với SABmiller Asia B.V để thành lập Công ty TNHH Liên Doanh SABMiller Việt Nam… tổng tài sản bình quân của công ty có sự tăng trưởng vượt bậc từ 2.593.140 triệu đồng đến 3.226.322 triệu đồng, tương đương 24,41%. Và sự đầu tư này lập tức mang lại những hiệu quả trông thấy mà cụ thể ở đây là mức tăng trưởng tới 16,96% trong lợi nhuận sau thuế, vượt trội so với mức 1,02% một năm trước đó. Không dừng lại ở đó, việc mở phòng khám cao cấp An Khang tại Thành Phố Hồ Chí Minh (đánh dấu sự có mặt của Vinamilk trong lĩnh vực y tế) vào tháng 6 năm 2006 hay khởi động chương trình “Trang trại bò sữa” mà bắt đầu từ việc mua thâu tóm trang trại bò sữa Tuyên Quang tháng 11 cùng năm tiếp tục góp phần làm phình to khối tài sản của công ty. Năm 2006, tổng tài sản bình quân của Vinamilk tăng 15,63%, từ 3.226.322 triệu đồng lên 3.730.797 triệu đồng và cũng như năm 2005, những sự đầu tư này tiếp tục phát huy tác dụng khi lợi nhuận sau thuế của công ty thậm chí còn tăng cao hơn, đạt 20,83%, tương đương 126.103 triệu đồng.
Những con số trên đây không chỉ chứng tỏ việc Vinamilk ngày càng quan tâm đẩy mạnh đến hoạt động đầu tư phát triển, điển hình là: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, trang trại… mà còn cho thấy sự hiệu quả từ những đồng vốn đó. Qua đó ta thấy được sự chính xác kèm theo những kế hoạch sử dụng rất hợp lý của ban lãnh đạo công ty khi quyết định bỏ vốn đầu tư.
2.3 Đánh giá hoạt động đầu tư thông qua các chỉ tiêu đánh giá tài chính
2.3.1. Phân tích tỷ số thanh khoản:
Các chỉ tiêu
2006
2005
2004
2003
Hệ số thanh toán ngắn hạn (lần)
3,17
1,65
3,06
2,20
Hệ số thanh toán nhanh (lần)
1,59
0,84
1,70
1,57
Tỷ số ngân lưu từ HĐSXKD/nợ ngắn hạn
0,48
0,56
0,16
Hệ số thanh toán ngắn hạn tăng qua các năm và bình quân khoảng 3 lần, tức là nợ ngắn hạn được đảm bảo bằng 3 lần tài sản ngắn hạn. Riêng năm 2005, con số này chỉ là 1,65 lần, nhưng thực chất hệ số này sẽ cao hơn vì trong nợ ngắn hạn bao gồm nợ khác 1.036 tỷ đồng với một tỷ trọng rất lớn là chiếm dụng phần vốn bán cổ phần chưa nộp cho nhà nước để gửi dài hạn ngân hàng 492 tỷ đồng mà thực tế có tính thanh khoản rất cao vì có thể rút trước hạn.
Hệ số thanh toán nhanh đạt bình quân 1,7 lần cho thấy tài sản lưu động của Công ty có khả năng chuyển đổi thành tiền mặt dễ dàng để đảm bảo các khoản nợ ngắn hạn. Thêm vào đó, tỷ số ngân lưu từ HĐKD/nợ ngắn hạn lên đến 40% cho thấy Công ty có tình hình tài chính lành mạnh.
Như vậy, tính thanh khoản của Vinamilk ngày càng cao, đảm bảo nhanh chóng thực hiện các khoản nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, điều này có thể phản ánh việc sử dụng tài sản lưu động cũng như các tản sản có tính thanh khoản cao nhưng suất sinh lợi thấp không hiệu quả. Một lần nữa, chỉ tiêu này chỉ có thể đánh giá khách quan khi có số bình quân chung của ngành.
2.3.2. Phân tích tỷ số quản lí tài sản:
Các chỉ tiêu
2006
2005
2004
2003
Vòng quay hàng tồn kho (vòng)
5,01
4,71
4,59
5,35
Số ngày tồn kho (ngày)
72
76
78
67
Vòng quay các khoản phải thu
10,86
12,74
8,57
6,44
Kỳ thu tiền bình quân (ngày
33
28
42
56
Vòng quay các khoản phải trả
4,91
4,36
4,18
3,88
Số ngày nợ bình quân (ngày)
73
83
86
93
Vòng quay tài sản cố định (vòng)
10,00
11,42
13,10
16,17
Vòng quay tổng tài sản (vòng)
1,77
1,75
1,63
1,61
Hàng hóa từ khi sản xuất đến khi thu tiền bình quân khoảng 100 ngày (tồn kho bình quân 70 ngày, số ngày thu tiền bình quân 30 ngày), trong khi số ngày nợ bình quân khoảng 80 ngày, thấp hơn thời gian từ khi sản xuất đến khi thu tiền một chút, nhưng những con số này có vẻ phù hợp với ngành hàng thực phẩm đòi hỏi phải luân chuyển không để tồn kho quá lâu dễ dẫn đến hết hạn sử dụng, ảnh hưởng chất lượng sản phẩm.
Vòng quay tài sản cố định ròng có xu hướng giảm, nguyên nhân chủ yếu là khi cổ phần hóa, tài sản cố định được đánh giá tăng, đồng thời, trong thời gian qua nhiều dự án với các sản phẩm mới được đầu tư thêm. Tuy nhiên, vòng quay tổng tài sản của doanh nghiệp ổn định và tăng, điều này thể hiện việc quản lý tài sản của Vinamilk ngày càng hiệu quả.
Mặc dù cần có chỉ tiêu bình quân ngành để so sánh sẽ rõ hơn, nhưng nhìn trên bức tranh tổng thể, thì việc quản lý tài sản ở Vinamilk được thực hiện tốt.
2.3.3. Phân tích tỷ số quản lý nợ
Các chỉ tiêu
2006
2005
2004
2003
Tỉ số nợ trên tổng tài sản (%)
23,2
42,4
27,5
40,6
Tỉ số nợ so với vốn chủ sở hữu (%)
30,2
73,5
37,9
68,5
Tỉ số khả năng trả lãi (lần)
35,7
61,1
66,4
49,4
Nợ của Vinamilk rất thấp so với vốn chủ sở hữu (khoảng 30%). Sau khi cổ phần hóa, Công ty chủ yếu hoạt động bằng nguồn chủ sở hữu và chiếm dụng, nợ dài dài hạn được vay để đầu tư các dự án mới. Đặc biệt năm 2005, doanh nghiệp đã tranh thủ chiếm dụng khoản tiền thu được do bán phần vốn của nhà nước tại Công ty để hoạt động kinh doanh.
Một lần nữa, kết quả phân tích cho thấy rằng khả năng trả nợ dài hạn của Vinamilk là rất tốt. Tuy nhiên, phân tích ở phần sau sẽ cho thấy nên tăng cường vay nợ khi ROA và ROE đều cao hơn lãi vay ngân hàng rất nhiều và sắp tới các ưu đãi về thuế không còn.
2.3.4. Phân tích tỷ số khả năng sinh lợi
Các chỉ tiêu (%)
2006
2005
2004
2003
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu
11.1%
10.7%
12.2%
13.5%
Tỷ số sức sinh lợi căn bản (ROA)
20.3%
19.3%
23.0%
37.6%
Tỷ số lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản
19.6%
18.8%
20.0%
21.6%
Tỷ số lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu (ROE)
29.4%
29.5%
30.3%
33.5%
Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu, sinh lợi trên tổng tài sản ổn định qua các năm điều này cho thấy hoạt động kinh doanh của Vinamilk là tương đối ổn định. Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của công ty bình quân 30%, cao hơn mức bình quân thị trường 20,55%. Điều này thể hiện khả năng tạo ra lợi nhuận của đồng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, do đặc điểm của Việt Nam không phải toàn bộ phần lợi nhuận này thuộc về cổ đông mà còn phải trích lập các quỹ khoảng 5% lợi nhuận sau thuế nên cổ đông chỉ được hưởng một mức thấp hơn và nếu loại trừ yếu tố được miễn giảm thuế thì suất sinh lợi của doanh nghiệp chỉ bằng suất sinh lợi bình quân của thị trường.
Nhìn chung hoạt động của Vinamilk là hiệu quả, nhưng có hai vấn đề cân phân tích kỹ hơn gồm: (1) tiềm năng của các dự án đầu tư mới vì nó ảnh hưởng đến hiện quả của Công ty trong tương lai; (2) tác động của việc được miễn giảm thuế khi niêm yết trên TTCK đến hiệu quả hoạt động của Vinamilk.
2.3.5. Phân tích tỷ số tăng trưởng:
Các chỉ tiêu
2006
2005
2004
Tỷ số lợi nhuận giữ lại
58,7%
50,1%
55,1%
Tỷ số tăng trưởng bền vững
(Tỷ số LN giữ lại)*(ROE)
17,2%
14,8%
16,7%
Hàng năm một tỷ lệ lợi nhuận sau thuế rất lớn được giữ lại để đầu tư các dự án, đặc biệt đầu tư vào các lĩnh vực mới không phải là lĩnh vực truyền thống như kinh doanh bất động sản, sản xuất cà phê, nước uống tinh khiết, liên doanh sản xuất bia... cũng như góp vốn vào các công ty khác. Đây có thể là tiềm năng tạo ra lợi nhuận trong tương lai cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu các dự án đầu tư mới không phát huy hiệu quả sẽ đem đến gánh nặng rất lớn cho Công ty
Phân tích nhân tố tác động đến hiệu quả hoạt động của Vinamilk
Các chỉ tiêu
2006
2005
2004
2003
ROE
29,4%
29,5%
30,3%
33,5%
Gánh nặng thuế =LNR/LN trước thuế
99,6%
100,5%
95,1%
62,3%
Gánh nặng lãi vay =LN trước thuế/EBIT
97,2%
98,4%
98,5%
98,0%
Tỷ suất lợi nhuận biên = EBIT/Doanh thu
11,4%
10,9%
13,1%
22,0%
Vòng quay TTS=Doanh thu/TTS bình quân
177,4%
174,8%
163,0%
160,9%
Hệ số nợ=Tài sản/Vốn CSH
149,7%
157,4%
151,9%
154,7%
M/B
8,0
4,1
2,9
1,5
P/E
27,2
13,9
9,5
4,5
Việc xem xét các nhân tố dưới đây sẽ phần nào giải phẫu được các yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh (ROE) của doanh nghiệp:
Gánh nặng thuế: Sau khi cổ phần hóa vào năm 2006, Công ty được miễn 100% thuế thu nhập doanh nghiệp trong 2 năm và giảm 50% trong 2 năm tiếp theo. Tháng 01/2006, khi công ty niêm yết cổ phiếu lại được giảm tiếp 50% trong 2 năm. Nhờ vậy tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của công ty tăng mạnh qua các năm sau khi cổ phần hóa. Đây là chỉ số ảnh hưởng tăng ROE nhiều nhất. Nếu không có việc miễn giảm thuế này thì ROE của doanh nghiệp chỉ đạt trên 20%.
Gánh nặng lãi vay và hệ số nợ: Công ty hoạt động chủ yếu bằng nguồn vốn tự có, ít sử dụng vốn vay nên chi phí lãi phải trả chỉ chiếm khoảng 2% lợi nhuận. Tỷ số gánh nặng lãi vay này ổn định qua các năm với mức bình quân 98%. Thêm vào đó, hệ số nợ giảm mà nguyên nhân Công ty sử dụng vốn sở hữu nhiều, tỷ số nợ thấp sau khi cổ phần hóa, nguồn vốn chủ sở hữu đôi khi cũng không được sử dụng hết phải gửi ngân hàng. Những yếu tố tác động đến hai chỉ số nêu trên chưa được khai thác tốt nên đã tác động làm giảm ROE như đã đề cập ở các phần trên.
Tỷ suất lợi nhuận biên năm 2006 đạt 11,4%. Tỷ số này có khả năng gia tăng trong tương lai vì nhiều dự án với các sản phẩm mới đang được đầu tư. Hiện tại các dự án này mới đi vào hoạt động chưa phát huy hết công suất, doanh thu chưa cao. Khi các mặt hàng này chiếm lĩnh được thị trường thì khả năng sẽ tạo ra lợi nhuận lớn trong tương lai.
Vòng quay tổng tài sản ngày càng tăng, chứng tỏ tài sản được sử dụng ngày càng hiệu quả. Đây cũng là một trong những chỉ tiêu làm tăng tỷ số ROE.
Phân tích nhân tố cho thấy, nhìn chung hiệu quả kinh doanh của Vinamilk là cao. Tuy nhiên dường như Công ty chưa tối ưu được các yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh, nhất là đòn bẩy nợ
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CỦA VINAMILK
Dù là một trong những công ty hàng đầu của Việt Nam song để có thể vươn mình ra Thế Giới cạnh tranh với các tập đoàn, các công ty xuyên quốc gia hùng mạnh trong cùng lĩnh vực, Công ty cổ phần sữa Việt Nam cần phải phát huy, nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư của mình để không chỉ đưa chất lượng sản phẩm lên một tầm cao mới mà còn giảm chi phí sản xuất, qua đó đưa ra giá bán hợp lý. Vậy trong thời gian tới, công ty cần phải làm những gì? Sau đây, em xin đưa ra một số kiến nghị có thể giúp Vinamilk đạt hiệu quả đầu tư cao hơn trong tương lai.
3.1. Đẩy mạnh đào tạo nhân sự:
Như đã nói ở trên, con người luôn là “tài sản quý nhất của công ty”, là nhân tố quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp. Do đó, điều đầu tiên mà Vinamilk cần phải thực hiện là phải đẩy mạnh hơn nữa việc đào tạo nhân sự thông qua một số hoạt động như:
Mở các khoá huấn luyện nghiệp vụ ngắn hạn cho công nhân đang làm việc trong các nhà máy và các trang trại.
Mời chuyên gia về nói chuyện, truyền đạt kinh nghiệm cho các cán bộ kỹ thuật.
Cử cán bộ đi nước ngoài tu nghiệp.
Liên kết với các trường đại học nhằm phát hiện sớm các nhân tài để có thể bồi dưỡng thành các chuyên gia giỏi sau này.
Tự thành lập các trường đại học để có thể tự chủ nguồn nhân lực và dễ dàng thu hút, lôi kéo được nhân tài.
3.2. Chú trọng hơn nữa vào nghiên cứu triển khai:
Thế kỷ 21 chắc chắn sẽ là thời kỳ của khoa học công nghệ với các cuộc chạy đua không chỉ ở tầm quốc gia mà ngay cả giữa các doanh nghiệp với nhau, đặc biệt là với các doanh nghiệp nước ngoài. Đặc biệt, hiện Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức thương mại Thế Giới (WTO – World Trade Organization), điều đó có nghĩa là chúng ta sẽ phải thực hiện những cam kết mở cửa cũng như xoá dần cơ chế trợ cấp bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Do đó, các doanh nghiệp trong nước rất cần thiết phải đẩy mạnh vào việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ nếu không muốn bị các công ty nước ngoài với năng lực công nghệ vượt trội xoá sổ. Đối với một công ty hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm như Vinamilk, điều này thực sự quan trọng bởi trình độ công nghệ kỹ thuật cao đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí qua đó trực tiếp làm tăng hiệu quả đầu tư. Để có thể làm được như thế, công ty cần thực hiện một số công việc như sau:
Thành lập các viện nghiên cứu (theo cách mà các công ty xuyên quốc gia như Abbot hay Friesland Foods đã làm) để không những có thể tự tạo ra các sản phẩm mới chất lượng, đặc trưng mà còn có thể bán lại công nghệ, thu về những khoản lợi nhuận khổng lồ.
Thành lập các tổ chuyên gia làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu và triển khai.
Mời các chuyên gia tên tuổi trong lĩnh vực nghiên cứu công nghệ sinh học, thực phẩm về để trực tiếp làm việc hoặc hướng dẫn, đào tạo cho tổ chuyên gia của mình.
Tổ chức các cuộc thi về nghiên cứu khoa học ngay trong công ty hoặc rộng hơn.
3.3. Tăng cường nghiên cứu thị trường:
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, thị hiếu của người tiêu dùng luôn có anh hưởng quyết định tới việc xác định chiến lược đầu tư của họ. Điều này càng trở nên đặc biệt đúng đối với một công ty chuyên sản xuất thực phẩm như Vinamilk bởi chỉ có đáp ứng tốt nhất nhu cầu của các “thượng đế” thì công ty mới có thể tồn tại và phát triển. Và công ty chỉ có thể đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó khi có được khả năng nghiên cứu thị trường thật tốt thông qua việc thực hiện một số giải pháp sau:
Mở rộng mạng lưới nghiên cứu thị trường thông qua việc áp dụng hình thức tuyển dụng “cộng tác viên” (vốn có nguồn rất dồi dào từ các trường đại học, cao đẳng…).
Tổ chức ra các phòng ban chuyên phụ trách về vấn đề thị trường tại từng địa phương, từng khu vực và trên toàn quốc.
Tổ chức các cuộc điều tra, nghiên cứu thị hiếu người tiêu dùng định kỳ hàng quý hoặc hàng tháng để nắm bắt một cách thường xuyên sự thay đổi trong tâm lý của khách hàng.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả phân tích các báo cáo tài chính của Vinmilk cho thấy:
1. Nếu nhìn sơ bộ vào suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu sẽ thấy dường như hoạt động kinh doanh của Vinamilk vẫn ổn định và tiến triển tốt. Tuy nhiên, khi phân tích tỷ số lợi nhuận trên doanh thu sau khi đã loại trừ yếu tố ưu đãi thuế trong quá trình chuyển đổi sẽ thấy rằng hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có chiều hướng đi xuống trong hai năm gần đây khi mà ROE từ trên 30% vào năm 2003 chỉ còn trên 20% vào năm 2006. Điều này có thể là do trong thời gian qua Công ty mở rộng hoạt động kinh doanh, đầu tư thêm các dự án mới và các dự án này chưa phát huy hiệu quả dẫn đến suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp bị giảm.
2. Nhìn chung việc quản trị tài sản, quản trị nợ và quản trị thanh khoản của Vinamilk là tương đối tốt. Các tài sản cũng như các nguồn thu nhập đảm bảo cho các khoản nợ đến hạn là rất tốt.
Tuy nhiên, mặt trái của vấn đề này là việc dữ trữ quá nhiều các tài sản có tính thanh khoản cao sẽ làm giảm suất sinh lợi của chúng và việc ít vay nợ sẽ không tận dụng được hiệu quả của lá chắn thuế trong giai đoạn doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh hiệu quả và các ưu đãi thuế không còn.
3. Vinamilk cần đánh giá kỹ các lĩnh vực kinh doanh mới mà doanh nghiệp có ý định tham gia vì trong rất nhiều trường hợp, bi kịch thường xảy ra ở lúc các doanh nghiệp có nhiều tiền, đầu tư tràn lan vào nhiều lĩnh vực kém hiệu quả hay không phù hợp (gần) với hoạt động kinh doanh chính của doanh nghiệp. Khi có quá nhiều những chú “voi trắng” hay cỗ máy chỉ biết tiêu tiền được tạo ra thì khả năng gặp phải rắc rối trong tương lai là điều hoàn toàn có thể.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư- Đồng chủ biên: PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt. PGS.TS. Từ Quang Phương.- Nhà xuất bản ĐạI học Kinh tế quốc dân. Năm 2007.
Đánh giá tình hình thực hiện phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2001- 2005- Nhà xuất bản ĐạI học Kinh tế quốc dân.
Niên giám thống kê 2006.
Thời báo Kinh tế Việt Nam.
Báo Đầu tư.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24997.doc