Đề án Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ: Thực trạng và triển vọng

Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm phát triển để vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Đánh giá được vai trò quan trọng của dòng vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ, Việt Nam đã và đang rất nỗ lực để xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn.

doc35 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1475 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam từ khi hai nước bình thường hoá quan hệ: Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ rõ ràng và không thành lập một pháp nhân mới. - Xây dựng, khai thác, chuyển giao (BOT) là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình. Sau đó, nhà thầu bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn và các lợi nhuận thoả đáng rồi chuyển giao công trình cho Nhà nước khi chấm dứt hợp đồng mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào. IV.NHữNG Xu hướngVậN Động Đầu tư quốc tế hiện nay trên thế giới . Xu hướng toàn cầu của nguồn vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong những năm gần đây tập trung vào hai khu vực. Một là đầu tư vào các nước tư bản phát triển cụ thể là tập trung cao độ vào Mỹ, Tây âu, Nhật Bản. Hai là đầu tư vào các nước châu á đang phát triển. Thực tiễn cho thấy, 90% dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển được thực hiện bởi các công ty lớn trên thế giới hay còn gọi là công ty đa quốc gia. Số lượng các công ty này đã tăng hơn 50% trong năm 2000, nguồn Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty này còn cung cấp kỹ thuật, bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý... vào các nước tiếp nhận đầu tư, tạo cơ hội cho những nước này phát triển, phát huy lợi thế so sánh của mình về nguồn lao động dồi dào, giá nhân công thấp. Vì thế, các nước đang phát triển mới có cơ hội để tiếp tục thu hút Đầu tư trực tiếp nước ngoài (xem bảng 1). Bảng 1 Dòng vốn Đầu tư quốc tế giai đoạn 1990-1999 (tỷ USD) Năm Các nước phát triển Các nước đang phát triển Thế giới 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 176 115 111 141 148 216 213 285,2 464,5 657,9 35 41 55 79 105 111,8 145 178,8 179,5 207,6 211 158 166 220 253 328 358 464 644 856,5 Tổng 2851,8 1191,7 4043,5 Nguồn: World Investment Report, 2000; World Economic Outlook, 2000 Bảng trên cho thấy nguồn vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới tăng liên tục và đến nay đạt trên 5000 tỷ USD, dự kiến sẽ tăng thêm khoảng 300 tỷ USD mỗi năm. Dự báo trong thời gian tới, nguồn vốn này vẫn sẽ tiếp tục gia tăng do xu hướng sát nhập các công ty thành các công ty lớn hơn trên thế giới. Theo đánh giá của tổ chức hội nghị về buôn bán và phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) thì dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ tăng lên mức kỷ lục khoảng 1000 tỷ USD, tăng gần 5 lần so với năm 1990. Và cũng như những năm trước, đại bộ phận dòng vốn này được thu hút vào các nước công nghiệp phát triển. Năm 1999, các nước công nghiệp phát triển thu hút được 657,9 tỷ USD trong tổng số 865,5 tỷ USD Đầu tư trực tiếp nước ngoài, chiếm tỷ lệ 76% trong khi 3/4 dân số thế giới sống tại các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chia nhau 24% còn lại tương đương khoảng 200 tỷ USD. Tại châu á, dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước đang phát triển đã tăng lên đáng kể từ 35 tỷ USD năm 1990 lên 207,6 tỷ USD năm 1999. Trong đó, Trung Quốc là nước thu hút được nhiều vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất, khoảng 40 tỷ USD năm 1999. Việc nghiên cứu xu hướng đầu tư quốc tế trên đây giúp chúng ta nhận thức được cơ hội của quốc gia trong việc huy động nguồn vốn từ bên ngoài. Việt Nam là một nước đang phát triển ở châu á, đồng thời cũng có lợi thế so sánh về nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn tài nguyên phong phú... nên cũng thuộc một trong hai khu vực nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề là làm thế nào để chúng ta có thể tạo ra được một môi trường đầu tư hấp dẫn khiến cho dòng vốn sẽ tiếp tục chảy vào Việt Nam. Chương II Thực trạng Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ ở Việt Nam giai đoạn 1995-2001 I. Khái quát quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2001 Quan hệ đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam là một bộ phận trong tổng thể những mối quan hệ kinh tế nhiều mặt đang rất phát triển giữa hai quốc gia có thể được khái quát một cách khá đầy đủ qua những mốc thời gian quan trọng trong quá trình quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ sau đây: 3/2/1994: Chính phủ Mỹ tuyên bố bỏ cấm vận buôn bán với Việt Nam. 11/7/1995: Tổng thống Mỹ tuyên bố công nhận ngoại giao và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. 5/8/1995: Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ thăm Việt Nam. 10/1995: Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam dự lễ kỷ niệm 50 năm thành lập Liên hợp quốc và lần đầu tiên thăm Mỹ, tiếp xúc với nhiều quan chức cấp cao của chính quyền Mỹ. Hội đồng Thương mại Mỹ tổ chức "Hội nghị về bình thường hoá quan hệ, bước tiếp theo trong quan hệ Mỹ - Việt". 11/1995: Đoàn liên Bộ Mỹ thăm Việt Nam tìm hiểu hệ thống luật lệ thương mại đầu tư của Việt Nam. 4/1996: Mỹ trao cho Việt Nam văn bản "Những yếu tố bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại với Việt Nam". 7/1996: Việt Nam trao cho Mỹ văn bản "Năm nguyên tắc bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại và đàm phán hiệp định thương mại với Mỹ". 9/1996: Bắt đầu quá trình đàm phán hiệp định thương mại song phương. 7/5/1997: Đại sứ Việt Nam tại Mỹ, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam nhậm chức tại thủ đô mỗi nước, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước. 10/3/1998: Tổng thống Mỹ tuyên bố bãi bỏ việc áp dụng điều luật bổ sung Jackson-Vanic đối với Việt Nam, góp phần thúc đẩy bình thường hoá quan hệ thương mại. Từ đây, hàng năm, quyết định này đều được tiếp tục gia hạn. 1999: Việt Nam giành cho Mỹ quy chế tối huệ quốc trong buôn bán, được gia hạn hàng năm. 13/7/2000: Việt Nam và Mỹ ký Hiệp định Thương mại song phương, hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trên đây chính là những cơ sở ban đầu rất thuận lợi đảm bảo cho những nỗ lực không ngừng về hợp tác kinh tế nói chung và hợp tác trong lĩnh vực đầu tư nói riêng của hai quốc gia. II. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2001 1. Về quy mô vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam . Sau lệnh bỏ cấm vận của Mỹ với Việt Nam tháng 2/1994, đã có nhiều công ty và tập đoàn kinh tế Mỹ đến Việt Nam, mục đích của họ là thăm dò các hoạt động đầu tư ở thị trường này. Cuối năm 1994 đã có 28 dự án với số vốn đăng ký 270 triệu USD của các công ty Mỹ đầu tư vào Việt Nam . Giữa năm 1995, tổng số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã lên đến 36 dự án với tổng số vốn là 555 triệu USD, riêng năm 1996 là trên 300 triệu USD. Tổng cộng trong những năm này, Mỹ đầu tư vào Việt Nam trên 1 tỷ USD với 64 dự án. Như vậy, trongvòng 19 tháng, Mỹ đã trở thành một trong 10 nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam. Điều đáng nói là các công ty lớn của Mỹ cũng chính thức vào cuộc ngay với nhiều dự án có giá trị cao. Hầu hết các dự án đầu tư đều nhằm vào các mục tiêu sản xuất, xuất khẩu và dịch vụ với thời hạn thấp nhất là 10 năm, cao nhất là 40 năm. Đầu năm 1997, Việt Nam đã có 26 dự án đầu tư của Mỹ với 277 triệu USD. Mỹ trở thành nước đứng thứ 8 trong số 10 nước và khu vực lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam. Đến cuối năm này, Mỹ lại có 58 dự án với số vốn đầu tư xấp xỉ 1 tỷ USD, đứng thứ 10 trong tổng số 58 nước đầu tư vào Việt Nam. Trong thời gian này, Chính phủ Mỹ chưa cung cấp cho các công ty Mỹ tại Việt Nam những định chế bảo hiểm Công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) và nguồn đầu tư từ Ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) của Mỹ. Do đó, các nhà đầu tư chưa an tâm đầu tư vào Việt Nam còn các nhà xuất khẩu Mỹ lại gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các nước khác. Thực tế, các doanh nghiệp Mỹ muốn Chính phủ của họ huỷ bỏ việc áp dụng điều luật bổ sung Jackson-Vanic, tạo điều kiện cho OPIC và EXIMBANK có điều kiện hoạt động thuận lợi ở Việt Nam. Tuy vậy, cũng đã có tới trên 400 công ty của Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam ở thời điểm này, trong đó có nhiều công ty lớn như CocaCola, Mobil, Ford, IBM, IBS, Chrysler và nhiều các công ty Mỹ khác có dự kiến gia tăng khối lượng đầu tư vào Việt Nam. Chrysler là đứng đầu về số dự án lớn với tổng vốn đầu tư vào Việt Nam là 109,4 triệu USD. Ngoài ra, còn có nhiều dự án khác của Mỹ có vốn đầu tư từ 30 triệu USD trở lên. Đến cuối năm 1997, tổng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là 31,26 tỷ USD với 1762 dự án. Trong đó, Mỹ có 58 dự án đầu tư vào Việt Nam với số vốn trên 1 tỷ USD. Song vẫn còn tồn tại nhiều lực cản bởi những nguyên nhân như đã đề cập đến ở trên. Để giải quyết lực cản này, ngày 10/3/1998, Tổng thống Mỹ B.Clinton đã tuyên bố bãi bỏ điều luật Jackson-Vanic đối với Việt Nam. Đồng thời, phía Mỹ cũng bãi bỏ một số điều luật liên quan đến hoạt động của cơ quan viện trợ phát triển quốc tế (USAID) nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt Nam lên một bước mới. Việc bãi bỏ này cũng là điều kiện cần có để Việt Nam được hưởng quy chế "Tối huệ quốc" của Mỹ. Nhưng điều kiện trước hết mà doanh nghiệp hai nước đều đang mong mỏi là một hiệp định thương mại đã qua các vòng đàm phán sẽ được ký kết trong tương lai. Đến tháng 10/1999, số dự án đầu tư của Mỹ ở Việt Nam đã là 102 với vốn đăng ký 1,2 tỷ USD. Ngoài công ty Chrysler đứng đầu về số dự án lớn với tổng vốn là 109,4 triệu USD còn có công ty IBS đầu tư liên doanh xây dựng nhà máy gạch men với vốn đầu tư ban đầu là 16,5 triệu USD, và nhiều dự án khác có số vốn trên 30 triệu USD vào Việt Nam. Tháng 9/2000, số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã tăng lên 121, trị giá 1,4 tỷ USD. Trừ các dự án bị giải thể hoặc hết hạn, ở thời điểm đó, Mỹ có khoảng 100 dự án FDI ở Việt Nam còn hiệu lực với vốn đăng ký đạt 1 tỷ USD. Đến 30/11/2001, Mỹ đã có 129 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đăng ký là 1,042 tỷ USD, đứng thứ 13 trong tổng số 58 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới đầu tư vào Việt Nam. Với những nỗ lực tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn của Chính phủ Việt Nam cùng với việc Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được thực hiện, thì khả năng nguồn vốn FDI của Mỹ vào Việt Nam sẽ được gia tăng là điều có thể dự báo. 2. Về cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam 2.1.Cơ cấu đầu tư theo ngành Bảng 2 Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam phân theo ngành (Tính đến ngày 30/11/2001 - các dự án còn hiệu lực) Đơn vị:USD Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện % Vốn % Vốn % Vốn Công nghiệp 84 59,30 617.832.606 62,88 363.247.686 64,95 318.358.447 CN nặng 48 29,48 307.113.606 29,83 172.311.586 24,39 119.534.115 CN dầu khí 6 11,88 123.800.000 21,43 123.800.000 28,53 139.855.612 CN nhẹ 13 7,97 83.087.000 5,60 32.366.000 5,20 25.475.567 Xây dựng 7 6,26 65.212.000 3,50 20.230.000 5,42 26.551.053 CN thực phẩm 10 3,71 38.620.000 2,52 14.540.100 1,42 6.942.100 Nông, lâm, thuỷ sản 15 12,47 129.916.998 8,08 46.688.987 9,82 48.149.450 Nông-Lâm nghiệp 11 11,13 115.943.886 6,81 39.344.416 8,86 43.440.693 Thuỷ sản 4 1,34 13.973.112 1,27 7.344.571 0,96 4.708.757 Dịch vụ 30 28,23 294.120.662 29,04 167.737.772 25,23 123.644.576 Văn hoá-Y tế-Giáo dục 9 9,92 103.330.000 7,03 40.594.667 3,38 16.562.447 Tài chính-Ngân hàng 5 6,45 67.150.000 11,36 65.650.000 10,71 52.500.000 XD Văn phòng-căn hộ 3 5.45 56.833.215 5,19 29.981.428 0,77 3.755.274 GTVT-Bưu điện 7 3,93 40.930.540 3,67 21.199.770 7,14 34.986.626 Dịch vụ khác 6 2,48 25.876.907 1,79 10.311.907 3,23 15.840.229 Tổng 129 1.041.870.266 577.674.445 490.152.473 Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hoạt động đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư Mỹ đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, song chủ yếu tập trung trong các khu vực công nghiệp với 84 dự án và vốn đăng ký đạt trên 617 triệu USD. ở đây điển hình là dự án sản xuất lắp ráp ôtô Ford với số vốn đăng ký là 102 triệu USD; Dự án công ty sản xuất xà phòng, kem đánh răng Colgate-Palmolive (40 triệu USD); Dự án công ty OPV Việt Nam sản xuất thuốc chữa bệnh (20 triệu USD)... Tiếp đến là các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ (Tài chính-Ngân hàng, Xây dựng Văn phòng-Căn hộ cho thuê, Văn hoá-Y tế-Giáo dục...) với 30 dự án và số vốn đăng ký đạt khoảng 294 triệu USD. Đáng chú ý là 4 dự án Chi nhánh ngân hàng nước ngoài của Mỹ; Dự án công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của AIG; Dự án công ty cho thuê máy xây dựng V Trac; Dự án công ty dịch vụ tin học IBM Việt Nam ... Còn lại là lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản chiếm một tỷ trọng nhỏ với 15 dự án, tổng vốn đăng ký đạt gần 130 triệu USD. (Xem chi tiết Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam phân theo ngành ở bảng 2) 2.2. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ Nhìn vào số liệu của bảng 3 dưới dây ta sẽ thấy, về địa bàn đầu tư, các nhà đầu tư Mỹ ở Việt Nam đã tập trung vốn đầu tư vào các địa phương có cơ sở hạ tầng tương đối thuận lợi như thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Hà Nội, Hải Dương, Bình Dương, Bà Rịa- Vũng Tàu. Tổng vốn đầu tư của Mỹ ở 6 địa phương này đã chiếm 68% số dự án và 75% số vốn. Đồng thời, 2/3 tổng số đầu tư trực tiếp của Mỹ tại Việt Nam tập trung vào các tỉnh phía Nam, 1/3 ở phía Bắc. Điều này phản ánh tính chất quen thuộc và hấp dẫn" cũng như "mối quan hệ lịch sử để lại của miền Nam Việt Nam đối với các công ty của Mỹ. Thời gian gần đây, các công ty của Hoa Kỳ có chú ý nhiều hơn tới các tỉnh phía Bắc nhưng vẫn chưa vượt được các tỉnh phiá Nam. Bảng 3: Đầu tư của Mỹ vào Việt Nam phân theo địa phương (Tính đến ngày 30/11/2001 - các dự án còn hiệu lực) Đơn vị:USD STT Địa phương Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện 1 Tp. Hồ Chí Minh 39 189.258.578 98.033.791 59.957.082 2 Đồng Nai 14 174.275.420 74.205.460 40.619.733 3 Hà Nội 22 158.142.980 86.984.647 74.047.578 4 Dầu khí ngoài khơi 6 123.800.000 123.800.000 139.855.612 5 Hải Dương 1 102.700.000 72.000.000 75.538.811 6 Bình Dương 12 89.362.540 41.470.770 38.447.206 7 Bà Rịa-Vũng Tàu 5 64.431.218 21.392.577 13.834.677 8 Cần Thơ 3 26.201.000 8.550.000 2.840.741 9 Hà Tây 1 20.000.000 10.000.000 20.000.000 10 Đắc Lắc 2 12.063.530 3.600.000 4.563.530 11 Quảng Nam 1 11.283.000 3.383.000 - 12 Đà Nẵng 1 10.093.000 3.238.000 - 13 Phú Yên 3 9.550.000 2.720.000 900.000 14 Thừa Thiên-Huế 3 9.470.000 5.267.000 3.720.000 15 Hải Phòng 4 7.665.000 3.215.000 2.629.000 16 Long An 2 6.500.000 2.410.000 - 17 Nam Định 1 5.586.000 5.586.000 4.266.217 18 Bình Định 1 4.950.000 1.500.000 1.500.000 19 Bạc Liêu 1 4.116.000 4.116.000 2.480.186 20 Quảng Trị 1 3.952.000 3.222.100 3.222.100 21 Thái Nguyên 1 3.000.000 1.000.000 1.000.000 22 Vĩnh Long 1 2.390.000 800.000 - 23 Bình Phước 1 1.500.000 400.000 - 24 Khánh Hoà 1 700.000 300.000 300.000 25 Hoà Bình 1 600.000 200.000 150.000 Tổng 128 1.041.590.266 577394.445. 489.872.473 Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 2.3. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam hiện nay, phần lớn các nhà đầu tư Mỹ chọn hình thức đầu tư vốn 100% với 83 dự án (chiếm 64%), tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 548 triệu USD (chiếm 53%); 33 dự án liên doanh (chiếm 25%) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 359,6 triệu USD (chiếm 35%); và 13 liên doanh (chiếm 11%) với vốn đăng ký là 134,1 triệu USD (chiếm 12%). (Xem bảng 4). Bảng 4 Đầu tư của Mỹ tại Việt Nam theo hình thức đầu tư (Tính đến ngày 30/11/2001 - các dự án còn hiệu lực) Đơn vị:USD Hình thức đầu tư Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện Hợp đồng hợp tác kinh doanh 13 134.124.956 133.124.956 142.788.800 Liên doanh 33 359.613.304 196.646.423 136.819.422 100% vốn nước ngoài 83 548.132.006 247.903.066 210.544.251 Tổng 129 1.041.870.266 577.674.445 490.152.473 Nguồn: Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 3. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam . Theo đánh giá của các chuyên gia cho thấy, các Công ty xuyên quốc gia (TNCs) Mỹ mặc dù chiếm một tỷ trọng rất nhỏ trong tổng số các dự án đầu tư tại Việt Nam nhưng lại hoạt động rất hiệu quả và không có một dự án nào bị đình trệ hay rút giấy phép đầu tư . Tính đến năm 2001, ở Việt Nam có khoảng hơn 10 TNCs Mỹ như: CityBank, Mobil, IBM, OTIS, Chrysler... trong tổng số hơn 100 TNCs đang hoạt động trên thị trường Việt Nam thông qua việc mở văn phòng đại diện và các cơ sở sản xuất 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh. Hơn nữa, TNCs Mỹ thường đạt mức vốn thực hiện bằng từ 38-70%, trong khi TNCs châu á chỉ đạt bình quân 20%. Theo thông báo của Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính từ 1988 đến tháng 10/1999, tổng vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã vượt 1,25 tỷ USD với tổng số hơn 70 dự án và tất cả các dự án này đều do TNCs Mỹ tiến hành. TNCs Mỹ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam chủ yếu theo hình thức liên doanh (với 41 dự án), tiếp đến là hình thức xí nghiệp 100% vốn nước ngoài (với 17 dự án) và hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh (có 5 dự án). Tổng số vốn đăng ký của 41 dự án dưới hình thức liên doanh là 1062,27 triệu USD, chiếm 82% tổng vốn đầu tư. Một số dự án với mức vốn cam kết rất cao, trên 100 triệu USD, như dự án khu nghỉ mát Non Nước- Đà Nẵng (243,39 triệu USD); 2 liên doanh sản xuất và lắp ráp xe ôtô là Ford- Hải Dương (102,6 triệu USD) cùng Chrysler- Đồng Nai (192 triệu USD). TNCs đầu tư 108 triệu USD dưới hình thức 100% vốn nước ngoài của mình tại Việt Nam bao gồm: 2 dự án trong lĩnh vực Ngân hàng- Tài chính (30 triệu USD), 8 dự án công nghiệp (39 triệu USD), 1 dự án thuộc lĩnh vực xây dựng (10,08 triệu USD) và 4 dự án trong lĩnh vực dịch vụ (12,6 triệu USD). Còn 5 dự án dưới hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh có tổng số vốn là 124,3 triệu USD, bao gồm dự án sửa chữa ôtô đang hoạt động tại Phú Yên, dự án đào tạo, nghiên cứu và phát triển công nghệ tin học ở Tp. Hồ Chí Minh và 3 hợp đồng thăm dò khai thác dầu khí... Qua trên cho thấy, TNCs Mỹ khi đầu tư vào Việt Nam hầu hết là theo hình thức liên doanh, chỉ có khoảng 9% tổng vốn đăng ký là dưới hình thức 100% vốn nước ngoài và mỗi dự án bình quân khoảng 6,35 triệu USD. Điều này đi ngược với xu thế chung của các TNCs Mỹ khi lập các chi nhánh ở nước ngoài chủ yếu là theo hình thức 100% vốn. TNCs Mỹ có mặt ở hầu hết các lĩnh vực đầu tư trọng điểm của Việt Nam nhưng lại tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất, bất động sản, khai thác dầu khí. Hai lĩnh vực đứng đầu là sản xuất công nghiệp và khách sạn văn phòng chiếm gần 82% tổng vốn đầu tư với 37 dự án. Tiếp đến là các ngành dầu khí với 2 dự án đạt 124,3 triệu USD chiếm 9,62%, ngành xây dựng đạt 2,92%...Trong lĩnh vực điện tử, viễn thông và tin học, một số TNCs Mỹ như IRIDIUM, Acatel, Motorola... cũng đã trở thành một trong những nhà cung cấp viễn thông chủ yếu trên thị trường Việt Nam. Đặc biệt là tập đoàn viễn thông IRIDIUM đã mở rộng mạng di động toàn cầu (GMN) - đây là mạng viễn thông cho phép thực hiện các cuộc gọi bằng điện thoại cầm tay cá nhân ở tất cả các khu vực trên thế giới - với số vốn đầu tư là 5 tỷ USD tại Việt Nam. Trong lĩnh vực tài chính, một TNC tài chính hàng đầu của Mỹ - tập đoàn Stanley - liên doanh với Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam để lập công ty liên doanh với vốn pháp định là 100 triệu USD. Ngoài ra còn có các TNC nổi tiếng khác của Mỹ như đang hoạt động tại thị trường Việt Nam như công ty sản xuất ôtô, thiết bị vận tải Ford, công ty nước ngọt CocaCola, PepsiCola, bia SanMigel... hoạt động trong lĩnh vực giải khát. Các công ty này thâm nhập vào thị trường Việt Nam thông qua hình thức liên doanh với các công ty TNHH khu vực châu á. Các TNC Mỹ khi tham gia hoạt động trên thị trường Việt Nam thông thường qua hình thức đầu tư cắm nhánh là chủ yếu, song hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài bao giờ cũng kèm theo những hoạt động bổ trợ khác như xuất khẩu, chuyển giao công nghệ, đào tạo... Đặc biệt, TNCs Mỹ luôn coi trọng hoạt động R&D (nghiên cứu và phát triển), thực hiện chuyển giao công nghệ đi trước các đối thủ cạnh tranh, giữ vai trò chi phối ở tất cả các lĩnh vực ngành nghề mà nó tham gia. Hơn nữa, trước khi thực hiện các chiến lược đầu tư và thương mại dài hạn, các TNC Mỹ đã tích cực tạo dựng hình ảnh của mình cũng như tăng cường sự hiểu biết sâu sắc về thị trường Việt Nam thông qua các quỹ hỗ trợ văn hoá và phát triển khoa học như quỹ Ford Foundation của Mỹ. Nội dung hoạt động của quỹ này là giúp cho các đối tác Việt Nam như các Viện nghiên cứu, các Trường đại học, các hội, sở văn hoá, thậm chí một số các cơ quan Chính phủ... thực hiện giao lưu, trao đổi văn hoá, đào tạo, hội thảo khoa học nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước, các dân tộc và các khu vực... Có thể nhận thấy, các lĩnh vực mà các công ty Mỹ có ưu thế và quan tâm cũng là những lĩnh vực được Việt Nam khuyến khích đầu tư như: dầu khí, năng lượng, xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp chế tạo máy móc, điện tử, hoá chất, công nghiệp khai thác và chế biến hải sản... Các TNC Mỹ khi hoạt động ở Việt Nam đã chiếm được một phần đáng kể trên thị trường và tạo thêm hàng nghìn việc làm, đóng góp cho Ngân sách Nhà nước hàng trăm triệu USD, dồng thời cũng đã góp phần nâng cao đời sống người dân Việt Nam qua việc tài trợ cho giáo dục, thể thao, văn hoá, giải trí... Nhìn chung, thông qua việc hợp tác với các TNC mạnh hàng đầu của Mỹ như Ford, Chrysler, IBM... thuộc ngành chế tạo, sản xuất, trong tương lai chúng tacó khả năng sản xuất và xuất khẩu một số phụ tùng ôtô hay linh kiện điện tử. Các loại phụ tùng và linh kiện này có thể được sản xuất từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay thông qua các hợp đồng gia công cho các công ty Mỹ. Nói cách khác, tiềm năng hợp tác kinh tế Việt-Mỹ sẽ ngày càng được mở mang trong thời gian tới với điều kiện đặc biệt thuận lợi là Hiệp định thương mại song phương đã hoàn toàn có hiệu lực. III. Đánh giá chung về đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt NaM giai đoạn 1995-2001 Có một số hiện tượng đáng lưu ý khi xem xét đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong thời gian qua. Một là, nếu so với nhiều đối tác đầu tư khác thì tuy số lượng vốn cam kết khá cao song tình hình góp vốn, tình hình thực hiện vốn pháp định đã đăng ký của phía Mỹ là tương đối thấp, mới được khoảng trên 500 triệu USD. Và mặc dù là một nước lớn với nguồn vốn dồi dào, nhưng các dự án của Mỹ đầu tư vào Việt Nam đa số chỉ là những dự án nhỏ, quy mô một dự án thấp hơn cả mức bình quân chung của tất cả các đối tác đầu tư (bảng 5). Bảng 5 Tình hình thực hiện vốn và quy mô dự án của Mỹ ở Việt Nam so với mức bình quân chung của các đối tác đầu tư khác Các chỉ tiêu Của Mỹ Bình quân chung -Tỷ lệ thực hiện vốn đầu tư đã đăng ký(%) 47 42 -Tỷ lệ thực hiện vốn pháp định đã đăng ký (%) 85 48 -Quy mô bình quân một dự án (triệu USD) 8,08 16.23 Nguồn: Vụ quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hai là từ năm 1997 đến nay có dấu hiệu một số công ty của Hoa Kỳ rút vốn, không tăng đầu tư, hoặc nếu có tăng đầu tư hay đầu tư mới thì chỉ đầu tư tại Việt Nam. Một số dự án đã phải giải thể trước thời hạn có quy mô khá lớn như Bệnh viện quốc tế, liên doanh giữa công ty dịch vụ y tế SVRN với Bệnh viện nhân dân Gia Định đặt ở xã Long Bình, Thủ Đức với số vốn là 22,79 triệu USD; Công ty liên doanh sản xuất, lắp ráp thiết bị đầu tư và sản xuất băng mạch, băng in viễn thông Sài Gòn, liên doanh giữa Harison Industries Inc. với Công ty điện tử tin học Phương Nam với số vốn là 25 triệu USD... Tình hình trên, theo ý kiến của một số nhà kinh doanh Hoa Kỳ thì sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhiều nước đã lấy lại được phong độ phát triển tốt, thay đổi chính sách đầu tư như Thái Lan, Hàn Quốc... nên đã thu hút được vốn nước ngoài nhiều hơn, trong đó có vốn từ nước Mỹ. Do đó, thay vì đầu tư vào Việt Nam, Mỹ đã đầu tư vào các nước đó. Ngoài ra, phải kể đến nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy thoái, các công ty Mỹ cần tái cơ cấu lại và họ sẵn sàng rút các dự án đầu tư nước ngoài nếu nhắm thấy không có hiệu quả. Bên cạnh đó, không thể không đề cập đến vấn đề môi trường và chính sách đầu tư của Việt Nam chưa ổn định, phức tạp, nhiều rủi ro, chậm thu lợi nhuận, chính sách đối xử của Việt Nam đối với các công ty nước ngoài nói chung, công ty Hoa Kỳ nói riêng còn nhiều phân biệt, chưa thuận theo cách làm ăn, kinh doanh của họ. Hy vọng rằng, giờ đây khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được thông qua và có hiệu lực, Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ, đồng thời những mối quan hệ bình thường giữa hai nước được thực hiện, Việt Nam sẽ có cơ hội xuất khẩu hàng hoá sang thị trường Mỹ với mức thuế như các quốc gia khác. Đồng thời, đầu tư của Mỹ ở Việt Nam sẽ phát huy tác động tích cực đến phát triển kinh tế, tăng nguồn lực phát triển, kích thích sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam: xuất hiện nhiều doanh nghiệp mới trong các ngành kinh tế, nền sản xuất của Việt Nam có thêm cơ hội mở rộng và phát triển, tạo thêm nhiều việc làm, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ. Trong tương lai, các ngành công nghiệp sẽ sử dụng những công nghệ mới nhằm nâng cao năng suất lao động. Chương III TRIểN VọNG Và MộT Số GIảI PHáP,KIếN NGHị NHằM TĂNG CƯờng thu hút đầu tư của hoa kỳ vào việt nam trong thời gian tới I. triển vọng 1. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn Qua bốn lần sửa đổi và bổ sung, ngày nay, Luật đầu tư nước ngoài đã có nhiều điểm hấp dẫn, hơn hẳn lúc bộ luật mới được ban hành vào năm 1987, đặc biệt, lần sửa đổi cuối cùng vào tháng 4-2000. Nhiều quy định mới đã mở ra những cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư như: điều chỉnh lại phân cấp cấp giấy phép đầu tư nước ngoài cho các địa phương theo các mức cụ thể, phụ thuộc vào quy mô dự án; bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; bỏ quy định hoàn thuế lợi tức tái đầu tư và thay vào đó là quy định nếu dùng lợi nhuận tái đầu tư thì nhà đầu tư sẽ được hưởng lãi suất ưu đãi 10% cho phần lợi nhuận thu được từ khoản đầu tư này trong suốt thời hạn dự án; công ty nước ngoài có thể liên doanh với tất cả các thể nhân, pháp nhân trong nước; một mặt bằng giá cả dịch vụ không phân biệt giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được cổ phần hoá để hình thành một hình thức đầu tư mới, đó là doanh nghiệp cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài; công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể dùng quyền sử dụng đất để thế chấp khi vay vốn ngân hàng. Tuy nhiên, nếu chỉ có sửa đổi luật không thì chưa đủ mà vấn đề quan trọng hơn là phải tạo ra được những tiền đề thực thi được luật. Chính phủ ta cũng đang tìm mọi cách nhằm tháo gỡ vấn đề này. Và không thể không thừa nhận rằng những xu hướng tiến bộ trên đây sẽ mở ra một cơ hội mới cho các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Mỹ vào làm ăn ở Việt Nam. 2. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư Mỹ khi làm ăn ở Việt Nam. Có thể kể đến một số những ích lợi cho các nhà đầu tư Mỹ nếu họ quyết định đầu tư tại Việt Nam dưới ảnh hưởng của Hiệp định Thương mại: Thứ nhất, hàng hoá của các nhà đầu tư Mỹ sản xuất tại Việt Nam khi xuất khẩu vào Mỹ sẽ được hưởng mức thuế suất thấp, làm tăng khả năng cạnh tranh của họ trên chính thị trường Mỹ. Thứ hai, Việt Nam là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng với hơn 18 triệu người sống ở thành thị, trong số đó có nhiều người có cuộc sống tương đối khá giả, với hàng tỷ USD dự trữ còn tiềm tàng trong dân, chưa kể mỗi năm thân nhân nước ngoài gửi về 1-2 tỷ USD... chắc chắn sẽ là nơi hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Mỹ. Thứ ba, các công ty Mỹ với sức mạnh về kinh tế, kỹ thuật sẵn có sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, đặc biệt họ sẽ đầu tư vào các lĩnh vực như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông, công nghệ thông tin, thương mại, điện tử, điện, công nghiệp nhẹ... Bên cạnh đó, Mỹ còn rất có lợi thế ở các ngành xâydựng, cảng biển, hàng không, các thiết bị kỹ thuật cao. Thứ tư, một số mặt hàng Việt Nam có tiềm năng mà Mỹ lại có nhu cầu rất lớn nên họ sẽ đầu tư mạnh vào những ngành này. Ví dụ, dầu khí vốn là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua song Mỹ vẫn chưa phải là bạn hàng lớn của Việt Nam. Vì thế, các nhà đầu tư Mỹ sẽ đầu tư nhiều hơn vào ngành này để không bị thua thiệt so với các nước đi trước như Nga, Na Uy... vì 50% dầu tiêu thụ tại Mỹ đều là phải nhập khẩu từ bên ngoài.ư Hay như ngành thuỷ sản, đầu tư của Mỹ vào ngành này cũng có nhiều triển vọng. Hàng năm, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, Mỹ phải nhập khẩu lượng thuỷ sản có giá trị lên tới nhiểu tỷ USD. Trong khi đó, các mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam, đặc biệt là tôm, rất được người Mỹ ưa dùng do kỹ thuất nuôi tôm của ta chưa sử dụng nhiều chất hoá học mà chủ yếu tôm được nuôi bằng nguồn thức ăn từ thiên nhiên là chính. Hơn nữa, chính phủ Việt Nam và ngành thuỷ sản đã có chủ trương khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, nhất là đầu tư vào khâu sản xuất giống, sạch bệnh, nuôi công nghiệp theo công nghệ mới, nuôi trên biển... Thứ năm, vừa qua, ví trí vai trò của Việt kiều đã được khẳng định rõ nét hơn trong văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX. Theo đó, các chính sách đối xử với Việt kiều sẽ thông thoáng hơn trước đây. Việt kiều được toàn quyền lựa chọn đầu tư theo luật đầu tư trong nước hay luật đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Việt kiều được hưởng chính sách một giá, về thuế thu nhập cá nhân cũng sẽ thay đổi theo hướng có lợi hơn cho các chủ đầu tư Việt kiều... Tất cả những ưu đãi đó sẽ tạo động lực thu hút mạnh hơn sự đầu tư của hơn 1,5 triệu Việt kiều đang sinh sống ở Mỹ về làm ăn tại Việt Nam. Thứ sáu, sau một thời gian làm ăn tại Việt Nam, các công ty Mỹ đã hiểu thị trường Việt Nam, con người Việt Nam, hiện có vài trăm văn phòng đại diện của các công ty Mỹ đang có mặt tại Việt Nam. Hiệp hội các nhà doanh nghiệp Mỹ cũng đã được thành lập từ cuối năm 1999... Tất cả sẽ tạo điều kiện thuận lợi để các công ty Mỹ tiếp tục đầu tư. Bên cạnh đó, thay thế bởi đạo luật Jackson-Vanik là Hiệp định thương mại Việt-Mỹ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư Mỹ nhận được sự giúp đỡ nhiều hơn về tài chính của Chính phủ Mỹ trong quá trình làm ăn tại Việt Nam thông qua Ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) và Công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) của Mỹ. Thứ bẩy, tuy không phải đề cập đến mọi mối quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Mỹ nhưng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ cũng sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư Mỹ sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực đầu tư liên quan đến thương mại hàng hoá. Thí dụ, về "Lộ trình cải tiến hệ thống giá và phí hàng hoá và dịch vụ do Nhà nước Việt Nam quản lý" trong Hiệp định, tại phụ lục 4, phần 4.3 ghi rõ: "Ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực, không áp đặt các loại giá và phí mới hoặc phân biệt đối xử nặng hơn; xoá bỏ sự phân biệt về giá và phí lắp đặt điện thoại, dịch vụ viễn thông (trừ giá thuê bao điện thoại nội hạt), nước và dịch vụ du lịch. Hoặc trong phụ lục 4, điều khoản 4.1, yêu cầu về vốn đầu tư trong Hiệp định nêu rõ: "Sau ngày hiệp định có hiệu lực, các công dân hoặc công ty Hoa Kỳ được phép góp vốn, tăng vốn và tái đầu tư bằng bất kỳ đồng tiền nào, kể cả đồng Việt Nam có nguồn gốc từ mọi hoạt động hợp pháp ở Việt Nam"... Và cuối cùng là một số cam kết của Việt Nam: Việt Nam cam kết dành đãi ngộ quốc gia và đãi ngộ tối huệ quốc trong việc thành lập, mở rộng, mua lại, quản lý, điều hành, bán hoặc định đoạt tài sản đầu tư của Hoa Kỳ. Việt Nam cam kết sẽ loại bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan tới thương mại không phù hợp với Hiệp định TRIMs theo các thời hạn cụ thể, như phát triển nguồn nguyên liệu trong nước sau 5 năm, yêu cầu xuất khẩu sau 7 năm, yêu cầu về vốn đầu tư sau 7 năm... Việt Nam sẽ không quốc hữu hoá các dự án đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi khác về chính sách giá cả đầu tư, quyền thế chấp và chuyển nhượng đất liên quan tới các khoản đầu tư. 3. Những ảnh hưởng gây hạn chế đầu tư Đầu tiên phải kể đến là một tồn tại cố hữu và lâu đời song lại rất khó khăn, chậm chạp trong việc giải toả để cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam. Đó chính là bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo vì thủ tục hành chính của ta quá phức tạp, nhất là các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu tư như đất đai, xây dựng, xuất nhập khẩu, hải quan... nhiều phiền hà và chậm được cải tiến. Các tiêu chí cấp phép và từ chối cấp phép chưa minh bạch, rõ ràng, trong một số trường hợp còn thiếu nhất quán. Tình hình này cùng với tệ nạn tham nhũng, sách nhiễu, tiêu cực trong quá trình thực thi pháp luật đã làm biến dạng các chủ trương, chính sách của Nhà nước, làm nản lòng các nhà đầu tư. Tiếp đó là vấn đề các quy định hiện hành về hình thức pháp lý của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa đa dạng và chưa đáp ứng yêu cầu mở rộng các phương thức huy động vốn đầu tư nước ngoài. Luật Đầu tư nước ngoài hiện hành vẫn duy trì một số hạn chế nhất định như yêu cầu về hình thức đầu tư trong một số lĩnh vực, yêu cầu về xuất khẩu đối với các sản phẩm... Thêm vào đó là một số những quy định về nguyên tắc nhất trí đối với những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp liên doanh không phủ hợp với thông lệ quốc tế. Ngoài ra, hệ thống hai giá còn tồn tại từ nhiều năm nay không đáp ứng yêu cầu giành đối xử quốc gia cho nhà đầu tư nước ngoài tất yếu trở thành yếu tố làm giảm sức hấp dẫn và cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Còn một tồn tại rõ nét nữa là việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực không theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội. Các dịch vụ cơ sở hạ tầng như viễn thông, giao thông vận tải, điện nước, xử lý nước thải... đang ngày càng trở nên quá tải và lạc hậu so với các nước trong khu vực, làm giảm sức hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề quá thiếu cả về số lượng và chất lượng, không đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, khiến họ phải mất nhiều thời gian và chi phí để đào tạo. Trong bối cảnh chúng ta đang phải từng bước thực thi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ với những cam kết có mức độ cao nhất so với các điều ước quốc tế song phương và đa phương về đầu tư mà Việt Nam đã ký hoặc tham gia đến thời điểm hiện nay, việc nhanh chóng sửa đổi những tồn tại đồng thời phát huy những mặt tích cực sẽ làm cho môi trường đầu tư của Việt Nam trở nên hấp dẫn hơn song đó cũng là một yêu cầu bắt buộcđể chúng ta có thể hội nhập được với xu thế tự do hoá các mặt trong nền kinh tế thế giới ngày nay. II. một số giảI pháp và kiến nghị 1. GiảI pháp Trên cơ sở nghiên cứu những nhân tố chủ yếu trong chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài, đồng thời chỉ ra những tồn tại cơ bản trong môi trường đầu tư của Việt Nam cùng với việc tìm hiểu những yêu cầu trước mắt về phía Việt Nam để thực thi Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. 1.1. Xây dựng một mặt bằng pháp lý cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng chế độ đối xử quốc gia Xoá bỏ dần những hạn chế về tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài. Điều chỉnh những quy định về lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam theo hướng xoá bỏ các hạn chế về hình thức đầu tư, trước hết, đối với các dự án sản xuất, chế tạo hoặc có tỷ lệ xuất khẩu cao; chuyển sang thực hiện các biện pháp ưu đãi, khuyến khích về tài chính thay cho các biện pháp hành chính áp đặt đối với việc xuất khẩu, nội địa hoá, phát triển nguồn nguyên liệu trong nước... Tăng cường tính minh bạch và có thể dự đoán trước của luật pháp, chính sách bằng việc xây dựng cơ chế đảm bảo quyền tự do lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài theo hướng cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, ngành nghề của nền kinh tế mà pháp luật không cấm hoặc hạn chế. Sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức quản lý doanh nghiệp, nhằm phát triển các hình thức đầu tư nước ngoài, khai thông các kênh huy động vốn như cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; cho phép các tập đoàn có nhiều dự án đầu tư tại Việt Nam được áp dụng mô hình Công ty mẹ- Công ty con, thành lập quỹ đầu tư để điều hành chung và hỗ trợ dự án của họ. Ban hành chính sách quy định về đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ nhập khẩu và phân phối trong nước để định hướng thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này. Xoá bỏ dần những hạn chế về vốn góp và huy động vốn của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như cho phép nhà đầu tư nước ngoài được góp vốn bằng tiền Việt Nam có nguồn gốc hợp pháp, loại bỏ quy định về nguyên tắc nhất trí trong hoạt động của doanh nghiệp liên doanh và bỏ quy định bắt buộc Tổng giám đốc hoặc Phó Tổng giám đốc thứ nhất doanh nghiệp liên doanh phải là người Việt Nam. Từng bước thống nhất các quy định về ưu đãi đầu tư và chí phí hoạt động giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư và bảo đảm công nhận thi hành phán quyết của trọng tài nước ngoài. Giải quyết dứt điểm những vướng mắc của nhà đầu tư nước ngoài liên quan đến việc sử dụng đất đai, quản lý ngoại hối, tuyển dụng lao động, chuyển giao công nghệ... không phù hợp với thông lệ quốc tế. Tiếp tục điều chỉnh giá, phí hàng hoá dịch vụ để nhanh chóng tiến tới cơ bản áp dụng giá, phí thống nhất, không phân biệt doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.2. Nâng cao năng lực quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh quy trình ban hành các văn bản pháp quy nhằm ngăn chặn việc ban hành văn bản trái quy định chung hoặc thực hiện không nghiêm túc các Quyết định của Chính phủvề đầu tư nước ngoài. Rà soát, bãi bỏ các loại giấy phép con và những quy định không cần thiết. Công khai hoá các quy trình giải quyết thủ tục hành chính, trách nhiệm xử lý của các cơ quan quản lý Nhà nước. Ngăn chặn và xử lý nghiêm khắc hiện tượng cửa quyền, sách nhiễu của công chức Nhà nước. Chấm dứt tình trạng kiểm tra tuỳ tiện, hình sự hoá các quan hệ kinh tế và áp dụng các chế tài đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh trong việc quản lý Nhà nước đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.3. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Nhà nước thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thông qua cơ chế tuyển chọn, đào tạo, giới thiệu vào làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có cơ chế, chính sách để thu hút đội ngũ cán bộ làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trở lại phục vụ doanh nghiệp Nhà nước. Đổi mới, bổ sung chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, quản lý tại các trường đại học, cao đẳng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế và đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm giảm chi phí đào tạo cho các doanh nghiệp. Cho phép thành lập các trường đào tạo công nhân bên cạnh các khu công nghiệp để kịp thời đáp ứng nhu cầu về công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp trong các khu vực này. Sớm ban hành các văn bản quy định và hướng dẫn hoạt động của các tổ chức Đảng, Công đoàn, Đoàn Thanh niên tại doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. 1.4. Đầu tư thích đáng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng Nhà nước phải thực sự đảm bảo cơ sở hạ tầng đến chân hàng rào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện việc điều tiết, định hướng thu hút đầu tư nước ngoài bằng việc tăng cường đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở tại các vùng lãnh thổ và các công cụ kinh tế vĩ mô khác. Có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Sửa đổi các quy định liên quan đến việc đẩy nhanh việc hình thành và phát triển các dự án B.O.T. Đối với các khu công nghiệp, Nhà nước cần có cơ chế hợp lý hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng trong khu công nghiệp, coi đây là một bộ phận trong hệ thống cơ sở hạ tầng chung của đất nước, tạo điều kiện giảm chi phí thuê đất và phí hạ tầng cho doanh nghiệp trong khu công nghiệp. 2. một số kiến nghị Sau đây xin đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước nhằm tăng sức hấp dẫn của hệ thống chính sách nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. 2.1. Hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để bảo đảm khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất cũng như sản phẩm, tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư cho các nhà đầu tư nói chung và cho các nhà đầu tư Mỹ nói riêng. Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Trong đó, chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức thuận lợi thu được tại một thị trường xác định. Việc xem xét sự vận động của vốn nước ngoài ở các nước trên thế giới cho thấy, dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong- ngoài nước, trong- ngoài khu vực. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn sẽ làm tăng khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu, tăng sức hấp dẫn với vốn nước ngoài từ Mỹ. Có thể nói, có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư Mỹ vì khả năng trả nợ của nước ta được bảo đảm hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống. Các mức ưu đãi về tài chính- tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực để khuyến họ đầu tư vào trong nước và vào những nơi mà Chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Trong đó, những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính giành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được giành cho các dự án đầu tư có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ nội địa hoá sản phẩm và công nghệ cao hơn. Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. 2.2. Về mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hoá hình thức đầu tư nước ngoài Xây dựng đề án mở rộnglĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài. Ban hành các quy định về việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư vào dịch vụ nhập khẩu, dịch vụ phân phối trong nước theo tinh thần Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 của Chính phủ. Xây dựng quy chế để thực hiện thí điểm việc chuyển đổi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Nghiên cứu thí điểm việc cho phép thành lập công ty mẹ- công ty con theo hướng đa mục tiêu, đa hình thức. Khuyến khích hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. 2.3. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về đầu tư nước ngoài Về lĩnh vực thuế Sửa đổi, bổ sung thuế VAT theo hướng mở rộng diện hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%, sửa đổi thuế suất VAT từ 3 mức thuế hiện nay (không kể thuế suất 0%) xuống còn 2 và dần dần là một mức thuế suất thống nhất; giảm thuế suất thuế VAT đối với một số sản phẩm thuộc các ngành có vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiến tới quyđịnh về khấu trừ thuế chỉ áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ đầu vào có hoá đơn giá trị gia tăng. Nghiên cứu dự án luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp theo hướng hạ thuế suất phổ thông nhằm giảm dần sự chênh lệch về thuế suất này giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI; bỏ quy định thu thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; hướng dẫn cụ thể hơn về thu nhập chịu thuế, các khoản chi phí hợp lý, hợp lệ và các ưu đãi miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trong năm 2002 thống nhất áp dụng phí đăng kiểm phương tiện cơ giới, phí cảng biển, phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, phí thăm quan các di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng. Về lĩnh vực đất đai Đẩy nhanh tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án đầu tư nước ngoài. Ban hành ngay các văn bản hướng dẫn về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp, khu chế xuất; hướng dẫn việc xử lý trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên với đất góp vốn vào liên doanh trong trường hợp doanh nghiệp chuyển đổi hình thức đầu tư, bị phá sản hoặc giải thể trước thời hạn. Về lĩnh vực vốn Ban hành các quy định về bảo đảm vay vốn, cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn ở các tổ chức tín được phép hoạt động tại Việt Nam. 2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước Trước hết, cần rà soát, phân loại các dự án đầu tư nước ngoài đã cấp giấy phép đầu tư; bổ sung sửa đổi Quy chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm theo nghị định 36/CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ; bổ sung các mô hình mới về khu công nghiệp, điều chỉnh cơ chế chính sách đầu tư phát triển hạ tầng trong và ngoài hàng rào. Tiếp tục thực hiện chủ trương phân cấp quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh; tăng cường sự hướng dẫn, kiểm tra của các Bộ, ngành trung ương. 2.5. Cải tiến các thủ tục hành chính Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý Nhà nước ở Trung ương và địa phương trong quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước với nhà đầu tư nước ngoài. Cải tiến mạnh thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài theo hướng tiếp tục đơn giản hoá việc cấp phép đầu tư, rà soát có hệ thống để bãi bỏ những loại giấy phép, quy định không cần thiết đối với hoạt động đầu tư nước ngoài... 2.6. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư Cần có những biện pháp thúc đẩy mạnh việc vận động xúc tiến đầu tư; Cần bố trí ngân sách hợp lý cho hoạt động xúc tiến đầu tư; Tập trung làm tốt các thông tin tuyên truyền về đầu tư nước ngoài. KếT LUậN Hiện nay trên thế giới mọi người đều nhìn nhận rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của các nước và khu vực. Việc huy động vốn FDI để phát triển kinh tế xã hội là tận dụng điều kiện khách quan cực kỳ thuận lợi mà thế giới tạo ra thay vì phải bỏ ra hàng trăm năm phát triển để vượt qua thời kỳ tích luỹ ban đầu lâu dài và gian khổ như Anh, Pháp trước đây hay gần đây như Australia. Song vốn đầu tư không bao giờ tự chảy vào các nước lạc hậu. Cơ may tận dụng khả năng đó chỉ thuộc về quốc gia nào có chiến lược khôn ngoan hơn, biết tận dụng hoàn cảnh thế giới tạo ra trong việc huy động nguồn lực phát triển to lớn nói trên. Đánh giá được vai trò quan trọng của dòng vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ, Việt Nam đã và đang rất nỗ lực để xây dựng một môi trường đầu tư hấp dẫn. Qua đề tài này, em đã nâng cao được nhận thức của mình về tầm quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài trong phát triển kinh tế và hy vọng rằng những giải pháp đưa ra là có cơ sở và mang tính thiết thực góp phần tích cực thúc đẩy triển vọng đầu tư của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Mục lục Lời mở đầu Chương I : Những vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài I.Khái niệm và tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.Khái niệm 2. Tác động của Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1.Đối với nước chủ đầu tư 2.1.1. Các tác động tích cực 2.1.2.Các tác động tiêu cực 2.2 Đối với nước tiếp nhận đầu tư 2.2.1 Tác động tích cực 2.2.2. Tác động tiêu cực II. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. III. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài (Theo quy định pháp lý ở Việt Nam) IV.Những xu hướng vận động đầu tư quốc tế hiện nay trên thế giới Chương II : Thực trạng Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ ở Việt Nam giai đoạn 1995-2001 I. Khái quát quan hệ kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ giai đoạn 1995-2001 II. Thực trạng đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2002 1. Về quy mô vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam 2. Về cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam 2.1.Cơ cấu đầu tư theo ngành 2.2. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ 2.3. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư 3. Hoạt động của các công ty xuyên quốc gia của Hoa Kỳ ở Việt Nam III. Đánh giá chung về đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ tại Việt Nam giai đoạn 1995-2001 Chương III :Triển vọng và một số giải pháp kiến, nghị nhằm tăng cường thu hút đầu tư của hoa kỳ vào việt nam trong thời gian tới I. Triển vọng 1. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn 2. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư Mỹ khi làm ăn ở Việt Nam 3. Những ảnh hưởng gây hạn chế đầu tư II. Một số giải pháp và kiến nghị 1. Giải pháp 1.1. Xây dựng một mặt bằng pháp lý cho đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tạo cơ sở pháp lý cho việc áp dụng chế độ đối xử quốc gia 1.2. Nâng cao năng lực quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài. 1.3. Chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 1.4. Đầu tư thích đáng cho việc phát triển cơ sở hạ tầng 2. Một số kiến nghị 2.1. Hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.2. Về mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài và đa dạng hoá hình thức đầu tư nước ngoài 2.3. Hoàn thiện thêm một bước về luật pháp, cơ chế chính sách về đầu tư nước ngoài 2.4. Nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước 2.5. Cải tiến các thủ tục hành chính 2.6. Đẩy mạnh vận động, xúc tiến đầu tư Kết luận

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33685.doc
Tài liệu liên quan