Để có thể xây dựng một thị trường chứng khoán theo đúng hướng đề ra và đảm bảo xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với một hệ thống thị trường hoàn chỉnh và đồng bộ. Do vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhất quán từ phía các cơ quan chức năng và đòi hỏi có sự cố gắng nỗ lực từ phía các công ty chứng khoán.
Thực tế qua các giai đoạn hoạt động và trưởng thành công ty chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng cũng còn tồn tại không ít những khó khăn. Vậy nên, việc các công ty chứng khoán không ngừng phát triển cả về chất lượng và số lượng sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán.
35 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1493 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đánh giá quá trình hoạt động của các Công ty chứng khoán ở Việt Nam những năm qua và định hướng phát triển trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đầu tư của mình.
- Vai trò thực hiện tính thanh khoản của thị trường chứng khoán: Các công ty chứng khoán thực hiện cơ chếchuyển đổi này, từ đó giúp nhà đầu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất.
- Thúc đẩy vòng quay của chứng khoán: Các công ty chứng khoán cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng vong quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng.
- Dịch vụ tư vấn tài chính: Các công ty chứng khoán với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư.
- Các sản phẩm đầu tư: Các sản phẩm đầu tư hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường chứng khoán, sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán.
Thành lập Công ty chứng khoán:
Trước khi thành lập, các sáng lập viên cần xác định rõ công ty chứng khoán tương lai thuộc loại hình sở hữu nào. Vì nó quyết định cách thức huy động vốn, quản lí điều hành của công ty. Các sáng lập viên phải đáp ứng được các tiêu chuẩn và điều kiện do luật pháp qui định, nó là cơ sở để các cơ qua quản lí thị trường chứng khoán cấp giấy phép thành lập cho công ty. Các tiêu chuẩn bao gồm:
- Có phương án hoạt động kinh doanh chứng khoán phù hợp với ngành chứng khoán.
- Có cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ tốt cho việc kinh doanh chứng khoán.
- Yêu cầu về vốn điều lệ: Côg ty xin giấy phép phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu do luật định theo từng loại nghiệp vụ.
* Tại Việt Nam: Mức vốn pháp định được phân theo từng loại hình kinh doanh: Nghiệp vụ môi giới: 3 tỷ đồng; tự doanh: 12 tỷ đồng; quản lí danh mục đầu tư: 3 tỷ đồng; bảo lãnh phát hành: 22 tỷ đồng; tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng.
- Yêu cầu về nhân sự: Cá nhân được cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán trong công ty chứng khoán phải có đủ năng lực pháp lí và năng lực hành vi dân sự; có đủ các chứng chỉ đào tạo và chuyên môn cần thiết, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nộp lệ phí đầy đủ…
Người đại diện cho công ty chứng khoán phải có đủ trình độ chuyên môn, được Uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép hành nghề.
* Tại Việt Nam: Các công ty chứng khoán hiện nay được thành lập và hoạt động theo nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quyết định số 04/1998/QĐ- UBCK ngày 13/10/1998 của chủ tịch Uỷ ban chứng khoán nhà nước về việc ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. Theo đó, toàn bộ quá trình thành lập, hoạt động… của công ty chứng khoán được qui định rõ ràng về mặt luật pháp và những qui định sẽ thay đổi tuỳ theo tình hình hoạt động thực tế của thị trường.
3. Hoạt động tài chính của Công ty chứng khoán
3.1 Chế độ tài chính:
Cơ cấu vốn của các Công ty chứng khoán là tuỳ thuộc vào luật định của từng nước và đặc điểm của Công ty chứng khoán.
Công ty phải mở và quản lí tài khoản của khách hàng tách biệt với nhau. Công ty cũng không được phép tiết lộ tình hình về tài khoản của khách hàng cho người khác biết.
Công ty phải xác định được vốn khả dụng và tổng vốn nợ đã điều chỉnh theo qui định của luật pháp. Các qui định về sử dụng vốn của Công ty phải tuân thủ theo đúng qui định.
* Tại Việt Nam: Theo quyết định số 04/1998/QĐ- UBCK 3 ngày 13/10/1998, Công ty chứng khoán không được sử dụng quá 50% vốn điều lệ để mua sắm trang thiết bị và tài sản cố định; không được đầu tư quá 20% tổng số chứng khoán đang lưu hành của một công ty niêm yết; không được đầu tư quá 15% tổng số chứng khoán đang lưu hành của một công ty không niêm yết; không được bảo lãnh phát hành chứng khoán vượt quá 4 lần hiện sốgiữa giá trị TSLĐ và tổng số nợ ngắn hạn của công ty chứng khoán. Công ty cũng phải trích 5% lãi ròng hàng năm lập quĩ bổ sung vốn lưu động cho đến khi bằng 10% vốn lưu động.
Công ty chứng khoán phải thực hiện chế độ kế toán theo qui định của pháp luật ở mỗi nước và phải có xác nhận các báo cáo tài chính của một công ty kiểm toán độc lập.
Công ty chứng khoán phải tuân thủ nghiêm chỉnh qui định của UBCK về chế độ báo cáo thường kì và bất thường theo yêu cầu của UBCK.
3.2 Thu nhập và chi phí:
Nói chung, Công ty chứng khoán có tiền lương và tiền lãi là hai khoản chi phí lớn nhất, lãi đi vay chiếm khoảng 80% tổng thu nhập. Các công ty cũng phụ thuộc nhiều vào hoa hồng môi giới: 80-90% tổng số hoa hồng. Còn bảo lãnh chứng khoán và mua bán tuy có qui mô rất lớn song không có đóng góp nhiều vào thu nhập, mặt khác có độ rủi ro cao.
* Tại Việt Nam: theo thông tư số 01/2000/TT-UBCK ngày 17/4/2000 của UBCK nhà nước về hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của công ty chứng khoán, công ty được phép thu phí bảo lãnh phát hành tối đa không vượt quá 3% tổng giá trị bảo lãnh phát hành chi phí môi giới đối với cổ phiếu; chứng chỉ quĩ đầu tư tối đa không vượt quá 0,75% trị giá giao dịch; đối với trái phiếu tối đa không quá 0,5% trị giá giao dịch; phí tư vấn đầu tư và cung cấp thông tin là theo thoả thuận giữa khách hàng và công ty; phí quản lí danh mục đầu tư tối đa không quá 2% /năm/giá trị vốn uỷ thác bình quân; phí quản lí quĩ đầu tư tối đa không quá 2%năm/ giá trị tài sản quĩ bình quân năm; phí dịch vụ bảo quản, giám sát tài sản của quĩ đầu tư được thu theo hợp đồng giá sát bảo quản tài sản giữa công ty và khách hàng; phí đại diện người sở hữu trái phiếu tối đa không quá 0,1% tổng giá trị trái phiếu phát hành. Các mức này được thay đổi tuỳ theo tình hình hoạt động thực tế của thị trường.
Các nghiệp vụ Công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc như: Giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng; kinh doanh có kĩ năng, có tinh thần trách nhiệm; Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của Công ty; Đảo bảo nguồn tài chính trong cam kết chứng khoán với khách hàng.
Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của Công ty chứng khoán:
Giao dịch chứng khoán theo uỷ thác (môi giới) (in commission)
Giao dịch theo uỷ thác là các hoạt động mua bán chứng khoán theo hợp đồng uỷ thác giao dịch của khách hàng:
- Quyết định mua bán là do khách hàng đưa ra và Công ty chứng khoán phải thực hiện theo lệnh đó.
- Công ty chứng khoán đứng tên mình thực hiện các giao dịch theo lệnh của khách hàng.
- Việc hạch toán các giao dịch phải được thực hiện trên các khoản thuộc sở hữu của khách hàng.
- Công ty chứng khoán chỉ được thu phí dịch vụ theo thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác giao dịch.
Để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng uỷ thác, tạo cơ sở pháp lí cho việc xử lí các tranh chấp về giá trị thực thi hợp đồng và tạo thuận lợi cho các hoạt động tự giao dịch của công ty chứng khoán, pháp luật các nước có qui định như sau: “ Các hợp đồng giao dịch chứng khoán được niêm yết của khách hàng phải được đưa vào giao dịch trên sở (trung tâm) giao dịch chứng khoán, ngoại trừ khách hàng có chỉ thị bàng văn bản”.
* Tại Việt Nam: Theo nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ: nghiệp vụ môi giới chúng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng.
Theo nguyên tắc uỷ thác, công ty chứng khoán phải:
- Tuân thủ tuyệt đối quy định của khách hàng uỷ thác được ghi cụ thể trên các lệnh giao dịch.
- Công ty chứng khoán phải hoàn toàn chịu trách nhiệm do sai phạm hay sai sót của mình.
- Khi các giao dịch được thực hiện (tức khi được khớp giá trên sở- trung tâm giao dịch- công ty chứng khoán phải thông báo ngay cho khách hàng và chuyển ngay chứng khoán sang sở hữu của khách hàng (mua).
- Công ty chứng khoán phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước khách hàng uỷ thác về trách nhiệm thực thi (hoàn tất) các giao dịch đối tác thứ ba.
Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán (in property):
Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn kinh doanh của Công ty chứng khoán nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi của chính mình.
* Tại Việt Nam: Theo nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ thì nghiệp vụ tự doanh là công ty chứng khoán mua và bán chứng khoán cho chính mình.
Giao dịch tự doanh được thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp hay giao dịch gián tiếp:
- Giao dịch trực tiếp là giao dịch “ trao tay” giữa khách hàng và Công ty chứng khoán theo giá thoả thuận thị trường (giao dịch tại quầy). Các đối tác giao dịch có thể là cá nhân tổ chức (chủ yếu là công ty chứng khoán). Thời gian giao dịch thường được thực hiện trong và ngoài giờ giao dịch của sở (trung tâm) giao dịch (kể cả ban đêm và ngày nghỉ). Chứng khoán giao dịch rất đa dạng chủ yếu là chứng khoán không niêm yết, chứng khoán mới phát hành.
Hoạt động giao dịch này không chịu sự giám sát của sở (trung tâm) giao dịch nhưng chịu sự giảm sát của thanh tra nhà nước về chứng khoán.
- Giao dịch gián tiếp: Là các giao dịch mà Công ty chứng khoán không thể thực hiện được bằng các giao dịch trực tiếp để đảm bảo an toàn khi thị giá có biến động lớn và đôi khi có thể vì mức độ can thiệp vào giá thị trường.
Các giao dịch chứng khoán phát sinh:
Chứng khoán phát sinh là các chứng từ nhận các quyền lợi bổ sung phát sinh từ chứng khoán.
- Quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới (quyền đặt mua hay chứng quyền): Quyền đặt mua là một loại chứng khoán phát sinh hoặc là một chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu một phần giá trị cổ phiếu “đang chờ nhận”. Quyền đặt mua nhằm bù đắp thiệt hại của các cổ đông cũ khi công ty chứng khoán phát hành cổ phiêú mới. Do đó các quyền đặt mua cũng có giá trị của nó đó là giá trị nội tại của các quyền đật mua.
- Trái phiếu chuyển đổi: Đó là loại chứng khoán nợ với những đặc tính phát hành thông thường nhưng có thêm quy định về quyền chuyển đổi- Không được phép huỷ ngang thành cổ phiếu của công ty phát hành trong một thời hạn được quy định.
- Trái phiếu kèm quyền lựa chọn mua cổ phiếu: Trái phiếu kèm quyền lựa chọn mua cổ phiếu cũng có đặc tính như trái phiếu thông thường nhưng nó khác ở chỗ: đi kèm tờ trái phiếu này còn có các phiếu quyền lựa chọn mua cổ phiếu.
- Quyền lựa chọn và giao dịch quyền lựa chọn: Quyền giao dịch là một căn cứ cho phép người nắm giữ nó được mua hoặc bán số cổ phiếu của công ty theo giá giao dịch (thoả thuận trước) và trong thời hạn được qui định trên quyền lựa chọn. Các chứng khoán được giao dịch theo các quyền lựa chọn được mua bán trên sàn giao dịch.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
Với đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường, có tiềm lực tài chính, các công ty chứng khoán hoạt động rất mạnh mẽ về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Đây là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát hành hay chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua chứng khoán và để bán lại.
* Tại Việt Nam: Theo nghị định số 48/1998/QĐ-CP ngày 11/7/1998 thì các công ty chứng khoán ở Việt Nam được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và nghiệp vụ này được thực hiện trên thị trường sơ cấp.
Hoạt động bảo lãnh phát hành gồm:
- Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương pháp phát hành, cơ cấu giá…
- Thoả thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị phân phối chào bán chứng khoán.
- Quản lí pháp luật và thanh toán chứng khoán.
- Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát hành.
- Đại lí phân phối chứng khoán.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán thu về hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể tuỳ ý của từng công ty chứng khoán.
Các nghiệp vụ phụ trợ của Công ty chứng khoán:
- Hoạt động tín dụng (giao dịch mua bán chịu):
Khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không có đủ tiền để tham gia thị trường, công ty chứng khoán sẽ mua bán chứng khoán qua thị trường giao dịch mua bán chịu.
- Quỹ quản lí trái phiếu: Sản phẩm của quỹ quản lí trái phiếu là trái phiếu công ty có bảo đảm, trái phiếu giao dịch…
- Giao dịch trái phiếu theo hợp đồng chuộc lại trái phiếu: Hợp đồng chuộc lại trái phiếu từ vòng đầu tư tại một thời điểm trong tương lai sẽ được hai bên kí kết tại thời điểm giao dịch hiện tại.
- Kí gửi đầu tư trái phiếu số lượng nhỏ để tiết kiệm thuế: Người đầu tư phải giữ trái phiếu trong một thời gian từ 1 năm đến hết hạn. Loại kí gửi này có ưu điểm lớn về thuế và điều kiện mở tài khoản đơn giản.
Ngoài ra Công ty chứng khoán còn có nhiều hoạt động khác mang tính đặc biệt như huy động vốn ngắn hạn.
Hiện nay, luật chứng khoán ở nhiều nước cho phép các công ty chứng khoán có thể thực hiện một, hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Số vốn điều lệ của công ty chứng khoán phải tối thiểu bằng số vốn điều lệ với mỗi nghiệp vụ chứng khoán mà công ty được phép kinh doanh. Tại Việt Nam, nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 đã qiu định về loại hình kinh doanh, mức vốn pháp định tuỳ theo từng loại hình kinh doanh của công ty chứng khoán, điều kiện kinh doanh của công ty. Đây là văn bản pháp lí quan trọng, tạo cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của các công ty.
Chương II
Thực trạng hoạt động và phát triển Công ty chứng khoán ở Việt Nam trong những năm qua.
Quá trình hoạt động và phát triển của công ty chứng khoán
Những năm qua, Việt Nam chúng ta chưa có loại hình công ty chứng khoán. Việc phát hành các trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu công ty và cổ phiếu của các công ty cổ phần vẫn được thực hiện trên thị trường. Các chứng khoán này được phát hành trên thị trường sơ cấp phần lớn không thông qua các tổ chức bảo lãnh, mà được bán lẻ trực tiếp ra công chúng. Các chứng khoán này rất khó chuyển nhượng vì chúng ta chưa có các công ty chứng khoán, sẽ không có tổ chức tư vấn và bảo lãnh cho việc phát hành, đồng thời cũng không có một số ngân hàng thương mại đứng ra làm nghiệp vụ chứng khoán cho công tái và các giấy towf có giá. Tuy nhiên, nghiệp vụ này không được thực hiện thường xuyên và gặp phải nhiều vướng mắc vì luật các tổ chức tín dụng không cho phép ngân hàng thương mại kinh doanh chứng khoán. Do đó việc thành lập công ty chứng khoán là một đòi hỏi tất yếu trong việc xác định thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thực tế cho thấy, qua từng năm chính thức đi vào hoạt động (tính đến cuối tháng 7/2003), thị trường chứng khoán Việt nam đã đạt được những thành công nhất định tương ứng với từng giai đoạn.
- Giai đoạn 1: Công ty chứng khoán một năm lớn lên cùng thị trường.
- Giai đoạn 2: Bước sang năm thứ hai hoạt động công ty chứng khoán đã bắt nhịp và hoàn thiện.
- Giai đoạn 3: Công ty chứng khoán sau ba năm hoạt động và phát triển.
Giai đoạn 1: Công ty chứng khoán một năm lớn lên cùng thị trường
Kể từ ngày cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho hai công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt nam là Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt và Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, tính đến năm 2000 UBCK Nhà nước đã cấp giấy phép thêm cho 6 Công ty chứng khoán. Đó là: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất, Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long, Công ty TNHH chứng khoán ACBS, Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt nam và công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam.
Hoạt động của công ty chứng khoán:
Công ty chứng khoán là khâu trung gian và là chiếc cầu nối giữa người đầu tư và các hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngoài những chứng từ đào tạo của UBCK Nhà nước mang tính chất phổ cập cho công chúng, các Công ty chứng khoán trong thời gian đầu này đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc giới thiệu cho công chúng đầu tư hiểu biết rõ hơn về bản chất và sự vận hành của thị trường chứng khoán. Điều này được thể hiện rất rõ qua sự tham gia của đông đảo các nhà đầu tư Việt Nam vào thị trường chứng khoán. Vào tháng 7/2000 khi thị trường chứng khoán Việt nam chính thức đi vào hoạt động, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các Công ty chứng khoán mới chỉ đạt khoảng hơn 1800 tài khoản và số lượng tài khoản này đã tăng lên liên tục trong những tháng tiếp theo. Năm 2001 tổng số tài khoản đã tăng lên hơn 5800 tài khoản (tăng khoảng hơn 3 lần), trong số đó có nhiều tài khoản chưa thực hiện được giao dịch. Số lượng cổ phiếu và trái phiếu được lưu ký tại các Công ty chứng khoán cũng tăng lên rõ rệt. Tính đến thời điểm này, tổng số cổ phiếu được lưu ký tại các Công ty chứng khoán vào khoảng 14 triệu cổ phiếu, chiếm 44% số lượng cổ phiếu niêm yết. Tổng số trái phiếu niêm yết trên thị trường được lưu ký tại các Công ty chứng khoán tính đến thời điểm này tăng lên nhiều, đạt khoảng 11,3 triệu (tăng 117% so với tổng số trá phiếu được lưu ký trong tháng 8/2000).
Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của Công ty chứng khoán:
Ngay thời gian mới đi vào hoạt động có 6 Công ty được cấp giấy phép thực hiện cả 5 loại hình kinh doanh chứng khoán.
Nghiệp vụ môi giới:
Tính đến năm 2000, các Công ty chứng khoán rất chú trọng đến nghiệp vụ này. Tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán đã có những biến động qua các tháng theo xu hướng ngày càng tăng. Điều này đã chứng tỏ được các công ty chứng khoán đã tìm đúng cách để thu hút nhà đầu tư và đã đi đúng hướng của mình. Tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán thấp nhất là trong tháng 8/2000 đạt gần 25 tỉ đồng và cao nhất là tháng 6/2001 đạt trên 346 tỉ đồng.
Tổng chi phí môi giới mà các công ty chứng khoán đã thu được tăng lên đáng kể.
Đồ thị:
Đơn vị: triệu đồng
Đơn vị: nghìn đồng
Nghiệp vụ tự doanh:
Trong số 8 công ty chứng khoán, chỉ có 6 công ty đăng kí được phép thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Nhìn chung nghiệp vụ tự doanh của các công ty chứng khoán tính đến thời điểm này chưa chiếm tỉ trọng lớn trong hoạt động của các công ty chứng khoán, giá trị chứng khoán tự doanh của các công ty chứng khoán luôn thay đổi theo các tháng. Kể từ khi khai thác trong hoạt động đến nay tỉ trọng tự doanh cổ phiếu niêm yết của các công ty thường chiếm phần lớn (trên 75% trong tổng số trị giá tự doanh của công ty). Trong tháng 5 tình hình có diễn biến ngược lại, trị giá tự doanh trái phiếu chiếm khoảng 72% trong tổng giá trị tự doanh của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó có một số công ty chứng khoán đã thực hiện nghiệp vụ này đối với cổ phiếu chưa niêm yết.
Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư:
Tính tại thời điểm này có hai công ty chứng khoán đã triển khai nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư trong tổng số 7 công ty được cấp phép nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư. Tổng trị giá giao dịch của nghiệp vụ này cũng không đáng kể trong tổng số các nghiệp vụ mà công ty đã triển khai.
Trong giai đoạn này (2000-2001) lượng hàng hoá còn quá ít, chênh lệch giữa cung và cầu còn lớn, trong khi các công ty chứng khoán lại ưu tiên lệnh của khách hàng trước…Tuy nhiên, việc triển khai quản lí danh mục đầu tư trong giai đoạn này cũng là những bước đi hết sức cần thiết cho việc thực hành phân tích và dự đoán sự biến động thị trường của các công ty chứng khoán.
Nghiệp vụ tư vấn đầu tư:
Đây là một trong những nghiệp vụ được triển khai rất phổ biến của các công ty chứng khoán trong thời gian qua. Hầu hết các công ty chứng khoán đã thực hiện tiếp xúc và tư vấn đầu tư cho các cá nhân và tổ chức kinh tế. Tuy nhiên để thu hút được khách hàng, các công ty chứng khoán hầu hết thực hiện tư vấn miễn phí cho khách hàng. Bên cạnh đó, các công ty cũng đã tư vấn cho các doanh nghiệp về khả năng tham gia vào thị trường chứng khoán của doanh nghiệp. Đây cũng là một nhân tố rất tích cực để giúp các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia vào thị trường chứng khoán tạo sự phát triển của thị trường trong tương lai.
Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành:
Việc triển khai nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán gặp rất nhiều khó khăn. Cũng có các nguyên nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến nghiệp vụ này. Do đó, tính đến thời điểm này các công ty chứng khoán mới chỉ dừng lại ở bước tiếp xúc với khách hàng hoặc mới chỉ làm đại lí phát hành mà chưa có một hợp đồng bảo lãnh nào được kí kết.
Tóm lại, với những nỗ lực trong hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán trong thời gian này đã đóng góp một phần rất lớn vào sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam.
Giai đoạn 2: Bước sang năm thứ hai hoạt động công ty chứng khoán đã bắt nhịp và hoàn thiện.
Trong thời gian qua có thể nói hoạt động của công ty chứng khoán bước đầu đã được đánh giá là thành công và là sự ghi nhận bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt nam. Tính đến cuối tháng 12/2001, UBCK nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 8 công ty chứng khoán. Trừ công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mới bắt đầu đi vào hoạt động.
Đánh giá hoạt động của các công ty chứng khoán:
Về hoạt động môi giới chứng khoán
Ngay từ khi thị trường giao dịch chứng khoán bắt đầu hoạt động, tháng 8/2000 các công ty chứng khoán chủ yếu tập trung vào việc triển khai hoạt động môi giới chứng khoán. Giao dịch môi giới chứng khoán đã tăng đáng kế qua các tháng Tính đến cuối tháng 12/2001 tổng số tài khoản khách hàng đầu tư mở tại các công ty chứng khoán đạt khoảng trên 9000 tài khoản, đến cuối năm 2001 bình quân một tháng số tài khoản mở tại các công ty chứng khoán tăng gấn 600 tài khoản. (Biểu đồ 1)
Tổng giá trị tiền gửi giao dịch tại các công ty chứng khoán riêng trong tháng 8/2000 đạt gần 23 tỉ VND, trong giai đoạn từ tháng 9/2000 đến tháng 8/2001 giá trị tiền gửi giao dịch tăng bình quân gần 6 tỉ VND/tháng. Trong những tháng cuối năm 2001 tổng giá trị tiền gửi giao dịch tại các công ty chứng khoán có dấu hiệu giảm. (Biểu đồ 2)
Nhìn chung sau một thời gian ổn định tổ chức và triển khai các hoạt động kinh doanh chứng khoán, trong 6 tháng đầu năm 2001 giá trị giao dịch ở một số công ty chứng khoán tăng mạnh. Khối lượng giao dịch của mỗi công ty chứng khoán đề đạt mức độ gia tăng tối thiểu 5 lần so với tháng hoạt động đầu tiên. Trong đó có công ty đạt giá trị giao dịch tăng tới 40-50 lần, đặc biệt trong tháng 6/2001 giá trị giao dịch chứng khoán đạt mức kỷ lục là 346 tỷ VND, tăng 14 lần so với giá trị giao dịch 24,4 tỷ đồng của tháng 8/2000. Trong 6 tháng cuối năm 2001, tổng giá trị giao dịch có xu hướng giảm so với mức kỉ lục vào tháng 6. Bình quân trong thời kì 6 tháng cuối năm 2001, tổng giá trị giao dịch đạt176,5 tỉ VND/tháng, hai tháng cuối năm có mức thấp nhất cũng đạt gần 120 tỷ VND, nhưng giá trị giao dịch một tháng vẫn gấp 3 lần so với giá trị giao dịch của tháng 8/2000.
Về doanh thu môi giới (phí môi giới), các công ty chứng khoán chiếm thị phần giao dịch lớn doanh thu môi giới có sự gia tăng đáng kể. Tổng phí môi giới quí I là 1,5 tỷ VND, quí II: 2,815 tỷ VND, quí III: 3,2 tỷ VND, quí IV lại có xu hướng giảm và ước đạt khoảng 1,9 tỷ VND.
Hoạt động tự doanh:
Do thời gian đầu hàng hoá trên thị trường còn ít nên hầu hết các công ty chứng khoán đều phải ưu tiên thực hiện cho khách hàng trước nên giá trị giao dịch tự doanh vẫn còn khiêm tốn.
Thời gian gần đây, các công ty đã bắt đầu cải thiện danh mục đầu tư tự doanh. Một số công ty đã bắt đầu tham gia giao dịch trái phiếu và cổ phiếu của các công ty không niêm yết. Tuy nhiên, giá trị giao dịch tự doanh chưa nhiều và chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng số vốn điều lệ hiện còn nhàn rỗi của các công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động tự doanh. Mặc dù vậy, doanh thu từ hoạt động tự doanh của một số công ty chứng khoán đã có phần cải thiện đáng kể. Tính đến năm 2002, bình quân một tháng doanh thu tự doanh của một công ty chứng khoán có nghiệp vụ tự doanh vào khoảng 1,2 tỷ NVD.
Hoạt động tư vấn đầu tư:
Các công ty chứng khoán hoạt động nghiệp vụ này chủ yếu tập trung vào cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí cho các nhà đầu tư về các loại hàng hoá được niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung và tư vấn cho các công ty cổ phần hoá dự kiến tham gia niêm yết trên thị trường.
Việc các công ty chứng khoán tham gia vào hoạt động tư vấn cho các công ty cổ phần đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán đã góp phần tăng tính chuyên nghiệp của hoạt động tư vấn đầu tư, tác động tích cực tới các công ty cổ phần hoá, từng bước góp phần tăng lượng hàng hoá trên thị trường.
Hoạt động nghiệp vụ bảo lãnh phát hành:
Tính đến nay chưa có công ty nào triển khai nghiệp vụ này. Trên thực tế cho thấy đây là nghiệp vụ đòi hỏi trình độ chuyên môn cao trong khi kinh nghiệm thực tế và kí năng trong lĩnh vực này nói chung các công ty chứng khoán còn rất khiêm tốn. Hơn nữa phương thức bảo lãnh phát hành theo qui định hiện nay là cam kết chắc chắn nên hầu hết các công ty chứng khoán đều cho là rất rủi ro nên thường cân nhắc khi tiến hành nghiệp vụ này.
Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư:
Ngoài công ty chứng khoán Bảo Việt, hiện có thên hai công ty chứng khoán khác bắt đầu thực hiện nghiệp vụ này như: Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long, Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt nam.
Tóm lại: So với các tháng hoạt động đầu tiên, cơ cấu doanh thu của các công ty chứng khoán đã có sự thay đổi đáng kể. Nếu như trong quí I năm 2001, doanh thu từ vốn đầu tư (thực chất là lãi tiền gửi từ vốn điều lệ gửi tại các ngân hàng) chiểm tỉ trọng lớn trong doanh thu từ các công ty chứng khoán (từ 50-70% tổng doanh thu). Đến cuối tháng 12 năm 2001 đầu năm 2002 đã tăng và trỏ thành nguồn thu chính trong tổng doanh thu của các công ty, đặc biệt có công ty thu từ hoạt động môi giới và tự doanh chiếm trên 90% tổng doanh thu.
Giai đoạn 3: Công ty chứng khoán sau ba năm hoạt động và phát triển.
Tính đến cuối tháng 7/ 2003, thị trường chứng khoán Việt nam đã vượt qua mới 3 năm kể từ khi phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên được thực hiện. Cho đến nay UBCK Nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 12 công ty chứng khoán trong đó có 5 công ty cổ phần và 7 công ty TNHH một thành viên. Trong số 12 công ty chứng khoán hiện nay có 2 công ty mới bắt đầu hoạt động, đó là công ty chứng khoán MêKông- MSC triển khai hoạt động từ tháng 2/2003, công ty chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh- HSC triển khai hoạt động từ tháng 4/2003 và công ty chứng khoán ngân hàng Đông á- EABS mới được cấp phép tháng 5/2003. Tình hình hoạt động của các công ty chứng khoán:
Hoạt động môi giới:
- Số tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại các công ty chứng khoán tại thời điểm cuối năm 2002 tăng đáng kể so với năm 2001, tăng khoảng 55%. Trừ công ty chứng khoán Thăng Long, số tài khoản giao dịch của người đầu tư tại từng công ty chứng khoán cũng tăng trung bình từ 30%- 60% so với năm 2001. Một số công ty có số lượng tài khoản người đầu tư tăng đáng kể (trên 100%) so với năm 2001, tuy số lượng tài khoản tính theo số tuyệt đối mở tại các công ty này không lớn, đó là các công ty chứng khoán: công ty chứng khoán FSC, IBS, và ARSC. So với năm 2001, số lượng tài khoản các nhà đầu tư vẫn tập trung chủ yếu tại 4 công ty chứng khoán đó là: công ty chứng khoán ARSC, SSI, ACBS và BSC.
Nói chung trong thời gian qua, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán tăng lên nhưng trên thực tế con số này không phải phán ánh được thực trạng tình hình giao dịch trên thị trường. Đến tháng 4/2003 tổng số tài khoản mở tại các công ty chứng khoán là gần 15000 tài khoản, tăng 7% so với số lượng gần 14000 tài khoản vào cuối năm 2002 và tăng 65% so với số lượng 9000 tài khoản vào cuối năm 2001.
- Giao dịch chứng khoán: So với năm 2001, tổng khối lượng giao dịch chứng khoán (cả giao dịch mua và bán chứng khoán) đều tăng, mức độ tăng trung bình trên 150% tuy giá trị giao dịch chứng khoán nói chung đều thấp, chỉ bằng 40-80% giá trị giao dịch của năm 2001 vì so với năm trước số lượng công ty niêm yết và số phiên giao dịch tăng lên, nhưng mức giá chung của các cổ phiếu trên thị trường đều giảm.
Trong năm 2002, các công ty chứng khoán như: ACBS, BVSC vàSSI vẫn tiếp tục giữ thị phần chủ yếu trong giao dịch môi giới chứng khoán. Đến 31/3/2003 một số công ty chứng khoán như: BVSC, SSI, BSC và ACBS vẫn chiếm phần lớn thị trường giao dịch. Tuy nhiên tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán nói chung đã giảm sút mạnh so với các năm trước. Đến 31/3/2003 tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán đạt gần 237 tỷ đồng giảm hơn 47% so với gần 450 tỷ đồng cùng kì năm trước.
- Phí môi giới: Phí môi giới của các công ty chứng khoán vẫn tiếp tục giảm sút so với năm trước. Cụ thể, tổng phí môi giới của các công ty chứng khoán thu được trong quí I năm 2003 đạt gần 730 triệu đồng, giảm hơn 65% so với cùng kì năm trước (qúi I năm 2002 đạt hơn 2 tỷ đồng phí môi giới).
b. Hoạt động tự doanh:
Trong năm 2002, rất nhiều công ty chứng khoán đã khai thác gần như tối đa vốn điều lệ của mình cho hoạt động tự doanh chứng khoán và đầu tư tài chính ngắn hạn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trong năm 2002, trị giá giao dịch mua của các công ty chứng khoán lớn hơn nhiều trị giá giao dịch bán.
Tính đến 31/3/2003, trong kết cấu doanh thu từ hoạt động kinh doanh chỉ có 5 công ty chứng khoán có doanh thu từ hoạt động tự doanh, đó là: công ty chứng khoán BVSC, FSC, SSI, BSC và VCBS. So với năm 2001, doanh thu từ hoạt động tự doanh của các công ty chứng khoán có xu hướng giảm rõ rệt.
c. Hoạt động quản lí danh mục đầu tư:
Cũng như các năm trước, nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư đều chưa triển khai tại hầu hết các công ty chứng khoán được cấp phép nghiệp vụ này. Công ty chứng khoán BVSC đã triển khai nghiệp vụ này từ mấy năm trước nhưng chủ yếu với cổ đông sáng lập là tổng công ty Bảo Việt. Tuy nhiên đến năm nay, trị giá uỷ thác đầu tư của công ty này đã giảm nhiều so với năm trước. Công ty chứng khoán Thăng Long (TSC) cũng kí hợp đồng quản lí danh mục đầu tư với NHTM cổ phần Quân đội. Tuy nhiên việc triển khai không được tốt và vẫn mang tính tập dượt.
Trong quí I năm 2003 không có công ty chứng khoán nào có doanh thu từ hoạt động quản lí danh mục đầu tư. Các công ty vẫn tiếp tục thực hiện các hợp đồng đã kí kết nhưng gặp rất nhiều khó khăn do tình hình thị trường diễn biến không thuận lợi.
Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lí phát hành:
Trong năm 2001, chỉ có 2 công ty chứng khoán là BVCS và IBS có doanh thu từ hoạt động này. Trong năm 2002, chưa có công ty nào thực hiện bảo lãnh phát hành cổ phiếu. Công ty VCBS thực hiện việc bảo lãnh 6 đợt phát hành trái phiếu chính phủ (qua quĩ hỗ trợ phát triển). Một số công ty chứng khoán khác như: BVSC, ARSC, ACBS và VCBS đã làm đại lí phát hành kì phiếu của một số tổ chức tín dụng như Ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long, ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoặc đại lí phát hành cổ phiếu công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng.
Đến 31/3/2003 có một số công ty chứng khoán có doanh thu từ hoạt động bảo lãnh phát hành, hoạt động này tập trung ở một số công ty như: BVSC, VCBS và ARSC. Ngoài ra, các công ty còn kí tiếp các hợp đồng bảo lãnh trái phiếu cho quĩ hỗ trợ phát triển Việt Nam.
Hoạt động tư vấn đầu tư, tư vấn niêm yết:
- Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: các công ty chứng khoán (như BSC, SSI, TSC, IBS, ACBS, VCBS, BVSC…) đều tổ chức triển khai tư vấn đầu tư chứng khoán trực tiếp cho khách hàng thông qua việc phát các bản phân tích đánh giá về thị trường và hoạt động của các công ty niêm yết. Đa số các công ty chứng khoán (như SSI, BSC, VCBS, FSC…) đều có trang Web cập nhật thường xuyên các thông tin mới nhất để các nhà đầu tư có thể tham khảo.
- Hoạt động tư vấn niêm yết: Trong năm qua đã có thêm 11 công ty niêm yết chứng khoán trên thị trường giao dịch chứng khoán. Tất cả 11 công ty này đều được các công ty chứng khoán như: BVCS, SSI, BSC, FSC, IBS tư vấn và giúp làm hồ sơ niêm yết. Ngoài ra việc phát hành thêm cổ phiếu của một số công ty niêm yết cũng đã nhờ sự trợ giúp, tư vấn của công ty chứng khoán như Hapaco.
Trong quí I năm 2003, không có thêm công ty nào niêm yết cố phiếu trên thị trường giao dịch chứng khoán, các hoạt động trong quí I/2003 chủ yếu vẫn tập trung tiếp tục tư vấn niêm yết cho các công ty cổ phần từ năm trước.
Ngoài nghiệp vụ chính, các công ty chứng khoán còn chủ động phối hợp với các tổ chức tín dụng, công ty viễn thông nhằm cung cấp thêm các dịch vụ hỗ trợ khách hàng như cầm cố chứng khoán, theo dõi giao dịch, đặt lệnh từ xa, kí hợp đồng thực hiện việc lưu kí chứng khoán, quản lí danh sách cổ đông đối với các công ty cổ phần chưa niêm yết.
Tóm lại: Trong thời gian qua, số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán tại công ty chứng khoán tăng lên, nhưng trên thực tế con số này không phải phản ánh được thực trạng tình hình giao dịch trên thị trường. Đến tháng 4/2003 tổng số tài khoản mở tại các công ty chứng khoán là gần 15000 tài khoản, tăng 7% so với số lượng gần 14000 tài khoản vào cuối năm 2002, và tăng hơn 65% so với số lượng 9000 tài khoản vào cuối năm 2001.
Đánh giá kết quả hoạt động của các công ty chứng khoán trong những năm vừa qua
Đến 30/6/2003 UBCK nhà nước đã cấp phép hoạt động cho 12 công ty chứng khoán với tổng số vốn điều lệ 465 tỷ đồng, hoạt động các nghiệp vụ như môi giới, bảo lãnh phát hành, tự doanh, quản lí danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư.
Qua 3 năm tham gia thị trường, về cơ bản các công ty chứng khoán đều tuân thủ các qui định pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Bước đầu các công ty đã tập trung hoàn thiện bộ máy tổ chức, nâng cao năng lực nghiệp vụ phục vụ khách hàng. Một số công ty đã tăng vốn điều lệ, sử dụng phương thức nhận lệnh giao dịch gián tiếp qua Fax, mạng trực tuyến, mở thêm các chi nhánh văn phòng giao dịch, đại lí nhận lệnh tại các tỉnh, thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Bình Dương, Đồng Nai, Long An, Đà Nẵng. Các công ty chứng khoán đã xây dựng được một đội ngũ nhân viên nghiệp vụ kinh doanh được đào tạo tốt.
Nhìn chung, các công ty chứng khoán đã thực hiện được vai trò trung gian trong việc môi giới mua bán chứng khoán, tích cực tham gia tư vấn niêm yết và thực hiện cung cấp thông tin đến nhà đầu tư góp phần vào thành công của thị trường.
Tổng doanh thu:
Doanh thu của các công ty chứng khoán bao gồm doanh thu từ hoạt động kinh doanh (doanh thu có được từ các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và doanh thu từ vốn kinh doanh) và doanh thu từ lãi đầu tư (cổ tức, trái tức, lãi từ các khoản đầu tư khác). So với 31/12/2001 doanh thu của các công ty chứng khoán tăng, giảm ở mức độ khác nhau.
2. Cơ cấu doanh thu và lãi đầu tư:
Nếu như năm 2001 doanh thu môi giới của các công ty chứng khoán chiếm một tỷ trọng đáng kể trong doanh thu từ các hoạt động kinh doanh thì sang năm 2002, khoản thu từ hoạt động này của hầu hết các công ty đều giảm đáng kể, mức giảm trung bình từ 30-40%. Điều này là hệ quả của giá trị giao dịch, cơ sở để xác định doanh thu môi giới đều giảm so với năm 2001. Ngoài ra trong năm 2002, để thu hút khách hàng đầu tư các công ty chứng khoán đều đồng loạt ban hành qui định giảm mức phí môi giới. Nếu như năm 2001, nhiều công ty chứng khoán vẫn còn duy trì phí môi giới tại mức trần theo giá trị hiện hành (0,5%) thì tới năm 2002 mức phí tối đa các công ty áp dụng phổ biến là 0,4% đối với khối lượng lớn, phí môi giới thể chỉ còn 0,1- 0,2%.
Doanh thu từ hoạt động tự doanh: Trong năm 2002, trừ công ty chứng khoán ARSC có doanh thu tự doanh lớn do chiết khấu hối phiếu của các doanh nghiệp mía đường Trung Quốc, hầu hết doanh thu tự doanh của các công ty chứng khoán chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng doanh thu. Một số công ty chứng khoán có doanh thu tự doanh cao trong năm 2001 như BVSC, FSC, ACBS mức thu này trong năm 2002 của các công ty trên giảm đáng kể.
Trong năm 2002, nhiều công ty chứng khoán đã tham gia làm đại lí phát hành cho một số tổ chức tín dụng. Hoạt động này cũng đem lại nguồn doanh thu đáng kể cho một số công ty như: BVCS, VCBS, ARSC.
Trong 3 năm qua, các công ty chứng khoán không ngừng củng cố hoàn thiện bộ máy tổ chức, mở rộng địa bàn hoạt động thông qua việc mở thêm chi nhánh tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, mở thêm phòng giao dịch, đại lí nhận lệnh tại Hà Nội, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Cần Thơ và Đồng Nai…
3. Sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước:
Sau 3 năm hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam đã thu hút sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Số lượng các nhà đầu tư tham gia vào thị trường liên tục tăng, cuối năm 2000 có gần 3000 tài khoản giao dịch, cuối năm 2001 có gần 9000 tài khoản giao dịch, cuối năm 2002 có hơn 13000 tìa khoản giao dịch và đến ngày 30/6/2003 có hơn 14500 tài khoản giao dịch, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư có tài khoản và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Sự tham gia này đã góp phần cho sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và của các công ty chứng khoán nói riêng.
Chương III
Một số giải pháp kiến nghị nhằm khắc phục nhũng tồn tại ảnh hưởng tới quá trình hoạt động và phát triển ở hầu hết các Công ty chứng khoán trong thời gian qua.
Những khó khăn tồn tại trong thời gian qua
Sau 3 năm kể từ khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, các công ty chứng khoán đã thể hiện được phần nào vai trò của mình trên thị trường. Tuy nhiên, ở hầu hết các công ty chứng khoán đều còn một số tồn tại như sau:
- Việc tuân thủ các qui định pháp luật của một số công ty chứng khoán còn chưa nghiêm túc, vẫn còn tình trạng như một số nhân viên kinh doanh không có giấy phép hành nghề, thực hiện chế độ báo cáo chưa đầy đủ, kịp thời và chưa đúng thời hạn.
- Do thiếu hụt kinh nghiệm kinh doanh thực tế, nhiều công ty chứng khoán cón gặp nhiều lúng túng khi triển khai các nghiệp vụ kinh doanh. Đặc biệt đối với những công ty chứng khoán với lượng vốn nhỏ đã không kịp thời đáp ứng được những biến động của thị trường như Công ty TSC với số vốn 9 tỷ đồng chỉ chủ yếu tập trung vào nghiệp vụ môi giới chưa hoàn toàn triển khai được các nghiệp vụ khác như: tự doanh, quản lí danh mục đầu tư.
- Đội ngũ nhân viên hiện tại vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong công việc và định hướng phát triển trong tương lai.
- Hoạt động của các công ty chứng khoán chưa tách bạch giữa các bộ phận môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, quản lí danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư.
- Một số công ty chứng khoán vẫn chưa có đủ nhân sự, trong ban Giám đốc vẫn tồn tại tình trạng giám đốc đảm trách quá nhiều công việc. Do vậy ảnh hưởng đến việc quản lí của công ty.
- Về chính sách ưu đãi thuế đối với các công ty chứng khoán: Việc triển khai thực hiện các chính sách ưu đãi thuế cho các công ty chứng khoán trong thực tế có một số bất cập và không công bằng cho một số những đối tượng được hưởng ưu đãi của Chính phủ theo quyết định số 39/2000/QĐ-TTg
Một số giải pháp kiến nghị nhằm xây dựng định hướng phát triển trong thời gian tới.
Thực tế 3 năm qua hoạt động của các công ty chứng khoán trên thị trường đã có những bước phát triển và thành công nhất định. Nhưng bên cạnh đó cũng có không ít mặt còn khó khăn gây ảnh hưởng tới quá trình hoạt động và phát triển của các công ty chứng khoán. Sau khi tìm hiểu và phân tích, em mạnh dạn đưa ra một số giải pháp kiến nghị trong việc định hướng phát triển thị trường chứng khoán cũng như các công ty chứng khoán trong thời gian tới.
Để hoàn thiện hoạt động của các công ty chứng khoán cần có sự tác động từ hai phía:
Sự hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lí nhà nước.
Từ bản thân các công ty.
Về phía các cơ quan quản lí nhà nước:
Để hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các công ty chứng khoán, rất cần đến sự hỗ trợ từ phía các cơ quan quản lí nhà nước. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ trước mắt nhằm đưa thị trường chứng khoán Việt Nam từng bước phát triển vững chắc. Việc hỗ trợ tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Hoàn thiện khung pháp lí cho hoạt động của các công ty chứng khoán nói riêng và cho thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung.
Mặc dù UBCK nhà nước đã kịp thời có những điều chỉnh ngày càng hoàn thiện hơn trong các văn bản hướng dẫn thực hiện, nhưng vẫn còn một số vấn đề cần xem xét, điều chỉnh qui định ở văn bản qui phạm pháp luật cao hơn nhằm tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán mở rộng hoạt động của mình, sử dụng vốn điều lệ một cách có hiệu quả hơn và từng bước nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do đó rất cần sự quan tâm và phối hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lí nhà nước để các qui định pháp luật được ban hành một cách đồng bộ trong những lĩnh vực liên quan đến sự phát triển thị trường chứng khoán như các chính sách kinh tế vĩ mô, các chính sách ưu đãi thuế….
-Tăng lượng hàng hoá có chất lượng cho thị trường.
Ngoài việc người đầu tư quan tâm đến các hàng hoá có chất lượng cao để có định hướng đầu tư lâu dài trên thị trường thì việc tăng lượng hàng hoá cũng chính là vấn đề tác động đến hoạt động môi giới và tự doanh của các công ty chứng khoán. Tuy nhiên, tính cấp thiết của việc tăng lượng hàng hoá có chất lượng để đưa vào niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung cũng tạo điều kiện cho các công ty chứng khoán có khả năng tham gia tư vấn cho các tổ chức phát hành đưa chứng khoán vào niêm yết và triển khai nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Nó thể hiện tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư của các công ty chứng khoán.
- Xây dựng định hướng dài hạn phát triển các tổ chức trung gian trong những năm tiếp theo.
Để có cơ sở định hướng phát triển cho các công ty chứng khoán trong thời gian trước mắt và lâu dài, cần nghiên cứu để sớm đưa các chiến lược phát triển ngành chứng khoán trong trung và dài hạn, đề ra các phương hướng và giải pháp tổng thể dưới giác độ của thị trường chứng khoán. Trên cơ sở đó các công ty chứng khoán có thể đề ra các chiến lược qui hoạch và biện pháp phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của từng công ty.
- Từng bước cải thiện công tác quản lí nhà nước về lĩnh vực hoạt động kinh doanh chứng khoán, đảm bảo quản lí hiệu quả. Đồng thời tạo thuận lợi cho các công ty chứng khoán chủ động hoạt động kinh doanh trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Hiện nay đã có một số nội dung được rà soát, chỉnh sửa tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty chứng khoán hoạt động kinh doanh. Từng bước cải tiến các thủ tục hành chính, tiến tới xem xét giải quyết kịp thời các kiến nghị chính đáng của các công ty chứng khoán.
Về phía các công ty chứng khoán:
Các công ty chứng khoán cần xây dựng cho mình phương án kinh doanh và có chiến lược hoạt động phù hợp với thế mạnh của công ty.
- Mở rông phạm vi hoạt động theo hướng chuyên môn hoá từng nghiệp vụ. Các công ty chứng khoán ngay từ khi được cấp giấy phép hoạt động đều được cho phép tham gia tất cả các loại hình kinh doanh chứng khoán theo qui định hiện hành như: hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư và quản lí danh mục đầu tư.
Trên thực tế, cho đến nay nhiều công ty vẫn chưa triển khai hết các loại hình kinh doanh. Với lí do nhân viên kinh doanh không đồng thời thực hiện các nghiệp vụ vì còn hạn chế về chuyên môn.
Do đó, việc mở rộng hoạt động kinh doanh theo hướng chuyên môn hoá từng nghiệp vụ sẽ từng bước tiến tới hình thành đội ngũ nhân sự có chuyên môn sâu trong từng lĩnh vực như: có bộ phận chuyên phân tích đầu tư, bộ phận chuyên hoạt động bảo lãnh phát hành, bộ phận chuyên hoạt động môi giới và cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
- Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ và nâng cao chất lượng dịch vụ cung cấp cho khách hàng, nên có những đợt “khuyến mãi” bằng hình thức giảm hoặc miễn phí giao dịch trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo nhu cầu thực tế của khách hàng, các công ty chứng khoán cần chủ động tìm kiếm các hình thức dịch vụ phù hợp cung ứng cho khách hàng trên nguyên tắc tuân thủ các qui định pháp luật liên quan tới hoạt động kinh doanh chứng khoán, từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút khách hàng đầu tư bằng các tiện ích phục vụ cho hoạt động đầu tư của khách hàng, đội ngũ nhân sự có trình độ chuyên môn cao.
- Đào tạo và tuyển dụng nhân lực có chất lượng cao:
Để có thể mở rộng phạm vi kinh doanh theo hướng chuyên môn sâu theo tuèng nghiệp vụ, bản thân nhân viên của công ty chứng khoán cũng phải được đào tạo kĩ năng chuyên sâu thì mới có thể đáp ứng được nhu cầu của hoạt động kinh doanh.
Ngoài sự hỗ trợ từ các cơ quan chức năng, các công ty chứng khoán cần phát huy vai trò chủ động của mình hơn nữa trong việc tuyển chọn và cử các nhân viên kinh doanh đi học đào tạo chuyên sâu. Từ đó từng bước gây dựng đội ngũ nhân sự chất lượng cao cho nghành chứng khoán.
- Tăng cường hơn nữa công tác quản trị công ty:
Bằng cách tăng cường các biện pháp giảm sát, kiểm soát nội bộ và quản lí rủi ro. Đây là một trong những biện pháp rất hiệu quả trong việc triển khai các hoạt động kinh doanh chứng khoán theo đúng những qui định của pháp luật và đảo bảo tạo được lòng tin cho người đầu tư đối với hoạt động kinh doanh của công ty.
- Trong khi chờ đợi sự thành lập thị trường giao dịch bảng II, các công ty chứng khoán nên thiết lập hệ thống thông tin liên lạc để làm cầu nối giữa các nhà đầu tư đang nắm giữ cổ phiếu của các công ty chưa niêm yết. Đây cũng là một nguồn vốn đáng kể cho sàn giao dịch chính nếu được luân chuyển tốt.
- Nên gợi mở, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư họp mặt, giao lưu, trao đổi kiến thức và kinh nghiệm với nhau theo hình thức như: diễn đàn, hội thảo, câu lạc bộ… vào thời điểm cuối giờ của phiên giao dịch cuối tháng.
Thông qua các hình thức này các công ty chứng khoán sẽ có thêm điều kiện để tiếp thu ý kiến góp ý của nhà đầu tư.
Về phía các bộ ngành có liên quan:
- Ngân hàng Nhà nước: Cần nghiên cứu ban hành những quy định về quản lí ngoại hối, liên quan đến qui định chuyển tiền vào, ra. Cần có sự phối hợp giữa UBCK nhà nước với các cơ quan liên quan như Ngân hàng Nhà nước về vấn đề liên quan đến dịch vụ cầm cố chứng khoán của các NHTM và một vài công ty chứng khoán.
- Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam phối hợp với UBCK nhà nước nghiên cứu loại hình bảo hiểm đầu tư chứng khoán cho các bên tham gia thị trường như: nhà đầu tư, các công ty chứng khoán, thị trường giao dịch chứng khoán và các bên liên quan khác cùng các biện pháp tổ chức triển khai thực hiện.
- Bộ tài chính: Nghiên cứu bổ sung chính sách ưu đãi thuế cho các công ty chứng khoán.
+ Bổ sung ngành chứng khoán vào danh mục các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước và được hưởng ưu đãi thuế suất 25% dành cho đối tượng này.
+ Cho phép các công ty chứng khoán lấy năm 2001 là năm đầu tiên làm căn cứ tính ưu đãi miễn thuế.
+ Xếp các công ty chứng khoán, công ty quản lí quỹ vào đối tượng không phải nộp thuế bổ sung.
+ Trong trường hợp thuế giá trị gia tăng nên quyết định hoạt động kinh doanh chứng khoán được hưởng thuế suất 0% thay vì qui định là đối tượng không chịu thuế như hiện nay.
Kết luận
Để có thể xây dựng một thị trường chứng khoán theo đúng hướng đề ra và đảm bảo xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN với một hệ thống thị trường hoàn chỉnh và đồng bộ. Do vậy cần có sự phối hợp chặt chẽ, nhất quán từ phía các cơ quan chức năng và đòi hỏi có sự cố gắng nỗ lực từ phía các công ty chứng khoán.
Thực tế qua các giai đoạn hoạt động và trưởng thành công ty chứng khoán nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ nhưng cũng còn tồn tại không ít những khó khăn. Vậy nên, việc các công ty chứng khoán không ngừng phát triển cả về chất lượng và số lượng sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán và các công ty chứng khoán.
Em xin trân thành cảm ơn sự hướng dẫn chỉ bảo của thầy Mai Thanh Quế, sự giúp đỡ của các bạn trong thời gian qua. Trong quá trình tìm hiểu và phân tích đánh giá do khả năng trình độ cũng như kinh nghiệm thực tế của em còn rất hạn chế nên bài đề án không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo, cô giáo, của các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
Hà nội, tháng 9 năm 2003
Sinh viên thực hiện
Xuân Thanh Vân
Tài liệu tham khảo
Giáo trình: Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng – Học viện Ngân hàng
Giáo trình: Thị trường chứng khoán – Học viện Ngân hàng- NXB Thống Kê- Hà Nội 2001
Giáo trình: Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán - UBCK Nhà nước – NXB Chính trị quốc gia.
Tạp chí chứng khoán Việt Nam số 1/2001, số 5/2000, 7/2001, 1/2002, 2/2002, 3/2002, 6/2003, 7/2003.
Nhận xét của thầy giáo, cô giáo
……………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………
Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I- Khái quát chung về thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán ở Việt Nam 2
I- Sơ lược về lịch sử hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán 2
II-Tổng quan về Công ty chứng khoán và Công ty chứng khoán ở Việt Nam 3
1. Mô hình tổ chức Công ty chứng khoán 3
2. Thành lập Công ty chứng khoán 7
3. Hoạt động tài chính của Công ty chứng khoán 8
4. Các nghiệp vụ Công ty chứng khoán 9
Chương II- Thực trạng hoạt động và phát triển Công ty chứng khoán ở Việt Nam trong những năm qua 14
I- Quá trình hoạt động và phát triển của Công ty chứng khoán 14
1. Giai đoạn 1: Công ty chứng khoán một năm lớn lên cùng thị trường 14
2. Giai đoạn 2: Bước sang năm thứ hai hoạt động Công ty chứng khoán đã bắt nhịp và hoàn thiện 17
3. Giai đoạn 3: Công ty chứng khoán sau ba năm hoạt động và phát triển 20
II- Đánh giá kết quả hoạt động của các Công ty chứng khoán trong những năm vừa qua 24
1. Tổng doanh thu 24
2. Cơ cấu doanh thu và lãi đầu tư 24
3. Sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước 25
Chương III- Một số giải pháp kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại ảnh hưởng tới quá trình hoạt động và phát triển ở hầu hết các Công ty chứng khoán trong thời gian qua 26
I- Những khó khăn tồn tại trong thời gian qua 26
II- Một số giải pháp kiến nghị nhằm xây dựng định hướng phát triển trong thời gian tới 27
1. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước 27
2.Về phía các Công ty chứng khoán 28
3. Về phía các bộ ngành có liên quan 30
Kết luận 31
Tài liệu tham khảo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35478.doc