Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn lên phát triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng cũng còn chứa trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công nghệ mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học ). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy thành quả công nghệ, nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay đổi trước môi trường.Nhưng môi trường kinh doanh với sự biến đổi không ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội , chính trị luật pháp thách thức với những khó khăn, phức tạp có khi không dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Một doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân lực hùng hậu , năng động, sáng tạo sẽ tạo ra lực nội sinh mạnh mẽ, đề ra được những chiến lược nhân sự , kinh doanh linh hoạt, hiệu quả và nó có thể thay đổi phương cách kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp lên tầm cao của thời đại.
Tổ chức nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở Việt Nam còn kém về mọi mặt, mang mặt bằng chung của một nước đang phát triển. Câu hỏi đặt ra có cách mạng nhận thức và năng lực đổi mới mỗi con người trong đội ngũ nhân lực được triệt để hay không, biến đội ngũ nhân lực thành “nhân lực tri thức” sẵn sàng cho hội nhập buộc nhà quản tị và những ai quan tâm đến vấn đề này suy xét và trở lời bằng hành động .
Vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Trong thời gian ngắn , đề tài đã tập trung làm rõ một số
vấn đề sau:
ã Làm rõ hơn vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển kinh tế- xã hội và sự cần thiết phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
ã Đi sâu phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay từ các mặt trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, chỉ ra những bất cập hiện nay giữa nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua.
ã Trên cơ sở dự báo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về trước mắt, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong thời gian từ nay đến năm 2020
Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, nội dung phong phú, có liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội đòi hỏi sự nỗ lực, tập trung của mỗi ngành, mỗi cấp, một số vấn đề mà đề tài nêu ra sẽ tiếp thu, bổ sung và hoàn thiện .
33 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năng lao động.
Nguồn nhân lực còn được hiểu với tư cách là tổng hợp cá nhân những con người cụ thể tham gia vào quá trình lao động,là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần được huy động vào quá trình lao động.Với cách hiểu này, nguồn nhân lực bao gồm những nguời từ bắt đầu bước vào tuổi lao động trở lên có tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về việc xác định qui mô nguồn nhân lực.Nguồn nhân lực còn được xem xét trên giác độ số lượng và chất lượng.Số lượng được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu về số lượng này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu qui mô và tốc độ tăng dân số. Qui mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì dẫn đến qui mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngược lại.Tuy nhiên mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực được biểu hiện sau một thời gian khoảng 15 năm(vì lúc đó con người mới bước vào độ tuổi lao động).
Về chất lượng, nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: trình độ sức khoẻ, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn và năng lực phẩm chất…
Cũng giống như các nguồn lực khác,số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trong trong việc tạo ra của cải vật chất và văn hoá cho xã hội
2. Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo gồm các hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay kỹ năng của một cá nhân đối với công việc hiện hành.
Carell et al tán thành quan điểm cho rằng có hai loại đào tạo: Đào tạo chung và đào tạo chuyên môn. Đào tạo chung được áp dụng để nhân viên có được những kỹ năng có thể sử dụng ở mọi nơi.Ví dụ,nâng cao khả năng đọc, viết, tính toán…có thể ích lợi cho nhân viên trong mọi công việc.Đào tạo chuyên môn được áp dụng để giúp cho nhân viên có được các thông tin và kỹ năng chuyên biệt, áp dụng cho công việc của mình tại nơi làm việc. Ông cho rằng khái niệm đào tạo được sử dụng trong trường hợp các nhân viên (không phải là quản trị gia) học tập, lĩnh hội được các kiến thức, kỹ năng kỹ thuật. Các chương trình đào tạo chỉ trú trọng lên một số vấn đề hoặc các kỹ năng, kỹ thuật thuần túy. Ví dụ, chương trình đào tạo cho các nhân viên máy in là chú trọng lên các vấn đề giúp cho người điều hành nắm được các kỹ thuật mới nhất về tốc độ và mức độ chính xác trong khâu in ấn.
Đối với một công ty mới thành lập thì nhu cầu đào tạo nhân viên là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng nhất. Bởi vì cho dù chúng ta có lắp đặt cả một hệ thống máy móc tinh vi mà không có con người biết điều khiển cũng trở thành vô ích. Đây là chưa kể các nghiệp vụ có tính cách mô hình như kỹ năng quản trị.
Đối với một công ty lâu đời thì nhu cầu đào tạo, huấn luyện và giáo dục lại là vấn đề khác. Qua kinh nghiệm công ty đã xây dựng được bản mô tả công việc cũng như bản mô tả chi tiết công việc. Dựa vào bảng này mà công ty khi tuyển nhân viên mới,họ biết rõ nhân viên mới còn thiếu các kỹ năng nào. ít khi một công ty mà tuyển được người mới có đầy đủ trình độ phù hợp theo bản “Job speeification” . Dù lâu hay mau, những ngưòi mới đựơc tuyển phải qua một thời kỳ đào tạo.
3. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Phát triển bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho công nhân viên theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển.
Theo Cherington, phát triển liên quan đến việc nâng cao khả năng trí tuệ và cảm xúc cần thiết để thực hiện các công việc tốt hơn.Khái niệm phát triển quản trị liên quan tới các phương pháp và hoạt động nhằm nâng cao khả năng quản trị bằng cách truyền đạt các kiến thức, thay đổi quan điểm hoặc nâng cao kỹ năng thực hành cho các quản trị gia hoặc các quản trị gia tương lai. Các chương trình phát triển quản trị chú trọng lên nhiều nhóm kỹ năng hoặc vấn đề rộng hơn.Các chương trình phát triển quản trị thường ấn định nhằm mục đích lâu dài còn chương trình đào tạo thường đáp ứng nhu trước mắt.Tuy nhiên đào tạo và phát triển là cả một tiến trình liên tục, không bao giờ dứt.
Theo Wayne, khái niệm đào tạo và phát triển sẽ được dùng thay đổi cho nhau và đều bao gồm chương trình được hoạch định nhằm hoàn thiện việc thực hiện công việc ở các cấp: cá nhân , nhóm và doanh nghiệp.
Theo quan điểm của Cenzo và Robbins, điểm tương đồng giữa đào tạo và phát triển là chúng đều có các phương pháp tương tự, được sử dụng nhằm tác động lên quá trình học tập để nâng cao các kiến thức, kỹ năng thự hành. Tuy nhiên đào tạo có định hướng vào hiện tại, chú trọng vào công việc hiện thời của các cá nhân, giúp các cá nhân có ngay các kỹ năng cần thiết để thực hiện tốt công việc hiện tại. Còn phát triển nhằm chú trọng lên các công việc tương lai trong tổ chức, doanh nghiệp. Khi một người được thăng tiến lên chức vụ mới, họ cần có những kiến thức, kỹ năng mới theo yêu cầu của công việc. Công tác phát triển nhân viên sẽ giúp cho các cá nhân chuẩn bị sẵn những kiến thức, kỹ năng cần thiết đó.
4. Công nghiệp hóa-hiện đại hóa và đào tạo – phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp này
Khái niệm Công nghiệp hóa- hiện đại hoá
-Công nghiệp hoá
Trong thực tiễn hiện nay vẫn còn tồn tại rất nhiều quan niệm khác nhau về phạm trù “Công nghiệp hóa”.
Quan điểm đơn giản nhất cho rằng: “Công nghiệp hoá là đưa đặc tính công nghiệp cho một hoạt động, trang bị cho một vùng, một nước các nhà máy, các loại công nghiệp”.
Trong sách báo kinh tế của Liên Xô trước đây tồn tại một định nghĩa phổ biến cho rằng: “Công nghiệp hoá là quá trình xây dựng nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả công nghiệp. Đó là sự phát triển của công nghiệp nặng với ngành trung tâm là công nghiệp chế tạo máy”.
Theo tác giả B.Mazlish thì : “Công nghiệp hoá là một qúa trình được đánh dấu bằng một sự chuyển động từ một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp”.
Theo tác giả J.Ladriere thì: “Công nghiệp hoá là một quá trình mà các xã hội ngày nay chuyển từ một kiểu kinh tế từ chủ yếu dựa trên nông nghiệp với đặc điểm năng suất thấp và tăng trưởng cực kỳ thấp hay bằng không sang một kiểu kinh tế về cơ bản dựa trên công nghiệp với các đặc điểm năng suất cao và tăng trưởng tương đối cao”.
Theo Encyclopedic Francáie thì: “Công nghiệp hoá là hoạt động mở rộng tiến bộ kỹ thuật với sự lùi dần của tính chất thủ công trong sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ”.
Theo tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNICO) thì: “Công nghiệp hoá là quá trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bbộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới tiến bộ và kinh tế-xã hội”.
- Hiện đại hóa
Hiện đại hóa: Là một quá trình lâu dài, đầy gian khổ của việc cải biến một xã hội cổ truyền thành một xã hội hiện đại, có trình độ văn mimh cao hơn, thể hiện đầy đủ hơn những giá trị mà nhân loại vươn tới”.
Một xã hội được thừa nhận là hiện đại hóa là một xã hội có nền kinh tế phát triển, thể hiện tập trung ở nhịp độ tăng tổng sản phẩm chung và tính ra đầu người. Sự tăng trưởng kinh tế này có quan hệ hữu cơ với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cái cốt lõi của hiện đại hoá kinh tế là tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng Công nghiệp hóa-hiện đại hoá, gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, phát triển mạnh mẽ các ngành có hàm lượng khoa học-công nghệ cao.
Công nghiệp hóa-hiện đại hoá đất nước là quá trình xây dựng đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại, tỉ trọng sản xuất công nghiệp chiếm phần lớn trong nền kinh tế quốc dân với nền sản xuất hiện đaị, sử dụng nhiều máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến với hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và được tiến hành trong một thời gian nhất định.
b. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá
“Không còn là vấn đề chúng ta muốn hay chúng ta nên phát triển tài nguyên nhân sự…Phát triển tài nguyên nhân sự là vấn đề sống còn của xã hội chúng ta”.(James L.Hages)
Ta đã biết nhu cầu về lao động là nhu cầu dẫn xuất do nhu cầu sản xuất sản phẩm nhất định; nhu cầu dẫn xuất sản phẩm là xuất phát từ nhu cầu tiêu dùng của con người.Cùng với sự phát triển của nền sản xuất nhu cầu của con người ngày càng phong phú và đa dạng, sản phẩm sản xuất ra ngày càng nhiều hơn và chất lượng ngày càng cao hơn. Điều đó chỉ có thể có được do loại lao động có trình độ cao sản xuất ra. Bởi vậy không thể không chăm lo tới việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa đất nước là một xu hướng tất yếu của lịch sử. Đó là quá trình trang bị kỹ thuật, công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân.Trong lĩnh vực nguồn nhân lực đã tạo ra sự chuyển biến về chất : từ lao động thủ công sang lao động cơ khí và lao động trí tuệ.
Nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước từ một mặt bằng kinh tế thấp kém và đội ngũ lao động chất lượng thấp.Vì vậy muốn tiến hành công nghiệp hóa, hiên đại hóa một đòi hỏi cấp bách là không thể không nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu hàng đầu của xã hội nước ta nhằm nâng cao dân trí, trình độ tay nghề, giải quyết công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và tệ nạn xã hội. Hơn nữa, việc giảm thiểu chi phí đào tạo tiết kiệm để đạt được hiệu quả cao hơn là mong muốn của xã hội. Việc phân bổ đúng người, đúng việc luôn là nhiệm vụ khó khăn của xã hội.
Kinh nghiệm của các công ty thành đạt trên thế giới đều chứng tỏ rằng công ty nào có ban lãnh đạo chú ý tới chương trình HNV MT /LV( orientation) và đào tạo huấn luyện(training), công ty đó dễ thành công trong kinh doanh.Việc định hướng và đào tạo này được thưc hiện không những đối với mọi cấp lãnh đạo mà còn xuống tới công nhân có tay nghề thấp nhất.Dĩ nhiên, hình thức huấn luyện hoàn toàn khác nhau. Điển hình nhất trong lình vực này, chúng ta phải kể đến công ty IBM(International Bussiness Machines)-một trong những công ty sản xuất máy tính lớn nhất thế giới. Hàng năm,ban lãnh đạo từ tổng giám đốc trở xuống cấp quản trị thấp nhất đều phải qua một khoá huấn luyện trong vòng 15 ngày.
Trong vài năm gần đây, tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh khác tại miền Nam đã có nhiều công ty thấy tầm quan trọng của vấn đề này và đã tổ chức liên tiếp nhiều khoá tu nghiệp về quản trị kinh doanh cho các cấp quản trị. Dĩ nhiên, các hình thức đào tạo và huấn luyện tại các công ty Việt Nam hiện nay chưa phong phú nhưng đó là dấu hiêụ của sự tiến bộ, theo kịp với trào lưu của thế giới.
Nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống: tăng cường sức khoẻ, mở rộng tri thức, nâng cao trình độ tay nghề không chỉ do kết quả của phát triển sản xuất mà nó xuất phát từ nhu cầu cảu chính bản thân con người muốn nâng cao chất lượng cuộc sống .Bởi vậy việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ xuất phát từ yêu cầu sản xuất mà còn xuất phát từ chính nhu cầu của con người, điều đó đã tạo ra điều kiện tốt cho việc nâng cao nguồn nhân lực hiện nay.
II. Các hình thức đào tạo và phát triển Nguồn nhân lực
Trên thế giới hiện nay có rất nhiều phương pháp đào tạo và phát triển.Nhìn chung tên gọi mỗi phương pháp có thể khác nhau nhưng cách đào tạo và nội dung đào tạo tương đối giống nhau.Có những phương pháp đào tạo tinh vi và tốn kém mà trong tương lai khá xa không biết có công ty Việt Nam nào thực hiện được không.Vì vậy xin được trình bầy các phương pháp có thể áp dụng tại Việt Nam trong giai đoạn trước mắt cũng như trong tương lai.
Các phương pháp đào tạo rất đa dạng và phù hợp với từng đối tượng từ sinh viên thực tập, công nhân trực tiếp sản xuất, cấp quản trị tuyến thứ nhất(kiểm soát viên, quản đốc phân xưởng) đến cấp quản trị trung cấp và cao cấp.Bảng 1 là một cái nhìn tổn quan về đào tạo và phát triển. Có 18 phương pháp đào tạo và phát triển cho 3 đối tượng gồm các ngành quản trị, các chuyên viên ở mức khởi điểm và các công nhân trực tiếp sản xuất. Các phương pháp này được áp dụng tại nơi làm việc hoặc ngoài nơi làm việc.
Bảng 1. Các phương pháp đào tạo và phát triển
Phương pháp
áp dụng cho
Thực hiện tại
Quản trị gia và chuyên viên
Công nhân
Cả hai cấp
Tại nơi làm việc
Ngoài nơi làm việc
1.Dạy kèm
_
ˇ_
x
x
0
2.Trò chơi kinh doanh
x
0
0
0
x
3.Điển quản trị
x
0
0
0
x
4.Hội nghị/Thảo luận
x
0
0
0
x
5.Mô hình ứng xử
x
0
0
0
x
6.Huấn luyện tại bàn giấy
x
0
0
0
x
7.Thực tập sinh
x
0
0
x
0
8.Đóng lịch
x
0
0
0
x
9.Luân phiên công việc
_
_
x
x
0
10.Giảng dạy theo thứ tự chương trình
_
_
x
0
x
11.Giảng dạy nhờ MVT hỗ trợ
_
_
x
0
x
12.Bài thuyết trình trong lớp
_
_
x
0
x
13.Đào tạo tại chỗ
0
x
0
x
0
14.Đào tạo học nghề
0
x
0
x
0
15.Dụng cụ mô phỏng
0
x
0
0
x
16.đào tạo xa nơi làm việc
0
x
0
0
x
Ghi chú: - : áp dụng cho cả hai cấp quản trị và công nhân
0 : không áp dụng
x : áp dụng
Ngoài 16 phương pháp trên còn phương pháp kỹ thuật nghe nhìn và các phương pháp khác như khuyến khích các cấp quản trị học các chương trình hàm thụ, các khóa đặc biệt mở tại các trường đại học dưới nhiều hình thức: học tại chức, học ngoài giờ làm việc, học hàm thụ…
Iii. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược đào tạo và phát triển Nguồn nhân lực
Nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực đến năm 2020
Đến năm 2020 phấn đấu về cơ bản đưa nước ta trở thành nước công nghiệp và đạt chỉ tiêu 80-90% lao động qua đào tạo nghề nghiệp.
“Phát triển Đại học, Trung học chuyên nghệp, đẩy mạnh đào tạo công nhân lành nghề, đảm bảo có nhiều nhân tài cho đất nước”. (Văn kiện Hội nghị Trung ương 2/31)
Phấn đấu có một số cơ sở giáo dục từ Phổ thông đến Đại học đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Kế hoạch đào tạo nghề phải theo sát chương trình Kinh tế- xã hội của từng vùng, phục vụ cho sự chuyển đổi cơ cấu lao động cho Công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.Tăng cường đầu tư, củng cố và phát triển các trường dạy nghề, xây dựng một số trường trọng điểm. Đào tạo đủ công nhân lành nghề cho các khu vực công nghiệp, khu chế xuất có tính đến xuất khẩu lao động.
Về mặt giáo dục cũng như đào tạo, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đã làm chủ cung cũng như cầu. Đổi mới đã có hai tác động lên cung của Nhà nước. Một mặt cầu được giải phóng, mặt khác cùng với Nhà nước, nhiều tác nhân đóng vai trò chủ chốt mới về cung xuất hiện và khi có dịp, Nhà nước dựa vào các tác nhân đóng vai trò chủ chốt này. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, điều này là hoàn toàn có thực, không những Nhà nước đã cho phép nhu cầu xuất hiện mà còn chấp nhận cho nhu cầu tạo ra cung đáp ứng cho cầu này và mở rộng phạm vi cung giáo dục của đất nước. Đôi khi cạnh tranh nhau, đôi khi bổ sung cho nhau, cung công lập và cung tư nhân đã trải qua một quá trình điều chỉnh qua lại. Giành cho mình một số lĩnh vực về cung giáo dục, nhằm duy trì vai trò làm chủ hệ thống giáo dục, Nhà nước buộc phải nâng cao chất lượng các dịch vụ giáo dục của mình. Về mặt việc làm, đối với toàn dân, Nhà nước đã hoãn nghĩa vụ, đảm bảo việc làm cho mọi người. Như vậy, Nhà nước bắt đầu điều chỉnh có cấu tạo điều kiện cho phép cạnh tranh với khu vực ngoài quốc doanh ở trong nước và nước ngoài. Kết qủa là Nhà nước, người đảm bảo về mặt pháp lý cho việc áp dụng Luật lao động, trong thái độ và cung cách ứng xử của mình ngày càng có cách ứng xử và thái độ như khu vực tư nhân với tư cách là người sử dụng lao động. Điều còn lại là Nhà nước xác định các ưu tiên trong công tác giáo dục, đào tạo và việc làm để đối mặt với những cách thức ngày càng lớn của một quá trình toàn cầu hoá, kết quả của chính sách mở cửa.
Chương II
Thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta và phương hướng hoàn thiện.
I. Đánh giá chung công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
i. Đánh giá chung công tác đào tạo nguồn nhân lực
Thị trường lao động ở Việt Nam mới hình thành và đang trong quá trình phát triển với nhiều biến động trong thời kỳ chuyển đổi. Nhiều nhân tố thị trường đã xuất hiện như nhân tố cạnh tranh giữa những người tìm việc làm trong các kỳ tuyển dụng lao động của các công ty- xí nghiệp; các cơ quan nhà nước; sự chi phối các dòng chuyển dịch lao động do mức sống và giá cả sức lao động ở các ngành kinh tế, khu vực địa phương khác nhau... Mặt khác, ở Việt Nam vai trò can thiệp của Nhà nước bằng hệ thống chính sách và pháp luật chưa đầy đủ tạo ra những “nhiễu” trong thị trường lao động vốn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn. Đặc biệt cho đến nay, ở Việt Nam chưa hình thành một hệ thống thông tin về thị trường lao động một cách đầy đủ và đồng bộ, được cập nhật theo thời gian và có các dự báo làm cơ sở cho việc nghiên cứu, đánh giá các đặc trưng và biến động của thị trường lao động để phục vụ cho công tác kế hoạch hoá đào tạo chung cho toàn hệ thống cũng như từng cơ sở đào tạo nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực của thị trường lao động.
Sau hơn 10 năm đổi mới giáo dục- đào tạo (1986-2000), hệ thống giáo dục- đào tạo Việt Nam đã có những bước phát triển và chuyền biến về mọi mặt cả về cơ cấu hệ thống mạng lưới loại hình trường, cơ sở vật chất, qui mô đào tạo ở tất cả các bậc học và ngành đào tạo. Với gần 22,5 triệu học sinh, chiếm hơn 1/4 dân số (76,3 triệu năm 1999), Việt Nam là nước có tỷ lệ người đi học trên số dân vào loại cao so với các nước trong khu vực ASEAN.
Bước vào thiên niên kỷ mới, cũng là thời gian Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn phổ cập THCS với mục tiêu đến năm 2010 đại trình độ phổ cập THCS trên phạm vi toàn quốc và khả năng đến năm 2005 đối với các khu vực thành phố, đô thị. Hệ thống giáo dục đại học, cao đẳng và THCN/DN đang được củng cố và phát triển là nguồn cung cấp nhân lực kĩ thuật chính cho nền kinh tế, cho thị trường lao động ở các ngành, lĩnh vực kinh tế - xã hội khác nhau.
Hệ thống giáo dục- đào tạo Việt Nam bao gồm nhiều loại hình trường ở các bậc giáo dục mầm non, phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Bên cạnh các cơ sở đào tạo công lập đã phát triển nhiều cơ sở đào tạo ngành công lập ở các bậc học, đặc biệt ở THPT và đại học. Mạng lưới các trường đại học- cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp đang phát triển nhưng phân bố chưa hợp lý, tập trung nhiều ở Hà Nội và các thành phố lớn. Nhiều khu vực như Tây Bắc chưa có trường đại học, cao đẳng và một số địa phương chưa có trường dạy nghề.
* Về số lượng cơ sở đào tạo
Năm học 1998-1999, số lượng cơ sở là 238 trường THCN ( trong đó có 4 trường công lập), 213 trường dạy nghề, 92 trường đại học (trong đó 17 trường ngoài công lập),98 trường cao đẳng (trong đó 1 trường ngoài công lập), và khoảng 500 trung tâm giáo dục trường xuyên, trung tâm dạy nghề, trung tâm giáo dục KT-TH-HN phân bố các địa phương.
Dự kiến trong các năm tới sẽ đầu tư nâng cấp các trường dạy nghề trọng điểm và tăng thêm 22 trường đại học, 46 trường cao đẳng chủ yếu ở các vùng KT-XH, các địa phương chưa có các trường đại học, cao đẳng để đáp ứng nhu cầu nhân lực ở địa phương.
Bảng 2: Dự kiến phát triển các loại hình cơ sở đào tạo đại học- cao đẳng
Trường
1998
2010
Tăng, giảm
Đại học
Học viện
Nhạc viện
Cao đẳng
Tổng số
74
16
2
98
190
96
16
2
144
258
+20
-
-
+46
+68
Nguồn: Dự án mạng lưới đại học/ cao đẳng 1-2002 (dự thảo)
*Về qui mô đào tạo
Qui mô giáo dục đại học/ cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp tăng trong các năm vừa qua và tiếp tục tăng trong các năm sắp đến để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng tăng của các lĩnh vực kinh tế- xã hội, tuy nhiên, xu thế tăng hiện nay vẫn tập trung ở bậc đại học và cao đẳng. Qui mô tăng ở bậc THCN và dạy nghề còn thấp chưa tương xứng với nhu cầu nhân lực trong giai đoạn tới.
Bảng 3: Dự báo cơ cấu lao động kĩ thuật
Trình độ
1996
2005
2010
Sơ cấp
CNKT có bằng
CNKT không có bằng
THCN
Đại học/ Cao đẳng
636246
809831
761425
1378282
816098
2428691
5761425
2500920
1516098
4561018
10761000
4285230
2215098
Tỉ trọng ĐH/THCN/CNKT
Tỉ lệ lao động có trình độ ĐH
1/1,5/2,5
18,5%
1/1,7/5,5
12,42%
1/1,9/6,8
10,15%
Nguồn: Dự án mạng lưới đại học/ cao đẳng 1/2002 ( bản dự th
*Về cơ cấu ngành nghề đào tạo
Đây là sự mất cân đối về cơ cấu đào tạo do tỉ lệ đào tạo trong lĩnh vực kĩ thuật công nghệ, nông- lâm- ngư nghiệp còn thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học- công nghệ và công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn tới.
Một trong những yêu cầu cấp bách hiện nay là cần điều chỉnh cơ cấu đào tạo đại học/ cao đẳng và giáo dục nghề nghiệp theo hướng tăng tỉ lệ đào tạo nghề nghiệp và THCN, giảm tỉ lệ đào tạo đại học để đảm bảo cân đối nguồn nhân lực.
Bảng 4: Dự kiến điều chỉnh cơ cấu loại hình đào tạo (%)
Ngành
1999
2005
2010
Dạy nghề
THCN
Đại học/cao đẳng
Tổng số
37,1
13,4
49,5
100,0
55,10
19,9
25,0
100,0
71,0
21,0
8,0
100,0
Nguồn: Dự án mạng lưới đại học/ cao đẳng 1/2002 (Bản dự thảo)
Hiện ngành giáo dục- đào tạo có khoảng 80 vạn giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp trong đó có khoảng 30000 cán bộ giảng dạy đại học và 10000 giáo viên các trường THCN và DN. Tuy nhiên ở bậc đại học tỉ lệ giáo viên có trình độ cao ( giáo sư, tiến sĩ ) còn thấp (10%) chưa đáp ứng yêu cầu phát triển qui mô và nâng cao chất lượng đào tạo.
Bảng 5: Số lượng giáo viên các đại học/ cao đẳng/ THCN
Trường
1996-1997
1997-1998
1998-1999
1999-2000
Dạy nghề
THCN
Cao đẳng
Đại học
-
9690
5339
18175
6000
9770
6406
19368
7000
9732
6806
21229
7500
9565
-
30309
Nguồn: Trung tâm thông tin quản lý giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo
*Về ngân sách cho giáo dục
Với quan điểm giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu, phần ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục- đào tạo tăng hàng năm từ khoảng 10% ngân sách trong những năm 1995-1997 lên 14,5% vào năm 1999 và 15% vào năm 2000. Phần chi thường xuyên trong ngân sách giáo dục- đào tạo về cơ bản chỉ đủ để trả lương, các chế độ có tính chất lương của đội ngũ giáo viên và học bổng của học sinh ( khoảng 80-90%). Số còn lại chi cho các hoạt động nghiệp vụ rất eo hẹp (10-20%) không đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục- đào tạo. Dự kiến phải tăng lên khoảng 30%. Phần thu ngoài ngân sách Nhà nước trong những năm gần đây có tăng do mở rộng các loại hình đào tạo ngoài công lập ở các khu vực kinh tế phát triển song chưa nhiều. Cơ cấu chi ngân sách cho ngành đào tạo lên 14,5% vào năm 1999 và khoảng 15% vào năm 2000. Tăng dần tỉ trọng đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách Nhà nước ( hỗ trợ quốc tế,đóng góp từ dân) từ khoảng 10% hiện nay lên 20-30% vào các năm tới.
Đánh giá chung về việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Mười lăm năm qua, Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc lựa chọn phát triển con người và cải thiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Giáo dục, theo quan niệm chung nhất, được nhìn nhận phổ biến ở hầu hết các nước như là phương tiện cơ bản để mở rộng sự lựa chọn nghề nghiệp, cải thiện năng suất lao động của cá nhân và xã hội, tăng tổng sản phẩm và thu nhập và tạo ra những cơ hội cho trẻ em sinh ra trong nghèo đói thoát khỏi cảnh khó khăn và nhận thức được toàn bộ tiềm năng con người. Nền văn hoá Việt Nam luôn có truyền thống tôn trọng học vấn và điều này càng được chính phủ theo định hướng XHCN năm 1954 củng cố. Ngay trước đổi mới, mặc dù tổng sản phẩm quốc dân theo đầu người còn tương đối thấp, hậu quả chiến tranh còn rất nặng nề và cơ cấu nguồn ngân sách Nhà nước còn rất đạm bạc, Việt Nam đã đạt được mức độ biết chữ, tuổi thọ và bình đẳng về giới rất đặc biệt, cùng với một số các chỉ số khác về phát triển con người đạt cao (HainsWorth, 1993). Năm 1999, Việt Nam đứng thứ 110 trong tổng số 174 quốc gia về chỉ số phát triển con người của UNDP ( so với hạng thứ 133 về GDP tính theo đầu người), đã cải thiện được thứ hạng tương đối cao về chỉ số phát triển con người năm 1992-116 trong sỗ 173 quốc gia ( và đứng thứ 150 về GDP tính theo đầu người).
Nhập học ở cấp tiều học đặc biệt cao, đạt 91% chung cho toàn quốc và 82% đối với trẻ em thuộc nhóm chi tiêu hộ gia đình nghèo nhất, mặc dù tỉ lệ bỏ học và lưu ban cao hơn rất nhiều ở những gia đình nghèo, đặc biệt ở những vùng nông thôn và vùng sâu vùng xa. Sự khác biệt trong tỉ lệ nhập học ở cấp trung học cơ sở và phổ thông trung học lớn hơn rất nhiều, chỉ có 4,5% số trẻ em thuộc nhóm chi tiêu nghèo nhất lên đến cấp trung học cơ sở và ít hơn 0,5% có trình độ phổ thông trung học.
Bảng 6: Tỉ lệ nhập học chia theo nhóm thu nhập hộ gia đình,
Tỉ lệ
Nhập học
Nhóm chi tiêu
Việt
Nam
1
2
3
4
5
Mẫu giáo
Tiểu học
THCS
PTTH
81,9
33,6
4,5
0,4
93,2
53,0
13,3
0,6
94,6
65,5
20,7
2,9
96,0
71,7
26,5
8,3
96,4
91,0
64,1
28,9
91,2
61,7
28,6
9,3
Nguồn: tổng cục thống kê,1994, 1999
Chuyển sang kinh tế thị trường rõ ràng đã dẫn đến tỉ lệ bỏ học cao ở cấp trung học, đặc biệt đối với nữ- sự khác biệt về giới đang có xu hướng gia tăng trong tỉ lệ nhập học và tỉ lệ tốt nghiệp trung học cơ sở và phổ thông trung học. Số liệu điều tra mẫu về mức sống năm 1998 cho thấy số năm bình quân đi học và tỉ lệ biết chữ thấp hơn rất nhiều đối với trẻ em gái và cùng với sự hạn chế về phương tiện tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo thích hợp, đã là một trong những yếu tố giúp giải thích tại sao tỉ trọng phụ nữ “ tự tạo việc làm” trong nông nghiệp với thu nhập thấp và gắn với những hoạt động kinh tế hộ gia đình cao hơn nam giới và thấp hơn trong ngành sản xuất chế tạo và khu vực làm công ăn lương.
Bảng 7: Chi tiêu giáo dục và việc làm chia theo giới tính, 1996 (%)
Nữ
Nam
Chung
Số năm bình quân đến trường (6+)
Tỉ lệ biết chữ ở người trưởng thành
Tỉ trọng trong việc làm:
Việc làm tự tạo gắn với nông nghiệp
Việc làm tự tạo phi nông nghiệp
Việc làm ăn lương:
+ Việc làm ăn lương trong nông nghiệp
+ Việc làm ăn lương trong ngành chế tạo
+ Việc lamf ăn lương trong ngành dịch vụ
5,6
78,8
51,7
54,4
55,2
39,8
39,6
37,1
42,6
6,8
89,6
48,3
45,6
44,8
60,2
60,4
62,9
57,4
6,2
83,5
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Nguồn: Tổng cục thống kê, 1994, 1999
Xét tỉ lệ nhập học theo các nhóm dân tộc, cuộc điều tra mức sống Việt Nam cho thấy tình hình tỉ lệ này đã được cải thiện đáng kể trong giai đoạn 1992-1993 đến 1997-1998 đối với cả người Kinh và các nhóm dân tộc thiểu số khác, mặc dầu tỉ lệ bỏ học nhìn chung cao hơn đối với các nhóm dân tộc thiểu số và tỉ lệ khác biệt về tỉ lệ nhập học ở cấp trung học cơ sở và cấp cao hơn vẫn còn rất lớn. Không có số liệu về sự khác biệt giữa các nhóm dân tộc thiểu số, nhưng những khảo sát ở địa phương cho rằng một số nhóm dân tộc thiểu số chịu thiệt thòi hơn một số dân tộc thiểu sỗ khác về phương diện tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo và đồng thời do quan niệm phổ biến của cha mẹ đối với ý nghĩa của việc đưa con em tới trường. Hầu hết các dân tộc thiểu số sống ở các vùng nông thôn sâu và xa, rất ít người tìm được việc làm trong các ngành công nghiệp và ở vùng đô thị và rất nhiều bậc phụ huynh không thấy được giá trị của giáo dục trên mức biết đọc và biết viết, nếu con cái họ ( và đặc biệt là trẻ em gái) chỉ là để theo họ tham gia vào những công việc đồng áng để chỉ sống về cơ bản. Những nỗ lực to lớn đang đã được thực hiện trong chiến dịch HEPR quốc gia với sự cam kết và tài chính rất lớn của các tổ chức tài trợ để nâng cấp các phương tiện giáo dục và các tiện nghi xã hội khác tại các vùng nông thôn xa xôi. đặc biệt tập trung vào 1000 xã nghèo nhất- tại đó các dân tộc thiểu số thường chiếm đa số.
Giáo dục ở hầu hết các nước được nhìn nhận như là “ một nhà giải hoà lớn”, thúc đầy sự bình đẳng về cơ hội đối với tài năng, hoài bão và tính kiên trì của cá nhân bất kể vị thế xã hội ban đầu. Không có một đất nước nào sự cạnh tranh về phẩm chất lại xảy ra với mức độ thực sự như ở trên sân chơi, nhưng thiên hướng giáo dục công cộng được giả thiết như hỗ trợ cho những trường hợp ít lợi thế bù đắp cho sự bất công về gia sản và các hoàn cảnh khác.
Trong thời kỳ đổi mới, nội dung của các chương trình đào tạo phần nào đa dạng hoá, do các sáng kiến của địa phương được khuyến khích để đáp ứng những nhu cầu trong vùng về những chuyên ngành mới, nhưng điều phê phán chung là nhu cầu đào tạo của các doanh nghiệp địa phương chưa được quan tâm một cách thoả đáng.
Trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh những chương trình do Nhà nước tài trợ, rất nhiều những khoá đào tạo, tập huấn, chương trình dạy nghề của tư nhân và đặc biệt là ở những trung tâm đô thị lớn mọc lên như nấm. . Hầu hết đó là những cơ sở nhỏ dạy ngoại ngữ, đào tạo kĩ năng cơ bản về máy tính hoặc chuẩn bị kĩ năng cho những triển vọng việc làm trong ngành mỹ phẩm và cắt uốn tóc, khách sạn, bệnh viện và các ngành nghề tương tự thuộc khu vực dịch vụ. Một số cơ quan tài trợ đã đặc biệt tập trung vào việc tổ chức những khoá đào tạo và tập huấn phổ thông trung học nhằm nâng cao kĩ năng ở một số ngành đặc biệt, như đào tạo ngoại ngữ, quản lý hành chính, quản lý tài chính, chăm sóc y tế, bảo vệ môi trường... hoặc tìm cách để thúc đẩy bình đẳng về giới hoặc sự công bằng giữa các vùng trong việc tiếp cận với sự lựa chọn ngành nghề rộng hơn và giáo dục được cải thiện tốt hơn.
Trong giai đoạn đổi mới, mặc dù có tăng trưởng nhanh trong GDP, xuất khẩu, tiết kiệm và đầu tư nội địa, và tỉ trọng GDP tương đối của nông nghiệp giảm so với hai ngành công nghiệp và dịch vụ, sự thay đổi cơ cấu trong sử dụng lao động hầu như không biến động về mặt việc làm. Khu vực nông nghiệp vẫn chiếm 70% lực lượng lao động, dịch vụ chiếm 19%, công nghiệp và xây dựng dưới 13% ( với ngành chế biến thu hút khoảng gần 9% số người đang có việc làm). Bản thân người lao động rất ít thay đổi nghề nghiệp, 72% lực lượng lao động chưa bao giờ thay đổi việc làm và 84,5% số người lao động đang có việc làm hiện hành chưa bao giờ thay đổi nghề nghiệp ( Henaff, Martin, 1999). Thương mại chiếm đa số trong việc chuyển đổi lao động và là đặc điểm dừng chân chính của những người rời bỏ ngành nghề ban đầu của mình.
Những cách tiếp cận mới đối vời giáo dục, đào tạo nghề và các khoản đầu tư về mặt xã hội hiện đang lấn sang Châu á và các nước công nghiệp hoá khác, theo đó là sự đề cao tầm quan trọng của phát triển con người và trình độ tay nghề có được trong việc giải thích năng suất lao động và thu nhập thực tế tăng nhanh ở các nền kinh tế thần kỳ của Đông á.
Tiềm năng của con người phụ thuộc vào tài năng bẩm sinh, những tài năng này được môi trường văn hoá, xã hội và giáo dục tạo ra định hình như thế nào, những tài năng này được thử thách và khích lệ như thế nào và trong phạm vi nào có được nhận thức trong khuân khổ môi trường đặc thù mà trong đó từng cá nhân tồn tại và kiếm sống. Tài năng con người có thể rất phong phú và không một ngành, nghề, cá nhân nào cũng như mục đích của họ được định trước. Phạm vi của các tiềm năng ứng dụng rộng hơn rất nhiều so với những nguồn lực tự nhiên, máy móc và trang thiết bị hoặc các kiến thức chuyên môn. Đó là trí thông minh, khả năng phát minh, óc tưởng tượng và tính thích ứng của con người- những đặc trưng chủ yếu trong việc phát kiến những cách thức mới và sáng tạo để tiếp cận với các nguồn lực và thông tin nhằm tăng sản phẩm, thu nhập và chất lượng cuộc sống. Việt Nam có những thành tựu đáng kể và tài năng và sáng tạo của con người.
Nhiều chương trình của chính phủ và các sáng kiến của các địa phương và tỉnh, thành phố đã được hình thành để thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn và mở rộng lựa chọn ngành nghề. Các khoản vốn vay hỗ trợ và giúp đỡ về kĩ thuật đã được mở rộng đến một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích họ tạo những việc làm mới và những khoá đào tạo được tổ chức trong các trường, tổ chức quần chúng và các cơ quan khác để nâng cao kĩ năng ngành nghề, điều hành và quản lý doanh nghiệp. Những chương trình khuyến khích ngành nghề đã tập trung chủ yếu vào nguồn vốn địa phương và các thành phố lớn khác, và, trong khi một số những nỗ lực đó đã có tác động đáng kể tới những địa phương tiếp giáp với các vùng công nghiệp ưu tiên, thì kết quả tổng quan vẫn còn rất thất vọng. Rất nhiều doanh nghiệp hộ gia đình nông thôn hiện đang sử dụng hầu như lao động trong gia đình, nhưng rất nhiều doanh nghiệp hộ gia đình nông thôn có thể dễ dàng phát triển thành doanh nghiệp vừa và nhỏ có đăng ký nếu rào chắn đối với việc mở rộng được giảm bớt và môi trường thuận lợi ở địa phương được tạo ra. Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường sử dụng nhiều lao động và phát triển dần kĩ năng thủ công, đào tạo nghề theo hình thức vừa học vừa làm và sử dụng công nghệ phù hợp với giá thành thấp.
Phát hiện và đảm bảo lợi thế tương đối duy nhất và ổn định ( hoặc một vị trí cạnh tranh trên thị trường quốc tế) phải dựa trên “ chất lượng của việc sử dụng nguồn nhân lực” chứ không phải trên “ số lượng và giá sản phẩm”. Có ba cách thức để thực hiện, ví dụ khi xem xét đến xuất khẩu sản phẩm chế tạo/ chế biến. Lợi thế có thể dựa trên một nguồn lực tự nhiên duy nhất, một kĩ năng con người duy nhất hoặc tài năng quản lý doanh nghiệp hoặc công nghệ duy nhất. Mỗi lợi thế này có thể ban tặng lợi thế về chi phí thấp lâu dài hoặc chất lượng tuyệt vời của sản phẩm mà đối thủ rất khó bắt chước hoặc cải tiến thêm. Theo thời gian và bằng cách kết hợp, những nguồn lợi có xu hướng hoàn thiện và củng cố lẫn nhau. Việt Nam có những lợi thế tiềm năng tương đối nhưng hứa hẹn nhiều nhất và tiềm năng vô tận là tiềm năng dựa trên nguồn nhân lực.
Trong các doang nghiệp ở nước ta hiện nay để tăng cường sức cạnh tranh, nâng cao hiệu qủa kinh doanh , doanh nghiệp đã chú trọng đến công tác đào tạo lao động, đây là một hoạt động đầu tư mà nó đem lại những lợi ích lớn và lâu dài. Các hình thức đào tạo mà doanh nghiệp đang tiến hành như :
- Bồi dưỡng nâng cao tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên thông qua các khoá học ngắn ngày, chuyên sâu ở các trung tâm hay thuê các chuyên gia tới trực tiếp giảng dạy tại doanh nghiệp. Với hình thức này các doanh nghiệp ở nước ta đã có nhiều thành công và đào tạo được đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao.
- Hình thức gửi đi đào tạo ở nước ngoài hoặc khảo sát cũng được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm , doanh nghiệp đã tổ chức cho nhiều nhân viên và khuyến khích họ nâng cao trình độ nghiệp vụ và kết quả hình thức này là đã có những cán bộ nhân viên có trình độ chuyên môn giỏi.
II. Ưu, nhược điểm và nguyên nhân của công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
1. Ưu điểm
Hơn 10 năm đổi mới kinh tế của Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đã ra khỏi khủng hoảng, kinh tế phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao, không những đã cung cấp đủ các nhu cầu về vật tư hàng hoá trong nước mà còn phát triển mạnh kinh tế đối ngoại, tăng nhanh xuất khẩu, thu hút mọi nguồn vốn cho đầu tư... Chính trị ổn định, an ninh quốc phòng, an toàn xã hội ngày càng được củng cố, đởi sống của nhân dân được nâng cao một bước. Việt Nam đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc mở rộng lựa chọn phát triển con người và cải thiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân. Cả đất nước cũng như hầu hết mọi người dân đã gặt hái được nhiều lợi ích to lớn do sản phẩm quốc dân và thu nhập theo đầu người được nâng lên, số gia đình sống dưới mức nghèo đói giảm xuống, chuyển biến mạnh mẽ trong lối sống của những cư dân thành thị và với khát vọng ngày tăng cũng như viễn cảnh cuộc sống của thế hệ trẻ được đào tạo tốt hơn.Cụ thể trong các lĩnh vực như sau :
- Thành tựu của lĩnh vực công nghiệp đang làm nảy sinh mối quan tâm đối với phục hồi kinh tế và triển vọng phát triển dài hạn của Việt Nam .Số lượng nhân lực là một điều thuận lợi cho quá trình thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước hiện nay. Chúng ta đang có một thị trường lao động dồi dào, hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
- Nhìn chung, trình độ học vấn của lực lượng lao động Việt Nam là khá cao ( tương đối) và có những chuyển biến tích cực: tỉ lệ biết chữ trong lực lượng lao động tăng, cơ cấu nguồn nhân lực phân theo bậc học chuyển biến mừng, cơ cấu lực lượng lao động phân theo bậc học ở nông thôn và thành thị có xu hướng ngày càng hợp lý hơn. ở các vùng tương quan về trình độ học vấn của lao động nữ, lao động nam so với lực lượng lao động nói chung và giữa thành thị so với nông thôn cũng diễn ra tương tự như tình hình chung của cả nước.Xét về tổng số, lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật đều được tăng qua các thời kỳ. So sánh trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động nông thôn và thành thị thấy rằng đã có những chuyển biến mới tích cực. Mặt khác, tỉ lệ riêng lẻ về lao động kĩ thuật như công nhân kĩ thuật, kĩ thuật viên, lao động có trình độ đại học đều tăng.
- Nhiều chương trình của chính phủ và các sáng kiến của các địa phương và tỉnh, thành phố đã được hình thành để thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn và mở rộng lựa chọn ngành nghề. Các khoản vốn vay hỗ trợ và giúp đỡ về kĩ thuật đã được mở rộng đến một số doanh nghiệp vừa và nhỏ, khuyến khích họ tạo việc làm mới.
2. Nhược điểm và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu gặt hái được sau đổi mới thì những hạn chế cũng không phải là dễ khắc phục. Hiện nay Việt Nam đang gặp nhiều khó khăn liên quan đến vấn đề xã hội như tỉ lệ tăng dân số còn cao, số người thiếu việc làm ở cả nông thôn và thành thị khá lớn, mạng lưới cơ sở y tế và giáo dục đang bị xuống cấp nghiêm trọng. Nếu tình trạng này không được cải thiện kịp thời thì sẽ gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và chất lượng nguồn nhân lực trong giai đoạn tới.
- Quá trình chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng XHCN, xét cả về những cơ hội mà quá trình này đã tạo ra và những khó khăn vẫn đang đeo đẳng một số nhóm dân cư và vùng tự cho rằng bản thân mình “ đang bị tụt lại phía sau”. Làm thế nào để mở rộng sự lựa chọn về nghề nghiệp và viễn cảnh cuộc sống cho số đông dân cư này- những người đang nắm giữ những nguồn lực to lớn nhất và lại chưa được phát huy của quốc gia. Làm thế nào để họ hiển nhiên nhận được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách và tổ chức tài trợ có quan tâm để duy trì động thái kinh tế của Việt Nam trong thời kì đổi mới.
- Chuyển sang kinh tế thị trường rõ ràng đã dẫn đến tỉ lệ bỏ học cao ở cấp trung học, đặc biệt đối với nữ. Nguyên nhân chủ yếu là do một số nhóm dân tộc thiểu số chịu thiệt thòi hơn về phương diện tiếp cận với cơ hội giáo dục và đào tạo và do bậc phu huynh không thấy được giá trị của giáo dục.
- Bên cạnh những chương trình đào tạo do Nhà nước tài trợ, rất nhiều khoá đào tạo, tập huấn,... của tư nhân cũng mọc lên. Hầu hết đó là những cơ sở nhỏ và việc chưa được thừa nhận đã hạn chế hiệu quả của việc nâng cao tay nghề. Điều đó cũng có thể tương đối tốn kém và có thể những người di cư không có tay nghề từ nông thôn liều mạng ra thành phố kiếm việc làm bị lợi dụng. Tuy nhiên, do thiếu nhiều phương tiện đào tạo nghề, rất nhiều địa điểm chỉ cung cấp những kĩ năng thực hành và tư vấn việc làm cho những người lao động mới vào nghề.
- Nhìn chung đào tạo nghề mới chỉ mang lại lợi ích cho một số răt nhỏ lực lượng lao động Việt Nam
- Từ lâu Việt Nam đã có một thị trường lao động chắp vá, nơi mà hầu hết người dân nhìn chung vẫn giữ nguyên công việc và nơi sinh sống suốt cuộc đời và tập quán giữ nguyên ngành nghề như vậy không thay đổi nhiều trong thời kỳ đổi mới mặc dầu đã có nhấn mạnh đến việc mở rộng sự lựa chọn phát triển con người, tính sáng tạo cá nhân và tự lực cánh sinh. Phần nào điều này có thể được coi là giới hạn không thoả đáng của giáo dục trung học và đào tạo nghề, của chương trình cũ vẫn còn đang dùng và sự phiến diện trong hướng nghiệp, cùng với qui định của Nhà nước đang tìm cách kiểm soát và hạn chế việc thay đổi nơi ở. Như vậy một lần nữa sự thất bại của công nghiệp chế tạo/ chế biến trong việc tạo ra những cơ hội đã cản trở việc tìm kiếm việc làm của cá nhân, làm xẹp hy vọng và sự mong đợi, hạn chế khả năng của các cơ sở giáo dục và đào tạo ở Việt Nam trong việc trang bị cho người học những kĩ năng mới và hướng dẫn họ tìm kiếm công việc một cách hiệu quả hơn và tới làm việc ở những chỗ chưa có người làm.
- Những dự án cơ sở hạ tầng do Nhà nước tài trợ thường tạo ra “ tổng chi phí về mặt xã hội” mà không phải là “ những hoạt động sản xuất trực tiếp”. Những dự án này có ảnh hưởng cấp số nhân về chi phí, có thể tạo ra nhiều việc làm ( ít nhất là sự bột phái, hoặc chuyển từ địa phương này sang địa phương khác) và có thể có những tác động về đào tạo... nhưng tác động của chúng đối với năng suất quốc gia phụ thuộc vào yếu tố là nếu được thực hiện thì nhiều hoạt động phụ trợ và những hoạt động sản xuất trực tiếp ổn định được tạo điều kiện thuận lợi như thế nào.
- Những ngành công nghiệp lớn ở Việt Nam và đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp liên doanh có đặc quyền và thường bị tụt lại phía sau trong cạnh tranh quốc tế về đào tạo nghề và thích ứng công nghệ, có thể gây bất lợi cho những nhà sản xuất khác do giá cả độc quyền, chất lượng sản phẩm thấp, thiếu trách nhiệm đối với nhu cầu tiêu dùng .
III. Phương hướng chủ yếu nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực giữ vị trí quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực. Các phương hướng cho vấn đề này là sự cụ thể hoá nghị quyết Hội nghị Trung ương II khoá VIII về định hướng chiến lược giáo dục- đào tạo trong thời kỳ CNH_ HĐH. Phát triển nguồn nhân lực là một phần hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế- xã hội nhằm tạo ra nguồn nhân lực trình độ cao để thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội của đất nước. Chiến lược nguồn nhân lực phải xác định những mục tiêu ưu tiên, các giải pháp khả thi, các cơ chế điều hành, các chính sách, các chương trình hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
1. Một số quan điểm chủ đạo phát triển nguồn nhân lực
- Chất lượng nguồn nhân lực giữ vai trò quyết định sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta. Cùng với khoa học- công nghệ, vốn đầu tư, chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định sự thành công của sự nghiệp đối mới toàn diện kinh tế- xã hội ở nước ta do Đảng ta khởi xướng. Kinh tế nước ta có khả năng cạnh tranh hay không, có hấp dẫn và thu hút được đầu tư nước ngoài hay không phụ thuộc phần lớn vào chất lượng nguồn nhân lực mà chúng ta có.
- Giáo dục giữ vị trí quyết định phát triển nguồn nhân lực: giáo dục- đào tạo có nhiệm vụ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quan điểm giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu được khẳng định từ nhận thức sâu sắc vai trò của giáo dục trong quá trình phát triển của đất nước.
-Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục và tạo điều kiện phát triển tài năng. Dù phát triển trong cơ chế thị trường và trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế, giáo dục Việt Nam cần giữ vững định hướng XHCN. Nguyên tắc này thể hiện chủ yếu trong hai mặt: Thứ nhất, giáo dục có mục tiêu đào tạo những con người có lý tưởng độc lập tự do và CNXH; thứ hai, tạo ra sự bình đẳng về cơ hội học tập đại học cho mọi người. Chống khuynh hướng thương mại hoá trong giáo dục, rút ngắn sự cách biệt về cơ hội tiếp cận với giáo dục giữa các vùng thành thị, nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
-Phát triển nguồn nhân lực gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, tiến bộ khoa học- công nghệ và sự nghiệp củng cố an ninh quốc phòng. Phát triển nguồn nhân lực phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, gắn với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, gắn với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế, giữa các vùng kinh tế, vùng dân cư, từng địa phương.
-Phát triển nguồn nhân lực là sự nghiệp chung của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Các doanh nghiệp sử dụng người lao động, người học và mọi tầng lớp nhân dân có trách nhiệm tham gia góp ý, đóng góp trí tuệ và vật lực cho sự nghiệp chung đó. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực sé tạo ra tiềm lực về trí tuệ cho đất nước, xây dựng đội ngũ lao động khoa học- công nghệ trình độ cao và tạo ra động lực cho phát triển kinh tế.
-Phát triển nguồn nhân lực phải tính đến sự hội nhập quốc tế và khu vực trên cơ sở kế thừa và giữ vững những tinh hoa văn hoá dân tộc. Quốc tế hoá, hội nhập là xu thế của thời đại chúng ta. Cần tăng cường học tập các kinh nghiệm quốc tế trong tổ chức đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ sản xuất, từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất thiết bị theo những tiêu chuẩn quốc tế; đổi mới chương trình, nội dung phương pháp đào tạo theo hưỡng của các nước tiên tiến; tăng cường khẩ năng của đội ngũ. Tất cả những đổi mới nói trên cần hợp tác với những nước tiên tiến và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Tuy nhiên cần tính đến những điều kiện văn hoá, kinh tế,chính trị và xã hội nước ta để vận dụng cho phù hợp . hoà nhập nhưng không hoà tan . Chắt lọc những tinh hoa văn hoá nhân loại và giữ gìn bản sắc dân tộc .
2 Phương thức phát triển
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải tiếp cận theo hướng , một mặt phải đảm bảo tỷ lệ cơ cấu nguồn nhân lực, cân đối theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội và nhu cầu của thị trường lao động, mặt khác đáp ứng về yêu cầu chất lượng .
Do điều kiện đầu tư cho đào tạo và phát triển còn rất hạn chế, nhưng lại phải đẩy nhanh sự phát triển kinh tế xã hội với tốc độ cao để đuổi kịp các nước trong khu vực, mặt khác phải đảm bảo tính công bằng xã hội cho mọi người, góp phần phát triển hài hoà thành thị và nông thôn. Vì vậy phải phát triển theo hai hướng mũi nhọn và đại trà:
-Mũi nhọn : đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật lành nghề, kỹ thuật viên ( trong đó có một số trình độ đại học/ cao đẳng) đủ khả năng trí tuệ tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công nghệ hiện đại . Theo hướng này bên cạnh việc mở thêm trường mới sẽ hình thành một bộ phận chất lượng cao của hệ thống, tuy số lượng không nhiều nhưng là tinh hoa để đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và đạt các chuẩn mực về khu vực và quốc tế , là khâu đột phá để thoát khỏi sự tụt hậu về trình độ nhân lực hiện nay. Dự kiến có các trường chất lượng cao ở các hành lang kinh tế trọng điểm nhằm đáp ứng nguồn nhân lực có kỹ thuật cao cho các khu công nghệ cao, các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất ...và bước đầu tính đến khả năng xuất khẩu lao động .
-Đại trà : mở rộng các loại hình đào tạo nghề nghiệp ngắn hạn, từng bước phổ cập nghề cho tất cả mọi người lao động bằng cách sớm hình thành nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội . Từng bước đưa giáo dục kỹ thuật tổng hợp , kỹ thuật ứng dụng vào các trường phổ thông, trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết . Theo hướng này hình thành các loại hình trung tâm đào tạo nghề nghiệp, mở rộng các loại hìng trường ngoài công lập nhằm đáp ứng nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế địa phương, công nghiệp hoá nông thôn , chuyển đổi cơ cấu lao động và giải quyết việc làm cho xã hội .
KếT LUậN
Hội nhập là một tất yếu khách quan. Một doanh nghiệp có thể vươn lên phát triển vững mạnh bằng thời cơ lớn mà hội nhập mang đến nhưng cũng còn chứa trong đó lại là những thách thức, rủi ro không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất có thể nói đó chính là sự bùng nổ của khoa học công nghệ mà đỉnh cao là kinh tế tri thức (công nghệ thông tin, tự động hóa, công nghệ sinh học…). Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có thể chớp lấy thành quả công nghệ, nâng cao chất lượng, kỹ năng cũng như khả năng thay đổi trước môi trường.Nhưng môi trường kinh doanh với sự biến đổi không ngừng, tổng hợp các yếu tố kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá xã hội , chính trị luật pháp …thách thức với những khó khăn, phức tạp có khi không dự tính trước được cho hoạt động đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Một doanh nghiệp với các nhà quản trị giỏi và đội ngũ nhân lực hùng hậu , năng động, sáng tạo sẽ tạo ra lực nội sinh mạnh mẽ, đề ra được những chiến lược nhân sự , kinh doanh linh hoạt, hiệu quả và nó có thể thay đổi phương cách kinh doanh, quản lý của doanh nghiệp lên tầm cao của thời đại.
Tổ chức nói chung và doanh nghiệp Nhà nước nói riêng ở Việt Nam còn kém về mọi mặt, mang mặt bằng chung của một nước đang phát triển. Câu hỏi đặt ra có cách mạng nhận thức và năng lực đổi mới mỗi con người trong đội ngũ nhân lực được triệt để hay không, biến đội ngũ nhân lực thành “nhân lực tri thức” sẵn sàng cho hội nhập buộc nhà quản tị và những ai quan tâm đến vấn đề này suy xét và trở lời bằng hành động .
Vấn đề Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực không những là vấn đề cấp bách mà còn mang tính chất chiến lược lâu dài. Trong thời gian ngắn , đề tài đã tập trung làm rõ một số
vấn đề sau:
Làm rõ hơn vai trò của yếu tố con người trong sự phát triển kinh tế- xã hội và sự cần thiết phải đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Đi sâu phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay từ các mặt trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, chỉ ra những bất cập hiện nay giữa nguồn nhân lực với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua.
Trên cơ sở dự báo yêu cầu chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước về trước mắt, đề tài kiến nghị một số giải pháp nhằm tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong thời gian từ nay đến năm 2020
Tuy nhiên đây là một vấn đề lớn, nội dung phong phú, có liên quan đến nhiều vấn đề về kinh tế, xã hội đòi hỏi sự nỗ lực, tập trung của mỗi ngành, mỗi cấp, một số vấn đề mà đề tài nêu ra sẽ tiếp thu, bổ sung và hoàn thiện .
Tài liệu tham khảo
1.Giáo trình Quản trị nhân sự ( Nguyễn Hữu Thân)
Nhà xuất bản Thống kê
2.Quản trị Nguồn nhân lực (Trần Kim Dung)
Nhà xuất bản Gaío Dục 2001
3.Báo cáo khoa học tổng kết đề tài ( PGS.TS Đặng Bá Lãm)
4.Lao động ,việc làm và nguồn nhân lực ở Việt Nam 15 năm đổi mới
( Nolwen Henaff –Jean Yves Martin)
Nhà xuất bản Thế giới 2001 –In tại Việt Nam
Đề tài nghiên cứu khoa học: “Nâng cao chất lượng Nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hoá-hiện đại hóa đất nước”.
Tập thể giáo viên trường Đại học Kinh tế Quốc dân / 1998
Giáo trình Quản trị nhân lực (PGT.TS Phan Đức Thành)
Nhà xuất bản Thống kê Hà Nội 1998
Viện nghiên cứu giáo dục: “Những vấn đề chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước. Bối cảnh, xu hướng và động lực phát triển”
Ngô Đình Giao: “ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân” – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1994
Một số tạp chí Kinh tế phát triển, tạp chí Giáo dục, tạp chí Đại học và giáo dục chuyên nghiệp…
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0114.doc